20250114 20070326 CDTL Cap Nhat CSGH Ban Nuoc
***
Tài liệu được viết
bởi nhiều tác giả từ năm 2007cho đến nay không còn lưu lại trên các website củ
nửa.
***
Sau ba mươi năm quốc
hận (1975-2005): nhìn lại những thành tích bán nước của đảng CSVN
Hồ Đinh
Mon Mar 26, 2007
Trong dòng sông Việt sử cận đại, ta thấy có rất nhiều mốc thời gian quan trọng,
phần lớn đều có liên quan tới Đảng Việt Cộng. Đầu tiên là năm 1930 ngày đảng
được mẹ Liên Xô sinh ra và trôi giạt tới xứ Việt.
Năm 1945, đảng lượm
được chính quyền bên vệ đường, khi quân phiệt Nhật bị ăn bom nguyên tử, phải
tháo chạy khỏi Đông Dương.
Năm 1954, nhờ các
đồng chí Nga-Tàu và khối thứ ba trung lập nhưng bợ đít cộng sản, nên Hồ cướp
được nửa mảnh cơ đồ Hồng Lạc.
Ngày 30-4-1975, Việt
Cộng đại công cáo thành, làm chủ cả nước, cho tới hôm nay.
Tuy nhiên, nếu gọi
là biến cố lịch sử bao đời, thì phải nhắc tới hiểm họa xâm lăng Trung Cộng,
luôn muốn chiếm cho được Việt Nam, ròng rã liên tục suốt mấy ngàn năm máu lệ.
Tóm lại những thành
tích của Hồ và Đảng Việt Cộng, khởi sự từ năm 1958, công nhận Hoàng Sa-Trường
Sa là lãnh thổ của Tàu nhưng chết người là việc Phạm Văn Đồng, thay Hồ Chí
Minh, ngày 4-9-1958, ký công nhận bản đồ và lời tuyên bố lãnh hải của Trung
Cộng là 12 hải lý.
Như vậy, biển VN tại Quảng Nam, Phan Thiết, kể cả các nước Phi, Nam Dương, Mã
Lai trong Đông Hải, từ bờ ra hải phận chỉ có 50 hải lý. Ngày 9-1-1974, tại Bắc
Kinh, Kissinger mượn công hàm và bản đồ của Phạm Văn Đồng ký năm 1958, đã xác
nhận VNCH cướp chiếm đất đai của Tàu.
Ngày 11-1-1974 Mao
Trạch Đông tuyên bố, Hoàng Sa -Trường Sa là Tây Sa và Nam Sa, sau đó xua quân
chiếm hai đảo trên vào ngày 19-1-1974.
Hỡi ôi, chỉ vì manh
tâm cướp chiếm miền Nam, Hồ Chí Minh và VC đã bán đứng hai quần đảo thiêng
liêng của đất nước, cho kẻ thù truyền kiếp, tận tuyệt.
Rồi tháng 12/1999 và kế tiếp là tháng 12/2000, hết Đỗ Mười, tới Lê Khả Phiêu,
Trần Đức Lương, Nguyễn Mạnh Cầm và nhiều chóp bu khác trong đảng, đã bí mật
sang Tàu, ký kết bán-nhượng cũng như dâng hiến cho giặc, nhiều đất đai dọc theo
biên giới Việt Trung, trong đó có thác Bản Giốc, hang Pắc Pó và nhất là ải Nam
Quan, một biểu tượng, được xem như hồn thiêng sông núi của dân tộc. Kế đó, VC
lại tiếp tục bán nhượng cho Tàu, nhiều phần lãnh hải quan trọng trong Vịnh Bắc
Phần, là nơi có tiềm năng dầu khí và ngư nghiệp rất lớn, của nước ta.
Không kể thời Bắc thuộc huyễn hoặc, bao đời Việt Nam trong dòng lịch sử, khi
mất nước cũng như hồi độc lập, ngoại trừ trường hợp bán nước duy nhất của Mạc
Đăng Dung, cho nhà Minh vào năm 1540, không có một vua chúa nào, dám công khai
đem một tấc đất biển, dâng bán cho giặc như Hồ Chí Minh và đảng VC dám
làm..suốt thời kỳ 1930 cho tới ngày nay.
Vậy mà lúc nào, cũng
nói Trần Thiểm Bình, Hồ Hán Thương, Mạc Đăng Dung, Lê Chiêu Thống, Nguyễn
Ánh..cõng rắn cắn gà nhà. Nhưng nay, sau ba mươi năm nhìn lại, chỉ riêng thành
tích bán nước cho giặc, thì Hồ Chí Minh và đảng VC, còn tệ mạt gấp ngàn lần
những nhân vật bị đời bêu riếu.
Sau ngày 30-4-1975,
thiên hạ khi nhắc tới cộng sản, đã quả quyết là chúng sẽ nghìn năm vĩnh tuyệt
nhưng tới năm 2000, cả khối từ Liên Xô, Đông Đức, Đông Âu..lăn đùng ngáp chết,
chỉ còn bốn đảng Tàu, Việt, Bắc Hàn và Cu Ba phải quăng Lê-Mác-Mao-Hồ vào đáy
huyệt, trải thảm đỏ, quỳ gối mở cửa, rước Mỹ và tư bản da trắng, da vàng, đem
đô la vào cứu đảng.
Tóm lại, ai nói hay
nghĩ thế nào cũng được nhưng chắc chắn với một chánh quyền tham tàn, bạo ngược,
hại dân và nhất là công khai bán nước, nên dù VC có được Trung Cộng hay Hoa Kỳ
chống lưng, bảo vệ..thì sự sụp đổ của chế độ thối nát trên, nay đang sơn son
thiếp vàng để bịp người, cũng chỉ là một lâu đài trên cát, chờ giờ đền tội,
trước quốc dân và tòa án lịch sử muôn đời.
1-HẢI CHIẾN HOÀNG SA NĂM 1974:
Tháng 7-1954, ngay khi chữ ký trên văn bản ngưng bắn tại Genève, chưa ráo mực,
thì Hồ Chí Minh đã nghĩ ngay tới chuyện chiếm miền Nam, để trọn gói vơ vét và
toàn quyền trên ngai vàng máu lệ.
Do ý đồ trên, Hồ đã
gài lại một số lớn cán binh bộ đội nằm vùng khắp lãnh thổ VNCH, khi có lệnh tập
kết. Để chuyển quân cũng như tiếp tế, Hồ mở con đường chiến lược Trường Sơn
trên bộ, xuyên qua lãnh thổ Lào và Kampuchia.
Về mặt biển, Hồ
thành lập đường 559B và dĩ nhiên, muốn an toàn, đầu tiên là phải nhổ tuyệt hai
tiền đồn của QLVNCH trấn đóng trên quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa, nằm trong Đông
Hải.
Theo bản tin của UPI-AFB ngày 23-9-1958, được các báo của Trung Cộng-Việt Cộng
đăng tải. Những tài liệu này, hiện vẫn được lưu trữ tại các thư viện quốc tế
như Luân Đôn, Paris..kể cả Hà Nội.
Theo đó, ta biết
ngày 14-9-1958, Phạm Văn Đồng qua lệnh truyền của Hồ Chí Minh, đã cam kết với
Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Cộng, bằng văn kiện xác quyết như sau: ‘Chính phủ
VNDCCH, tôn trọng quyết định, lãnh hải 12 hải lý cũng như hai quần đảo Hoàng
Sa-Trường Sa, là Tây Sa-Nam Sa, của Trung Cộng’.
Ngày 22-9-1958, Đại
sứ VC tại Bắc Kinh là Nguyễn Khang, dâng văn kiện xác nhận điều trên, do Phạm
Văn Đồng ký, lên thiên triều.
Tháng 5-1976, trên
tờ Sài Gòn Giải Phóng của VC Ngô Công Đức, Lý Quý Chung vẫn còn đăng lời xác
nhận của đảng VC, là Hoàng Sa-Trường Sa là của Trung Cộng. Khôi hài hơn, VC
nói, vì ta và Tàu sông liền sông, núi dính núi, nên Hoàng Sa-Trường Sa, của ai
cũng thế thôi.
Khi nào VC muốn lấy
lại đảo, Trung Cộng sẵn sàng giao. Luận điệu trên, rõ ràng VC đã xác nhận VN là
thuộc địa của Tàu Cộng.
Ngày 14-3-1988, VC
và Trung Cộng đánh nhau tại Trường Sa.
Sau đó, trên tờ Nhân
Dân, số ra ngày 26-4-1988, VC vẫn xác nhận, sự Hồ Chí Minh bán hai đảo cho Tàu
năm 1958 là đúng, vì có vậy, Trung Cộng mới viện trợ súng đạn, gạo tiền, để VC
đánh chiếm VNCH.
Về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, theo chính sử cũng như những tài liệu
của ngoại quốc như Đại Nam Thực Lục, Đại Nam Nhất Thống Chí của Quốc Sử quán
triều Nguyễn, Hoàng Việt Địa Dư Chí thời vua Minh Mạng, Quảng Ngãi Tỉnh Trí của
các Tuần Vũ Nguyễn Bá Trác và Nguyễn Đình Chi, Quảng Ngãi Nhất Thống Chí của Lê
Ngại..
Còn tác phẩm ngoại
quốc, có ký sự của các giáo sĩ Thiên Chúa trên tàu Amphitrite, viết năm 1701,
của Đô Đốc Pháp tên là D’Estaing viết năm 1768 rằng: ’Sự giao thông giữa đất
liền và các đảo Paracel (Hoàng Sa) rất nguy hiểm, khó khăn nhưng người Đại Việt
chỉ dùng các thuyền nhỏ, lại có thể đi lại dễ dàng.’
Nhưng quan trọng
nhất, là tác phẩm viết về Hoàng Sa của Đổ Bá tự Công Đạo, viết năm Chính Hòa
thứ 7 (1686), trong đó có bản đồ Bãi Cát Vàng: ’Đảo phỏng chừng 600 dặm chiều
dài và 20 dặm bề ngang. Vị trí nằm giữa cửa Đại Chiêm và Quyết Mông.
Hằng năm vào cuối
mùa đông, các chúa Nguyễn Đàng Trong, cho Hải Đội Hoàng Sa gồm 18 chiến thuyền
đến nơi tuần trú.’ Năm 1776, trong tác phẩm ‘Phủ Biên Tạp Lục’, Lê Quý Đôn đã
viết một cách rõ ràng: ‘Trước đây, các Chúa Nguyễn đã đặt Đội Hoàng Sa 70 suất,
tuyển lính tại Xã An Vĩnh, cắt phiên mỗi năm vào tháng 2 ra đi, mang theo lương
thực 6 tháng. Dùng loại thuyền câu nhỏ, gồm 5 chiếc, mất 3 ngày 3 đêm, từ đất
liền tới đảo.’
Theo sử liệu cũng như nhân chứng, thì buổi trước, Đội Hoàng Sa tập trung tại
Vươn Đồn, để luyện tập cũng như sửa chữa thuyền bè và nhận lệnh thượng cấp.
Trước khi xuất quân, Đội đến Miếu Hoàng Sa tế lễ. Đây là một ngôi nhà gồm 3
gian, làm bằng gỗ tốt, lợp tranh dầy, mặt Miếu quay ra cửa Sa Kỳ, trước có 2
cây gạo cổ thụ. Trong Miếu thờ Một Bộ Xương Cá Ông rất lớn. Theo người địa
phương, hơn 300 năm về trước, Ông lụy tại Hoàng Sa, nhưng đã được Hải Đội dìu
về đất liền. Sau ba năm chôn cất, những người lính, thỉnh cốt vào thờ trong
Miếu. Từ đó về sau, hằng năm vào tháng 6, khi những người lính, mãn phiên từ
Hoàng Sa trở về, dân làng tổ chức cúng lễ tại Miếu, gọi là ‘Đánh Trống Tựu
Xôi’.
Từ thị xã Quảng Ngãi, qua cầu Trà Khúc, bỏ quốc lộ 1, rẻ vào quốc lộ 24B, ngang
qua làng Sơn Mỹ dưới chân núi Thiên Ấn, chừng 5 km, thì rẽ vào một con đường
đất đỏ, chạy giữa con sông kinh và rừng dương sát biển.
Đó là xã Tịnh Kỳ,
thuộc huyện Sơn Tịnh, nơi khai sinh Hải Đội Hoàng Sa, khoảng mấy trăm năm về
trước, thời các Chúa Nguyễn, Nam Hà, thuộc Đại Việt.
Theo Quảng Ngãi Địa
Dư Chí, vùng đất này, trước năm 1898 thuộc trấn Bình Sơn. Năm Thành Thái thứ
10, tách ra thành 2 huyện Bình Sơn và Sơn Tịnh.. Sau tháng 8-1945, khu Tịnh Kỳ
được hoàn thành bởi ba xã An Kỳ-An Vịnh và Kỳ Xuyên.
Xưa vùng này là một
cù lao, nằm cách đất liền, phải dùng ghe vào các bến Mỹ Khê, Chợ Mới, Sa Kỳ hay
xa hơn là Thị Xã Quảng Ngãi, các thị trấn Ba Gia, Đồng Ké, Sông Vệ, Ba Tơ.
Từ năm 1993, qua
việc xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất nên hải cảng Sa Kỳ đã được mở rộng,
đồng thời với con đường, chạy từ cầu Khê Kỳ, qua Cửa Lở tới Kỳ Xuyên.
Có lẽ do địa thế
sông nước bao quanh, nên từ mấy trăm năm về trước, các vị Chúa Nguyễn đã chọn
An Vĩnh làm căn cứ, đặt Hải Đội Hoàng Sa, với nhiệm vụ bảo vệ hải đảo, cũng như
khai thác các tài nguyên ngoài Đông Hải.
Đình làng An Vĩnh
trước đây rất đồ sộ, là nơi xuân thu nhị kỳ cúng tế những người lính Hoàng Sa,
nay đã đổ nát, chỉ còn lại chiếc cổng tam quan. Điều này đủ để minh chứng với
thế giới, việc quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa là lãnh thổ lâu đời của Đại Việt.
Người Tàu chỉ ỷ vào
sức mạnh và tờ văn khế bán nước của Phạm Văn Đồng năm 1958, để cướp chiếm nước
ta, như sau này chúng đã làm tại biên giới Việt Trung và Lãnh Hải trong Vịnh
Bắc Việt.
Ở đây, hiện còn nhà thờ Cai Đội Phạm Quang Ánh, là người được Vua Gia Long cử
ra Hoàng Sa năm 1815, đo đạc, khảo sát lộ trình và tổ chức Hải Đội. Ông được
nhà Nguyễn phong chức Thượng Đẳng Thần khi mất. Tóm lại, từ thời các Chúa
Nguyễn (1558-1783), nhà Tây Sơn (1788-1802), Nhà Nguyễn (1802-1945), đã có Hải
Đội Hoàng Sa. Đặc biệt, năm 1836, Minh Mạng thứ 17, quần đảo Paracel hay bãi
cát vàng, được Công Bộ, đặt tên là ‘Bản Quốc Hải Cương Hoàng Sa Xứ, Tối Thị
Hiểm Yếu’.
Từ năm 1954, Hoàng Sa là một đơn vị hành chánh thuộc tỉnh Quảng Nam-VNCH, được
Tiểu Đoàn 1/TQLC bảo vệ. Từ năm 1959 tới 1974, Đảo do các Đơn Vị DPQ/Quảng Nam
trú đóng. Giống như quần đảo Trường Sa ở phía Nam, cũng là một đơn vị hành
chánh, của tỉnh Phước Tuy và do DPQ của tỉnh này bảo vệ, cho tới ngày
30-4-1975.
Ngày 4-9-1958, Trung Cộng vẽ bản đồ mới và tuyên bố lãnh hải của mình là 12 hải
lý. Bản tuyên cáo này chỉ có Bắc Hàn công nhận đầu tiên. Tại Bắc Việt, Hồ Chí
Minh họp đảng để nhất trí và ban lệnh cho Phạm Văn Đồng, ký nghị định công nhận
ngày 14-9-1958.
Ngày 9-1-1974,
Kissinger tới Bắc Kinh mật đàm với Mao Trạch Đông, được cho coi văn kiện mà
Phạm Văn Đồng đã ký xác nhận, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VNCH,
chính là hai đảo Tây Sa-Nam Sa của Tàu.
Theo văn kiện và
tuyên cáo lãnh hải 12 hải lý, thì chính VNCH đã chiếm đất của Trung Cộng, từ
năm 1958, theo VC làm chứng và xác nhận.
Được cơ hội vàng
ròng, tên cáo già Kissinger tương kế tựu kế, nhân danh Nixon, bật đèn xanh, cho
Mao đánh VNCH, để thu hồi lãnh thổ.
Thế là ngày
11-1-1974, Trung Cộng tuyên bố chủ quyền trên Hoàng Sa-Trường Sa.
Ngày 19-1-1974, bất
thần Trung Công tấn công Hoàng Sa, gây nên trận hải chiến, tuy ngắn ngủi nhưng
đẫm máu. Trung Cộng dù chiếm được đảo nhưng thiệt hại gấp 3 lần VNCH.
Theo sử liệu, trong
trận hải chiến này, lực lượng hải quân của Trung Cộng rất hùng hậu vì đã chuẩn
bị trước.
Thành phần tham
chiến gồm:
Hộ tống hạm 271
Kronstadt, Đại Tá Vương Kỳ Uy là hạm trưởng, tử thương.
Hộ tống hạm 274
Kronstadt, Hạm trưởng là Đại Tá Quan Đức. Đây cũng là soái hạm, chỉ huy
trận chiến, gồm Tư lệnh là Đô Đốc Phương Quang Kính, cũng là Phó tư lệnh của
Hạm Đội Nam Hải. Theo sử liệu, toàn bộ chỉ huy của Trung Cộng trên soái hạm
này, gồm 2 Đề Đốc, 4 Đại Tá, 6 Trung Tá, 2 Thiếu tá và 7 Sĩ Quan Cấp úy, tử
thương.
Trục lôi hạm 389,
hạm trưởng là Trung Tá Triệu Quát tử thương.
Trục lôi hạm 396,
Hạm trưởng là Đại Tá Diệp Mạnh Hải, tử thương.
Phi Tiễn Đỉnh 133
Komar, có hỏa tiễn địa địa Styx, Hạm trưởng là Thiếu tá Tôn Quân Anh.
Phi tiễn đỉnh 137
Komar, có hỏa tiễn địa địa Styx, Hạm trưởng là Thiếu Tá Mạc Quang Đại.
Phi tiễn đỉnh 139
Komar có hỏa tiên, Hạm trưởng là Thiếu tá Phạm Quy.
Phi tiễn đỉnh 145
Komar có hỏa tiễn, Hạm trưởng là Thiếu Ta Ngụy Như và
6 Hải Vận Hạm chở
quân chiến đấu.
Ngoài ra còn một lực
lượng trừ bị gồm
2 Tuần Dương Hạm,
4 Pháo Hạm,
4 Khu trục Hạm, trang
bị hỏa tiễn Kiangjiang,
2 Phi đội Mig 19
2 phi đội Mig 21,
do tư lệnh Hạm Đội Nam Hải, tổng chỉ huy.
Bên VNCH, lực lượng tham chiến gồm:
Khu Trục Hạm HQ4
Trần Khánh Dư, Hạm Trưởng Trung Tá HQ Vũ Hữu San.
Tuần Dương Hạm HQ5
Trần Bình Trọng, Hạm trưởng Trung Ta HQ Phạm Trọng Quỳnh.
Hộ Tống Hạm Nhật Tảo
HQ10, Hạm Trưởng Thiếu Tá HQ Ngụy Văn Thà.
Trong khi giao
chiến, HQ10 bị trúng đạn, toàn thể thủy thủ xuống xuồng nhỏ, thì Hạm
Trưởng ở lại tuẫn quốc với chiến hạm.
Tuần Dương Hạm HQ16
Hạm Trưởng là HQ Trung Tá Lê Văn Thư.
Về lực lượng trừ bị
có:
Tuần Dương Hạm HQ6
Trần Quốc Toản,
Hộ Tống Hạm HQ11
Chí Linh và
Phi Đoàn F5-A37,
nhưng vì ở cách xa chiến trường, nên khi chưa tới nơi, thì chiến cuộc đã tàn.
Riêng Sư Đoàn 1
Không Quân, không can thiệp. Kết quả, phía VNCH, các chiến hạm 4, 5 và 16
bị hư hại nặng nhưng chạy được về Đà Nẵng sửa chữa và tiếp tục hoạt động sau
đó. Chỉ có Chiến Hạm HQ10 bị chìm, Hạm trưởng Ngụy Văn Thà, bị thương
nhưng quyết ở lại chết với tàu.
Về phía Trung Cộng,
Tư Lệnh Mặt Trận, Bộ Tham Mưu và 4 Hạm Trưởng tử thương. Hộ Tống Hạm 274
bị chìm, Hộ Tống Hạm 271 và 2 Trục lôi hạm 389-396 bị hư
nặng và phá hủy cùng với 4 ngư thuyền bị bắn chìm.
Tóm lại, qua sử
liệu, ta biết các chiến hạm mà Hoa Kỳ đã viện trợ cho Hải Quân VNCH, hầu hết
được hạ thủy năm 1940, loại phế thải được tân trang. Bốn chiến hạm tham
chiến năm 1974, được coi là tối tân nhất, vì HQ4 hạ thủy năm 1943,
HQ5 hạ thủy năm 1944, HQ10 hạ thủy năm 1942 và HQ16
hạ thủy năm 1942. Riêng các vũ khí trên tàu, các loại súng liên thanh
đều được gở bỏ khi cho VNCH.
Nhưng dù quân lực
Miền Nam ít, chiến hạm vừa cũ kỹ lại nhỏ, vũ khí trang bị, chỉ có đại bác nhưng
vì các sĩ quan Hải Quân VNCH đều được huấn luyện như Âu Mỹ, rất thiện chiến và
tài giỏi, cho nên đã tác xạ rất chính xác, làm nhiều tàu giặc cũng như hạm trưởng
tử thương.
Tệ nhất là người Mỹ,
lúc đó vẫn còn là đồng minh của QLVNCH, vẫn đang có hiệp ước hỗ tương chiến đấu
và bảo vệ cho nhau.
Vậy mà khi cuộc
chiến xảy ra, Hạm Đội 7 Hoa Kỳ đang tuần hành gần đó, chẳng những đã
không lên tiếng, không can thiệp mà ngay thủy thủ VNCH bị chìm tàu cũng không
thèm cứu vớt theo đúng luật hàng hải quốc tế.
Ngày 14-3-1988, Trung Cộng lại nổ súng vào Hải quân Việt Cộng, tại quần đảo
Trường Sa.
Trong cuộc hải chiến
ngắn ngủi này, vì VC chỉ phản ứng có lệ, nên tài liệu cho biết phía Trung Cộng,
không có ai bị tử thương cũng như tàu chìm.
Ngược lại, bên VC có
nhiều tàu chiến bị chìm, gồm: chiến hạm Thượng Hải của Tàu viện trợ, 1 tuần
dương hạm cũ của VNCH để lại, 1 hải vận hạm của Nga Sô viện trợ và trên 300
lính Hải quân bị thương vong.
2-VC BÁN ĐẤT, BÁN BIỂN CHO GIẶC TÀU:
Từ sau ngày 30-4-1975 chiếm được cả nước VN, đảng VC lúc nào cũng rêu rao khoác
lác về độc lập tự do, vẹn toàn lãnh thổ. Thế nhưng mọi sự đã lộ nguyên hình,
khi thành tích bán nước cho Tàu, phản bội quê hương bị toàn dân trong và ngoài
nước phanh phui nguyền rủa. Nhờ đó, mà những cái loa Việt gian bợ đít VC, từ
bấy lâu nay tại hải ngoại, mới chịu khép miệng, vì không còn biết đâu mà mò.
Theo đó, ta biết trong năm 1999 và 2000, bọn chóp bu đảng gồm Đỗ Mười, Lê Khả
Phiêu, Nông Đức Mạnh, Trần Đức Lương, Phan Văn Khải, Nguyễn Mạnh Cầm và toàn lũ
trong Chính trị Bộ, đã lén lút, ký kết 2 hiệp ước bất bình thường, vô lý, phản
bội dân tộc, trong sự bán đất biên giới và bán vịnh Bắc Phần, cho giặc Tàu.
Cũng may, thành tích trên sớm bị bật mí, còn không hậu quả biết đâu mà lường,
vì VC chuyện gì cũng dám làm, miễn là bảo vệ được chiếc ngai vàng đẫm máu, để
còn dịp vơ vét tài sản của đất nước và đồng bào.
Từ năm 1884, Pháp coi như chính thức đô hộ VN. Từ đó thực dân độc quyền ký kết,
các hiệp ước song phương và những công ước quốc tế, về luật biển, hải đảo cũng
như biên giới giữa các nước. Năm 1885, Pháp ký với Mãn Thanh hiệp ước Thiên
Tân, hủy bỏ sự liên hệ giữa Nhà Nguyễn VN và Trung Hoa, hủy bỏ ấn phong vương,
phân định lại đường ranh giới bằng cọc cắm và bản đồ.
Năm 1887, Pháp và
Trung Hoa lại ký hiệp ước Brévié, phân ranh vùng vịnh Bắc Phần, từ Trà Cổ (Móng
Cáy), dọc theo kinh tuyến Đông 108.
Theo đó, phía tây
đảo Bạch Long Vĩ là lãnh hải của VN, phía đông là của Trung Hoa. Về sự tranh
chấp hai quần đảo Hoàng Sa Trường Sa, cũng được quốc tế giải quyết năm 1882,
theo công ước luật biển.
Tháng 11-1993, công
ước trên được LHQ phê chuẩn và thi hành vào năm 1994, với 170 quốc gia công
nhận, trong đó có Trung Cộng và VC.
Tóm lại đảng VC đã
dối trá quốc dân VN, lén lút họp kín với giặc Tàu trong 20 phiên họp kín.
Rồi cũng tự động bí
mật ký kết, còn quốc hội VC thì cũng lén lút thông qua.
Tóm lại, tất cả
những ký kết điều hoàn toàn sai trái về pháp lý quốc tế và đạo lý dân tộc, đi
ngược lại truyền thống hòa bình, tự chủ, không lấy thịt đè người của bản tuyên
ngôn nhân quyền.
Tất cả đều là những
âm mưu xâm lăng, hay nói đúng hơn chính Hồ Chí Minh và đảng VC đã rước voi Tàu
về dầy mã Việt, ngay từ khi bắt đầu nhận viện trợ của Trung Cộng năm 1950 cho
tới cuộc chiến Đông Dương lần thứ 2 (1960-1975) chấm dứt.
Trung Cộng lợi dụng
quân viện và nhất là trong cuộc chiến biên giới năm 1979 giữa Việt-Trung, đã
xua hàng triệu dân Tàu gốc thiểu số tại các tỉnh biên giới, lấn đất dành dân,
sâu trong nội địa VN.
Theo báo chí ngoại
quốc, VC đã bán cho Trung Cộng tại biên giới Việt Hoa, hơn 15.600 km2 và 20.000
km2 lãnh hải trong vịnh Bắc Phần.
Như vậy tại Miền
Bắc, ngày nay VN đã mất hẳn những địa danh hồn thiêng sông núi như Ải Nam Quan,
Thác Bản Giốc, và Đồng Đăng với Phố Kỳ Lừa
ẢI NAM QUAN:
Ở ngay biên giới Việt-Trung, đường sang Long Châu, tỉnh Quảng Tây, cách Hà
Nội 176 km.. Từ thị xã Lạng Sơn, lên Nam Quan xa 17 km, qua chợ Kỳ Lừa, phía
tây là Động Tam Thanh, phía trước là núi Vọng Phu, có nàng Tô Thị bồng con đợi
chồng. Đồng Đăng cách biên giới 5 km, có Ải Nam Quan hay Cửa Hữu Nghị.
Theo Nguyễn Văn Siêu trong Dư Địa Chí, thì Ải Nam Quan, từ thời Hậu Lê trở về
trước, được gọi là Cửa Pha Lũy hay Pha Dữ, nằm về phía bắc châu Văn Uyển, thuộc
trấn Lạng Sơn.
Theo Cương Mục, thì
Pha Lũy chính là Ải Nam Quan, ở xã Đồng Đăng, huyện Văn Uyên, tỉnh Lạng Sơn.
Từ thời nhà Lê Trung
Hưng, người Tàu gọi cửa Pha Lũy là Trấn Nam Quan, còn VN gọi là Ải Nam Quan.
Hai bên cửa Ải là núi cao ngất trời, liên tiếp có rất nhiều ải nhỏ, nằm rải rác
khắp các khu vực trọng yếu, trên đường quan lộ dẫn về Thăng Long Thành.
Cửa Ải Nam Quan luôn
luôn khóa kín, chỉ mở khi có thông sứ chính thức giữa hai nước. Mọi sự hầu như
đều dùng cửa Ải Du Thôn, ở xã Bảo Lâm, châu Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Ải này cách
Nam Quan, chừng 2 canh giờ đường núi.
Thời Pháp thuộc, Nam
Quan được gọi là Porte de Chine. Sau năm 1954, Mao Trạch Đông đổi thành
Mục Nam Quan.
Riêng VC gọi là Cửa
Hữu Nghị.
Trong dòng sông lịch
sử, suốt mấy ngàn năm qua, Nam Quan là nơi chứng kiến bao cuộc tang dâu máu lệ.
Ngày xưa, tại nơi
này, Mạc Đăng Dung quì gối dâng đất cho nhà Minh để được làm vua, y chang như
bây giờ VC lén lút bán biên giới và lãnh hải, hải đảo cho giặc Tàu để vinh
thân, phì gia, bảo vệ đảng cộng sản.
Đây cũng là nơi ghi
lại những chiến công hiển hách của Đại Việt, trong công cuộc giết giặc Tàu giữ
nước, ngay từ năm 40 đời Trưng Nữ Vương, rồi Lê Đại Hành, Lý Thường Kiệt, Trần
Hưng Đạo, Lê Lợi cho tới thời Đại Đế Quang Trung Nguyễn Huệ, vào năm 1789, đánh
đuổi quân Thanh tại trận Đống Đa. Tôn Sĩ Nghị, cũng chạy qua đây để trốn về
Tàu.
Theo ký họa của Eug. Burnand năm 1887, cho thấy cửa Nam Quan thời ấy, chỉ còn
là một tường cao, giữa có cửa thông qua, hai bên là núi non hiểm trở.
Đầu thế kỷ XX, theo
hình vẽ in trong bưu thiếp của Collection de Union Commerciale Indochinoise,
thấy Cửa Nam Quan nằm dưới chân núi khá cao, phía sau Ải có xây thêm một tòa
nhà lầu, đứng trên lưng chừng núi. Nhưng rồi chiến tranh triền miên, nhưng công
trình này cũng không còn.
Sau năm 1949, Mao và
Trung Cộng làm chủ nước Tàu, nên đã xây lại Ải Nam Quan, là một tòa nhà lầu ba
tầng. Cuối cùng là hình chụp của các nhân chứng tại chỗ sau năm 2001, cho thấy
cái Ải nhỏ của VN năm 1996, nằm sát ngay trước Cửa Nam Quan, nay bị bứng sâu
vào nội địa, nên không thấy tăm dạng Ải Nam Quan như mấy ngàn năm lịch sử.
Việc Cộng sản Hà Nội tự chuyên lén lút bán nước cho Trung Cộng, nay đã là một
biển hận, trời hờn, làm cho người Việt, bất cứ là ai, khi biết được cũng xấu hổ
và căm thù bọn phản bội dân tộc.
VN mất Ải Nam Quan,
coi như đã tự mình hủy diệt một niềm tin quyết thắng, vì Nam Quan là hồn thiêng
của sông núi, mà bất cứ một người VN nào khi chào đời, cũng đều, thuộc lòng.
Giặc Tàu bao đời nuôi mộng phanh thây chiếm nước người Việt nhưng bao đời chúng
đều bị người Việt, chận đứng trước cửa Nam Quan, vì đây chính mồ chôn bao đời
quân xâm lăng phương Bắc.
Từ năm 1930 tới nay,
Hồ Chí Minh và đảng VC, chỉ vì lợi lộc cá nhân và đảng hệ, mà cõng voi về đầy
xéo đất nước, làm cho voi quen đường, chẳng những lấn đất giành biển, mà còn
ngổ ngáo sử dụng một mình một chợ thượng nguồn các con sông thiêng của VN, từ sông
Hồng, sông Đà, Lô, Thái Bình ở Bắc Phần cho tới sông Cửu Long tại miền Nam,
khiến cho nước ta, từ hăm chin năm nay, chịu không biết bao nhiêu thiên tai bão
lụt, thiệt hại mùa màng tật bệnh, vì những hiểm họa của Tàu đổ xuống các dòng
sông, theo nước xuống tận đồng bằng sông Cửu Long và ra biển.
Rồi đây, VN sẽ lãnh
tất cả những chất độc như cyanide, arsenic, acid..từ các quặng mỏ trong tỉnh
Vân Nam, đổ xuống dòng sông Mekong ra biển.
Chưa hết, Trung Cộng
chẳng những đã xây các đập thủy điện khổng lồ tại Mãn Loan, Cảnh Hồng, Đại
Chiến Sơn..và hồ chứa nước Lạn Thương Giang, trên sông Mêkong, mà còn xúi các
nước Thái, Miến, Lào cũng góp phần làm hủy hoại tận tuyệt con sông thiêng,
khiến cho một ngày đó, phù sa sẽ không còn bồi đắp Mũi Cà Mâu và hủy diệt toàn
bộ thủy tộc trên biển đông, vì hệ sinh thái cạn kiệt.
Dân chúng VN bao đời sống nhờ biển cá, VC ngày nay đem biển bán cho giặc Tàu,
khiến cho nguồn lợi thủy sản bị hao hụt trầm trọng, tài nguyên dưới đáy biển
bao đời, nay thuộc về ngoại bang.
Tháng 1-2005, ngư dân tỉnh Thanh Hóa, như thường lệ hành nghề trong lãnh thổ
của tổ tiễn tại Vịnh Bắc Việt nhưng đã bị lực lượng quân sự của Trung Cộng bắn
giết một cách tàn nhẫn tận tuyệt, bất chấp lòng nhân đạo và luật lệ của quốc
tế.
Sự việc đau lòng tủi
nhục trên, khiến cho cả nước kể cả hải ngoại, ai cũng rớt nước mắt vì thương
đồng bào mình, cũng như thân phận nhược tiểu VN và kiếp đời nô lệ dưới thiên
đường xã nghĩa.
Thì ra VC đã đồng
thuận với Trung Cộng, cố tình dàn ra một bẩy để ngư dân sụp và coi như chuyện
đã có không cần phải giải thích hay thông báo gì gì, cho tất cả người trong
nước biết, là từ nay cấm bất cứ ai, không được bén mảng, tới nơi chốn, mà hai
đảng đã mua bán xong xuôi, nếu không bị Trung Cộng giết hay cướp bóc tài sản,
thì ráng chịu.
Rồi nay mai, Trung
Cộng sẽ khai thác dầu hỏa trong vịnh Bắc Phần, nạn tràn dầu, ô nhiễm chất phế
thải sẽ khiến cho đồng bào duyên hải gánh chịu. Đó là chưa nói tới, ngư dân sẽ
bị Tàu cấm hành nghề, vì biển cũ đả bị đảng bán cho giặc, vịnh Bắc Việt trở thành
Vịnh Hải Nam của người Tàu.
Năm 1473, khi Thái bảo kiến dương bá Lê Duy Cảnh, được giao nhiệm vụ trấn giữ
Ải Nam Quan, Vua Lê Thánh Tông đã ân cần nhắn gửi người ra đi: ‘Một thước núi,
một tấc sông của ta, không được bỏ. Nếu ngươi làm mất, tội đó phải tru di’.
Lý Thường Kiệt khi
đại chiến với quân Tống, đã viết ‘Nam Quốc Sơn Hà, Nam Đế Cư’ xác quyết đất đai
của người Việt muôn đời là của Nước Việt, không có ai được quyền xâm lấn hay
bán nhượng.
Trái lại VC thì lúc
nào cũng to miệng nhục mạ nhà Nguyễn, vua Gia Long là cõng rắn cắn gà nhà, quy
tội cho người Việt không cộng sản là Việt gian, Mỹ Ngụy. Nhưng cuối cùng, khi
Pháp rời Đông Dương năm 1955, đã trả lại sông núi cho người Việt, không thiếu
một tất đất, kể cả những cơ sở, đồn điền cũng giao hoàn.
Suốt thời gian nội
chiến 1955-1975, VNCH không hề bán nhượng cho Hoa Kỳ một cọng cỏ vì tới sáng
ngày 30-4-1975, Mỹ đã rút hết về nước. Trái lại VC trong suốt bao năm, làm đủ
chuyện phản tặc, từ công nhận Hoàng Sa-Trường Sa là của Tàu, rồi tiếp tục bán
nhượng đất đai, sông núi của tổ quốc, đó là chưa nói tới, cái sự đem đất thế
chấp làm vốn, để đầu tư với tư bản kiếm tiền bỏ túi.
Trước năm 1975, lúc nào cũng nói VNCH tham nhũng, độc tài, Diệm-Nhu, Thiệu –Kỳ
chạy theo Mỹ, nay rõ ràng hơn chính đảng VC và Hồ Chí Minh, mới đích thực sự là
đầy tớ, hết Nga tới Tàu, nay sắp bỏ chân qua Mỹ-Nhật.
Còn cán bộ đảng thì
tham nhũng, hốt trọn tài sản của dân nước, chuyển hết ra nước ngoài, rửa tiền,
đầu tư, làm giàu và hưởng thụ, ai chết mặc bây.
Đó chính là thành
tích lịch sử của Đảng VC trong ba mươi năm quốc hận.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
-Bài viết của GS. Trần Đại Sĩ, Trần Gia Phụng, Chính Đạo.
-Nam Quốc Sơn Hà
-Lê Công Phụng giải thích về sự bán nước cho Tàu
-Pham Phong Dinh ‘Chiến Sử VNCH’
-Hải Chiến Trường Sa của Nguyệt San Đoàn Kết.
Xóm Cồn tháng 4-2005
HỒ ĐINH
20250115 csgh-ban-nuoc 01
20250115
csgh-ban-nuoc 02
Quần đảo Tây Sa (tên tiếng Tàu Xisha) = Quần đảo Hoàng Sa = Paracel Islands
Quần đảo Nam Sa (tên tiếng Tàu Nansha) = Quần đảo Trường Sa = Spratly Islands
Cộng Sản Việt Nam bán Quần Đảo Hoàng sa và Trường sa, nhưng bây giờ muốn từ
chối.
Theo tài liệu "Chủ quyền tuyệt đối của Trung Quốc trên Quần đảo Tây Sa và
quần đảo Nam Sa" của Bộ Ngoại giao Trung Quốc (Beijing Review, Feb. 18,
1980), Hà Nội đã "dàn xếp" vấn đề này trong quá khứ. Đại khái họ đã
bảo rằng:
- Hồi tháng 6 năm 1956, hai năm sau ngày chính phủ của Hồ Chí Minh đã tái lập
tại Hà Nội, Thứ trưởng Ngoại giao Bắc Việt Ung Văn Khiêm đã nói với Li Zhimin,
Thường vụ viên của Toà Đại Sứ Trung quốc tại Bắc Việt, rằng "theo những dữ
kiện của Việt nam, hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa là môt bô phận lịch sử
của lãnh thổ Trung quốc".
- Ngày 4 tháng 9 năm 1958, Chính phủ Trung quốc đã tuyên bố bề rộng của lãnh
hải Trung quốc là mười hai hải lý, được áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của
nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa, "bao gồm ... Quần Đảo Ðông Sa, quần đảo
Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa ...".
Mười ngày sau đó,
Phạm Văn Đồng đã ghi rõ trong bản công hàm gởi cho Chu An Lai, rằng "Chính
phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4
tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa về vấn đề lãnh hải".
Thêm một điều cần ghi nhận là Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa (PRC) đã chỉ đe dọa
những lãnh thổ mà Việt Nam đã tuyên bố là của mình, và để yên cho các nước
khác. Rõ ràng là ông Hồ Chí Minh qua Phạm Văn Đồng, đã tặng cho Cộng Hoà Nhân
Dân Trung Hoa "một cái bánh bao lớn" bởi vì lúc đó ông Hồ Chí Minh
đang chuẩn bị cho công cuộc xâm lăng miền Nam Việt Nam.
Ông Hồ cần sự viện
trợ khổng lồ và đã nhắm mắt để nhận tất cả những điều kiện của Bắc Kinh. Đối
với ông ta, việc bán "trên giấy tờ" hai quần đảo lúc đó vẫn thuộc về
Nam Việt Nam là một điều dễ dàng.
Vì sự việc này mà Cộng sản Việt Nam đã chờ một buổi họp của các quốc gia khối
ASEAN tại Manila, để dùng cơ hội này như một cái phao an toàn và ký ngay một
văn kiện đòi hỏi những quốc gia này giúp Việt Nam giải quyết vấn đề "một
cách đồng đều"
Về phía Trung Quốc, sau khi đã lấy những đảo của Cộng sản Việt Nam, họ đã tỏ
thái độ ôn hòa đối với Mã Lai Á và Phi Luật Tân, và bảo rằng Trung Quốc sẵn
sàng thương lượng các khu vực tài nguyên với các quốc gia này, và gạt VC qua
một bên. Trung Quốc đã nói họ sẽ không tán thành bất cứ quốc gia nào can thiệp
vào vấn đề giữa họ và Cộng sản Việt Nam.
Sau đó, Phạm Văn Đồng đã chối bỏ việc làm sai lầm của ông ta trong quá khứ,
trong một ấn bản của Tạp chí Kinh tế Viễn Đông ngày 16/3/1979. Đại khái, ông ấy
nói lý do mà ông ấy đã làm bởi vì lúc đó là "thời kỳ chiến tranh".
Đây là một đoạn văn
trích từ bài báo này ở trang số 11:
Theo ông Li (Phó Thủ tướng Trung quốc Li Xiannian), Trung quốc đã sẵn sàng chia
chác vùng vịnh "mỗi bên một nửa" với Việt Nam, nhưng trên bàn thương
lượng, Hà Nội đã vẽ đường kiểm soát của Việt Nam đến gần Đảo Hải Nam. Ông Li
cũng đã nói rằng vào năm 1956 (hay 1958?), Thủ tướng Việt Nam Phạm văn Đồng đã
ủng hộ một bản tuyên bố của Trung Quốc về chủ quyền của họ trên Quần Đảo Trường
Sa Và Hoàng Sa, nhưng từ cuối năm 1975, Việt Nam đã kiểm soát một phần của nhóm
đảo Trường Sa, nhóm đảo Hoàng Sa thì đã bị kiểm soát bởi Trung Quốc.
Năm 1977, theo lời
tường thuật thì ông Đồng đã biện hộ cho lập trường của ông ấy năm 1956:
"Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đã phải nói như vậy".
Do sự hồ hởi phấn khởi muốn tạo ra một cuộc chiến thê thảm cho cả hai miền Bắc
và Nam, và góp phần vào phong trào quốc tế cộng sản, ông Hồ Chí Minh đã hứa, mà
không có sự tự trọng, một phần đất "tương lai" để cho Trung Quốc lấy,
mà không biết chắc chắn là có thể nào sẽ nuốt được miền Nam Việt Nam.
Như ông Đồng đã nói, "Lúc đó là thời kỳ chiến tranh và tôi đã phải nói như
vậy".
Vậy thì ai đã tạo ra
cuộc chiến Việt Nam và sẵn sàng làm tất cả mọi sự có thể làm được để chiếm miền
Nam Việt Nam, ngay cả việc bán đất? Bán đất trong thời chiến và khi cuộc chiến
đã chấm dứt, Phạm Văn Đồng lại chối bỏ điều đó bằng cách bịa đặt ra việc đổ
thừa cho chiến tranh
****
Cũng trong Tạp chí Kinh tế Viễn Đông số ra ngày 16 tháng 3 năm 1979, trang 11.
Hồi tháng 9 năm 1958, khi Trung Quốc, trong bản tuyên bố của họ về việc gia
tăng bề rộng của lãnh hải của họ đến 12 hải lý, đã xác định rằng quyết định đó
áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của Trung Quốc, bao gồm cả Quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa, một lần nữa Hà Nội đã lên tiếng nhìn nhận chủ quyền của Trung Quốc
trên 2 quần đảo đó. Ông Phạm Văn Đồng đã ghi nhận trong bản công hàm gởi cho
lãnh tụ Trung Quốc Chu An Lai ngày 14/9/1958: "Chính phủ nước Việt-nam Dân
Chủ Cộng Hoà ghi nhận và tán thành bản tuyên bố, ngày 4 tháng 9 năm 1958, của
Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân dân Trung-hoa, quyết định về hải phận của
Trung-quốc" (xem Beijing Review 19/6/1958, trang 21 -- Beijing Review
25/8/1979, trang 25 -- Sự tồn tại của bản công hàm đó và tất cả nội dung đã
được xác nhận tại Việt Nam trong BBC/FE, số 6189, ngày 9/8/1979, trang số 1.)
Tại sao?
Theo ông Carlyle A Thayer, tác giả bài "Sự tái điều chỉnh chiến lược
của Việt Nam" trong bộ tài liệu "Trung Quốc như một Sức mạnh Vĩ đại
trong vùng Á châu Thái Bình Dương" của Stuart Harris và Gary Klintworth
[Melbourne: Longman Cheshire Pty Ltd., forthcoming 1994]:
Phía Việt Nam, trong khi theo đuổi quyền lợi quốc gia, đã thực hiện nhiều hành
động mà theo quan điểm của Trung Quốc thì có vẻ khiêu khích cao độ. Thí dụ như,
trong công cuộc đấu tranh trường kỳ dành độc lập, Việt Nam đã không biểu lộ sự
chống đối công khai nào khi Trung Quốc tuyên bố chủ quyền của họ trên biển Nam
Trung Hoa và đúng ra đã tán thành họ. Nhưng sau khi thống nhất đất nước, Việt
Nam đã đổi ngược lập trường. Năm 1975, Việt Nam đã chiếm đóng một số hải đảo
trong Quần đảo Trường Sa và sau đó đã tiến hành việc tuyên bố chủ quyền lãnh
thổ trên toàn bộ biển Nam Trung Hoa.
Như Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đã thú nhận:
"Các nhà lãnh đạo của chúng tôi đã có tuyên bố lúc trước về Hoàng Sa và
Trường Sa dựa trên tinh thần sau: Lúc đó, theo Hiệp định Geneve 1954 về Đông
Dương, các lãnh thổ từ vĩ tuyến 17 về phía nam, bao gồm cả hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa là đặt dưới sự kiểm soát của chính quyền miền Nam.
Hơn nữa, Việt Nam đã
phải tập trung tất cả các lực lượng quân sự cho mục tiêu cao nhất để chống lại
cuộc chiến tranh hung hãn của Mỹ, nhằm bảo vệ nền độc lập quốc gia. Việt Nam đã
phải kêu gọi sự ủng hộ của bè bạn trên toàn thế giới.
Đồng thời, tình hữu
nghị Trung-Việt rất thân cận và hai nước tin tưởng lẫn nhau.
Đối với Việt Nam,
Trung Quốc đã là một sự ủng hộ rất vĩ đại và trợ giúp vô giá.
Trong tinh thần đó
và bắt nguồn từ những đòi hỏi nêu trên, tuyên bố của các nhà lãnh đạo của chúng
tôi [ủng hộ Trung Quốc trong việc tuyên bố chủ quyền của họ trên Quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa] là cần thiết vì nó trực tiếp phục vụ cho sự đấu tranh bảo vệ
độc lập và tự do cho tổ quốc.
Đặc biệt thêm nữa là cái tuyên bố đó đã nhắm vào sự đòi hỏi cần thiết lúc bấy
giờ để ngăn ngừa bọn tư bản Mỹ dùng những hải đảo này để tấn công chúng tôi. Nó
không có dính dáng gì đến nền tảng lịch sử và pháp lý trong chủ quyền của Việt
Nam về hai quần đảo Hoàng Sa Và Trường Sa" (Tuyên bố trong một buổi họp
báo tại Hà Nội ngày 2/12/1992, được loan tải bởi Thông Tấn Xã Việt Nam ngày
3/12/1992)
Những ghi nhận này cho thấy rằng tất cả những điều mà Trung Quốc đã tố cáo phía
trên là sự thật. Những gì xảy ra ngày nay mà có liên hệ đến 2 quần đảo chỉ là
những hậu quả của sự dàn xếp mờ ám của hai người cộng sản anh em trong qúa khứ.
Không một ai trong cộng đồng thế giới muốn bước vào để dàn xếp sự bất đồng giữa
Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc. Lý do rất rõ ràng: cái công hàm ngoại giao và
sự nhìn nhận của Cộng sản Việt Nam không thể nào xoá bỏ được bởi một nước nhỏ
như Việt Nam, kẻ đã muốn chơi đểu để lừa dối Trung Quốc. Hơn nữa, Cộng sản Việt
Nam không thể nào tránh được Trung Quốc trong khi họ phải (bắt chước) theo
chính sách "đổi mới" của Trung Quốc để tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Nguyên bản tiếng Anh:
Saigon - Hanoi - Paracels Islands Dispute – 1974
Frank Ching (Far Eastern Economic Review, Feb. 10, 1994)
Đường link đã bị
đóng
http://tiengnoitudodanchu.org/vn/modules.php?name=Forums&file=viewtopic&p=896
No comments:
Post a Comment