Sunday, December 8, 2024

20241208 Cập Nhật Án Sử Ấp Ba Chúc.

20241208 Cập Nhật Án Sử Ấp Ba Chúc.


Vietnam Topo Map

https://maps.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/

Vietnam Map Index

https://maps.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/vietnam_index.html

Cambodia Topo Map

https://maps.lib.utexas.edu/maps/topo/cambodia/

Cambodia Map Index

https://maps.lib.utexas.edu/maps/topo/cambodia/index-map.jpg

Chợ Ba Chúc, Tri Tôn

Châu Đốc Ang Giang

10°29'35.21"N 104°54'37.24"E

Nhà mồ Ba Chúc 3157 nạn nhân bị cộng sản giặc Hồ thảm sát

10°29'56.56"N 104°54'31.56"E

Núi Tượng

10°29'53.92"N 104°53'58.08"E

Cả gia đình ông Bùi Văn Lê đã bị lính cộng sản giặc Hồ giết chết tại Núi Tượng.

Lương Phi

10°27'16.67"N 104°55'37.94"E

Đoàn người theo đường tắt về xã Lương Phi không may lọt vào tầm kiểm soát của cán binh Miền Bắc. Giặc bắn xối xả làm chết trên 30 người. Cả đoàn chạy hoảng loạn, sáng hôm sau gặp tại Lương Phi chỉ còn mười người.

Ấp An Định, Ba Chúc

10°29'52.42"N 104°54'29.61"E

Bà Hà Thị Nga ở Ấp An Định, Ba Chúc thoát chết từ cuộc tàn sát đẩm máu nầy.

Chùa Phi Lai nơi cộng sản giặc Hồ giả lính Pol Pot giết thường dân vô tội.

10°29'58.93"N 104°54'31.77"E

Chùa Tam Bửu nơi cộng sản giặc Hồ giết dân lành đổ tội cho Pol Pot.

10°29'53.42"N 104°54'28.29"E

Ba Chúc

https://maps.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/ba_chuc-59291.pdf

Wednesday, November 21, 2012

20121120 Án Sử Ấp Ba Chúc.

Đôi lời cùng độc giả.

Tài liệu nầy đã được đăng trên một số website như www.Dactrung.net  hay www.VietNamExodus.org  từ những năm trước nhưng vì bị cộng sản giặc Hồ áp dụng luật rừng cho nên tài liệu nầy hầu như không còn trên internet nửa. Để cho các thế hệ trẻ quốc nội có thể hiểu được lịch sử một cách tường tận đâu là sự thật về bộ mặt thật của cộng sản giặc Hồ Hà Nội nên bài nầy được cho đăng lại. Vả lại gần đây đã có những tài liệu bổ túc chứng minh cho thấy chính bàn tay của cộng sản giặc Hồ Hà Nội giết chính dân mình để thi hành chủ nghiã bành trướng quốc tế của rợ Hán cho nên tài liệu nầy càng cần phải được cho lên internet lại cùng với những tài liệu bổ túc vì thế bài được chia làm hai phần: phần đầu chính là bài nầy, phần thứ hai chính là những tài liệu bổ túc và phần nầy được đính kèm dưới dạng đường nối trên internet, quí độc giả chỉ cần theo những đường nối để đọc tài liệu bổ túc.     

20121120 BVN.

Án Sử Ấp Ba Chúc.                  

Ngày 18 Tháng 04 Năm 1978.

20070614BVN

20241208 cap-nhat-asabc 01

http://www.fallingrain.com/world/VM/01/Ba_Chuc.html

Trong lịch sử cuộc chiến Việt – Trung cận đại người dân Việt Nam chỉ có thể nhớ ngày 17 tháng 02 năm 1979 tàu cộng đã xua quân tràn sang biên giới phía bắc Việt Nam tấn công và tràn ngập 6 tỉnh: Lai Châu, Lào Cai, Hà Tuyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, và Quảng Ninh.

Tuy nhiên ít có ai nhớ rõ nguyên nhân tại sao và nguồn gốc từ đâu đã phát xuất ra cuộc chiến nầy.

Cuộc chiến không chấm dứt vào ngày 05 tháng 03 năm 1979 như Đặng tiểu Bình đã tuyên bố với thế giới mà vẫn kéo dài từ năm 1979 cho đến năm 1991, tròm trèm 12 năm dài đăng đẳng. Sau khi Đặng tiểu Bình tuyên bố chấm dứt chiến tranh, quân đội tàu cộng đã gài lại bãi mìn dọc suốt theo biên giới với dụng ý không cho quân đội Việt-Nam đuổi theo.

Thật ra dụng ý ngăn chận sự đuổi theo cuả quân đội cộng sản giặc Hồ chỉ là phụ, mục đích chính cuả Đặng tiểu Bình là dùng những bãi mìn để bắt CS Việt gian phải chấp nhận những khu vực bãi mìn ấy là đất cuả tàu cộng đã chiếm và bộ chính trị cộng sản giặc Hồ đã gục đầu chấp nhận.

Lấy gì chứng minh? Một điều rõ ràng nhất là cho tới hôm nay cộng sản giặc Hồ chưa bao giờ tận tâm tháo gở những bãi mìn, mọi việc đều khoáng trắng cho quân đội tàu cộng.

Tiền ngoại hối được hải ngoại gửi về từ 3 tỷ (1978-1988) tăng dần lên hơn 10 tỷ, thậm chí tới 20 tỷ dollars (1990-2024) thế nhưng cộng sản giặc Hồ không mua nổi một cái máy rà mìn!

Số tiền nói trên nó đã đi về đâu?

Tại Paris, Pháp và Canada (văn phòng đối diện tại Metro Beaudry) là hai khu vực cung cấp hàng hóa của hải ngoại chuyển về cứu đói đồng bào Việt-Nam.

20241208 cap-nhat-asabc 02

Bản cấm của tàu cộng cho biết đây là vùng mìn bẩy, cũng có nghiã đây là lãnh thổ của tàu cộng do tàu cộng chiếm lấy.

Từ 1979 cho tới mãi 1999, thời gian 20 năm dài tàu cộng mới tuyên bố gở xong bãi mìn và quân tàu cộng đã làm gì trên lãnh thổ Việt-Nam trong suốt thời gian 20 năm đó? Bọn chúng đã xây công sự phòng thủ hay những gì khác, ai biết!

Có một điều chắc chắn là bọn chúng không mắc võng để ngủ giửa rừng như quân đội cộng sản giặc Hồ.

Tiền dollars người Việt hải ngoại gửi về, từ 2 tỉ tăng lên gần 5 tỷ (1975-1978), đều vô túi bọn chóp bu cộng sản giặc Hồ mà không có một xu cho chương trình gở mìn bẩy để bảo vệ dân lành, bảo vệ lãnh thổ!

Có chăng chỉ là những đồng tiền xin xỏ cuả ngoại bang để rồi hằng chục thế hệ trẽ Việt-Nam sau nầy phải còng lưng trã nợ.

Đã có những vùng đất từ khu vực Móng Cái cho tới Lào-Cai, Lai-Châu đã thuộc về tay tàu cộng, người viết sẽ trình bày trong những bài viết tuần tự tiếp theo.

20241208 cap-nhat-asabc 03

Bài viết “Án Sử Ba Chúc” nầy được viết lại nhằm mục đích nêu ra những dữ kiện mà những tài liệu trước của Giáo Sư Lâm Lễ Trinh, ông Nguyễn Vĩnh Long Hồ, ông Hoàng Quý và ông James Pringle đã không đề cập tới trong những bài viết sau đây:

- “Tài Liệu Giải Mật Về Cuộc Chiến Hoa Việt 1979.” GS Lâm Lễ Trinh.

- “Mở Lại Hồ Sơ cộng sản giặc Hồ Thảm Sát Đồng Bào Làng BA CHÚC, Tỉnh Anh Giang Đêm 18-04-1978.” ông Nguyễn Vĩnh Long Hồ.

- “Câu Chuyện Ngôi Làng Ba Chúc Ở Biên Giới Miên Việt.” ông Hoàng Quý:

đã được chuyển dịch từ tài liệu của:

MEANWHILE: When the Khmer Rouge came to kill in Vietnam

By James Pringle International Herald Tribune (tài liệu nầy đã bị lấy xuống)

Qua bài viết nầy chúng tôi cố gắng giải đáp một nghi vấn sử là:

Ai đã giết chết 3.157 mạng người dân vô tội?

Miên cộng (Khmer Rouge) Polpot đã ra tay tàn sát dân lành?

Hay là tình báo cục Đông Dương của tàu cộng điều hành cuộc tàn sát đã nói qua bàn tay của bộ chính trị cộng sản giặc Hồ, những quan thái thú tàu cộng hiện đang ngự trị trên đầu dân chúng Việt Nam thừa lệnh thiên triều tàu cộng để thi hành việc dâng đất, dâng biển Việt Nam cho tàu cộng? Qua các cơ quan có tên là TC2, T4?

Mọi người ai cũng hiểu là cộng sản giặc Hồ thái độ khẳng định dứt khoát là bộ chính trị cộng sản giặc Hồ chính là một hệ thống thái thú hiện đại của tàu cộng đặt tại Việt Nam, từ bộ chính trị xuống tới làng xã.

Đây là “mấu chốt vấn đề” cho cả một dân tộc thế mà không một ai trong đất nước Việt Nam dám nhìn nhận sự thật nầy.

Trong bài viết của giáo sư Lâm Lễ Trinh về trận chiến Hoa Việt cho thấy nguyên nhân của cuộc chiến là do sự tranh dành ảnh hưởng của hai phe thân Nga cộng và Tàu cộng. Rất đúng. Điều nhận xét của giáo sư Lâm Lễ Trinh và nhận xét của cả công luận báo chí trên thế giới rất đúng.

Tuy nhiên có một vấn đề mà cho đến nay chưa một ai hay những tác giả của những bài báo nêu lên hay đào sâu vào, đó là vấn đề: “Tình báo chiến lược Đông Dương của tàu cộng

Liệu phe cộng sản giặc Hồ thân Nga có thật sự theo Nga cộng hay không? hay chỉ là trá hình theo Nga để thu nhận tin tức tình báo cùng những tài liệu kỷ thuật của Nga rồi chuyển về cho tàu cộng để tàu cộng có thể hiện đại hóa quân sự và tiến hành mộng bành trướng của tàu cộng?

Trong quyển sách “Một Ngàn Giọt Lệ Rơi-A Thousand Tears Falling” của bà Đặng Mỹ Dung đã cho chúng ta thấy rõ điều nầy là tình báo cộng sản giặc Hồ chỉ hoạt động có lợi cho tàu cộng mà thôi.

Dưới đây là những dữ kiện của cuộc thãm sát 3.157 thường dân Việt Nam và Khờ-Me (Khmer).

* Tài liệu của ông Nguyễn Vĩnh Long Hồ.

- Nhà Mồ Ba Chúc được xây dựng giữa chùa Phi Lai và chùa Tam Bửu được nhà nước cộng sản giặc Hồ công nhận là “Di Tích Căm Thù” vào năm 1980 để đánh dấu tội ác man rợ của bọn diệt chủng Polpot từ ngày 18/04/1978 cho đến ngày 29/04/1978. (Theo tài liệu của cộng sản giặc Hồ thì Khmer đỏ đã tràn sang biên giới tàn sát dân lành VN từ 18/04/1978 cho đến 29/04/1978.)

-Ngày 18 tháng 04 năm 1978 CSVN đã tàn sát 3.157 mạng người trong các ngôi chùa, trường học tại làng Ba Chúc các biên giới Việt-Miên khoảng 7 km.

20241208 cap-nhat-asabc 04

The Bone Pagoda. Ba Chúc, Tịnh Biên trước thế kỷ 20.

Nhà mồ Ba Chúc hiện nay, thế kỷ 21, do cộng sản giặc Hồ làm phép phù “hô biến”.

20241208 cap-nhat-asabc 05

https://mia.vn/media/uploads/blog-du-lich/ghe-nha-mo-ba-chuc-song-lai-lich-su-bi-thuong-manh-dat-an-giang-01-1660676402.jpeg

https://mia.vn/cam-nang-du-lich/ghe-nha-mo-ba-chuc-song-lai-lich-su-bi-thuong-manh-dat-an-giang-8631

20241128 Ba Chúc Của cộng sản giặc Hồ Hiện Nay

https://mia.vn/cam-nang-du-lich/ghe-nha-mo-ba-chuc-song-lai-lich-su-bi-thuong-manh-dat-an-giang-8631

https://mia.vn/media/uploads/blog-du-lich/ghe-nha-mo-ba-chuc-song-lai-lich-su-bi-thuong-manh-dat-an-giang-01-1660676402.jpeg

https://mia.vn/media/uploads/blog-du-lich/ghe-nha-mo-ba-chuc-song-lai-lich-su-bi-thuong-manh-dat-an-giang-02-1660676402.jpeg

https://mia.vn/media/uploads/blog-du-lich/ghe-nha-mo-ba-chuc-song-lai-lich-su-bi-thuong-manh-dat-an-giang-03-1660676403.jpeg

https://mia.vn/media/uploads/blog-du-lich/ghe-nha-mo-ba-chuc-song-lai-lich-su-bi-thuong-manh-dat-an-giang-04-1660676403.jpeg

20241128 Di tích Nhà Mồ Ba Chúc – Tri Tôn – An Giang

https://thamhiemmekong.com/thong-tin-du-lich-mien-tay/di-tich-nha-mo-ba-chuc-gaing.html

https://thamhiemmekong.com/wp-content/uploads/2020/09/nhamobachuc.jpg

https://thamhiemmekong.com/wp-content/uploads/2020/09/nhamobachuc1.jpg

https://thamhiemmekong.com/wp-content/uploads/2020/09/chuatambuu.jpg

https://thamhiemmekong.com/wp-content/uploads/2020/09/ditichnhamobachuc1.jpg

https://thamhiemmekong.com/wp-content/uploads/2020/09/ditichnhamobachuc1.jpg

https://thamhiemmekong.com/wp-content/uploads/2020/09/nhamobachuc-03.jpg

https://thamhiemmekong.com/wp-content/uploads/2020/09/ditichnhamobachuc.jpg

https://thamhiemmekong.com/wp-content/uploads/2020/09/nhamobachuc01.jpg

https://thamhiemmekong.com/wp-content/uploads/2020/09/nhamobachuc02.jpg

https://thamhiemmekong.com/wp-content/uploads/2020/09/nhamobachuc04.jpg

https://thamhiemmekong.com/wp-content/uploads/2020/09/nhamobachuc06.jpg

https://thamhiemmekong.com/wp-content/uploads/2020/09/nhamobachuc07.jpg

https://thamhiemmekong.com/wp-content/uploads/2020/09/nhamobachuc-6.jpg

https://thamhiemmekong.com/wp-content/uploads/2020/09/nhamobachuc-2.jpg

https://thamhiemmekong.com/wp-content/uploads/2020/09/ditichnhamobachuc01.jpg

https://thamhiemmekong.com/wp-content/uploads/2020/09/caydaubachuc.jpg

Nhà mồ đã được xây theo hình bát giác (8 cạnh cuả bát quái đồ).

Tại sao không xây hình tròn, hình vuông, hình chử nhật mà phải là hình bát giác?

Đây có phải là một phương thức trấn ếm cuả tàu cộng để triệt tiêu linh khí cuả miền Nam mà đại diện là ngành phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương do đức Phật Thầy Tây An sáng lập và giáo phái thừa truyền là Phật Giáo Hoà Hảo với chủ đạo Tứ Ân?

Đây có lẽ cũng là nguyên nhân chính mà cộng sản giặc Hồ đã cố tâm tàn sát tất cả những tín đồ cuả Phật Giáo Hoà Hảo trong khu vực miền Tây và đức thầy Huỳnh Phú Sổ là người đại diện cho tôn giáo nầy?

20241208 cap-nhat-asabc 06

Một phần khu Thất Sơn dưới đây.

20241208 cap-nhat-asabc 07

-Theo tiết lộ cuả Hoàng Tùng, uỷ viên bộ chính trị cộng sản giặc Hồ, bộ chính trị cộng sản giặc Hồ đã có ý đồ chiếm Cambodge từ năm 1970-1972. (Đây có lẽ là thời điểm mà 2 phe thân cộng sản giặc Hồ và thân tàu cộng đã được thành hình)

-Phe thân Nga gồm: Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Trần Quốc Hoàn, Văn Tiến Dủng, Nguyễn Văn Linh, Đổ Mười….

-Phe thân tàu cộng gồm: Lê Đức Thọ, Lê Đức Anh, Nguyễn Duy Trinh, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng

-Tháng 09 năm 1975 Sihanouk và Khiêu Samphan, chủ tịch nước Khmer Rouge đến Hà Nội dự lễ quốc khánh cuả cộng sản giặc Hồ.

-Tháng 03 năm 1977 leng Sary, ngoại trưởng Khmer Rouge sang Bắc Kinh. Trong buổi tiếp tân có phó thủ tướng tàu cộng Lý Tiên Niệm, tổng tham mưu phó QĐTC Vương Thăng Long.

-Tháng 04 năm 1977, trong buổi tiếp tân tại Toà Đại sứ Cambodge, ngoại trưởng tàu cộng Hoàng Hoa công khai tuyên bố: “nước Cambodge đang bị kẻ thù phá hoại và TC sẽ sát cánh với những dân tộc nhỏ yếu chống lại những hành động can thiệp và gây hấn cuả các lân bang”. 

***

Lời tuyên bố trên chứng tỏ rõ ràng cho thấy cuộc tàn sát dân làng Ba Chúc là kế hoạch của tàu cộng do Lê Đức Anh thực hiện để khơi màu một cuộc chiến Việt-Trung 1979-1991 tạo cơ hội cho tàu cộng chiếm những vùng đất Bắc Biên, cho cộng sản giặc Hồ có cớ để dâng đất, biển và hải đảo để trả nợ chiến phí cho tàu cộng.

Chính vì thế mới có những mật ước đã ký kết giữa cộng sản giặc Hồ tàu cộng về lảnh thổ và và lãnh hải trong những năm 1990, 2000.

Những mật ước nầy đã khiến cho Việt-Nam mất một vùng biển trên 20.000 km2 tại vịnh Bắc Bộ.

Trên lãnh thổ Bắc biên, Việt-Nam mất Thác Bản Giốc, mất thêm một số đất tại Ải Nam Quan, mất ngọn núi Đất cùng một số đất tại Hà Giang, một số đất vùng Cao Bằng, Lào Cai, Lai Châu, vùng Hoành Mô đường biên giới thụt sâu vào Việt-Nam từ 2 cho đến 5 km.

Rồi mất thêm những vùng đất cho tàu thuê 99 năm.    

Bằng chứng rõ ràng từ bộ ngoại giao cộng sản giặc Hồ tại Liên Hiệp Quốc là Nguyễn Duy Trinh dưới quyền của đại sứ Hà Văn Lâu đã gửi thư cho tổng thư ký Liên Hiệp Quốc để báo cáo việc tàu cộng chuẩn bị tấn công Việt-Nam trước 10 ngày (February 10, 1979).

Với thời gian 10 ngày nầy cộng sản giặc Hồ có đủ thời gian để rút một số đơn vị đồn trú tại Cambodge về để phòng thủ miền Bắc.

Thế nhưng cộng sản giặc Hồ im lặng, không hành động gì cả mà cứ để cho quân tàu cộng tha hồ tung hoành trên vùng biên giới Bắc Việt như chổ không người.

Dưới đây là tài liệu bằng Pháp ngữ về lá thư của Nguyễn Duy Trinh thông báo cho Liên Hiệp Quốc cuộc xâm lăng của tàu cộng ngày 17 tháng Hai 1979.     

20241112 CDTL Chuyện Đi Rước Giặc Feb 10 1979 Bản Tin Khẩn Nguyễn Duy Trinh

20241112 cdtl 01

20241112 cdtl 02

20241112 cdtl 03

20241112 cdtl 04

https://bachvietnhan.blogspot.com/2024/11/20241112-cdtl-chuyen-di-ruoc-giac-feb.html

20241113 CDTL Chuyện Đi Rước Giặc Feb 10 1979 Tin Khẩn Nguyễn Duy Trinh Gửi Liên Hiệp Quốc

https://bachvietnhan.blogspot.com/2024/11/20241113-cdtl-chuyen-di-ruoc-giac-feb.html

20241110 CDTL Tuyên Cáo Lãnh Thổ Lãnh Hải VN

https://bachvietnhan.blogspot.com/2024/11/20241110-cdtl-tuyen-cao-lanh-tho-lanh.html

***

Cambodge tấn công vào những làng, xã và những thị trấn dọc biên giới thuộc tỉnh An Giang, Châu Đốc hai tuần sau, ngay vào ngày cộng sản giặc Hồ đang ăn mừng “Mùa Xuân đại thắng 1975” (30-04-1977?).

Ảnh khu vực tỉnh biên giới Kiên Giang, Châu Đốc. Làng Ba Chúc trong khoanh đỏ.

20241208 cap-nhat-asabc 08

-Ngày 27 tháng 09 năm 1977 Pol Pot tuyên bố vai trò chủ tịch đảng lãnh đạo tổ chức Angka là đảng cộng sản Cambodge. Một ngày sau Pol Pot lên đường đi Bắc Kinh và Bình Nhưỡng với tư cách là chủ tịch đảng.

Ba ngày trước (24-09-1977?) chuyến đi, Pol Pot đã ra lệnh cho quân đội Quân Khu Đông tấn công vào Tây Ninh.

Ảnh khu vực tỉnh Tây Ninh dưới đây.

20241208 cap-nhat-asabc 09

https://maps.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/tay_ninh-6231-4.pdf

CSVN không cho quân đội phản công.

-Cách chức tướng tư lệnh “quá khích” Trần Văn Trà!

(Thay Lê Đức Anh vào để thi hành kế hoạch cuả tình báo tàu cộng là giử quân CSVN, 10-15 sư đoàn tại Cambodge, để tàu cộng rãnh tay tiến chiếm miền Bắc Việt Nam)

-Cử tướng Lê Đức Anh thay thế!

(Nhân vật Lê Đức Anh là mấu chốt, xuất xứ cuả cuộc chiến Việt-Trung 1979-1991, cũng để tạo nên những nghi kỵ giửa Việt Nam và Cambodge qua vụ giết oan những cán bộ cuả Cambodge, phe thân VN do TC2 điều khiển.)

-Phan Hiền bí mật sang Bắc Kinh nhờ tàu cộng dàn xếp. Không thành công.

Tàu cộng nhất quyết ủng hộ Cambodge và chở vũ khí, chiến cụ ồ ạt tới cảng KomphongSom.

-Cuối năm 1977, quân đội CSVN tấn công thăm dò vào sâu trong lãnh thổ Cambodge, bị quốc tế lên án nên buộc phải rút quân về ngày 06 tháng 01 năm 1978.

-Đầu tháng giêng năm 1978, sư đoàn 2 và sư đoàn 210 của quân khu tây nam Cambodge đã tấn công và chiếm đóng các xã Phú Cường, Khánh An, Khánh Bình, các huyện Hồng Ngự, Hà Tiên thuộc lãnh thổ quân khu 9 Việt Nam.

Ảnh khu vực Tân Châu, Hồng Ngự.

20241208 cap-nhat-asabc 10

https://maps.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/tan_chau-6030-4.pdf

https://maps.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/hong_ngu-6030-1.pdf

Ảnh khu vực Hà Tiên và biên giới Cambodge.

20241208 cap-nhat-asabc 11

https://maps.lib.utexas.edu/maps/topo/cambodia/krong_keb-5829-1.pdf

-Tướng Trần Nghiêm, tư lệnh phó cuả Lê Đức Anh, được đề bạt làm tư lệnh quân khu 9 điều động các sư đoàn 4, 8, 330 cùng với 2 trung đoàn cơ động cuả hai tỉnh Hậu Giang và Đồng Tháp.

Sư đoàn 341, tư lệnh Vũ Cao, được điều từ quân khu 7 đến tăng phái cho quân khu 9.

Với sự yểm trợ của không quân, pháo binh, thiết giáp và với quân số áp đảo 4 sư đoàn: 4, 8, 330, 341 cùng 2 trung đoàn cơ động để phản công mà mải tới 2 tháng sau cộng sản giặc Hồ mới có thể đánh bật sư đoàn 2 và sư đoàn 210 của Cambodge ra khỏi lãnh thổ Việt Nam!

-Sư đoàn 330 CSVN (chính sư đoàn nầy là thủ phạm tàn sát 3.157 người dân ấp Ba Chúc) trấn đóng huyện Tri Tôn để tạo thành tuyến phòng thủ tại đây.

-Cuộc thanh trừng nội bộ thuộc Quân Khu Đông Cambodge đã xãy ra từ tháng 03 năm 1978 cho tới ngày 24 tháng 05 năm 1978 khiến cho sư đoàn 4 cuả Cambodge bị xoá sổ, những sư đoàn 3, 5, 280 suy yếu dần.

Ngày 18 tháng 04 năm 1978 xãy ra cuộc tàn sát đẩm máu của 3.157 nhân mạng thường dân vô tội, trong đó bao gồm cả dân chúng Việt lẫn Miên trong các ngôi chùa và trường học thuộc làng Ba Chúc. Cuộc tàn sát đã xảy ra trong khi Quân Khu Đông Cambodge có biến động thanh trừng lẫn nhau, có lẽ giửa hai phe thân tàu cộng và thân cộng sản giặc Hồ!

Đây quả thật là một sự trùng hợp kỳ cục!!

Hay đây là một cuộc đấu trí, đấu sức giữa tình báo TC và tình báo cộng sản giặc Hồ mà Lê Đức Anh làm đạo diễn (dưới bàn tay TC2, T4) qua những vụ án Xiêm Rệp (1983), vụ án Sáu Sứ (1991).

Tài liệu TC2

Bằng cách giam khoảng 10-15 sư đoàn quân cộng sản giặc Hồ tại Cambodge, để cho quân tàu cộng có  dịp tràn sang biên giới phiá Bắc Việt Nam ngày 17 tháng 02 năm 1979 và khởi chiến (cuộc chiến diệt chủng) với 2 quân đoàn Quảng Tây, Vân Nam và sau đó là 7 quân đoàn còn lại cuả tàu cộng, thay phiên nhau tấn chiếm suốt dọc chiều dài vùng biên giới phía bắc Việt Nam từ 1979-1991, để rồi bộ chính trị cộng sản giặc Hồ nhượng lần đất và biển cho tàu cộng?

(Trong cuộc chiến nầy quân tàu cộng có dùng vũ khí hoá học hay không? Câu trả lời là có. Tại mặt trận Đồng-Đăng tỉnh Lạng-Sơn quân tàu cộng đã dùng vũ khí hoá học để giết cả quân lẩn dân Việt ước lượng vào khoảng 400 nhân mạng).

-Theo tài liệu cùng với những nhân chứng địa phương, chính sư đoàn 330 hay còn gọi là sư đoàn 30 đã thực hiện cuộc tàn sát nầy và cộng sản giặc Hồ đã chọn địa điểm làng Ba Chúc vì nơi đây là nơi phát tích cuả giáo phái “Bửu-Sơn Kỳ-Hương” do đức Phật Thầy Tây An sáng lập ra và Phật Giáo Hoà-Hảo là giáo phái đã được thừa truyền y bát với số tín đồ trên 7 triệu người đã trãi rộng ra khắp miền Tây Việt Nam.

Với chủ đạo “Tứ Ân Hiếu Nghĩa” bao gồm:

Ân Tổ Quốc.

Ân Thầy.

Ân Cha Mẹ.

Ân Đồng Bào.

Kỳ diệu thay lại phù hợp với chủ đạo Việt tộc trong tôn giáo “Thờ Cúng Ông Bà, Tổ Tiên”.

Nghiã là dưới bộ áo cà sa của “Bửu-Sơn Kỳ-Hương” lại ẩn tàn một “Gươm Thiêng Bảo Quốc”.

Từ năm 1939-1975 giáo phái phật giáo “Bửu-Sơn Kỳ-Hương” là lực giáo phái phật giáo nồng cốt đã làm tròn nhiệm vụ “Bảo-Quốc, An-Dân” cuả người con dân Việt-Nam chống Pháp, chống cộng sản giặc Hồ và đã bảo toàn khu vực miền Tây Nam Việt-Nam cho đến ngày 30-04-1975, trước đó miền Tây Nam Việt đã được tôn vinh là vùng đất Phật, cộng sản giặc Hồ không thể nào phát triễn trong khu vực cuả Phật Giáo Hoà-Hảo, truyền thân cuả “Bửu Sơn Kỳ Hương” 

Đây là lý do tại sao cả tàu cộng lẫn cộng sản giặc Hồ phải tìm cách tiêu diệt giáo phái Phật Giáo Hoà Hảo nầy cho bằng được, kể từ 1939 cho đến ngày hôm nay.

Pháp luân công trên lãnh thổ Quảng Tây tàu cộng là một bằng chứng điển hình mà tàu cộng phải tìm mọi cách để tiêu diệt.

-Ngày 15 tháng 06 năm 1978, các sư đoàn 7, 9, 341 cùng các đơn vị yễm trợ đã tràn sang Cambodge và chỉ rút quân về vào cuối năm 1989 (tháng 09/1989, tài liệu “Hồi Ký Trần QuangCơ”.)

-Ngày 17 tháng 02 năm 1979 chiến tranh Việt – Trung khởi đầu và chỉ chấm dứt sau năm 1991, dẫn đến việc mất những vùng đất biên giới phiá bắc Việt Nam và những vùng biển từ Bắc Bộ kéo dài xuống Trường Sa.

* Tài liệu trích từ James Pringle International Herald Tribune (tài liệu nầy đã bị xóa)

http://www.iht.com/bin/print_ipub.php?file=/articles/2004/01/07/edpringle_ed3_.php

Trong phần tài liệu cuả James Pringgle nấy có những dữ kiện sau đây đã tạo thành nghi vấn:

-Có 2 người con gái rất đẹp “Chinese beauties, từ ngữ cuả James Pringle” đi cùng với toán quân Khmer Rouge nhưng lại không nói được tiếng Việt lẫn tiếng Khmer Rouge. Điều chắc chắn là 2 người con gái nầy không xuất xứ từ Miên vì Pol Pot đã tàn sát hấu hết những người dân trong vùng.

-Tất cả nạn nhân đều bị bắn chết trong chùa và trường học, riêng bà H.T.N. lại bị bọn Khmer Rouge mang cả gia đình đi về phiá biên giới Việt-Miên rồi mới giết.

-Người con gái của bà HTN bị đập vào đầu 3 lần bằng báng súng (James Pringle dùng từ ngữ “struck”) cho thấy sự tàn nhẫn cuả toán người nầy.

Điều nầy khác với phương thức giết người theo kiểu “Cáp-Duồng” của người Miên, nghiã là tàn sát dân Việt Nam tại chổ, gặp đâu giết đó!

Tuy nhiên bà H.T.N mai mắn vẫn còn sống và được quân cộng sản giặc Hồ cứu sau 12 ngày đêm bị thương! (từ tài liệu cuả ông Nguyễn Vỉnh Long Hồ)

Nếu thật sự có quân Khmer Rouge tàn sát dân Việt từ ngày 18 tháng 04 cho đến ngày 29 tháng 04 năm 1978, thì tại sao các đơn vị của sư đoàn 330 đang đảm nhiệm việc thành lập tuyến phòng thủ và trấn đóng tại huyện Tri Tôn (làng Ba Chúc thuộc huyện Tri Tôn), lại không phát hiện ra biến cố trong đêm 18 tháng 04 năm 1978, vì có tất cả là 3.157 thường dân bị bắn chết trong các chùa và trường học.

Nghiã là có ít nhất 2.000 phát đạn, lựu đạn đã được bắn vào dân!

Tiếng súng AK47 nỗ rất chát chúa “bắkk..bắkk..bắkk..” (vũ khí Khmer Rouge được viện trợ từ tàu cộng) những cựu quân nhân trong QLVNCH không thể nào quên được những âm thanh đó thì làm sao những cán binh cộng sản giặc Hồ lại không biết được khi những tiếng súng AK47 nỗ một cách ghê rợn trong đêm trường vắng lặng!

Có tiếng súng nỗ trên 2.000 phát trong đêm mà phải đợi tới 12 ngày sau bà HTN mới được cứu sống thì quả thật mạng bà HTN quá lớn!

Đúng là sự huyền nhiệm của vùng “Địa Linh Nhân Kiệt Thất Sơn” đã khiến cho bà HTN sống còn để trỡ thành nhân chứng sống.

Phần dưới đây trích từ tài liệu cuả ông Trần Quang Cơ, một nhân vật trong bộ ngoại giao cộng sản giặc Hồ.

* Tài liệu trích từ “Hồi Ký Trần Quang Cơ”. 1975-1991

Archived copy at:

https://web.archive.org/web/20221102093857/

https://anhbasam.files.wordpress.com/2015/06/hoi-ky-tran-quang-co.pdf),

https://tailieu.vn/doc/hoi-uc-va-suy-nghi-tran-quang-co-560316.html

https://web.archive.org/web/20230711144106/ https://tailieu.vn/doc/hoi-uc-va-suy-nghi-tran-quang-co-560316.html.

http://www.diendan.org/tai-lieu-hoi-ky-tran-quang-co. 

http://vietsuky.wordpress.com/hoi-ky-tran-quang-co.

http://tailieu.vn/xem-tai-lieu/hoi-uc-va-suy-nghi-tran-quang-co560316.html.

http://timsach.com.vn/viewEBOOK_38_7503_hoi-ky-Tran-Quang-Co.html. 

Mở đầu hồi ký nầy ông Trần Quang Cơ cho thấy cộng sản giặc Hồ đã có cơ hội ban giao với Hoa Kỳ để xây dựng lại đất nước sau cuộc chiến làm tan hoang đất nước, thế như không biết vì cái não trạng bệnh hoạn Xã Hội Chủ Nghiã, hay não trạng lệ thuộc tàu, hay não trạng thích làm quan thái thú mà cộng sản giặc Hồ đã bỏ đi cơ hội tốt để rồi cuối cùng đưa cả nước vào tệ nạn nghèo đói, lạc hậu, đĩ điếm, ma cô (những từ ngữ nầy cộng sản giặc Hồ đã tròng lên cổ chính thể Việt Nam Cộng Hoà và sau nầy cho những người Việt tị nạn hải ngoại) để rồi đến nỗi phải dâng những vùng lãnh thổ và lãnh hải cho tàu cộng

Dưới đây là những cơ hội mà Việt Nam đã đánh mất.

Phiá Hoa Kỳ:

“………..

Đại sứ Mỹ tại LHQ, Andrew Young, đã nói rõ điều đó: “Chúng tôi coi Việt Nam như một Nam Tư ở châu Á. Không phải là bộ phận của Trung Quốc hay của Liên Xô, mà là một nước độc lập. Một nước Việt Nam mạnh và độc lập là phù hợp với lợi ích quốc gia của Mỹ” (tháng 01.1977).

……………..

Ngày 6.1.77, thông qua Liên Xô, Mỹ lại đưa ra một kế hoạch 3 bước về bình thường hoá quan hệ với Việt Nam:

1.      Việt Nam cho biết tin về những “người Mỹ mất tích trong chiến tranh” (MIA).

2.      Mỹ chấp nhận Việt Nam vào LHQ và sẵn sàng lập quan hệ ngoại giao đầy đủ, cũng như bắt đầu buôn bán với Việt Nam.

3.      Mỹ có thể đóng góp khôi phục tại Việt Nam bằng cách phát triển buôn bán, cung cấp thiết bị và các hình thức hợp tác kinh tế khai thác.

……………………..

Ngày 3/3/1977 chính quyền Carter quyết định nới lỏng một phần cấm vận đối với ta, cho phép tàu thủy và máy bay nước khác chở hàng sang Việt Nam được ghé các cảng và sân bay của Mỹ để lấy nhiên liệu (nhưng vẫn cấm người Mỹ buôn bán với Việt Nam, cấm tàu Mỹ đến Việt Nam đến cảng và sân bay Mỹ). Ngày 9.3.77, Mỹ cho phép công dân Mỹ được đi thăm Việt Nam, Cu Ba, Bắc Triều Tiên, Campuchia kể từ ngày 18.3.77.

………………….

Trong đàm phán vòng 1 (ngày 3-4.5.77), lập trường của Mỹ là hai bên thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ ngay và vô điều kiện, còn những vấn đề khác giữa hai bên để lại giải quyết sau; Mỹ sẽ không cản Việt Nam vào LHQ. Còn về điều 21 (của Hiệp định Paris về VN), Mỹ có khó khăn về pháp luật nên không thực hiện được, hứa sẽ thực hiện khi đã có quan hệ, bỏ cấm vận buôn bán và xét viện trợ nhân đạo.

Phiá bộ chính trị cộng sản giặc Hồ (tài liệu cuả ông Trần Quang Cơ):

…………………..

Theo chỉ thị đã nhận trước khi đi, ta kiên quyết đòi phải giải quyết “cả gói”9 3 vấn đề: 

- ta và Mỹ bình thường hoá quan hệ (bao gồm cả việc bỏ cấm vận và lập quan hệ ngoại giao đầy đủ),

-ta giúp Mỹ giải quyết vấn đề MIA và Mỹ viện trợ 3,2 tỷ đô-la cho Việt Nam như đã hứa hẹn trước đây. (chưa bắt tay với Mỹ mà đã ngữa tay xin tiền!) 

-Trở ngại lớn nhất cho việc bình thường hoá quan hệ là việc ta đòi Mỹ viện trợ 3,2 tỷ đô-la cho ta vì Quốc hội Mỹ khi đó dứt khoát không chấp nhận viện trợ làm điều kiện cho việc bình thường hoá quan hệ với Việt Nam.

Chú thích: Đây có phải là chỉ thị cuả cộng sản giặc Hồ hay là chỉ thị của tình báo tàu cộng để phá sự liên kết cuả Hoa Kỳ và Việt Nam? Vừa đánh đuổi người ta đi, vấn đề MIA chưa giải quyết lại ngữa tay “xin” lấy 3.2 tỷ đô theo lối “ăn cướp”. Trong thế giới ngoại giao chưa có một quốc gia nào như cộng sản giặc Hồ. Nói ra chỉ thêm nhục cho dân tộc Việt Nam, có 3.2 tỷ dollars mới có thể trả nợ chiến phí cho tàu cộng.

Dưới đây là tài liệu thật từ một nhân viên tình báo Liên Bang của Hoa Kỳ công bố việc cộng sản gặc Hồ đã đầu hàng Hoa Kỳ sau một trận mưa bomb.

Cộng sản giặc Hồ đã tuyên bố nhận thua thì lấy tư cách gì để đòi Hoa Kỳ bồi thường 3.2 tỷ dollars?

355 Ted Gunderson ret FBI North Vietnam Surrendered in 1973 1 min

https://www.youtube.com/watch?v=cfoY4r-BWoE

https://www.youtube.com/watch?v=dCiysdhALrc

Ted Gunderson:

“I did a TV show in Long Beach California, one of the gentleman involved in the show was in the US Army at one time he told me that in the spring of 1973, we had bombed all of the North Vietnamese supply line, we had mined their harbors, they were cut off and one of his associates was in the communication room in Saigon and this is of course a classified job and when he was in this room he received this message from the North Vietnamese: – “We surrender unconditionally.” He passed it on his superiors and all army personnel were immediately ushered out and replaced by State Department personnel. It was shortly thereafter that Kissinger even with the North Vietnamese officials in Paris, France. Why these things happened?”      

Ted Gunderson:

“Tôi đã làm một chương trình truyền hình ở Long Beach California, một trong những quý ông tham gia chương trình từng ở trong Quân đội Hoa Kỳ, ông ấy kể với tôi rằng vào mùa xuân năm 1973, chúng tôi đã ném bom toàn bộ tuyến tiếp tế của Bắc Việt, chúng tôi đã thả mìn các bến cảng của họ, họ đã bị cắt đứt và một trong những cộng sự của ông ấy đã ở trong phòng liên lạc ở Sài Gòn, tất nhiên đây là một tin tuyệt mật và khi ông ấy ở trong căn phòng này, ông ấy đã nhận được thông điệp này từ Bắc Việt: – “Chúng tôi đầu hàng vô điều kiện.” Ông ấy đã chuyển thông điệp này cho cấp trên của mình và tất cả nhân viên quân đội đã ngay lập tức được đưa ra ngoài và được thay thế bởi nhân viên Bộ Ngoại giao. Ngay sau đó, Kissinger thậm chí còn gặp các quan chức Bắc Việt ở Paris, Pháp. Tại sao những điều này lại xảy ra?”

……………………

Ngày 2-3.6, đàm phán vòng 2, Mỹ nêu lại các đề nghị hồi tháng 5. Ngày 19.7.77, tại Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc (LHQ), Mỹ quyết định rút bỏ việc phủ quyết Việt Nam vào LHQ. Sau vòng 2, anh Phan Hiền đã phải bay về Hà Nội báo cáo và xin chỉ thị, thực chất là đề nghị trên nên có thái độ thực tế và đối sách mềm dẻo hơn, nhưng nghe nói cả 4 vị lãnh đạo chủ chốt của ta lúc đó đều nhất trí lập trường trên. Trước đòi hỏi kiên quyết của ta, tại vòng 3 (19-20.12.78), Mỹ đề nghị nếu chưa thoả thuận được về việc thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ thì có thể lập Phòng Quyền lợi10 ở thủ đô hai nước, nhưng như vậy thì chưa bỏ cấm vận được. Sau khi có Phòng quyền lợi thì sẽ tuỳ tình hình mà xét bỏ cấm vận, song ta vẫn giữ lập trường cũng nhắc đòi giải quyết “cả gói” 3 vấn đề.

Trong khi đó, theo sự xúi dục của Bắc Kinh, chính quyền Polpot bắt đầu chiến tranh biên giới chống ta từ ngày 30.4.77 và đơn phương cắt đứt quan hệ ngoại giao với ta ngày 31.12.77.

Chú thíchVới những dữ kiện trên cho thấy cộng sản giặc Hồ đã bị vào xiết cuả tình báo tàu cộng từ trong bộ chính trị cộng sản giặc Hồ. Một mặt TC tìm cách phá không cho VN nối lại ngoại giao với Hoa Kỳ, qua những đòi hỏi cuả bộ chính trị cộng sản giặc Hồ. Một mặt TC xúi dục Polpot tấn công biên giới phiá Tây Nam VN để tiêu hao tiềm lực cuả dân tộc VN và Lê Đức Anh được chỉ định “bí mật” thi hành. Chỉ rút quân về ngày 26 tháng 09 1990, khi cuộc chiến Việt-Trung sắp chấm dứt.

Điều nầy cũng nói lên một vấn đề là tàu cộng rất sợ sự đoàn kết cuả dân tộc VN.

………………

Ngày 23.8.78, trong lúc Mỹ đàm phán về bình thường hoá quan hệ với ta ở Paris, ngoại trưởng Mỹ C.Vance đã đi thăm Bắc Kinh. Cho đến khi Đặng Tiểu Bình tuyên bố “Trung Quốc là NATO phương Đông” và “Việt Nam là Cuba phương Đông” (19.5.78) và Bizezinski đi thăm Trung Quốc (20.5.78) thì chính quyền Carter đã chọn con đường bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc và gác sang bên việc bình thường hoá quan hệ với Việt Nam.

…………………

Đặng Tiểu Bình đi thăm Mỹ (29.1 - 4.2.79) đánh dấu việc bình thường hoá quan hệ Mỹ - Trung Quốc, cũng là lúc Mỹ chính thức xếp lại việc bình thường hoá quan hệ Việt Nam.

***

Chú thích: Đây là lúc kế hoạch chiến tranh “giới hạn” Việt-Trung đã thật sự thành hình. Tài liệu “10 Năm Chiến Tranh Việt-Trung”, Đại Học Tứ Xuyên, tàu cộng xuất bản. 

Ngày 16.2.79, Carter có nêu 6 nguyên tắc xử sự khi Trung Quốc xâm lăng Việt Nam:

-Mỹ không can thiệp trực tiếp, khuyến khích các bên tự kiềm chế;

-Việt Nam rút quân khỏi Campuchia.

-Trung Quốc rút quân khỏi Việt Nam.

-Cuộc xung đột không đe doạ lợi ích trước mắt của Mỹ.

-Không đặt lại vấn đề bình thường hoá với Trung Quốc.

-Quyền lợi đồng minh của Mỹ không bị đe dọa.

***

Chú thíchNhư thế cộng sản giặc Hồ đã biết rõ tàu cộng sẽ tấn công VN thế nhưng cộng sản giặc Hồ vẫn giam chết những đơn vị thiện chiến tại chiến trường Cambodge, để cho tiêu hao binh lực, và chỉ phản công khi quân tàu cộng đã tràn sang biên giới, để cho TC tiến hành cuộc chiến “genocide” nghiã là “diệt chủng” dân Việt Nam. Mặt trận Lạng Sơn-Cao Bằng, mặt trận Hà Giang, Vị Xuyên với 3.700 tử sỉ đã bị bộ chính trị cộng sản giặc Hồ bán đứng, Mặt trận Lào Cai-Lai Châu là những bằng chứng cụ thể cho thấy bộ chính trị cộng sản giặc Hồ đã bán đứng đất nước, bán đứng dân tộc Việt Nam.

“Lý Quang Diệu đã nhận xét: “Năm 1975 thành phố Hồ Chí Minh có thể sánh ngang với Bangkok. Nhưng nay (năm 1992) nó tụt lại đằng sau tới hơn 20 năm”.”

Chú thích: Mong rằng những người cộng sản giặc Hồ đọc nhận xét nầy của Lý Quang Diệu.

“Nên nhớ lúc bấy giờ Miền Nam Việt Nam đã trãi qua trên 20 năm nội chiến đấy nhé! thế mà Sài Gòn vẫn ngạo nghễ sánh vai - có hơn chứ không kém - với những “Tiểu long Châu Á”.”

Người cộng sản giặc Hồ trả lời như thế nào về nhận xét rất chính xác cuả một lãnh tụ nỗi tiếng vùng Đông Nam Á Châu, Lý Quang Diệu?

***

…………………………

Tài liệu dưới đây có xuất xứ từ ông Trần Quang Cơ.

13. CUỘC GẶP CẤP CAO VIỆT – TRUNG TẠI THÀNH ĐÔ

http://zdfree.free.fr/diendan/dossiers/HoikyTQC_13.html

Ngày 29.8.90, đại sứ Trương Đức Duy xin gặp gấp TBT Nguyễn Văn Linh và Thủ tướng Đỗ Mười chuyển thông điệp của TBT Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng mời TBT Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng sang Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày 3.9.90 để hội đàm bí mật về vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ hai nước. Trương nói mập mờ là Đặng Tiểu Bình có thể gặp anh Tô. Trung Quốc còn lấy cớ ở Bắc Kinh đang bận chuẩn bị tổ chức ASIAD (Á Vận hội) nên không gặp cấp cao Việt Nam ở thủ đô Bắc Kinh được vì khó giữ được bí mật, mà gặp ở Thành Đô.

Đây quả là một sự chuyển biến đột ngột của phía Trung Quốc. Trước đây Trung Quốc nói không chỉ sau khi giải quyết xong vấn đề Campuchia mới gặp cấp cao ta và mới bàn vấn đề bình thường hoá quan hệ. Năm ngày trước – ngày 24.8.90 - Trung Quốc còn bác bỏ việc gặp cấp cao, nay lại mời ta gặp cấp cao trong một thời hạn rất gấp và đồng ý cấp cao sẽ nói chuyện về cả hai vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ.

Thái độ “thiện chí” gấp gáp như vậy của Bắc Kinh không phải tự nhiên mà có. Nó có những nguyên nhân sâu xa và nhân tố bức bách.

Chú thích: Trong giai đoạn nầy, năm 1990, chiến trận Việt-Trung sắp sửa kết thúc. TC đã chiếm khá nhiều đất cuả Việt Nam và đã buộc cộng sản giặc Hồ phải chấp nhận lập lại cột mốt biên giới mới. Cũng xin nói rõ là cho đến năm nầy 1990 TC vẫn chưa tháo gở bài mìn dọc theo biên giới Việt-Trung. TC đã không thực hiện đúng như lời tuyên bố với thế giới là gở mìn hoàn toàn, mà chỉ “seal” khu vực rồi để đó, nghiã là chỉ để bản “Khu Vực Mìn Bẩy Cấm Vào”. Để sau nầy bắt cộng sản giặc Hồ phải chấp nhận khu vực mìn bẩy nầy là lãnh thổ của TC. Cuộc hợp cấp cao tại Thành Đô chỉ với mụch đích đó mà thôi.

………………………

14. THÀNH ĐÔ LÀ THÀNH CÔNG HAY LÀ THẤT BẠI CỦA TA?

http://zdfree.free.fr/diendan/dossiers/HoikyTQC_14.html

Ngay sau khi ở Thành đô về, ngày 5.9.90 anh Linh và anh Mười, có thêm anh Thạch và Lê Đức Anh, đã bay sang PhnomPenh thông báo lại với BCT Campuchia nội dung cuộc gặp gỡ cấp cao Việt-Trung. Để thêm sức thuyết phục PhnomPenh nhận Thoả thuận Thành đô, anh Linh nói với lãnh đạo Campuchia: “Phải thấy giữa Trung Quốc và đế quốc cũng có mâu thuẫn trong vấn đề Campuchia. Ta phải có sách lược lợi dụng mâu thuẫn này. Đừng đấu tranh với Trung Quốc đến mức xô đẩy họ bắt tay chặt chẽ với đế quốc.”

Chú thíchLập luận này được Lê Đức Anh mở rộng thêm: “Mỹ và phương Tây muốn cơ hội này để xoá cộng sản. Nó đang xoá ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xoá cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc.”!

Chú thích: Xin đọc giả lưu ý lập luận cuả Lê Đức Anh bên trên, điều nầy cho thấy rất rõ những việc làm cuả Lê Đức Anh sau nầy đều có lợi cho TC.

Nhìn lại, trong cuộc gặp Thành Đô, ta đã mắc lỡm với Trung Quốc ít nhất trên 3 điểm:

* Trung Quốc nói cuộc gặp Thành Đô sẽ đàm phán cả vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ, nhưng thực tế chỉ bàn vấn đề Campuchia, còn vấn đề bình thường hoá quan hệ hai nước Trung Quốc vẫn nhắc lại lập trường cũ là có giải quyết vấn đề Campuchia mới nói đến chuyện bình thường hoá quan hệ hai nước;

* Trung Quốc nói mập mờ là Đặng Tiểu Bình có thể gặp cố vấn Phạm Văn Đồng, nhưng đó chỉ là cái “mối” để kéo anh Đồng tham gia gặp gỡ cấp cao.

* Trung Quốc nói giữ bí mật việc gặp cấp cao hai nước, nhưng ngay sau cuộc gặp hầu như tất cả các nước đã được phía Trung Quốc trực tiếp hay gián tiếp thông baó nội dung chi tiết bản thoả thuận Thành Đô theo hướng bất lợi cho ta.

Chú thích: Mục đích chính cuả TC là chỉ muốn cộng sản giặc Hồ chấp nhận những phần đất đã bị TC chiếm đóng trong cuộc chiến Việt-Trung mà thôi, vấn đề Cambodge chỉ là phụ.

Hai nhân vật Lê Đức Thọ, Lê Đức Anh và nhân vật tình báo TC, trợ lý bộ trưởng, Từ Đôn Tín?

Cuối tháng 4.87, Lê Đức Thọ lại cùng Lê Đức Anh bay sang Campuchia họp với những người lãnh đạo PhnomPenh bàn việc thúc đẩy giải pháp chính trị Campuchia và quan hệ với Trung Quốc, trong đoàn có tôi và anh Trần Xuân Mận của CP 87. Anh Lê Đức Thọ khi đó đã đưa ra gợi ý “giải pháp Đỏ”. Bản thân tôi lần đầu mới được biết tường tận về cái gọi là “giải pháp Đỏ”. Nói gọn lại, “giải pháp đỏ” là một sản phẩm của mộng tưởng giải quyết cuộc xung đột Campuchia bằng cách hoà giải PhnomPenh với bọn diệt chủng Polpot và lập nên một nước Campuchia XHCN vừa làm vừa lòng Trung Quốc vừa hợp ý của lãnh đạo ta.

Chú Thích: Xin lưu ý Lê Đức ThọLê Đức Anh (tình báo tàu cộng) cùng bay qua Cambodge và Lê Đức Thọ đã đưa ra “giải pháp đỏ”, kế sách nầy là phương thức gây rối loạn trong nội bộ cả 2 nước Cambodge và Việt Nam sau nầy để tàu cộng dễ bề thao túng cả 2 nuớc. Giống như phương thức “Hoà Hợp Hoà Giải” dân tộc Việt Nam cho đến bây giờ vẫn còn có hiệu quả cuả sự xáo trộn, và gây chia rẽ trong cộng đồng Việt Nam.

Ngày 8.3.90, cố vấn Lê Đức Thọ cho gọi tôi và anh Đinh Nho Liêm đến nhà riêng ở số 4 Nguyễn Cảnh Chân nói mấy ý kiến về vấn đề Campuchia: Cần có chuyển hướng chiến lược trong đấu tranh về vấn đề Campuchia. Phải giải quyết với Trung Quốc, nếu không thì không giải quyết được vấn đề Campuchia. Không thể gạt Khmer Đỏ. Cần mềm dẻo về vấn đề diệt chủng, có thể nói “không để trở lại chính sách sai lầm trong quá khứ”. Không chấp nhận LHQ tổ chức tổng tuyển cử. Cần nêu phương án lập chính phủ liên hiệp lâm thời hai bên bốn phái để tổ chức tổng tuyển cử ở Campuchia. Phải giải quyết một bước cơ bản vấn đề Campuchia trước Đại hội VII để khai thông những vấn đề khác.

Hai hôm sau anh lại nói với Nguyễn Cơ Thạch những ý đó. Sự việc này khiến tôi suy nghĩ: tại sao lại thay đổi phương hướng đối sách trước khi đại hội Đảng họp? Tại sao lại chỉ nói với anh Thạch sau khi đã nói với chúng tôi?

Chú thích: Nếu đọc kỷ đoạn văn trên ta sẽ thấy là Lê Đức Thọ nói những điều mà tàu cộng đã cố ý buột cộng sản giặc Hồ phải theo. Nghiã là không chống đối TC, không gạt bỏ Khmer Rouge, không chấp nhận LHQ tổ chức tổng tuyển cử, và không dùng từ ngữ “genocide-diệt chủng”. Tại sao Lê Đức Thọ lại có thái độ đó? Có phải Lê Đức Thọ là người cuả TC?

Sáng 30.5.90, TBT Nguyễn Văn Linh thông báo với Bộ Chính trị về cuộc họp với 2 TBT đảng Lào và đảng Campuchia ngày 20-21.5, nói ra dự định sẽ gặp đại sứ Trung Quốc và Từ Đôn Tín khi Từ đến Hà Nội. Cố vấn Phạm Văn Đồng và một số trong BCT tỏ ý phải thận trọng trong xử sự với Trung Quốc. Anh nói: Mấy nghìn năm Trung Quốc vẫn là Trung Quốc, không nên cả tin. Ta cần thăm dò thúc đẩy nhưng phải cảnh giác, đừng để hớ. Đỗ Mười cũng khuyên anh Linh không nên gặp đại sứ Trung Quốc và Từ Đôn Tín trước cuộc đàm phán. Nhưng Lê Đức Anh lại tỏ ra đồng tình với dự định của anh Linh, cho rằng phải thăm dò và phân tích chiến lược của Trung Quốc, xử lý mối quan hệ của 3 nước lớn và 5 nước thường trực HĐBA, tranh thủ thế giới thứ ba, ủng hộ các nước XHCN. Ngày 5.6.90, vài ngày trước khi Từ Đôn Tín đến Hà Nội, TBT Nguyễn Văn Linh đã mời đại sứ Trương Đức Duy (vừa từ Bắc Kinh trở lại Hà Nội) đến Nhà khách Trung ương Đảng nói chuyện thân mật để tỏ lòng trọng thị đối với Bắc Kinh.36 Trong cuộc gặp, như để chấp nhận lời phê bình của Đặng (nói qua Kayson), Nguyễn Văn Linh nói “Trong quan hệ hai nước, 10 năm qua có nhiều cái sai. Có cái đã sửa như việc sửa đổi Lời nói đầu của Hiến pháp, có cái sai đang sửa”. Anh sốt sắng ngỏ ý muốn sang gặp lãnh đạo Trung Quốc để “bàn vấn đề bảo vệ Chủ nghĩa xã hội” vì “đế quốc đang âm mưu thủ tiêu chủ nghĩa xã hội... chúng âm mưu diễn biến hoà bình, mỗi đảng phải tự lực chống lại. Liên Xô là thành trì XHCN, nhưng lại đang có nhiều vấn đề. Chúng tôi muốn cùng các người cộng sản chân chính bàn vấn đề bảo vệ chủ nghĩa xã hội... Tôi sẵn sàng sang Trung Quốc gặp lãnh đạo cấp cao Trung Quốc để khôi phục lại quan hệ hữu hảo. Các đồng chí cứ kêu một tiếng là tôi đi ngay... Trung Quốc cần giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin”. Về vấn đề Campuchia, anh Linh đã gợi ý dùng “giải pháp Đỏ” để giải quyết: “Không có lý gì những người cộng sản lại không thể bàn với những người cộng sản được”, “họ gặp Sihanouk còn được huống chi là gặp lại nhau”.

Chú thích: Nếu những người Việt Quốc Gia chân chính muốn xây dựng lại đất nước và  có ý tưởng cải sửa những người cộng sản giặc Hồ có lẽ nên đọc đoạn văn về lời tuyên bố trên cuả Nguyễn Văn Linh để suy gẩm.

……………………

Sáng 6.6.90, Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh lại gặp riêng và mời cơm đại sứ Trương Đức Duy. Cuộc gặp riêng chỉ giữa hai người, Trương Đức Duy vốn là thông dịch, rất thạo tiếng Việt nên không cần có người làm phiên dịch. Nội dung cuộc gặp này mãi đến ngày 19.6 trong cuộc họp BCT để đánh giá cuộc đàm phán 11-13.6 giữa tôi và Từ Đôn Tín, Lê Đức Anh mới nói là đã gặp Trương Đức Duy để nói cụ thể thêm ba ý mà anh Linh đã nói với đại sứ Trung Quốc hôm trước (gặp cấp cao hai nước; hai nước đoàn kết bảo vệ chủ nghĩa xã hội; hai nhóm cộng sản Khmer nên nói chuyện với nhau). Nhưng trước đó, từ ngày 6.6, phía Trung Quốc (tham tán Lý Gia Trung và Bí thư thứ nhất Hồ Càn Văn) đã cho ta biết nội dung câu chuyện giữa Lê Đức Anh Trương Đức Duy. Còn đại sứ Trung Quốc cho anh Ngô Tất Tố, Vụ trưởng vụ Trung Quốc biết là trong cuộc gặp ông ta ngày 6.6, anh Lê Đức Anh đã nói khá cụ thể về “giải pháp Đỏ”: “Sihanouk sẽ chỉ đóng vai trò tượng trưng, danh dự, còn lực lượng chủ chốt của hai bên Campuchia là lực lượng Heng Somrin và lực lượng Polpot, Trung Quốc và Việt Nam mỗi bên sẽ bàn với bạn Campuchia của mình, và thu xếp để hai bên gặp nhau giải quyết vấn đề. Địa điểm gặp nhau có thể ở Việt Nam, có thể ở Trung Quốc, nhưng ở Trung Quốc là tốt hơn cả. Đây là gặp nhau bên trong, còn bên ngoài hoạt động ngoại giao vẫn như thường... Ngày xưa Polpot là bạn chiến đấu của tôi...”

Chú thích: Lúc nầy con bài Lê Đức Anh đã lộ mặt, được đưa ra. Đọc kỷ đoạn trên cho ta thấy Lê Đức Anh đã khấu đầu thiên triều bằng cách tiếp kiến riêng đại sứ tàu cộng Trương Đức Duy và nếu đọc đoạn cuối sẽ thấy Polpot là bạn chiến đấu của Lê Đức Anh!?

 Trưa ngày 9.6.90, Đại sứ Trương Đức Duy nói với Vụ Trung Quốc Bộ Ngoại giao ta rằng, trong cuộc gặp TBT Nguyễn Văn Linh, phía Trung Quốc rút ra được 3 ý kiến:

1.      Đồng chí Nguyễn Văn Linh nói về quan hệ hai nước rất đậm đà. Nói 10 năm qua có nhiều cái sai. Có cái sai như lời nói đầu của Hiến pháp, có cái sai đang sửa. Muốn gặp cấp cao Trung Quốc để trao đổi những vấn đề lớn trong quan hệ hai nước.

2.      Về tình hình quốc tế: tình hình Liên xô, Đông Âu có nhiều thay đổi. Liên Xô trước đây là thành trì của CNXH, nay thành trì này cũng lung lay rồi. Trung Quốc cần giương cao ngọn cờ CNXH, kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin. Việt Nam kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin. Những mgười cộng sản chân chính phải đoàn kết để bảo vệ CNXH. Chủ nghĩa đế quốc luôn tấn công vào CNXH. Chúng tuyên bố đến cuối thế kỷ này sẽ làm cho CNXH biến mất.

3.      Về Campuchia: tại sao những người cộng sản không hợp tác với nhau? Polpot và Hunxen phải hợp tác với nhau

Chiều 10.6.90, Bí thư thứ nhất sứ quán Trung Quốc Hồ Càn Văn nói với anh Vũ Thuần, Vụ phó vụ Trung Quốc Bộ Ngoại giao: Từ Đôn Tín tuy là trợ lý ngoại trưởng nhưng là người có thực quyền trong việc giải quyết các vấn đề Châu Á. Trên khía cạnh nào đó có thể nói còn có thực quyền hơn cả cấp thứ trưởng. Việc Từ sang Việt Nam lần này là có sự quyết định của cấp cao nhất của Trung Quốc, chứ không phải Bộ Ngoại giao.

Theo Hồ Càn Văn, ngày 23.5.90 Cục trưởng Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng Việt Nam Vũ Xuân Vinh đã mời Tuỳ viên quân sự Trung Quốc Triệu Nhuệ đến để thông báo là TBT Nguyễn Văn Linh và Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh sẽ tiếp Từ Đôn Tín khi Từ đến Hà Nội. Chính những động thái bất thường và vượt ra ngoài khuôn khổ ngoại giao này của ta đã làm cho Trung Quốc hiểu rằng nội bộ Việt Nam đã có sự phân hoá và vai trò của Bộ Ngoại Giao không còn như trước.

Ngày 8.6.90, khi được biết là lần này tôi sẽ là người đứng ra thay anh Đinh Nho Liêm đàm phán với Từ Đôn TínBộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh còn điện thoại dặn tôi tránh chủ động nói đến “giải pháp Đỏ”: Việc hai bên Đỏ tiếp xúc với nhau là chuyện lâu dài, cần cho ổn định lâu dài. Trung Quốc sẽ tác động với phía Campuchia thân Trung Quốc, ta sẽ tác động với phía Campuchia thân ta để hai bên kiềm chế việc thù địch nhau. Việc này phải có thời gian, không thể nhanh được, không thể đòi họ trả lời ngay. Đừng thúc họ, cứ để họ chủ động, khi nào trả lời được thì họ trả lời... Phải rất bí mật. Lộ ra rất nguy hiểm. Chỉ nói khi gặp riêng chứ không nói khi đàm phán. Việc anh Nguyễn Văn Linh đặt vấn đề với đại sứ Trương Đức Duy nói sẵn sàng đi Trung Quốc gặp cấp cao nhất, cũng không nên hỏi lại nếu họ chưa nói tới.”

Chú thích: Đoạn trên cho thấy Từ Đôn Tín (người có thực quyền giải quyết vấn đề Á Châu) và Lê Đức Anh (kẻ nhận và thi hành lệnh từ tàu cộng) là cặp bài đôi cuả tàu cộng dùng để thi hành thuật gián điệp và phản gián điệp. Lúc bấy giờ Lê Đức Anh là Bộ Trưởng Quốc Phòng CSVN, thế nhưng Lê Đức Anh lại chen chân vào việc cuả Bộ Ngoại Giao cộng sản giặc Hồ!

……………

Nhưng sự việc trở nên phức tạp khi trưa ngày 11.6.90 sau đàm phán phiên đầu với Từ Đôn Tín tôi về Bộ Ngoại Giao hội báo lại với anh Thạch. Anh Thạch lúc này đang họp Hội nghị ngoại giao đánh giá tình hình Đông Âu - Liên Xô. Nghe tôi phản ánh tình hình đàm phán xong, anh liền gạn hỏi tôi có nói với Từ về “giải pháp Đỏ” không. Tôi nói: “Đồng chí Lê Đức Anh đã dặn phải thận trọng tránh nói đến vấn đề đó khi đàm phán.” Anh Thạch vặn lại: “Vậy đồng chí nghe theo ý kiến bộ trưởng Quốc phòng hay ý kiến bộ trưởng Ngoại giao?”. Tôi đáp: “Là cán Bộ Ngoại Giao, tôi sẵn sàng chấp hành ý kiến anh, với sự hiểu biết rằng anh nói với tư cách là uỷ viên Bộ Chính trị”.

………………….

16. MÓN NỢ THÀNH ĐÔ

http://zdfree.free.fr/diendan/dossiers/HoikyTQC_16.html

46 [Từ tháng 9.90, Trung Quốc luôn coi ta mắc nợ họ về thoả thuận Thành Đô, đòi ta thực hiện thoả thuận đó,]

Chú thích Đây là món nợ gì mà cộng sản giặc Hồ đã thoả thuận với TC, để cho tàu cộng đòi cộng sản giặc Hồ phải thực hiện thỏa thuận đó? Có phải là vấn đề lãnh thổ, lãnh hải hay không?

Trung Quốc thấy rằng việc thực hiện thoả thuận Thành Đô gặp trở ngại chính từ Bộ Ngoại giao nên chủ trương chia rẽ nội bộ ta càng trắng trợn hơn.

………………….

Tình hình bất đồng ý kiến trong BCT càng đến gần Đại hội càng bộc lộ gay gắt. Ngày 13.4.91, trong cuộc họp BCT bàn về tình hình thế giới và đường lối đối ngoại để chuẩn bị báo cáo chính trị tại Đại hội, sau khi anh Thạch bản báo cáo về “Tình hình thế giới và chiến lược đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta”, Lê Đức Anh giới thiệu đại tá Lân, cán bộ Cục II Bộ Quốc phòng, trình bày về tình hình thế giới và mưu đồ đế quốc”. Nghe xong, TBT Nguyễn Văn Linh phát biểu: “Chủ quan tôi nghĩ giữa bản trình bày sáng nay (của Bộ Ngoại Giao) và bản trình bày tình hình quân sự chiều nay của Bộ Quốc phòng có nhiều chỗ khác nhau. Muốn thảo luận chủ trương thì phải thảo luận tình hình trước, nhưng cách đánh gia tình hình còn khác nhau”

Lê Đức Anh: “BCT nên nghe tình hình nhiều mặt, ngay trong nước chúng ta cũng đánh giá khác nhau. Căn cứ vào đánh gía chung, mỗi ngành có đề án riêng, không làm chung được”.

Chú thích: đọc đoạn văn trên cho thấy là Lê Đức Anh đã, đang và sẽ cài người của tàu cộng vào ngay trong nội bộ cuả bộ chính trị CSVN.

18. ĐẠI HỘI VII VÀ CÁI GIÁ PHẢI TRẢ CHO VIỆC BÌNH THƯỜNG HOÁ QUAN HỆ VỚI TRUNG QUỐC

http://zdfree.free.fr/diendan/dossiers/HoikyTQC_18.html

Từ 17 đến 27.6.91 Đảng Cộng sản Việt Nam họp Đại hội lần thứ VII đưa lại nhiều thay đổi quan trọng về nhân sự: Đỗ Mười thay Nguyễn Văn Linh làm TBT; Lê Đức Anh nay nghiễm nhiên giữ vị trí thứ 2 trong Đảng, Uỷ viên thường trực BCT kiêm bí thư trung ương phụ trách cả 3 khối quốc phòng – an ninh – ngoại giao và lên chức Chủ tịch nước. Võ Văn Kiệt được giới thiệu với Nhà nước cử làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; Đào Duy Tùng thường trực Ban bí thư. Bộ ba Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng nắm bộ phận thường trực của Bộ Chính trị và của Ban Bí thư. Đại tướng Võ Nguyên Giáp bị gạt ra khỏi chức uỷ viên Trung ương. Còn Nguyễn Cơ Thạch bị bật ra khỏi Bộ Chính trị và chuẩn bị thôi chức Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao... (thực ra những thay đổi về nhân sự trong BCT đã được quyết định từ tháng 5 và Trung Quốc đã biết). Dư luận quốc tế xôn xao cho rằng Nguyễn Cơ Thạch là “vật tế thần” trong việc Việt Nam bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc. Tôi nghĩ rằng đó mới chỉ là một cách nói đơn giản vì vấn đề không chỉ là bình thường hoá quan hệ mà là phụ thuộc hoá quan hệ.

Chú thích: Đây là lúc quê hương đang bước vào giai đoạn nguy kịch vì Lê Đức Anh đã, đang và sẽ lũng đoạn đất nước theo chiều hướng dẩn cuả tàu cộng. Kết cuộc là những phần đất và biển đã lọt vào tay tàu cộng một cách êm thấm

Sau Đại hội VII, mọi vấn đề quan trọng về đối ngoại của Nhà nước đều do Hồng Hà, bí thư TƯ, phụ trách đối ngoại, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Lê Đức Anh và tất nhiên được sự tán thưởng của TBT Đỗ Mười, quyết định. Những phần công việc xưa nay vốn do Bộ Ngoại giao đảm nhiệm nay đều do Hồng Hà và Ban Đối ngoại chủ trì. Một thí dụ điển hình về vì ý đồ cá nhân họ sẵn sàng bỏ qua danh dự và quốc thể: Ngày 5.8.91, tại cuộc họp Hội đồng Bộ trưởng, Hồng Hà tuyên bố: Từ nay trong quan hệ với Trung Quốc các ngành cứ tập trung ở chỗ anh Trương Đức Duy (Đại sứ Trung Quốc), không cần qua sứ quán Việt Nam ở Bắc Kinh’. Lê Đức Anh cho biết khi ở Trung Quốc, Phó ban Đối ngoại Trung Quốc Chu Lương có đề nghị: vì lý do kỹ thuật, quan hệ giữa hai Đảng xin làm qua Trương Đức Duy. Hôm sau, Hồng Hà với tư cách Trưởng ban Đối ngoại tiếp Đại sứ Campuchia Ouch Borith, đã thông báo: Theo sự phân công của BCT Việt Nam, từ nay đồng chí Lê Đức Anh và đồng chí Hồng Hà sẽ phụ trách việc thảo luận giải pháp Campuchia và các vấn đề liên quan. Nếu lãnh đạo Campuchia muốn bàn các vấn đề trên thì đề nghị quan hệ và thảo luận trực tiếp với 2 đồng chí đó.

Ngày 9.7.91, vừa được bầu làm TBT, Đỗ Mười gặp đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy tỏ ý muốn cử đặc phái viên đi Bắc Kinh để thông báo về Đại hội VII và trao đổi về quan hệ giữa hai nước. Trước đó ít ngày–ngày 11.6.91 – Bộ Ngoại Giao ta cũng đã gặp đại sứ Trung Quốc đề nghị mở lại đàm phán cấp thứ trưởng ngoại giao hai nước. Ngày 17.7, Trung Quốc trả lời đồng ý gặp cấp thứ trưởng ở Bắc Kinh từ 5.8 đến 10.8. Hai ngày sau, Trung Quốc trả lời đồng ý việc ta cử đặc phái viên gặp lãnh đạo Trung Quốc, nhưng lại sắp xếp cuộc gặp đặc phái viên Đảng trước cuộc gặp thứ trưởng ngoại giao… Việc làm trên cho thấy một mặt Trung Quốc muốn gặp ta ở cả hai cấp, mặt khác muốn dùng những thoả thuận với cấp đặc phái viên để ép ta trong cuộc gặp cấp thứ trưởng ngoại giao. Để đề cao công việc này, phía Trung Quốc đã đề nghị thay chữ “đặc phái viên” thành “đoàn Đại diện đặc biệt của Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản giặc Hồ” tuy Đoàn chỉ có 2 thành viên là Lê Đức Anh Hồng Hà. Hồng Hà lúc đó là bí thư TƯ, phụ trách đối ngoại. Phụ tá đoàn là Trịnh Ngọc Thái, phó ban Đối ngoại của Đảng. Tôi nhớ khi đó Bộ Ngoại giao có đề nghị có một thứ trưởng ngoại giao là uỷ viên TƯ đi với đoàn để nắm tình hình vận dụng vào cuộc đàm phán cấp thứ trưởng ngoại giao ngay sau đó, nhưng đề nghị không được chấp nhận. Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Đặng Nghiêm Hoành cũng không được tham dự các hoạt động của đoàn, trong khi đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam, Trương Đức Duy lại có mặt trong mọi hoạt động chính thức của đoàn tại Trung Quốc.

Chú thích Thời điểm nầy Lê Đức Anh phe đảng và tình báo tàu cộng đã hoàn toàn thống trị đảng cộng sản giặc Hồ.

Ngày 28.7.91, đoàn đã đến Bắc Kinh và trong mấy ngày sau đó đã gặp Kiều Thạch, Lý Bằng, Giang Trạch Dân thông báo khá chi tiết về Đại hội VII. Thông báo cả những ý kiến khác nhau quá trình thảo luận, tranh luận và việc biểu quyết những vấn đề quan trọng trong Đại hội, và cơ cấu nhân sự của Ban Chấp hành TƯ mới..., Giang Trạch Dân Lý Bằng tỏ ra quan tâm đến việc Việt Nam sẽ có ngoại trưởng mới (thay Nguyễn Cơ Thạch) trong kỳ họp Quốc hội tháng 8.91, Giang tỏ ý hài lòng: “Từ đáy lòng mình, tôi hết sức hoan nghênh kết quả Đại hội VII của các đồng chí Việt Nam”.

Đặc biệt mặc dù chuyến đi có mục đích gặp lãnh đạo Trung Quốc thông báo về Đại hội VII và bàn quan hệ hai nước, nhưng Lê Đức Anh Hồng Hà đã chủ động xin gặp Từ Đôn Tín tới 2 lần, chiều 29.7 và tối 31.7 để tạ lỗi (?). Mở đầu cuộc gặp chiều 29.7, Lê Đức Anh đã nói: “Năm ngoái khi đồng chí Từ Đôn Tín sang Việt Nam đã xảy ra một số trục trặc không hay lắm do phía chúng tôi gây ra (!) Đồng chí Nguyễn Văn Linh và chúng tôi khi biết việc này, chúng tôi không vui lắm. Hôm nay gặp đồng chí, tôi nói tình cảm của đồng chí Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và của tôi... Tình hình trục trặc trong quan hệ là một việc đau lòng, nhất là giữa những người cộng sản. Khúc nhạc cũ đã qua rồi, mong các đồng chí yên tâm”. Còn Từ thì cũng mượn dịp này để than phiền về đại sứ Đặng Ngiêm Hoành: “Một năm nay đồng chí ấy không gặp tôi, trừ khi gặp ở các cuộc chiêu đãi. Đây là lần đầu tiên tôi gặp đồng chí Hoành kể từ tháng 6 năm ngoái” (sự thực là phía Trung Quốc đã có thành kiến với anh Hoành từ trong cuộc đàm phán tháng 6.90 ở Hà Nội). Từ không quên nhắc đến điều kiện không thể thiếu có thể bình thường hoá quan hệ với Việt Nam: Tôi rất hoan nghênh đồng chí Lê Đức Anh và đồng chí Hồng Hà là từ nay không nói diệt chủng nữa. Khi về Hà Nội nếu gặp Campuchia đề nghị các đồng chí cũng nói ý này... Nếu các đồng chí lãnh đạo Việt Nam sang Trung Quốc mà cái đuôi Campuchia vẫn còn thì chúng tôi khó nói với nhân dân. Mong vấn đề Campuchia được giải quyết thì khi bình thường hoá quan hệ chúng tôi có thể ăn nói với nhân dân Trung Quốc và nhân dân thế giới”.

Để dọn đường cho cuộc gặp cấp thứ trưởng ở Bắc Kinh tháng 8.91, tối 31.7 Hồng Hà đảm bảo với Từ Đôn Tín: “Đồng chí Lê Đức Anh và tôi sẽ làm việc trực tiếp với thứ trưởng Nguyễn Dy Niên (người được chỉ định đi đàm phán với Trung Quốc chỉ vì chưa có “tiền sử” với Trung Quốc) trước khi đồng chí ấy đi Trung Quốc. Chúng tôi phải báo cáo với BCT để có ý kiến chỉ đạo không những về nội dung mà cả về tinh thần và thái độ làm việc. Tinh thần của chúng tôi là phấn đấu làm cho cuộc gặp thành công”. Sau khi đã cam kết từ nay không nói đến vấn đề diệt chủng nữa, Hồng Hà hỏi Từ: “Tôi muốn hỏi đồng chí ngoài vấn đề diệt chủng, còn hai vấn đề gai góc là vấn đề quân đội các bên Campuchia và vai trò LHQ thì phương hướng giải quyết nên thế nào, để chúng tôi có thể góp phần làm cho cuộc gặp thứ trưởng Việt – Trung ở Bắc Kinh sắp tới đạt kết quả tốt”. 

Xin ý kiến đối phương và hướng giải quyết vấn đề để đàm phán trước khi đàm phán, thật là chuyện có một không hai trong lịch sử đối ngoại!

Sau khi ở Trung Quốc về, ngày 4.8.91, Lê Đức Anh Hồng Hà gặp tôi và Nguyễn Dy Niên tại Văn phòng TƯ Đảng để chuẩn bị cho Niên đi đàm phán với Trung Quốc. Sau khi anh Niên đọc bản đề án của Bộ Ngoại Giao, tôi nói: “Anh Hoành (đại sứ ta ở Trung Quốc) vừa điện về phía Trung Quốc thông báo có 3 buổi làm việc nhưng họ nói có thể làm một buổi là xong. Chắc chắn Từ Đôn Tín sẽ đưa văn bản buộc chúng ta phải thoả thuận. Nếu ta nhận, họ sẽ xì ra cho các nước P5, ASEAN và bạn Campuchia. Ta sẽ ở vào thế phản bội đồng minh, phản bội bạn bè. Nếu ta đòi sửa văn bản của Trung Quốc thì sẽ không ra được văn bản, đàm phán sẽ thất bại. Chúng tôi đã xem lại biên bản thấy Trung Quốc gắn rất chặt vấn đề Campuchia với việc bình thường hoá quan hệ, vẫn coi Campuchia là điều kiện. Trung Quốc rất khôn, khi gặp cấp cao chỉ tập trung vào vấn đề quan hệ hai nước, còn cái xương để lại. Gặm cái xương này, chúng ta phải giải quyết vấn đề có tính nguyên tắc. Ta quyết tâm bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc nhưng không được phá quan hệ với Campuchia và không được để thế giới thay anh Việt Nam là người tráo trở”. Biết tôi quá gai góc, không chịu chấp nhận ý đồ thoả hiệp vô nguyên tắc với Trung Quốc, Lê Đức Anh Hồng Hà chỉ nói chung chung về chuyến đi Bắc Kinh vừa qua. Hồng Hà nói: Tinh thần tôi nắm được là ý Trương Đức Duy Từ Đôn Tín đều lo cuộc gặp thứ trưởng thất bại. Từ có hỏi: Không biết đồng chí thứ trưởng nào gặp tôi có nắm được tinh thần này không ?” Tôi liền bảo: “Như vậy càng rõ là họ có yêu cầu cao nên họ sợ ta không thể chấp nhận được”Hồng Hà nói: “Tôi hiểu họ muốn bình thường hoá quan hệ là chính nên họ lo”. Tôi đáp: “Về mặt này thì phải nói là Việt Nam lo hơn vì Việt Nam mót bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc hơn.” Vào cuối buổi họp, Hồng Hà nói: “Chuyến đi của anh Niên là thuận lợi, sau chuyến đi của anh Lê Đức Anh. Anh Niên cũng là nhân vật mới, không có “tiền sử”. Khi nhắc đến tháng 6.90 họ rất cay cú”. Lê Đức Anh thêm vào: “Sau tháng 6.90 lại có phát biểu với báo chí của hai bên nên càng tích tụ thêm, gắng thêm”. (ý nói đến lần sau đàm phán tháng 6.90, giữa tôi và Từ Đôn Tín có sự phê phán nhau trên báo chí). Và đến chiều, khi họp Thường trực BCT bàn về việc đàm phán với Trung Quốc họ chỉ triệu tập anh Niên, không triệu tập tôi.

Chú thích: Nguyễn Dy Niên cũng là người ký hiệp định đánh cá vùng vịnh Bắc Bộ, nhượng cho TC 46% vùng vịnh Bắc Bộ.

Được biết trong cuộc họp này TBT Đỗ Mười đã khẳng định là không nên vì vấn đề Campuchia mà cản trở việc bình thường hoá quan hệ của ta với Trung Quốc. Về vấn đề Campuchia, họ chỉ thị cho anh Niên thoả thuận với phía tàu cộng:

1. Không nói về vấn đề diệt chủngLê Đức Anh nói phải dứt khoát thôi vấn đề diệt chủngVà TBT Đỗ Mười nhấn thêm: “Nếu nói vấn đề diệt chủng từ là đồng minh với Mỹ chống Trung Quốc” (!)………………

HỒI KÝ TRẦN QUANG CƠ

http://vietnamvanhien.org/HoiKyTranQuangCo.pdf

Hồi Ức và Suy Nghỉ Trần Quang Cơ

https://anhbasam.wordpress.com/wp-content/uploads/2015/06/hoi-ky-tran-quang-co.pdf 

Tran Quang Co: A Memoir

https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/tran-quang-co-memoir

https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/107010/download

https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/300472

Tạm Kết Thúc

Từ trước có những luận cứ, từ trong nước và cả thế giới, nói về bộ chính trị CSVN đã bị phân hoá và chia ra 2 phe: phe thân tàu cộng và phe thân Nga. Chính vì sự phân hoá nầy mà đất nước Việt Nam đã phải đương đầu với cuộc chiến diệt chủng do tàu cộng tiến hành năm 1979-1991.

Thế nhưng qua những tài liệu vừa qua cho thấy rõ ràng cuộc chiến Việt-Trung xảy ra không phải vì sự xung đột Nga-Trung, mà do chính đảng cộng sản giặc Hồ tạo ra dưới bày tay điều khiển cuả tình báo tàu cộng. Sự phân chia Nga-Trung chỉ là một ngón đòn gián điệp và phản gián điệp cuả tàu cộng tạo dựng nên mà chóp bu cộng sản giặc Hồ là tay sai, thừa hành.

Nhân vật chính trong cuộc có lẻ bắt nguồn từ Lê Đức Thọ, Lê Đức Anh và “Án Sử Ba Chúc” là ngòi nổ do tình báo tàu cộng điều hành bên sau do hai nữ cán bộ tàu cộng châm ngòi nỗ tại làng Ba Chúc.

“Án Sử Cuộc Chiến Việt – Trung” không thể kết thúc tại đây vì nó quan trọng cho cả dân tộc Bách Việt, mong rằng các bậc thức giả Việt Nam trong và ngoài nước cùng nhau đi tìm những đáp án cho dân tộc.

Khởi viết 20/07/2006, hoàn tất 09/12/2006.

Bách Việt Nhân.

Tài liệu.

http://ghpgvntn-toiacphatgiaoanquang.blogspot.com/2010/04/bon-viet-gian-cong-san-giet-3157-dan.html

http://ditmedangcongsanvietgian.wordpress.com/2010/05/02/vc-giet-dan-lang-ba-chuc/

http://suutamlichsu.blogspot.com/2007/02/su-ap-ba-chuc-bvn-2.html

http://suutamlichsu.blogspot.com/2007/02/su-ap-ba-chuc-bvn-2.html   

http://vietnamsaigon75.blogspot.com/2012/08/viet-cong-tham-sat-dan-lang-ba-chuc_23.html

Tan Lap Massacre - 1975.mp3

https://www.4shared.com/mp3/HvlCqNO7/Tan_Lap_Massacre_-_1975.html

HỒI KÝ TRẦN QUANG CƠ

http://vietnamvanhien.org/HoiKyTranQuangCo.pdf

Hồi Ức và Suy Nghỉ Trần Quang Cơ

https://anhbasam.wordpress.com/wp-content/uploads/2015/06/hoi-ky-tran-quang-co.pdf 

Việt-Nam Văn Hiến

www.vietnamvanhien.net

Đọc Cuộc Chiến Việt-Hoa-Miên, 1979-1989 của Hoàng Dung

https://www.vietthuc.org/cuoc-chien-viet-hoa-mien-1979-1989/

Chiến tranh Việt-Trung 1979: Nguyên nhân và mục tiêu

https://nghiencuuquocte.org/2019/02/13/chien-tranh-viet-trung-1979-nguyen-nhan-va-muc-tieu/

Nhìn lại cuộc chiến Việt-Trung năm 1979

https://nghiencuuquocte.org/2015/11/04/nhin-lai-cuoc-chien-viet-trung-nam-1979/

Chiến tranh biên giới Tây Nam (1975-1979) qua tư liệu của học giả nước ngoài

https://tailieu.vn/doc/chien-tranh-bien-gioi-tay-nam-1975-1979-qua-tu-lieu-cua-hoc-gia-nuoc-ngoai-2127056.html

Kỷ niệm ngày 17-2-1979: Tiết lộ mới về cuộc chiến 1979

https://hung-viet.org/a1033/ky-niem-ngay-17-2-1979-tiet-lo-moi-ve-cuoc-chien-1979

A memoir of Vietnam and the Pentagon Papers

Tài Liệu Mật - Hồi Ký Về Cuộc Chiến Tranh Việt Nam Và Vụ Tiết Lộ Hồ Sơ Lầu Năm Góc

https://nguoikesu.com/sach/tai-lieu-mat-hoi-ky-ve-cuoc-chien-tranh-viet-nam-va-vu-tiet-lo-ho-so-lau-nam-goc

Chiến tranh Việt-Trung 1979: Thời điểm và lực lượng tham chiến

https://nghiencuuquocte.org/2019/02/14/chien-tranh-viet-trung-1979-thoi-diem-va-luc-luong-tham-chien/ 


No comments:

Post a Comment