20250428 CDTL Chuyện Đi Rước Giặc 18 Mar 1975 Điện Tín Phạm Hùng Gửi Lê Đức Thọ
https://digitalarchive.wilsoncenter.org/people
https://digitalarchive.wilsoncenter.org/people/pham-hung
https://digitalarchive.wilsoncenter.org/search?f[0]=people:81853&fo[0]=81853
https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/cable-comrade-pham-hung-comrade-le-duc-tho
https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/100210/download
https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/175984
March 18, 1975
Cable from Comrade Pham Hung to Comrade Le Duc Tho
This document was made possible with support from MacArthur Foundation
Ngày 18 tháng 3 năm 1975
Điện tín của đồng chí Phạm Hùng gửi đồng chí Lê Đức Thọ
Tài liệu này được thực hiện với sự hỗ trợ của Quỹ MacArthur
After receiving Comrade Le Duc Tho’s guidance opinions, Comrade Pham Hung sent the following reply regarding issues involving the realities of the B2 Battlefield:
After the Paris Agreement, the balance of forces on all battlefields has changed substantially in our favor. Our three-pronged attack movement at the grassroots level has gradually been rebuilt and expanded in different forms and at different levels.
Sau khi nhận được ý kiến chỉ đạo của đồng chí Lê Đức Thọ, đồng chí Phạm Hùng đã có văn bản trả lời về những vấn đề liên quan đến thực tế chiến trường B2 như sau:
Sau Hiệp định Paris, cục diện thế trận trên các chiến trường đã thay đổi đáng kể theo hướng có lợi cho ta. Phong trào tiến công ba mũi nhọn ở cơ sở của ta đã từng bước được xây dựng lại và mở rộng với nhiều hình thức, nhiều cấp độ khác nhau.
Reviewing the attack and uprising movement at the grassroots level, Comrade Pham Hung clearly pointed out one concrete fact:
After the 1968 offensive and uprisings, we launched a movement to eliminate small enemy outposts and liberate hamlets and villages, but the results of this effort were meager because the enemy launched powerful counterattacks.
Đánh giá về phong trào tiến công, nổi dậy ở cơ sở, đồng chí Phạm Hùng nêu rõ một thực tế cụ thể:
Sau cuộc tiến công, nổi dậy năm 1968, chúng ta đã phát động phong trào xóa bỏ các đồn nhỏ của địch, giải phóng thôn xóm, nhưng kết quả đạt được còn ít ỏi vì địch phản công rất mạnh.
Our local forces at the grassroots level suffered heavy losses, especially during 1969, and only in 1970 did they finally begin to recover. After the Paris Peace Agreement, our forces strove to counter and push back the enemy’s land-grabbing efforts. The result was that in the Mekong Delta each month our forces managed to eliminate between 50 and 70 enemy outposts, mainly through the use of region and province level units.
Lực lượng địa phương của chúng ta ở cấp cơ sở đã chịu tổn thất nặng nề, đặc biệt là trong năm 1969, và chỉ đến năm 1970, họ mới bắt đầu phục hồi. Sau Hiệp định hòa bình Paris, lực lượng của chúng ta đã ra sức phản công và đẩy lùi các nỗ lực chiếm đất của kẻ thù. Kết quả là ở đồng bằng sông Cửu Long, mỗi tháng, lực lượng của chúng ta đã loại bỏ được từ 50 đến 70 tiền đồn của kẻ thù, chủ yếu thông qua việc sử dụng các đơn vị cấp khu vực và cấp tỉnh.
However, the enemy managed to retake virtually all of the outposts he had lost. During the six months of the 1974 dry season, our three-pronged movement made clear progress. It was able to eliminate many enemy outposts and to open up many new areas for our forces. Conducting combined campaigns at the province or district level, supported by main force units, our forces attacked and overran many key enemy positions and intensified the operations of our three-pronged attack.
Tuy nhiên, địch đã chiếm lại được hầu như toàn bộ các tiền đồn đã mất. Trong sáu tháng mùa khô năm 1974, phong trào ba mũi tiến công của ta đã đạt được những tiến triển rõ rệt. Nó đã có thể xóa bỏ nhiều tiền đồn của địch và mở ra nhiều khu vực mới cho lực lượng của ta. Tiến hành các chiến dịch kết hợp ở cấp tỉnh hoặc cấp huyện, được các đơn vị chủ lực yểm trợ, lực lượng ta đã tấn công và tràn qua nhiều vị trí then chốt của địch và tăng cường hoạt động của cuộc tấn công ba mũi tiến công của ta.
In that way we managed to liberate more than 1,000 outposts in the Mekong Delta, with village and district level forces participating in more than 30% of these successes. The 1974 COSVN Conference and the August 1974 review of our counter-pacification campaign affirmed the ability of hamlets to liberate hamlets and villages to liberate villages.
Bằng cách đó, chúng ta đã giải phóng được hơn 1.000 tiền đồn ở đồng bằng sông Cửu Long, trong đó lực lượng cấp xã và cấp huyện tham gia vào hơn 30% số thành công này. Hội nghị COSVN năm 1974 và đợt tổng kết chiến dịch phản bình định tháng 8 năm 1974 của chúng ta đã khẳng định khả năng giải phóng ấp chiến lược và thôn xóm giải phóng thôn xóm.
Under these new conditions, regional and province level units were used to attack and destroy key enemy positions to create conditions favorable for our three-pronged attack at the grass roots level. These operations were conducted as combined campaigns in individual provinces and districts that were aimed at essentially defeating the enemy’s rural pacification program.
Trong điều kiện mới này, các đơn vị cấp khu vực và cấp tỉnh được sử dụng để tấn công và phá hủy các vị trí then chốt của địch, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc tấn công ba mũi nhọn của ta ở cấp cơ sở. Các hoạt động này được tiến hành như các chiến dịch kết hợp ở từng tỉnh và huyện riêng lẻ, nhằm mục đích cơ bản là đánh bại chương trình bình định nông thôn của địch.
As for the 1974 rainy season, even though COSVN and regional main force units had conducted few operations, through the combined campaigns at the province and district level we expanded our three-pronged attack movement and continued to win major victories. Grassroots-level forces, along with district and provincial forces, made great progress, gained experience, and became more self-confident.
Đối với mùa mưa năm 1974, mặc dù các đơn vị chủ lực của Trung ương và khu vực tiến hành ít hoạt động, thông qua các chiến dịch phối hợp ở cấp tỉnh và cấp huyện, chúng ta đã mở rộng phong trào tấn công ba mũi nhọn và tiếp tục giành được những thắng lợi lớn. Lực lượng cơ sở, cùng với lực lượng cấp huyện và cấp tỉnh đã có những tiến bộ lớn, tích lũy được kinh nghiệm và trở nên tự tin hơn.
Then our main forces launched powerful attacks that inflicted clear, clean defeats on the enemy, defeats that enabled the people to rise up and eliminate entire networks of enemy outposts and guard posts. This proved that conditions were right and that we were in fact capable of conducting grassroots-level uprisings to liberate local areas.
Sau đó, lực lượng chủ lực của ta đã phát động những cuộc tấn công mạnh mẽ, gây ra những thất bại rõ ràng, sạch sẽ cho quân địch, những thất bại này đã tạo điều kiện cho nhân dân vùng lên, tiêu diệt toàn bộ mạng lưới tiền đồn và đồn gác của địch. Điều này chứng tỏ rằng điều kiện đã đúng và chúng ta thực sự có khả năng tiến hành các cuộc khởi nghĩa cơ sở để giải phóng các vùng địa phương.
In Region 9, the mass uprising movement was aggressive and ferocious. Local armed forces units supported mass forces in destroying or dispersing individual enemy companies and village-level military headquarters in many locations such as Luong The in Ca Mau and Hiep My in Tra Vinh. They inflicted a continuous stream of casualties on RF battalions that resulted in the retreat and disintegration of these RF units in Cai Nuoc and Thi Keo in Rach Gia province and at Dam Doi, Rach Rang, Vinh Thuan, An Vien, etc.
Tại Khu 9, phong trào quần chúng nổi dậy rất hung hăng và dữ dội. Các đơn vị vũ trang địa phương đã hỗ trợ lực lượng quần chúng tiêu diệt hoặc phân tán các đại đội địch và sở chỉ huy quân sự cấp thôn ở nhiều địa điểm như Lương Thế ở Cà Mau và Hiệp Mỹ ở Trà Vinh. Họ gây ra một dòng thương vong liên tục cho các tiểu đoàn ĐPQ khiến các đơn vị ĐPQ này phải rút lui và tan rã tại Cái Nước và Thị Keo ở tỉnh Rạch Giá và tại Đầm Dơi, Rạch Ráng, Vĩnh Thuận, An Viên, v.v.
In Region 9, a dozen districts now had the right conditions to make tremendous progress. Our forces were gradually isolating the province capitals and heavily lowland areas in places such as Ca Mau, Rach Gia, and Tra Vinh. Pham Hung said that Region 8 and many other regions were carrying out reviews of operations to derive lessons learned and that these reviews clearly demonstrated the capabilities of villages, districts, and provinces to become self-sufficient in order to exploit our combined strength to create conditions that enabled our large, mobile main force units to attack and destroy key enemy military strong-points.
Ở Vùng 9, hàng chục huyện hiện đã có đủ điều kiện để đạt được tiến bộ to lớn. Lực lượng của chúng tôi đang dần cô lập các tỉnh lỵ và các vùng đất thấp ở những nơi như Cà Mau, Rạch Giá và Trà Vinh. Phạm Hùng cho biết Vùng 8 và nhiều vùng khác đang tiến hành đánh giá các hoạt động để rút ra bài học kinh nghiệm và những đánh giá này đã chứng minh rõ ràng khả năng của các làng, huyện và tỉnh để tự cung tự cấp nhằm khai thác sức mạnh tổng hợp của chúng tôi để tạo ra các điều kiện cho phép các đơn vị chủ lực cơ động lớn của chúng tôi tấn công và phá hủy các điểm mạnh quân sự quan trọng của địch.
Such attacks in turn created favorable conditions that would allow villages to liberate villages, districts to liberate districts, and provinces to liberate provinces. This trend had many practical possibilities for quickly opening up pockets, areas, and entire regions for our forces while at the same time we worked to expand, consolidate, and integrate our liberated zones in the rear.
Những cuộc tấn công như vậy lần lượt tạo ra những điều kiện thuận lợi cho phép các làng giải phóng làng, các huyện giải phóng các huyện và các tỉnh giải phóng các tỉnh. Xu hướng này có nhiều khả năng thực tế để nhanh chóng mở rộng các túi, khu vực và toàn bộ khu vực cho lực lượng của chúng tôi trong khi đồng thời chúng tôi nỗ lực mở rộng, củng cố và hợp nhất các vùng giải phóng của chúng tôi ở phía sau.
Comrade Pham Hung emphasized that with regard to the guidance it had issued on the three-pronged attack movement, COSVN had given very specific and detailed guidance to individual area, such as the outskirts of Saigon, the areas along main roads and lines of communications, [Northern] refugee resettlement areas, ethnic Khmer areas, Cao Dai and Hoa Hao areas, etc., on properly deploying our cadre.
Đồng chí Phạm Hùng nhấn mạnh, về chỉ đạo về phong trào tấn công ba mũi, Trung ương Đảng đã chỉ đạo rất cụ thể, chi tiết đến từng địa bàn như vùng ngoại ô Sài Gòn, vùng dọc các trục lộ, tuyến giao thông chính, vùng tái định cư người tị nạn, vùng đồng bào Khmer, vùng Cao Đài, Hòa Hảo... để bố trí cán bộ cho hợp lý.
Because of this concrete and detailed guidance, a number of areas had made great progress. Even [Northern] refugee resettlement areas in Eastern Cochin China that were occupied by the enemy and that had been very difficult for us to infiltrate now had begun to make great progress, and we had been able to recruit many agents and build organizations inside them. Pham Hung said that this demonstrated that the possibilities of conducting uprisings to liberate these areas had become widespread.
Nhờ có sự chỉ đạo cụ thể và chi tiết này, một số vùng đã có những tiến triển lớn. Ngay cả những vùng tái định cư người tị nạn miền Bắc ở Đông Nam Kỳ bị địch chiếm đóng và trước đây chúng ta rất khó xâm nhập, giờ đây cũng bắt đầu có những tiến triển lớn, chúng ta đã có thể chiêu mộ được nhiều điệp viên và xây dựng các tổ chức bên trong những vùng này. Phạm Hùng nói rằng điều này chứng tỏ khả năng tiến hành các cuộc nổi dậy giải phóng những vùng này đã trở nên rộng rãi.
[Translator’s Note: This document can also be found in the first edition of Lich Su Bien Nien Xu Uy Nam Bo va Trung Uong Cuc Mien Nam (1954-1975) [Historical Chronicle of the Cochin China Party Committee and the Central Office for South Vietnam, 1954-1975] (Hanoi: Nha xuat ban Chinh tri quoc gia, 2002), 1068-1070.]
[Chú thích của người dịch: Tài liệu này cũng có thể tìm thấy trong ấn bản đầu tiên của Lịch sử Biên niên sử Ủy ban Nam Bộ và Trung ương Cục Miền Nam (1954-1975) [Biên niên sử Đảng bộ Nam Kỳ và Văn phòng Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, 1954-1975] (Hà Nội: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2002), 1068-1070.]
Pham Hung sent Le Duc Tho a reply with a review of the attack and uprising movement at the grassroots level at the B2 Battlefield.
Author(s):
Phạm Hùng gửi Lê Đức Thọ một bản phúc đáp với nội dung đánh giá về phong trào tấn công và nổi dậy ở cấp cơ sở tại chiến trường B2.
Tác giả:
• Phạm Hùng
https://digitalarchive.wilsoncenter.org/people
https://digitalarchive.wilsoncenter.org/people/pham-hung
https://digitalarchive.wilsoncenter.org/search?f[0]=people:81853&fo[0]=81853
https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/cable-comrade-pham-hung-comrade-le-duc-tho
https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/100210/download
No comments:
Post a Comment