20250529 CDTL Chuyện Đi Rước Giặc 25 March 1975 Văn Tiến Dũng Nhận Chỉ Thị Từ Quân Ủy Trung Ương
***
Tài liệu bổ túc ở phần cuối bài.
***
https://digitalarchive.wilsoncenter.org/people
https://digitalarchive.wilsoncenter.org/topics/north-vietnamese-decision-making-1973-1975
https://digitalarchive.wilsoncenter.org/search?f[0]=topics:86565&fo[0]=86565
https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/100219/download
https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/175993
Google Translated không chính xác
Digital Archive
International History Declassified
March 25, 1975
Central Military Party Committee to General Van Tien Dung
This document was made possible with support from MacArthur Foundation
Ngày 25 tháng 3 năm 1975
Quân Ủy Trung ương gửi Đại tướng Văn Tiến Dũng
Tài liệu này được thực hiện với sự hỗ trợ của Quỹ MacArthur
…The Politburo and the Central Military Party Committee have just met to assess the situation. They have reached the following conclusions:
…Bộ Chính trị và Quân Ủy Trung ương vừa họp đánh giá tình hình, đi đến kết luận sau:
The B3 Campaign has resulted in a great victory and the strategic general offensive has begun.
Chiến dịch B3 đã giành được thắng lợi to lớn và cuộc tổng tấn công chiến lược đã bắt đầu.
This is a turning point, both militarily and politically, in the war in South Vietnam.
Đây là bước ngoặt về cả mặt quân sự lẫn chính trị trong cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam.
Our revolutionary war has now entered a period of advancing by leaps and bounds. …
Cuộc chiến tranh cách mạng của chúng ta hiện đã bước vào giai đoạn tiến triển vượt bậc. …
The situation in the focal point sector will see new developments and will advance much more rapidly than we had anticipated,
Tình hình trong lĩnh vực trọng tâm sẽ có những diễn biến mới và sẽ tiến triển nhanh hơn nhiều so với dự đoán của chúng tôi,
especially if we destroy large numbers of enemy troops in Hue and Da Nang and down in the Mekong Delta. …
đặc biệt là nếu chúng ta tiêu diệt được một số lượng lớn quân địch ở Huế, Đà Nẵng và ở đồng bằng sông Cửu Long. …
A great strategic opportunity has arrived. We must quickly mass our forces in the primary sector and take bold and unexpected actions …
Một cơ hội chiến lược lớn đã đến. Chúng ta phải nhanh chóng tập trung lực lượng vào khu vực chính và hành động táo bạo và bất ngờ…
to complete our mission in the focal point as soon as possible, which may be much sooner than had been projected in the plan.
để hoàn thành nhiệm vụ của chúng ta tại điểm trọng tâm càng sớm càng tốt, có thể sớm hơn nhiều so với dự kiến trong kế hoạch.
The weather is now good, and prolonging things would not be to our advantage.
Thời tiết hiện tại rất tốt và việc kéo dài thời gian sẽ không có lợi cho chúng ta.
The Politburo has decided to:
Bộ Chính trị đã quyết định:
a) Rapidly mass three main force divisions and our main heavy weapons and technical units in the Ban Me Thuot area to be ready to move down to the focal point sector.
a) Tập trung nhanh 3 sư đoàn chủ lực và các đơn vị vũ khí hạng nặng, kỹ thuật chủ lực của ta ở khu vực Ban Mê Thuột để sẵn sàng tiến xuống mục tiêu.
b) Liberate Binh Dinh (the Route 19 sector) and advance down toward Phu Yen, Khanh Hoa, Nha Trang, and Cam Ranh.
b) Giải phóng Bình Định (khu vực Đường 19), tiến xuống Phú Yên, Khánh Hòa, Nha Trang, Cam Ranh.
The Route 7 sector will use only local forces to advance down to take Tuy Hoa.
Tuyến đường số 7 sẽ chỉ sử dụng lực lượng địa phương để tiến xuống đánh chiếm Tuy Hòa.
The Route 21 sector will advance to the east according to its capabilities,
Tuyến đường 21 sẽ tiến về phía đông theo khả năng của mình,
and only if conditions are advantageous should they move down to take Nha Trang and Cam Ranh.
và chỉ khi điều kiện thuận lợi thì họ mới tiến xuống chiếm Nha Trang và Cam Ranh.
The Politburo and the Central Military Party Committee have decided to launch the attack on Da Nang and have formed the Quang Da Command.
Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở cuộc tấn công vào Đà Nẵng và thành lập Bộ Tư lệnh Quảng Đà.
We have formed a Council to Support South Vietnam. Brother To is the Chairman of the Council (“Brother To” is Pham Van Dong). I wish Brother Dinh a speedy recovery (“Brother Dinh” is Dinh Duc Thien).
Chúng tôi đã thành lập Hội đồng Hỗ trợ Nam Việt Nam. Anh Tô là Chủ tịch Hội đồng (“Anh Tô” là Phạm Văn Đồng). Tôi chúc anh Định mau bình phục (“Anh Định” là Đinh Đức Thiện).
Signed
Van [Vo Nguyen Giap]
Ký tên
Văn [Võ Nguyên Giáp]
Cable from Vo Nguyen Giap to Van Tien Dung to report on the assessment of the situation and future military plans by the Politburo and the Central Military Party Committee
Author(s):
Điện văn Võ Nguyên Giáp gửi Văn Tiến Dũng báo cáo Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương đánh giá tình hình và phương hướng quân sự trong tương lai
Tác giả:
• Võ Nguyên Giáp (Võ Nguyên Giáp)
• Việt Nam. Quân ủy Trung ương
https://digitalarchive.wilsoncenter.org/people
https://digitalarchive.wilsoncenter.org/topics/north-vietnamese-decision-making-1973-1975
https://digitalarchive.wilsoncenter.org/search?f[0]=topics:86565&fo[0]=86565
https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/100219/download
https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/175993
***
Khi cộng sản giặc Hồ sử dụng quân số áp đảo với gần 8 sư đoàn (F3-F10-F312-F316-F320-F341-F968-E25) để tấn công Ban Mê Thuột thì cả Vùng II chỉ được phòng thủ, bảo vệ với vỏn vẹn Sư Đoàn 23 Bộ Binh cùng một số đơn vị Địa Phương Quân, Nghỉa Quân, (RF) củng như Cảnh Sát Dã Chiến cùng Nhân Dân Tự Vệ (PF).
Để phòng thủ bảo vệ Ban Mê Thuột với quân số như thế là điều không tưởng.
“The problem for us is to mass a very powerful force, 12 divisions – if we have overwhelming force, the situation will change.
Vấn đề đối với chúng ta là phải tập hợp một lực lượng rất mạnh, 12 sư đoàn – nếu chúng ta có lực lượng áp đảo, tình hình sẽ thay đổi.”
20241217 CDTL Chuyen Di Ruoc Giac Feb 25 1975 COSVN Cuc R VTD
https://bachvietnhan.blogspot.com/2024/12/20241217-cdtl-chuyen-di-ruoc-giac-feb_16.html
20241216 CDTL Chuyen Di Ruoc Giac Jan 15 1975 COSVN Cuc R *** SĐ341 ***
https://bachvietnhan.blogspot.com/2024/12/20241216-cdtl-chuyen-di-ruoc-giac-jan.html
20201209 TD344 DPQ 34 Ngày Tử Thủ Hoài Đức
https://bachvietnhan.blogspot.com/2020/12/20201209-td344-dpq-34-ngay-tu-thu-hoai.html
20200209 Bản Đồ Cập Nhật Mặt Trận Thượng Đức
https://bachvietnhan.blogspot.com/2020/02/20200209-ban-o-cap-nhat-mat-tran-thuong.html
20200121 Trận Dak Pek Đức Phong Của TD88BDQ
https://bachvietnhan.blogspot.com/2020/01/20200121-tran-dak-pek-duc-phong-cua.html
Mặt Trận Ban Mê Thuột 09 Mar 1975
https://doanket.orgfree.com/quansu/bmtphuan.html
BAN MÊ THUỘT, NHỮNG NGÀY ÐẦU TRONG TAY CỘNG QUÂN
https://doanket.orgfree.com/quansu/bmtdinh2.html
Ngày nầy, 11 Mar 1975, cộng sản giặc Hồ đã tràn ngập Ban Mê Thuột.
MẶT TRẬN BAN MÊ THUỘT
https://doanket.orgfree.com/quansu/bmtphuan.html
20190429 Trận Ban Mê Thuột
https://bachvietnhan.blogspot.com/2019/05/20190429-tran-ban-me-thuot.html
Lệnh bỏ vùng I năm 1975
Tại Sao Tôi Bỏ Quân Đoàn I
https://nguyentin.tripod.com/nqtruong-u.htm
Tướng Ngô Quang Trưởng
Ngày 13 tháng 3 năm 1975, được lệnh vào Sài Gòn họp. Tôi vào đến Sài Gòn nhưng với sự ngạc nhiên là chỉ có mình tôi vào gặp tổng thống và thủ tướng (Trần Thiện Khiêm) mà thôi. Ngoài tôi ra, không có ai khác. Thường lệ, khi được lệnh về Sài Gòn họp thì đều có đầy đủ mặt các vị tư lệnh quân đoàn và tư lệnh các quân binh chủng khác. Lần này, thì chỉ một mình tôi thôi. Tôi thắc mắc lo lắng. Nhưng khi tổng thống Thiệu cho biết ý định của ông ta là phải rút bỏ Quân Đoàn 1 ngay hôm nay thì tôi mới vỡ lẽ, cay đắng, và uất ức vì lệnh ra quá đột ngột ngoài sức tưởng tượng và ngoài ước muốn của tôi. Thật ra, lúc đó tình hình tại Huế, Quảng Ngãi, và Đà Nẵng tuy có hơi nặng nề vì địch tấn công liên tiếp, tuy nhiên tôi đủ sức chống giữ và sẽ tăng cường Sư Đoàn Dù cùng với Thủy Quân Lục Chiến ra những vùng đó để lấy lại ưu thế. Tôi trình bày cặn kẽ những ý kiến cũng như dự định của tôi lên tổng thống và thủ tướng nhưng không được chấp thuận. Lệnh bất di dịch là: Phải rút khỏi Quân Đoàn 1 càng sớm càng hay.
Trở ra Quân Đoàn 1, tôi cho triệu tập tất cả các vị tư lệnh sư đoàn, tỉnh trưởng, tiểu khu trưởng, và các sĩ quan tham mưu quân đoàn để họp. Thái độ khác thường của tôi làm các sĩ quan trong buổi họp hôm đó có vẻ nghi ngờ, thắc mắc. Nhưng rút cục tôi chỉ hỏi sơ qua tình hình và nói vu vơ quanh quẩn. Chứ làm sao tôi có thể ra lệnh thẳng khi chỉ nói với một mình tôi là tư lệnh quân đoàn mà thôi. Vì vậy, cuộc họp hôm đó cũng chẳng mang lại kết quả nào mà tôi mong muốn. Lệnh của tổng thống Thiệu yêu cầu tôi rút khỏi Quân Đoàn 1 vào ngày 13 tháng 3, và rút Quân Đoàn 2 vào ngày 14 tháng 3. Ông Thiệu cho biết là rút hết về Phú Yên, lấy Quốc Lộ 22 làm ranh giới. Việt Nam thu gọn sẽ chạy dài từ Phú Yên đến Hà Tiên.
Cái lầm của trung ương là không cho các thuộc cấp biết ý định của mình. Nghĩa là các vị tư lệnh các quân binh chủng, tổng bộ trưởng, tư lệnh sư đoàn, v.v. đã không biết gì về lệnh rút quân của Quân Đoàn 1 và 2 cả. Lệnh này chỉ có tổng thống, thủ tướng, đại tướng Cao Văn Viên, tôi (tư lệnh Quân Đoàn 1), và tư lệnh Quân Đoàn 2 (tướng Phạm Văn Phú) biết mà thôi. Do đó thiếu sự phối hợp chặt chẽ giữa tham mưu và các cấp, không có kế hoạch rút quân đàng hoàng, lệnh đột ngột không có cả thì giờ để xếp đặt kế hoạch, gây hoang mang cho binh sĩ, nhất là khi gia đình họ cũng không được bảo vệ đúng mức thì làm sao tránh khỏi hoang mang? Ai cũng lắng nghe tin tức thân nhân ở bên ngoài doanh trại. Thêm vào đó, tin tức Ban Mê Thuột, Pleiku, Kontum, bị chiếm, Huế bỏ ngỏ, dân chúng Huế chạy vào Đà Nẵng ngày một đông gây cảnh xáo trộn kinh hoàng cho dân Đà Nẵng. Rồi sau đó là Chu Lai bị áp lực nặng.
Tôi ra lệnh cho tướng Trần Văn Nhựt rút Sư Đoàn 2 từ Chu Lai ra trấn tại Lý Sơn (Cù Lao Ré) để kiểm soát đường bể, sợ địch ra chiếm đóng thì đường biển sẽ bị khó khăn. Trong khi đó, cảnh hỗn loạn đã xảy ra phần lớn do dân chúng hốt hoảng từ chỗ này sang chỗ khác làm cho binh sĩ nao núng và cũng chạy theo thân nhân. Mở miệng ra lệnh cho họ rút quân, trong khi mới hôm qua với lòng sắt đá và giọng nói cứng rắn hàng ngày buộc anh em phải giữ không để mất một cục sỏi ở Vùng 1.
Sau đó tôi suy nghĩ kỹ hơn. Tôi quyết định gọi đại tướng Cao Văn Viên nhờ xin tổng thống cho tôi được dùng mọi cách để giữ Huế và Vùng 1. Làm sao tôi bỏ Huế và Vùng 1 được? Làm sao tôi bỏ được vùng đất sỏi đá này mà bao nhiêu chiến hữu của tôi đã đổ máu để gìn giữ? Nhất là trong vụ Mậu Thân.
Tổng thống Thiệu rung động, chấp thuận cho tôi giữ Huế. Sáng 18 tháng 3 năm 1975, tôi ra Huế gặp tướng Lâm Quang Thi (tư lệnh phó Quân Đoàn 1) đang chỉ huy tại Huế. Tôi ra lệnh: Giữ Huế cho thật vững. Chiều hôm đó về đến Đà Nẵng, tôi nhận được một lệnh do đại tướng Cao Văn Viên, thừa lệnh tổng thống yêu cầu tôi "bỏ Huế." Thật làm cho tôi chết lặng người. Vì mới buổi sáng nay ở Huế tôi ra lệnh cho tướng Thi giữ Huế. Bây giờ đột nhiên được lệnh bỏ thì tôi biết nói làm sao với tướng Thi và anh em binh sĩ.
Nhưng vẫn phải đành thi hành theo lệnh trên. Tôi gọi điện thoại thông báo lệnh bỏ Huế cho tướng Thi. Tướng Thi trả lời ngay: "— Huế bây giờ xã ấp phường khóm tốt quá, đâu đâu tình hình cũng tốt cả mà tại sao anh bảo tôi bỏ là bỏ làm sao?" Tôi buồn bã trả lời: "Tôi biết rồi, nhưng xin anh bỏ Huế dùm tôi, đó là lệnh trên, không bỏ là không được." Kết quả là tướng Thi thi hành lệnh, bỏ Huế, và dồn quân đến cửa Thuận An để được tàu Hải Quân rút về Đà Nẵng.
Trong khoảng thời gian từ 13 đến 18 tháng 4, hàng đêm tôi gọi điện thoại cho thủ tướng Khiêm và báo cáo mọi biến chuyển từ công việc hành chánh đến quân sự. Tình hình khó khăn, địch tấn công, mà lại thêm cái lệnh "phải rút càng sớm càng tối" lan truyền rỉ rả cho nên binh sĩ và công chức hết sức xôn xao. Tôi báo cáo mọi việc và xin thủ thướng ra quan sát tình hình. Sáng 19 tháng 3, 1975, thủ tướng Khiêm đến, tôi cho họp tất cả các vị tư lệnh sư đoàn, tỉnh trưởng, thị trưởng, bộ tham mưu, và các trưởng phòng sở của hành chánh để thủ tướng nói chuyện.
Trước khi thủ tướng đến, tôi đã nói chuyện với anh em có mặt tại hôm đó rằng tình hình khẩn trương, anh em phải nói lên sự thật đang xảy ra trong thực tế tại nơi này để thủ tướng biết rõ tình hình và giải quyết cấp thời, chứ đừng có giữ thái độ "trình thưa dạ bẩm" trong lúc này nữa. Phải thẳng thắn mà nói lên sự thật. Nhưng sau khi thủ tướng nói chuyện xong, đến phần thắc mắc thì cũng chẳng ai nói gì cả. Tôi rất buồn vì anh em không chịu nghe lời tôi để nói thủ tướng biết những sự thật về tình hình hiện tại. Duy chỉ có một mình đại tá Kỳ, tỉnh trưởng tỉnh Quảng Trị, có hỏi một câu: "Thưa thủ tướng, trong mấy ngày vừa qua, có một số công chức đã tự ý bỏ nhiệm sở không đến làm việc, thưa thủ tướng, phải dùng biện pháp gì để trừng phạt những người đó?" Câu hỏi thật hay, nhưng thủ tướng không trả lời và nói lảng sang chuyện khác. Vì thủ tướng làm sao nói được khi lệnh trên đã muốn giải tán Quân Đoàn 1 và Quân Khu 1 càng sớm càng tốt.
Đúng ngày 22 tháng 3 năm 1975, tôi được lệnh rút Sư Đoàn Dù và Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến về giữ Nha Trang. Ngày 29 tháng 3, cộng quân tràn vào Đà Nẵng với những trận giao tranh nhỏ. Tôi được chiến hạm HQ 404 đưa về Sài Gòn. Trên tàu cũng có một lữ đoàn Thủy Quân Lục Chiến. Khi tàu chạy ngoài khơi, tổng thống Thiệu liên lạc yêu cầu tôi ra tái chiếm lại Đà Nẵng. Tôi trả lời ngay là bây giờ tôi lấy ai để theo chân tôi tái chiếm Đà Nẵng? Lính tráng đã phân tán mỗi người một nơi. Cấp chỉ huy thì mạnh ai nấy thoát. Làm sao tôi có thể làm chuyện đó (tái chiếm Đà Nẵng) được? Sau đó tôi được lệnh cho hạm trưởng ghé tàu vào Cam Ranh, bỏ hết Thủy Quân Lục Chiến xuống, rồi chỉ chở một mình tôi về Sài Gòn. Tôi không chịu, mặc dù lúc đó tàu đã cặp bến Cam Ranh rồi.
Tôi nhờ hạm trưởng gọi về Bộ tổng Tham Mưu xin cho anh em Thủy Quân Lục Chiến được về Sài Gòn tĩnh dưỡng nghỉ ngơi cùng tôi. Còn nếu không thì tôi sẽ ở lại Cam Ranh và đi theo anh em Thủy Quân Lục Chiến và cùng nhau chiến đấu. Sau đó, Sài Gòn bằng lòng cho tàu chở tất cả về Sài Gòn.
Về đến Sài Gòn, tôi được bổ nhiệm vào Bộ Tư Lệnh Hành Quân lưu động ở Bộ Tổng Tham Mưu. Khi vào đây, tôi gặp phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại (tư lệnh Hải Quân Vùng 1 Duyên Hải) và chuẩn tướng Nguyễn Văn Khánh (tư lệnh Sư Đoàn 1 Không Quân) đang ngồi viết bản tự khai, và trung tướng Thi thì bị phạt quản thúc về tội bỏ Huế. Tôi không hiểu vì sao lại có chuyện kỳ lạ như vậy. Họ đâu có tội gì. Họ chỉ thi hành theo đúng lệnh mà lại bị phạt thì quả thật bất công. Tướng Thi thực sự là một người chống lại việc bỏ Huế. Lúc trước, khi nghe tôi cho biết là tổng thống đã ra lệnh bỏ Huế thì tướng Thi đã trả lời thẳng với tôi rằng: "Xã ấp tốt quá mà bỏ là sao?" Vậy mà bây giờ ông lại bị phạt giam quản thúc. Những vị tướng này bị phạt quá oan uổng vì họ xứng đáng gấp mấy trăm lần những ông tướng phè phỡn tại Sài Gòn.
Hôm sau trong buổi họp tại Bộ Tổng Tham Mưu, tôi có nói rằng: "Việc phạt tướng Thi cùng hai tướng Thoại và Khánh là không đúng, họ chỉ là thuộc cấp của tôi, họ chỉ làm theo chỉ thị của tôi mà thôi, họ không có tội gì cả, nếu có phạt thì xin phạt tôi đây này." Phòng họp lặng ngắt. Đại tướng Viên nhìn qua trung tướng Trần Văn Đôn. Tướng Đôn mới đi Pháp về, mới đảm nhận chức tổng trưởng quốc phòng. Có thể vì vậy nên tướng Đôn mới không biết là tổng thống Thiệu đã trực tiếp ra lệnh cho tôi bỏ Huế, nên tướng Đôn làm đề nghị phạt tướng Thi vì đã bỏ Huế mà rút lui. Mà tổng thống Thiệu lại không dám nói sự thật với tướng Đôn, và chỉ ký lệnh phạt. Sau đó, tướng Lê Nguyên Khang với giọng giận dữ đã buột miệng nói: "Anh em chúng tôi không có tội tình mẹ gì cả!"
Tiện đây, tôi cũng xin nói về trường hợp ra đi của tướng Thoại và tướng Khánh. Là vị tư lệnh trong tay, có hàng ngàn lính, hàng trăm chiến hạm lớn nhỏ, nhưng tội nghiệp thay, sau khi hỗn loạn, tướng Thoại đã bị bỏ quên không ai chở đi khỏi bộ tư lệnh ở Tiên Sa, và ông đã phải đi bộ qua dãy núi phía sau bờ biển. May nhờ có một chiếc tàu nhỏ của Hải Quân mà anh em trên tàu lúc đó cũng còn giữ kỷ luật, thấy đề đốc Thoại ở đó, họ ghé vào chở tướng Thoại đi chứ nếu không thì cũng chẳng biết sau này sẽ ra sao. Còn tướng Khánh, tư lệnh Sư Đoàn 1 Không Quân, đã không đủ nhiên liệu để bay xa mà phải đáp trực thăng tại một bãi cát ở Sơn Chà rồi lội ra tàu. Cũng may lúc đó gặp tàu HQ 404 và đã cùng tôi về Sài Gòn.
do Lê Bá Chư ghi chép
(Lịch Sử Ngàn Người Viết)
https://nguyentin.tripod.com/nqtruong-u.htm
Lệnh Bỏ Vùng I Vùng II Năm 1975
Vì sao Tổng Thống Thiệu phải bỏ vùng 1 và vùng 2
https://bienxua.wordpress.com/2017/05/29/vi-sao-tong-thong-thieu-phai-bo-vung-1-va-vung-2-2/
Vì sao Tổng Thống Thiệu phải bỏ vùng 1 và vùng 2
Posted by bienxua on May 29, 2017
Bùi Anh Trinh
I – PHẢI CHĂNG MỸ BỎ RƠI?
Kể từ ngày lập quốc, nước Mỹ thực sự sụp đổ vào năm 1975 với 3 triệu cựu
chiến binh tại chiến trường Việt Nam, 58 ngàn người đã chết, và 3.000 quân nhân
còn mất tích. Xã hội Mỹ phân hóa trầm trọng với tranh cãi đổ lỗi cho nhau.
Chính vì vậy mà những người quân nhân VNCH không bao giờ động chạm tới nỗi đau
của người bạn chiến đấu Mỹ, họ đã làm hết sức của họ rồi, họ đã phải chết tới
58.000 người và đã hao tốn 300 tỉ USD, lại còn phải nuôi 3 triệu cựu chiến binh
Mỹ mà người nào cuộc đời cũng tan nát do bị khủng hoảng, bị thất bại vì không
thể trở lại trường để làm lại cuộc đời.
Hai chữ “Bỏ Rơi” là do BBC và RFI dùng để xoa dịu sự oán hận của người
Việt sau khi Mỹ cắt ống tiếp huyết cho VNCH. “Bỏ Rơi Đồng Minh” khác với
“Phản Bội Đồng Minh”. Bỏ Rơi có nghĩa là tôi thích thì tôi giúp, khi
thấy mệt mõi quá thì tôi không giúp nữa. Còn Phản Bội là phỉnh gạt, lừa đảo.
Cho nên người Mỹ muốn nhận là họ Bỏ Rơi VNCH còn hơn là nhận Phản Bội VNCH.
Ⅱ – Frank Snepp, THÁNG 3 NĂM 1973
Năm 1968 anh sinh viên Frank Snepp quyết định làm đơn xin đầu quân vào
CIA để tránh khỏi phải đi lính và chiến đấu tại VN. Năm 1969 Snepp bắt đầu làm
viêc tại chi nhánh CIA tại Sài Gòn trong tư thế một nhân viên mới vào nghề. Năm
1971 ông trở về Trung tâm CIA tại Mỹ với nhiệm vụ phân tích những tin tức thu
thập từ báo chí của Bắc Việt.
Đến năm 1972 ông bị đày đi VN vì tội đã báo trực tiếp cho Tòa Bạch Ốc một thông
tin ông đọc được trên báo của Hà Nội mà không qua các xếp lớn của CIA. Nhiệm vụ
lần thứ hai của Frank Snepp tại Việt Nam là đọc báo và nghe đài phát thanh của
CSVN và VNCH để trình cho Polgar, trưởng CIA tại Sài Gòn, những tin nào mà ông
ta thấy đáng quan tâm.
Sau biến cố 1975 Frank Snepp quyết định viết thành sách về những gì ông chứng
kiến trong vai trò một nhân viên CIA làm việc tại VN trong giai đoạn Hoa Kỳ
cuốn cờ ra khỏi Việt Nam. Nhờ đó ông nhanh chóng trở thành nhân chứng sống duy
nhất dám tiết lộ những bí mật mà một nhân viên CIA không được phép tiết lộ.
CIA đã đưa ông ra tòa vì ông đã hành động trái với lời tuyên thệ khi ông bước
chân vào tổ chức CIA. Tòa án đã phán quyết Frank Snepp không bị tội tiết lộ bí
mật nghiệp vụ nhưng cũng quyết định cho thu hồi quyển sách “Decent Interval”
của Frank Snepp. Tuy nhiên phán quyết này chỉ có hiệu lực hình thức bởi vì cả
thế giới đều đã đọc Decent Interval.
Theo Frank Snepp thì mọi chuyện đều bắt đầu từ khi ký kết Hiệp Định Paris. Rồi
3 tháng sau khi ký kết Hiệp Định, Tổng Thống Nixon cử Martin làm đại sứ Mỹ tại
VN thay Bunker.
Frank Snepp mô tả vai trò của Đại sứ Martin: “Mỹ buộc phải bỏ khỏi Việt Nam
trong tư thế đường hoàng, và muốn tạo được ấn tượng như vậy thì cần phải có một
chuyên gia về ảo thuật và kịch nghệ mà Martin thuộc vào hạng sư phụ”.
(Trang 75, nguyên văn: “The United States was obliged to crawl out of
Vietnam standing up, and to foster that illusion required the kind of conjuring
and stagecraft at which Martin so adept”). Như vậy màn kịch bỏ rơi Việt Nam
đã được lên giàn từ tháng 4 năm 1973.
Ⅲ – Nixon THẤT HỨA VỚI Liên Xô, THÁNG 8 NĂM 1974
Năm 1974 giữa năm, Tổng Thống Mỹ Nixon đệ trình Quốc Hội Mỹ bản dự thảo
hiệp ước giao thương giữa Mỹ và Liên Xô. Đến lúc này Quốc Hội Mỹ mới biết rằng
đây là cái giá mà Nixon đã trả cho việc Liên Xô ngưng cung cấp vũ khí cho Hà
Nội và ép Hà Nội phải ký hiệp ước ngưng bắn 1973. Dĩ nhiên khi đưa ra trước
Quốc hội, Nixon tin rằng sẽ được thông qua dễ dàng vì lợi ích chung của cả hai
nước, nhất là từng bước giải quyết chiến tranh lạnh là điều mà dân chúng Hoa Kỳ
mong chờ.
Tuy nhiên ông đã tính lầm, Quốc Hội Mỹ đoán rằng còn nhiều cái giá khác nữa
giữa Nixon và Liên Xô, Trung Cộng, Hà Nội vào năm 1972. Vì vậy Quốc Hội bác bỏ
thẳng thừng hiệp ước thương mại Xô – Mỹ để buộc Nixon phải lòi ra những thỏa
thuận khác. Dĩ nhiên là Nixon không đưa ra, ông dùng đặc quyền hành pháp để từ
chối.
Vì vậy Quốc Hội có một cách khác để moi ra những gì mà Nixon đã cam kết với LX,
TC và Hà Nội vào năm 1972; đó là cách lợi dụng vụ Watergate để triệu tập một Ủy
ban điều tra đặc biệt về sai phạm của Nixon trong vụ nghe lén, nhờ đó công tố
viên của ủy ban điều tra có quyền bắt Nixon phải đưa ra tất cả những cam kết
ngầm với Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa và cả Hà Nội.
Nixon chỉ còn có cách từ chức để né tránh Ủy ban điều tra bởi vì ông và
Kissinger đã có những thỏa thuận mật với đối phương mà không xin phép Quốc Hội.
Một khi ông từ chức thì những cam kết của ông trở thành vô hiệu lực. Quốc Hội
sẽ không còn cớ để truy xét.
Sau khi Nixon từ chức thì Quốc Hội Hoa Kỳ cho thông qua đạo luật cấm HK buôn
bán với các nước Cộng Sản vào cuối năm 1974 (Đạo luật Jackson-Vanik). Sự trở
mặt của Quốc Hội Mỹ đã khiến Liên Xô tức giận bởi vì những cam kết của Nixon
khi ông ta viếng thăm Liên xô vào năm 1972 đã không được thi hành. Vì vậy, cuối
năm 1974, Đại Tướng Kulikov của Liên Xô đến Hà Nội để xúi Hà Nội đưa quân đánh
chiếm Miền Nam, Liên Xô sẽ cung cấp vũ khí và chiến phí.
Ⅳ – HÀ NỘI CAY ĐẮNG
Theo như 7 mục, 23 điều khoản của Hiệp Định Paris thì Hà Nội ngưng bắn vô
điều kiện, trao trả cho Mỹ 591 tù binh Mỹ vô điều kiện, trao trả tù binh VNCH
để đổi lại VNCH trao trả 28 ngàn tù binh Bắc Việt. Trong khi đó Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu không phải từ chức, 38 ngàn tù chính trị của mặt trận GPMN vẫn
tiếp tục bị giam giữ.
Đặc biệt là “ngưng chiến da beo”, nghĩa là quân đội CSVN vẫn ở trên rừng
và quân đội VNCH kiểm soát thành thị và thôn quê Nam Việt Nam. Biên giới hai
miền Nam Bắc vẫn được tôn trọng theo như Hiệp Định Geneve 1954.
Nhìn bề mặt của Hiệp Định Paris quá vô lý cho nên giới quan sát quốc tế thừa
biết bên trong phải có một mật ước riêng. Quả nhiên sau này vào năm 1977 Tổng
Thống Jimmy Cater của Mỹ xác nhận có một mật ước riêng đằng sau Hiệp Định Paris
được Nixon ký với Hà Nội 4 ngày sau khi ký kết Hiệp Định Paris 1973. Vào tháng
10 năm 1988 Hà Nội cho công bố toàn văn bản mật ước Nixon & Phạm Văn Đồng.
Theo đó thì Nixon hứa sẽ viện trợ tái thiết cho Bắc Việt 3,25 tỉ USD và viện
trợ phát triển kinh tế cho Hà Nội 1,5 tỉ USD. Trong vòng 30 ngày sau khi người
tù binh HK cuối cùng rời khỏi VN thì hai bên sẽ thiết lập xong hệ thống viện
trợ tái thiết, và trong vòng 60 ngày sau đó thì lập xong hệ thống viện trợ phát
triển kinh tế.
Bản mật ước do đích thân Kissinger mang tới Hà Nội cho Phạm Văn Đồng ký nhận.
Từ đó Lê Duẩn ngày đêm trông chờ món tiền của Kissinger và đến cuối năm 1974,
Liên Xô cử tướng Kulikov sang Hà Nội xúi Lê Duẩn đánh chiếm Miền Nam thì có
nghĩa là Hiệp Định Paris coi như tờ giấy lộn. Rốt cuộc Hà Nội biếu không 591 tù
binh Hoa Kỳ mà chẳng nhận được đồng nào, suốt 10 năm chiến đấu gian khổ, hằng
triệu người chết, hằng chục tỉ đô la nợ chiến phí… đến nay chỉ còn là con số
không (sic).
Tướng Kulikov xúi Hà Nội phát động chiến tranh trở lại nhưng Lê Duẩn và tập
đoàn lãnh đạo CSVN thực sự trắng mắt. Dân chúng Miền Bắc đã kiệt sức, trong 5
năm nhà nước đã đóng cửa tất cả 18 trường đại học và cao đẳng, bòn vét nhân lực
đến độ phải gọi lính ở tuổi 16, tại Miền Bắc chỉ còn một trời đàn bà góa… thì
lấy đâu để gây chiến tranh trở lại.
*(Theo hồi ký của tướng CSVN Hoàng Văn Thái thì cho tới năm 1974 Hà Nội đã
động viên đến 16% dân số, không thể nào động viên thêm được nữa. Trong khi Miền
Nam là 5,88%)
Ⅴ – HẾT ĐẠN VÀ HẾT NHIÊN LIỆU
Bắt đầu từ năm 1975 Đại Tướng Cao Văn Viên viết tường trình cho Ngũ Giác
Đài về những ngày cuối cùng của chiến tranh Việt Nam nhưng đến năm 1983 mới
được in thành sách với tựa đề “The Final Collapse” và hai mươi năm sau,
2003 The Final Collapse được nhà nghiên cứu sử Nguyễn Kỳ Phong dịch ra tiếng
Việt với tựa đề “Những ngày cuối của Việt Nam Cộng Hòa”. Trong sách có
kèm theo những chú giải mới nhất của Đại Tướng Cao Văn Viên. “Một sự thực
không thể chối cãi là quân đội VNCH sẽ hết đạn và nhiên liệu vào tháng 6 năm
1975…” (Tài liệu của Ngũ Giác Đài: Cao Văn Viên, The Final Collapse, bản
dịch của Nguyễn Kỳ Phong trang 136).
Năm 1974 tháng Giêng, theo tài liệu của CIA: “Từ cuối tháng 12-1973 đến đầu
tháng Giêng 1974 Tướng John Murray và ban tham mưu của ông đã làm việc ngày đêm
để cố gắng tìm đáp số cho bài toán viện trợ quân sự. Nhưng mỗi lần họ tìm ra
một giải pháp để giải quyết vấn đề thì lại phát sinh một vấn đề khác mà kết quả
cũng chỉ đưa tới bí lối” (Frank Snepp, Decent Interval, trang 95).
Tướng John Murray là Tư Lệnh cuối cùng của quân đội Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam.
Ông đến Việt Nam sau Hiệp Định Paris 1973, sang đầu năm 1974 ông và Bộ Tham Mưu
Hoa Kỳ tại Việt Nam phải tính toán sổ sách về viện trợ quân sự cho Nam Việt Nam
trong nửa cuối 1974 và đầu năm 1975. Tuy nhiên Ngũ Giác Đài đã cho ông biết
trước là có thể dưới 700 triệu đô la nhưng theo các chuyên viên tham mưu của
John Murray thì 700 triệu chỉ đủ giữ được Vùng 4.
Năm 1974 cũng theo Frank Snepp, ngày 16-8 John Murray họp buổi họp chót với Đại
Tướng Cao Văn Viên (Tổng Tham Mưu Trưởng), Tướng Đồng Văn Khuyên (Tổng Cục
Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận) và một số tướng lãnh của Bộ TTM. John Murray khuyên
Tướng Viên nên liệu cơm gắp mắm, gấp rút lên kế hoạch sẵn sàng bỏ Vùng 1, Vùng
2 và cả Vùng 3 để về cố thủ Vùng 4. Tuy nhiên “Tướng Viên lẫn Tướng Khuyên
đều nói rằng lên kế hoạch về quân sự thì được, nhưng về mặt chính trị thì không
thể nào thi hành nổi”. Sau buổi họp này thì John Murray giải ngũ, trở về
Hoa Kỳ.
Năm 1974 tháng 5, theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng (Bộ Trưởng Bộ Kế Hoạch của
VNCH) thì ông đã tình cờ trông thấy bản kế hoạch “Cắt Đất Theo Lượng Viện
Trợ” của Murray nằm trên bàn của Tổng Thống Thiệu vào tháng 5 năm 1974,
nghĩa là 2 tháng trước khi Nixon từ chức. Như vậy Murray chính là tác giả của
kế hoạch bỏ Vùng 1, Vùng 2 vào năm 1975, một kế hoạch mà cho tới 40 năm sau
người ta vẫn cho là sáng kiến (tối kiến) của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Sự
thực Tổng Thống đã bị báo chí Mỹ cố tình gieo tiếng oan mà lúc đó Ông không thể
lên tiếng thanh minh.
Năm 1974, ngày 24-12: Theo hồi ký của Đại Tá Phạm Bá Hoa “Ngày 24-12-1974,
lúc quân CSVN đang tấn công Phước Long sang ngày thứ 10; một buổi tiệc mừng
Giáng Sinh được Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham Mưu, tổ
chức trên lầu của Câu lạc Bộ trong BTTM”. Khách tham dự gồm có Tướng Smith
(Chỉ Huy Trưởng cơ quan quân sự HK tại VN; Tướng Quân Y Phạm Hà Thanh; Tướng
Công Binh Nguyễn Văn Chức; Đại Tá Phạm Kỳ Loan (Tổng Cục Phó Tiếp Vận); Đại Tá
Phạm Bá Hoa (Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận); Đại Tá Pelosky (Phụ Tá của
Tướng Smith); Trung Tá Nguyễn Đình Bá (Chánh Văn Phòng của Tướng Khuyên).
Thiếu Tướng Smith tiết lộ rằng: “Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ có kế hoạch với ngân
khoản dự trù hơn 300 triệu đollar để di tản sang Hoa Kỳ khoảng 40 ngàn sĩ quan
và gia đình, nhưng thời gian thì chưa rõ” (Phạm Bá Hoa, Đôi Dòng Ghi Nhớ,
Bản in lần 4, trang 264). Khi sách của Phạm Bá Hoa phát hành thì tất cả các
nhân vật trong bữa tiệc đều còn sống mạnh khỏe nhưng không ai phản đối, kể cả
Tướng Smith; chứng tỏ chuyện này hoàn toàn có thật.
Như vậy là kịch bản bỏ rơi Miền Nam đã được lên giàn trước khi mất Phước Long
chứ không phải là sau khi mất Ban Mê Thuột. Người ta đã tính toán sẵn kế hoạch
để cho VNCH sụp đổ trước tháng 6 năm 1975, kể cả ước tính trước ngân sách chi dụng
cho kế hoạch.
Năm 1975, ngày 7-1: Phản ứng của Mỹ sau khi mất Phước Long là: “Nhà Trắng
nói rằng: Tổng Thống Ford không có ý vi phạm những điều cấm chỉ (của Quốc Hội)
về việc sử dụng lực lượng quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam” (Hồi ký của Tướng
CSVN Hoàng Văn Thái, trang 161). Khi vừa nghe tin này Phạm Văn Đồng tuyên bố: “Cho
kẹo quân Mỹ cũng không dám trở lại VN” (trang 146).
Ngay sau khi nhận được tin, Lê Duẩn chỉ thị cho Đại Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng
Hoàng Văn Thái lên kế hoạch tiến chiếm miền Nam: “Một tháng sau chiến thắng
Phước Long, ngày 5 tháng 2, anh Văn Tiến Dũng lên đường vào Tây Nguyên”
(Hoàng Văn Thái, trang 172).
Ngày đó cơ quan USIS của CIA tung tin quân VNCH thua tại Phước Long là do Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu cố tình bỏ Phước Long để thử xem phản ứng của Mỹ. Sở dĩ
CIA đổ cho Nguyễn Văn Thiệu là để Quốc Hội Mỹ có cớ biểu quyết ngưng viện trợ
quân sự cho VNCH.
Ⅵ – Và TÌNH HÌNH THỰC SỰ VÀO THÁNG 3 NĂM 1975:
– Tuần đầu của tháng 3 năm 1975. Trong một cuộc họp đầu tuần của Bộ Ngoại
Giao HK, Kissinger đã giải thích hành động viện trợ “Lấy Có” cho Cam
Bốt: “Chính Phủ Lon Nol đang trên đà sụp đổ, đây là nguyên do chính khiến
chúng ta phải tiếp tục viện trợ để cho sau này không ai có thể trách chúng ta
vô trách nhiệm”. (Frank Snepp, Decent Interval, trang 175). *(Nguyên văn: “…
he say, the Lon Nol Government was on the brink of collapse, it was essential
to keep open the aid pipeline so no one could later blame the United States for
the disaster”).
– Ngày 7-3-1975, Kissinger chỉ thị cho các viên chức Ngoại Giao HK trước khi
ông ta lên đường đi Trung Đông: “Hãy làm mọi cách để Quốc Hội tiếp tục duy
trì viện trợ (Lấy Có) cho Cam Bốt và Việt Nam. Không phải để cứu vãn hai nước
đó, mà vì không thể nào cứu vãn được hai nước đó” (Frank Snepp, Decent
Interval trang 176). *(Nguyên Văn: Do every thing possible to ensure that
Congress lived up our aid commitments to Cambodia and Vietnam- not because the
two countries were necessarily salvageable, but precisely because they might
not be).
Hai ngày sau khi Kissinger nói câu này thì Văn Tiến Dũng ra lệnh tấn công Ban
Mê Thuột.
Kissinger không muốn thiên hạ nghĩ rằng Việt Nam sụp đổ do không còn viện trợ.
Và với mức độ viện trợ nhỏ giọt thì đến ngày 30-6-1975 quân đội VNCH sẽ không
còn Gạo và không còn Đạn (Tài Liệu The Final Collapse của Đại Tướng Cao Văn
Viên). Vì thế Kissinger mong cho Quân đội VNCH tự tan rã trước khi hết Gạo và
Đạn trước tháng Sáu năm 1975.
Lúc đó thiên hạ sẽ nghĩ rằng Quân Đội Sài Gòn đã thua chạy trước sức tiến công
vũ bão của quân Hà Nội.
Ⅶ – THẾ BẮT BUỘC của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
Năm 1975 ngày 11-3, một ngày sau khi mất Ban Mê Thuột. Theo Đại Tướng Cao
Văn Viên “Ngày 11-3 Tổng Thống Thiệu mời các Tướng Khiêm, Viên, Quang ăn
sáng tại Dinh Độc Lập và sau đó trình bày ý định muốn cắt bỏ bớt lãnh thổ cho
vừa với mức viện trợ quân sự của HK vào năm 1975”. Tướng Viên ghi lại cảm
nghĩ của ông lúc đó: “Quyết định của Tổng Thống Thiệu cho chúng tôi thấy đây
là một quyết định ông đã suy xét thận trọng. Hình như Tổng Thống Thiệu đã ngần
ngại về quyết định đó, và bây giờ ông chỉ thổ lộ cho ba người chúng tôi trong
bữa ăn sáng…”
* “… Tổng Thống Thiệu phác họa sơ: … Một vài phần đất quan trọng đang bị
Cộng Sản chiếm, chúng ta sẽ cố gắng lấy lại bằng mọi gía… Ban Mê Thuột quan
trọng hơn hai tỉnh Kontum và Pleiku nhập lại…” (Cao Văn Viên, The Final
Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong, trang 129-131).
“Ngay sau khi Phước Long bị tấn công, Hoa Kỳ không có một phản ứng nào … .
Một thực tế gần như hiển nhiên là Hoa Kỳ không muốn cuộc chiến tiếp tục và biểu
quyết viện trợ để VNCH đánh tiếp là chuyện sẽ không xảy ra. Đối với Hoa Kỳ cuộc
chiến Việt Nam đã kết thúc” (trang 132).
Các đoạn trích dẫn trên đây đã giải thích vì sao Tổng Thống Thiệu phải bỏ Vùng
1 cũng như Vùng 2. Và vì sao Tướng Viên không nhiệt tình tham gia kế hoạch của
Tướng Thiệu.
Cuối cùng, sau 30-4-1975 Mỹ mở chiến dịch đổ tội làm mất nước cho Tổng Thống
Thiệu để cho người ta không oán hận Mỹ đã bỏ rơi VNCH. Giờ đây đã 40 năm trôi
qua, nếu người Mỹ không lên tiếng giải oan cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, thì
cũng nên trả lại sự thật cho lịch sử.
Bùi Anh Trinh
http://nguoivietboston.com/?p=32995
https://bienxua.wordpress.com/2017/05/29/vi-sao-tong-thong-thieu-phai-bo-vung-1-va-vung-2-2/
***
No comments:
Post a Comment