Friday, December 12, 2025

20251212 CDTL Mao Trạch Đông giúp Việt Nam kháng chiến chống Pháp.

20251212 CDTL Mao Trạch Đông giúp Việt Nam kháng chiến chống Pháp.

  

***

Tài liệu nầy đã được bạch hóa và phổ biến trên internet từ năm 1992.

Đây là bằng chứng cộng sản giặc Hồ đã dẩn đường cho tầu cộng vào đất Việt để âm thầm chiếm đoạt nước Việt Nam từ thập niên 1950’s cho đến nay.

Từ đây dẩn đến việc mất biển đảo Hoàng Sa, Trường Sa cùng những vùng đất biên giới phía Bắc Biên và hiện nay lũ con hoang cộng sản giặc Hồ đã âm thầm hiến dâng từng phần đất, trên danh nghĩa cho tầu cộng mướn 99 năm nhưng thực chất là vùng đất tự trị của tầu cộng như đng bào quốc nội đã biết qua thỏa hiệp Thành Đô năm 1990.

***

Phần diễn dịch Việt Ngữ dưới đây từ Google Translated, quí độc giả có thể đọc từ tài liệu Anh Ngữ được dịch trực tiếp từ Hoa Ngữ trong những đường link kèm theo bên dưới.

1992 A Glorious Model of Proletarian Internationalism Mao Zedong and Helping Vietnam Resist France

https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/glorious-model-proletarian-internationalism-mao-zedong-and-helping-vietnam-resist-france

https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/95437/download

Google Translated

1992

Một Mô Hình Vinh Quang của Chủ nghĩa Quốc tế Vô sản: Mao Trạch Đông và Việc Giúp Việt Nam Kháng Pháp

Tài liệu này được thực hiện nhờ sự hỗ trợ từ Quỹ MacArthur

Một

Cuối năm 1949, ngay sau khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (ĐCSTQ) đã viết thư cho Chủ tịch Mao và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), đề nghị sự giúp đỡ của Trung Quốc. Tháng 1 năm 1950, Hồ Chí Minh đã bí mật đến Bắc Kinh để yêu cầu sự giúp đỡ của Trung Quốc trong cuộc đấu tranh chống Pháp của Việt Nam.

Sau chuyến thăm của Hồ Chí Minh, Ban Chấp hành Trung ương ĐCSTQ đã quyết định, được Chủ tịch Mao ủy quyền, cử tôi đi một nhiệm vụ bí mật tại Việt Nam. Tôi được chính thức bổ nhiệm làm Đại diện Liên lạc của Ban Chấp hành Trung ương ĐCSTQ tại Ban Chấp hành Trung ương ĐCSTQ. Đồng chí [Lưu] Thiếu Kỳ đích thân soạn thảo thư tiến cử, trong đó ghi rõ: “Tôi kính đề nghị đồng chí Lạc Quý Bô, người từng là bí thư tỉnh ủy và chính ủy, làm Đại diện Liên lạc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đồng chí này đi cùng tám cán bộ. Kính gửi, Lưu Thiếu Kỳ, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương, ngày 17 tháng 1 năm 1950.”

Vào thời điểm đó, Chủ tịch Mao Trạch Đông và Thủ tướng Chu Ân Lai đang ở Moscow tiến hành đàm phán với Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô do Joseph Stalin đứng đầu. Chuyến thăm của họ đã dẫn đến Hiệp ước Hữu nghị, Liên minh và Tương trợ Trung-Xô.

Tôi bí mật rời Bắc Kinh sang Việt Nam vào tháng 1 năm 1950. Đồng chí Thiếu Kỳ nói với tôi khi tôi khởi hành rằng tôi sẽ trở lại Bắc Kinh sau nhiệm vụ ba tháng. Tuy nhiên, do tình hình ở Việt Nam thay đổi, tôi đã xa nhà tám năm. Ở Việt Nam, tôi đã trải qua cuộc Kháng chiến tám năm lần thứ hai, một cuộc chiến mà kẻ thù của tôi là người Pháp chứ không phải người Nhật.

Hai

Tôi trở về Bắc Kinh lần đầu tiên từ khu căn cứ miền núi phía Bắc Việt Nam vào ngày 24 tháng 9 năm 1950, tám tháng bảy ngày sau khi rời đi. Sau khi hoàn thành báo cáo về công tác tại Việt Nam theo đúng thể thức chính thức, tôi đã gửi báo cáo cho các lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương, theo chỉ thị miệng của đồng chí Shaoqi và Tổng tư lệnh Zhu De. Hai hoặc ba ngày sau, đồng chí [Yang] Shangkun báo cho tôi biết rằng đồng chí Shaoqi đã mời tôi đến văn phòng của ông ấy. Tôi lại một lần nữa đến thăm các văn phòng quen thuộc trong khu phức hợp Zhongnanhai. Sau khi đồng chí Shaoqi nói với tôi rằng chính Chủ tịch Mao đang chờ nghe báo cáo của tôi, tôi và ông ấy được đưa bằng xe đến Fengzeyuan.

Fengzeyuan là ngôi làng ở Bắc Kinh nơi Hoàng đế Khang Hy đã chủ trì lễ cày ruộng mùa xuân hàng năm. Chúng tôi đã đến thăm nơi an nghỉ cũ của Hoàng đế tại Fengzeyuan, một khu nhà truyền thống điển hình gồm hai sân trong. Cây táo cảnh và cây lê được trồng đối xứng ở hai bên sân ngoài. Không có đồ trang trí nào khác. Không khí nơi đây trang nghiêm và đầy vẻ uy nghi. Có một phòng tiếp khách lớn gọi là Điện Âm Thiên, và ở phía đông và phía tây của khu phức hợp là các phòng mang tên “Tranh Sương Mù và Mưa” và “Tranh Mây Núi”. Đơn giản và không trang trí cầu kỳ, đó là nơi ở riêng của Chủ tịch Mao.

Trái lại, phòng tiếp khách lại khá sang trọng bên trong. Trần nhà, cửa ra vào và khung cửa sổ đều được làm bằng gỗ gụ chạm khắc. Nhưng đồ đạc thì khá đơn giản, chỉ có khoảng chục chiếc ghế bành vây quanh một chiếc bàn nhỏ đặt trên tấm thảm cũ ở giữa phòng. Một chiếc bàn dài, hẹp đặt phía sau những chiếc ghế. Khoảng một nửa diện tích sàn hoàn toàn trống trải. Đó là những khu vực tiếp khách và sinh hoạt giản dị dành cho chủ tịch Đảng và chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Hơn nữa, vào thời đó, các cuộc họp chính thức được tiến hành mà không có nhiều nghi thức. Trong nhiều lần tôi trình báo cáo cho Chủ tịch Mao, Chủ tịch sẽ ngồi trên một trong những chiếc ghế ở phía nam của phòng. Tôi sẽ ngồi ngay bên cạnh ông, thường di chuyển đến một chiếc ghế xa hơn một chút sau khi kết thúc báo cáo của mình.

Trong dịp này, Tổng tư lệnh Chu Đức và Thủ tướng Chu đang ngồi cạnh Chủ tịch Mao khi đồng chí Thiếu Kỳ dẫn tôi vào phòng. Đồng chí Thiếu Kỳ bắt đầu bằng việc trình bày tóm tắt báo cáo của tôi. Khi ông ấy nói xong, Chủ tịch Mao đứng dậy và nói với tôi: “Đồng chí Trương Chinh, Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, đã gửi điện tín yêu cầu anh trở về Việt Nam. Hồ Chí Minh đã mời anh làm Cố vấn Tổng tư lệnh của ông ấy. Anh cần chuẩn bị tinh thần cho một nhiệm kỳ dài ngày tại Việt Nam.” Lúc đó, đồng chí Thiếu Kỳ xen vào nói: “Ban đầu, anh được giao nhiệm vụ ba tháng tại Việt Nam. Nhưng kế hoạch đó phải được sửa đổi. Chúng ta phải lập kế hoạch dài hạn!” Thủ tướng Chu Ân Lai sau đó thông báo với tôi: “Ban Chấp hành Trung ương đã quyết định nội bộ đề cử anh làm đại sứ đầu tiên của chúng tôi tại Việt Nam.” Chủ tịch Mao xác nhận điều này và nói thêm: “Anh sẽ tiếp tục công việc của mình như một cầu nối giữa Đảng Cộng sản Trung Quốc và Việt Nam. Anh là Đại diện Liên lạc đầu tiên, và có thể là duy nhất, của Đảng chúng ta tại Việt Nam.”

Thủ tướng Chu Ân Lai và Tổng tư lệnh Chu Ân Lai sau đó đã thông báo cho tôi về cuộc xâm lược Triều Tiên của đế quốc Mỹ và việc thành lập một đội quân tình nguyện Trung Quốc sẵn sàng hỗ trợ Triều Tiên. Họ cũng giao cho tôi nhiệm vụ truyền đạt chi tiết về cuộc xung đột Triều Tiên cho Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.

Chủ tịch Mao tuyên bố: “Trước tình hình ở Triều Tiên, chúng ta đã quyết định hỗ trợ Triều Tiên trong cuộc đấu tranh chống lại Hoa Kỳ. Quân tình nguyện của chúng ta sẽ công khai tiến vào Triều Tiên; quân đội Trung Quốc sẽ sát cánh cùng binh lính Triều Tiên để chống lại cuộc xâm lược của Mỹ. Xét tình hình ở Việt Nam, chúng ta đã quyết định hỗ trợ bí mật trong cuộc đấu tranh chống Pháp bằng cách cung cấp viện trợ quân sự, kinh tế, tài chính và cố vấn. Mặc dù sự hỗ trợ của Trung Quốc ở Việt Nam khác với ở Triều Tiên, nhưng trong cả hai trường hợp, sự hỗ trợ của Trung Quốc đều mang tính quốc tế và yêu nước. Chúng ta cam kết hỗ trợ Triều Tiên và Việt Nam như nhau, và coi cả hai nhiệm vụ đều vinh quang như nhau. Sau đó, Mao đột ngột chuyển chủ đề sang hỏi tôi về vợ con. Khi tôi nói với ông rằng vợ tôi đã gia nhập Hồng quân năm 1933 và là người sống sót sau Cuộc Trường Chinh, Chủ tịch vui vẻ nói: “Vậy thì, bà ấy là một cựu chiến binh dày dạn kinh nghiệm. Rất tốt!” Tôi hỏi: “Bà ấy làm công việc gì?” Tôi trả lời: “Bà ấy làm việc trong lĩnh vực an ninh nội bộ, hành chính và công tác cán bộ.” Chủ tịch Mao lập tức đáp: “Tốt! Vậy thì khi ngài trở về Việt Nam, xin hãy đưa bà ấy đi cùng để làm trợ lý. Hồ Chí Minh đã khuyến khích tôi cho phép các cố vấn được đưa vợ đi cùng. Chỉ cần người phối ngẫu phù hợp với nhiệm vụ, tôi sẽ đồng ý.” Sau đó, một vài cố vấn Trung Quốc khác ở Việt Nam cũng được vợ tháp tùng.

Đồng chí Thiếu Kỳ nói tiếp: “Các vấn đề tài chính, đặc biệt là ảnh hưởng đến nguồn cung lương thực và tiền tệ, hiện là những vấn đề cấp bách nhất ở Việt Nam. Chúng tôi đã chọn một số cán bộ có kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng và công tác cung cấp lương thực để làm cố vấn tại Việt Nam. Họ sẽ đi cùng ngài trong đoàn ban đầu. Sau đó, chúng tôi sẽ chọn thêm các cố vấn trong các lĩnh vực khác và tổ chức thành Đoàn Cố vấn Chính trị để giúp đỡ người Việt Nam. Ngài là Tổng Cố vấn và cũng sẽ là người đứng đầu Đoàn Cố vấn Chính trị Trung Quốc tại Việt Nam.”

Nghe Lưu Thiếu Kỳ dùng thuật ngữ “Tổng cố vấn”, Chủ tịch Mao nói: “Hãy cẩn thận đừng đi theo tấm gương tiêu cực của Liên Xô trong công việc Tổng cố vấn của mình. Phải nhớ rằng Việt Nam không phải là Trung Quốc. Đừng cố gắng sao chép đơn thuần các phương pháp của Trung Quốc. Hãy nhớ rằng những điều kiện đặc thù ở Việt Nam phải là nền tảng của mọi phương pháp tiếp cận. Hãy trung thực và chân thành với người Việt Nam. Bên cạnh việc kể cho họ nghe về những kinh nghiệm cách mạng thành công của chúng ta, hãy nhớ kể cả những chi tiết về những thất bại và bài học đau thương của chúng ta.” Cuộc họp tổng kết là cơ hội đầu tiên tôi được trực tiếp nhận chỉ đạo và hướng dẫn của Chủ tịch Mao về các vấn đề quốc tế.

Ba

Bước đầu tiên của chúng ta trong việc hỗ trợ Việt Nam là chọc thủng phòng tuyến của Pháp dọc biên giới Trung-Việt để thiết lập liên lạc trực tiếp giữa Trung Quốc và các khu vực do Việt Minh kiểm soát. Như vậy, chúng ta sẽ có thể vận chuyển tiếp tế trực tiếp vào Việt Nam. Lực lượng Pháp sẽ mất lợi thế chính ngay khi Quân đội Nhân dân Việt Nam (PAVN) kiểm soát được các đèo và tuyến đường chiến lược xuyên biên giới. Có hai phương án khả thi để chọc thủng phòng tuyến của Pháp. Kế hoạch đầu tiên là chiếm Cao Bằng, nằm trên biên giới tỉnh Quảng Tây của Trung Quốc; kế hoạch thứ hai là chiếm Lao Kay, nằm trên biên giới tỉnh Vân Nam. Hay liệu tấn công cả hai thành phố cùng lúc sẽ là phương án tốt nhất? Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã dành gần ba tháng đàm phán trước khi thống nhất được kế hoạch tấn công. Ngày 2 tháng 7 năm 1950, Chủ tịch Mao trả lời Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc bằng điện tín: “Tôi tán thành đề xuất chiếm Cao Bằng trước. Về kế hoạch chi tiết tác chiến tấn công Cao Bằng, hãy đợi Chen Geng đến và sau khi thảo luận với ông ấy, hãy đưa ra quyết định cuối cùng. Còn về các hoạt động tiếp theo, các vị cần đưa ra quyết định dựa trên tình hình thực tế. Khi chúng tôi đưa ra quan điểm, đó chỉ là để các vị tham khảo. Bởi vì các vị hiểu rõ tình hình của mình hơn chúng tôi.”

Đồng chí Chen Geng là vị tướng Trung Quốc được Hồ Chí Minh đích thân lựa chọn để hỗ trợ Việt Nam. Sau khi Hồ Chí Minh yêu cầu sự giúp đỡ của Tướng Trần từ Chủ tịch Mao và Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Trần Chánh được cử đến Việt Nam với tư cách là đại diện của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, mang nhiệm vụ từ Chủ tịch Mao và Ban Chấp hành Trung ương để giúp tổ chức lực lượng và lãnh đạo họ trong Chiến dịch Biên giới, mà Đoàn Cố vấn Quân sự của chúng ta đang chuẩn bị tham gia. Chủ tịch Mao đã dành sự quan tâm sát sao và cẩn thận cho Chiến dịch Biên giới đầy cam go này. Nhiều bức điện tín quan trọng phải thông qua tay ông và được ông đích thân phê duyệt. Ông thậm chí còn tự mình soạn thảo các bức điện tín. Trong thời gian chuẩn bị cho Chiến dịch Biên giới, Chủ tịch Mao và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đồng ý với yêu cầu của Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc về việc cho phép điều động quân đội Quân đội Nhân dân Việt Nam vào khu vực Văn Sơn thuộc tỉnh Vân Nam để nghỉ ngơi, trang bị lại, huấn luyện và tái tổ chức. Các cố vấn Trung Quốc đã giúp tái tổ chức các đơn vị này thành hai trung đoàn hoặc sư đoàn lớn, biến chúng thành hai nắm đấm mạnh mẽ. Hai đơn vị được tái tổ chức này đã đóng vai trò quan trọng trong Chiến dịch Biên giới. Theo chỉ thị của Mao Trạch Đông, Trần Ân đã có những đóng góp vô cùng quý báu và quên mình trong chiến dịch, giúp nhân dân và lực lượng vũ trang Việt Nam giành được thắng lợi quyết định. Chiến thắng này đã đưa quân đội Việt Nam thoát khỏi giai đoạn phòng thủ và củng cố tuyến giao thông xuyên biên giới giữa Trung Quốc và Việt Nam. Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp và các lãnh đạo khác của Việt Nam đều vô cùng vui mừng trước chiến thắng này. Ngày 14 tháng 10 năm 1950, ngay sau trận chiến, Hồ Chí Minh đã viết thư cho đồng chí Mao Trạch Đông và Đảng Cộng sản Trung Quốc, báo cáo: “Chúng ta đã giành được thắng lợi trọn vẹn trong trận chiến Thất Khương và Cao Bằng. Sự hỗ trợ toàn diện của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Liên Xô là nguyên nhân chính dẫn đến thắng lợi này. Các đồng chí từ các tỉnh Vân Nam, Quảng Tây và Quảng Đông đã thực hiện chính xác và hết lòng chỉ đạo của các đồng chí, trực tiếp hỗ trợ chúng ta bất chấp khó khăn của bản thân. Tôi muốn nhấn mạnh những đóng góp xuất sắc vào thắng lợi của các đồng chí Trần Củng, Tống Nhân Khánh, Trương Vân Di, Lý Thiên Nhai, Lạc Quý Bô, Diệp Kiến Anh, Pháp Phương, Vi Quốc Khánh và các đồng chí khác trong Đoàn Cố vấn. Tóm lại, tôi tin rằng đây là một thắng lợi của con đường cách mạng quốc tế của Mao Trạch Đông. Tôi sẽ không nói những lời cảm ơn thông thường để bày tỏ lòng biết ơn. Thay vào đó, tôi phải tuyên bố rằng các đồng chí và nhân dân Việt Nam nhất định sẽ đáp ứng được những kỳ vọng cao cả và đền đáp sự giúp đỡ to lớn mà chúng ta đã nhận được từ anh em chúng ta ở nước ngoài.” Các Đảng Cộng sản Trung Quốc và Liên Xô tiếp tục nỗ lực hướng tới một thắng lợi lớn hơn và cuối cùng.”

Bốn

Tôi trở về Trung Quốc để báo cáo với Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Khi tôi đang báo cáo về yêu cầu hỗ trợ thêm từ phía Việt Nam, Chủ tịch Mao nói: “Vì nhân dân Trung Quốc đã giành được thắng lợi cách mạng, giờ đây chúng ta có nghĩa vụ giúp đỡ các dân tộc mà đất nước của họ chưa được giải phóng: đó là chủ nghĩa quốc tế. Việt Nam đang đấu tranh trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nhưng vẫn bị cô lập, thiếu sự hỗ trợ của các nước khác. Trong thời điểm khó khăn này, Việt Nam đang trông chờ chúng ta giúp đỡ. Là những nhà cách mạng, chúng ta có nghĩa vụ phải hỗ trợ Việt Nam một cách vô tư, không đòi hỏi điều kiện và hoàn toàn không kèm theo điều kiện chính trị nào. Như vậy, Trung Quốc sẽ cung cấp cho Việt Nam bất cứ thứ gì họ cần mà chúng ta có.” Chủ tịch Mao tiếp tục: “Không chỉ quân xâm lược thực dân Pháp là kẻ thù của nhân dân Việt Nam, mà chúng còn là kẻ thù của chúng ta. Pháp là kẻ thù chung của nhân dân Trung Quốc và Việt Nam. Sự giúp đỡ của Trung Quốc dành cho Việt Nam là giúp đánh bại quân xâm lược thực dân Pháp. Giúp lập lại hòa bình ở Việt Nam là sự giúp đỡ của Trung Quốc dành cho nước láng giềng. Đổi lại, bằng cách đánh bại quân xâm lược thực dân Pháp và đuổi chúng ra khỏi Việt Nam, Việt Nam sẽ giúp Trung Quốc bằng cách giải phóng biên giới phía nam khỏi mối đe dọa xâm lược thực dân của Pháp.

Vì vậy, chúng ta không nên chỉ nói một chiều về sự giúp đỡ của Trung Quốc dành cho Việt Nam; chúng ta phải nói rằng Việt Nam cũng đang giúp đỡ Trung Quốc; sự giúp đỡ này là có đi có lại.

Khi tôi nói rằng kỳ vọng của Việt Nam về sự giúp đỡ từ Trung Quốc là quá tham vọng, đòi hỏi quá cao và không phù hợp với thực tế, Chủ tịch Mao nói: “Có lẽ sự thiếu hiểu biết về điều kiện ở nước ta, cũng như ở chính đất nước họ, có thể giải thích cho những yêu cầu đầy tham vọng, đòi hỏi quá cao và không thực tế về một chương trình viện trợ từ Trung Quốc. Một lời giải thích khác có thể là do họ thiếu kinh nghiệm. Các bạn phải giúp đỡ họ một cách kiên nhẫn.”

Trong những năm tháng tôi ở Việt Nam, sự chỉ đạo và chỉ thị của Chủ tịch Mao và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã được thực hiện một cách trung thực trong các chương trình hỗ trợ của chúng tôi. Các chương trình này rất đa dạng, bao gồm cung cấp vũ khí và trang thiết bị quân sự, cùng với lương thực, quần áo, thuốc men và dịch vụ y tế, thiết bị liên lạc và phương tiện vận chuyển. Như vậy, chúng tôi không chỉ đưa ra lời chỉ đạo bằng cách kể lại và chia sẻ kinh nghiệm của cuộc cách mạng Trung Quốc, mà còn cung cấp cả hỗ trợ chiến đấu ở tiền tuyến và dịch vụ hậu cần tại Việt Nam.

Các cố vấn Trung Quốc tại Việt Nam đã làm việc với sự tận tâm và hết lòng, đóng góp vô tư vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam. Theo chỉ thị của Chủ tịch Mao, chúng tôi không yêu cầu bất kỳ khoản bồi thường nào dưới hình thức dịch vụ hay tiền bạc trong suốt thời gian ở nước này. Sống, làm việc và chiến đấu sát cánh cùng các đồng chí Việt Nam, chúng tôi chia sẻ gian khổ và niềm vui của họ. Tương tự, chính phủ Trung Quốc đã hỗ trợ Việt Nam mà không yêu cầu bất kỳ sự đền đáp nào. Trung Quốc không áp đặt bất kỳ hiệp ước hay thỏa thuận bất bình đẳng nào lên Việt Nam, và không duy trì bất kỳ căn cứ quân sự nào hay triển khai một binh sĩ nào tại Việt Nam. Sự giúp đỡ và hỗ trợ của Trung Quốc là tự nguyện và vô tư, thể hiện rõ ràng sự vĩ đại của chủ nghĩa quốc tế của Chủ tịch Mao. Chủ nghĩa quốc tế theo tinh thần này rất hiếm có trên thế giới.

Năm

Vào mùa đông năm 1951, Hồ Chí Minh đã có một chuyến thăm bí mật khác tới Bắc Kinh. Một ngày nọ, tôi hộ tống ông đến Điện Âm Thiên tại Phong Trạch Nguyên. Khi chúng tôi đến gần cổng, Chủ tịch Mao, đồng chí Thiếu Kỳ, Thủ tướng Chu Ân Lai và Tổng tư lệnh Chu Đức đều ra đón Hồ Chí Minh. Họ chào đón ông bằng những cái ôm thân thiện. Hồ Chí Minh đã quen biết Chủ tịch Mao, đồng chí Thiếu Kỳ, Thủ tướng Chu Ân Lai và Tổng tư lệnh Chu Ân Lai trong cuộc Nội chiến Cách mạng Trung Quốc lần thứ nhất và sau đó là trong cuộc kháng chiến chống Nhật. Tiếng Trung Quốc với giọng Quảng Đông của ông trôi chảy đến mức không cần phiên dịch. Cuộc gặp diễn ra trong không khí ấm áp thân mật hơn là những nghi thức ngoại giao thông thường, như thể Hồ Chí Minh vừa được đoàn tụ với gia đình mình.

Hồ Chí Minh chào đón Chủ tịch Mao như một người anh em thất lạc lâu ngày. Sau những lời chào hỏi thân mật và trao đổi nghi thức, họ nhanh chóng bắt đầu thảo luận các vấn đề quan trọng. Hồ Chí Minh đã trình bày ngắn gọn về tình hình hiện tại của cuộc kháng chiến chống Pháp, tiến độ xây dựng các khu căn cứ cách mạng và công tác của các cố vấn Trung Quốc tại Việt Nam. Sau đó, Thủ tướng Chu Ân Lai và Tổng tư lệnh Chu Ân Lai trình bày báo cáo ngắn gọn về tình hình chiến tranh Triều Tiên và các vấn đề trong nước của Trung Quốc.

Trong một đoạn hội thoại, Hồ Chí Minh đã nói với Chủ tịch Mao: “Bộ Chính trị chúng tôi mong muốn đồng chí Luo Guibo sẽ phê bình chúng tôi nhiều hơn và đưa ra nhiều chỉ đạo hơn với tư cách là người tham gia các cuộc họp Bộ Chính trị, nhưng ông ấy lại quá khiêm tốn và thận trọng. Chúng tôi mong ngài sẽ chỉ đạo ông ấy phê bình chúng tôi một cách kỹ lưỡng hơn. Chủ tịch Mao, ngài có đồng ý không?”

“Chắc chắn rồi,” Chủ tịch Mao nói, “Nhưng những lời phê bình, ý kiến ​​và đề xuất của ông ấy chỉ để các ngài tham khảo. Hãy ghi nhớ những điều các ngài cho là đúng, đồng thời bác bỏ những điều không đúng. Quyết định là tùy thuộc vào các ngài.”

Cuộc hội thoại giữa Chủ tịch Mao và Hồ Chí Minh tiếp tục diễn ra một cách thân mật. Nhưng Chủ tịch Mao bày tỏ quan điểm và sở thích của mình theo cách khiến cuộc trò chuyện trở nên gần gũi như một cuộc gặp gỡ gia đình. Tuy cuộc trò chuyện có vẻ thoải mái và dễ chịu, nhưng nội dung thực sự lại vô cùng quan trọng. Hồ Chí Minh, một người giàu cảm xúc, dường như rất xúc động trước sự chân thành của Mao. Đứng dậy, ông tuyên bố: “Tôi và các đồng chí Việt Nam của tôi tin chắc rằng, qua hành động của Trung Quốc, các ngài đã thực sự chân thành giúp đỡ chúng tôi.”

Đã đến giờ ăn trưa. Chủ tịch Mao, Chủ tịch Hồ, đồng chí Thiếu Kỳ, Tổng tư lệnh Chu và tôi cùng vào phòng ăn. Thủ tướng Chu đã rời đi để tiếp khách nước ngoài. Phòng ăn là khu vực được ngăn cách với phòng họp bằng một tấm bình phong, chỉ đủ chỗ cho hai bàn. Chúng tôi chỉ tìm thấy một bàn ở đó. Trong bữa trưa, Chủ tịch Mao, Chủ tịch Hồ, đồng chí Thiếu Kỳ và Tổng tư lệnh Chu trò chuyện không ngừng, bình luận, xen vào và thân thiện ngắt lời nhau.

Ớt cay được dọn kèm với bữa trưa. Thấy ớt, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói với Chủ tịch Mao: “Đồng chí Lạc Quý Bô nói với chúng ta rằng ngài thích ăn ớt đến nỗi không có ớt thì không có khẩu vị. Có đúng vậy không?” Chủ tịch Mao mỉm cười khi Hồ Chí Minh tiếp tục: “Người Việt Nam chúng tôi cũng thích ăn ớt. Nhưng cây ớt ở Việt Nam khác với cây ớt ở Trung Quốc. Chúng cao một hoặc hai mét, giống như những cây nhỏ. Ớt mọc hướng lên trời. Chúng thực sự rất cay…” Mọi người chăm chú lắng nghe lời miêu tả của Hồ Chí Minh về những cây ớt nhỏ mọc hướng lên trời trong các khu rừng ở miền Bắc Việt Nam. Chủ tịch Mao sau đó nói: “Tôi không phải là người duy nhất ở đây thích ăn ớt. Đồng chí Thiếu Kỳ và tôi đều đến từ tỉnh Hồ Nam và thích ăn ớt như những người Hồ Nam điển hình. Tổng tư lệnh Chu đến từ Tứ Xuyên; người Tứ Xuyên cũng rất thích ăn ớt.” Nhắc đến tôi, Chủ tịch Mao tiếp tục: “Ông ấy đến từ tỉnh Giang Tây; người dân Giang Tây cũng rất thích ăn ớt. Người dân Vân Nam, rất gần Việt Nam, cũng vậy. Nhưng mặc dù tất cả chúng ta đều thích ăn ớt, chúng ta lại có nhiều cách chế biến khác nhau.” Sau đó, tất cả chúng tôi bắt đầu mô tả các phương pháp chế biến ớt đặc trưng ở quê hương mình, trong đó phương pháp của Việt Nam thu hút nhiều sự quan tâm nhất. Hồ Chí Minh giải thích rằng phong tục của người Việt Nam là ngâm ớt hướng lên trời trong nước mắm và một chút nước cốt chanh. Chủ tịch Mao xen vào lúc này và nói: “Thực ra, việc chúng ta nghiện ớt không phải là do phong tục địa phương. Trong giai đoạn từ năm 1932 đến năm 1934, Quốc dân đảng đã áp đặt lệnh cấm vận thương mại nghiêm ngặt đối với khu vực Trung Xô Viết của chúng ta. Hậu quả là thiếu muối trầm trọng. Để nhập khẩu muối, một số đồng chí đã phải trả giá rất cao; thậm chí có người còn hy sinh cả tính mạng. Chúng ta đã vất vả biết bao! Món ăn không có muối thì nhạt nhẽo. Nhiều đồng chí, kể cả tôi, đã thay thế muối bằng ớt. Một món ăn thiếu muối nhưng được ăn kèm với ớt được coi là một bữa ăn ngon!”

Mặc dù đã nhiều năm trôi qua, nhưng cuộc trò chuyện của chúng tôi về ớt vẫn cứ như mới xảy ra ngày hôm qua.

Sáu

Sau khi tiễn Hồ Chí Minh, Chủ tịch Mao, đồng chí Thiếu Kỳ và Tổng tư lệnh Chu đã mời tôi ở lại để tiếp tục thảo luận.

Chủ tịch Mao đã chỉ dạy tôi: “Hãy trình bày quan điểm và đưa ra ý kiến ​​phê bình bất cứ khi nào đồng chí Hồ Chí Minh mời các anh tham dự các cuộc họp Bộ Chính trị và xin ý kiến. Nhưng các anh phải nói rõ rằng ý kiến ​​và đề xuất của các anh chỉ nhằm mục đích tham khảo cho các nhà lãnh đạo Việt Nam. Các anh phải chú trọng nghiên cứu và tìm hiểu, tránh thái độ chủ quan. Các anh phải lấy điều kiện cụ thể của Việt Nam làm điểm xuất phát khi tìm cách áp dụng kinh nghiệm của Trung Quốc, và tránh việc cố gắng chuyển giao các phương pháp của Trung Quốc mà không sửa đổi. Các anh phải hết sức thận trọng khi đưa ra ý kiến ​​phê bình và đề xuất. Các anh phải cân nhắc kỹ lưỡng lời nói của mình, trình bày chúng một cách thích hợp và chịu trách nhiệm về những gì mình nói. Để giúp đỡ người Việt Nam, các anh phải giúp đỡ họ một cách đúng đắn. Hãy chắc chắn rằng không bao giờ áp đặt quan điểm của mình. Các anh phải hết sức kính trọng đồng chí Hồ Chí Minh và các nhà lãnh đạo khác của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Không bao giờ được hành xử như một sứ thần đế quốc và đặc biệt cẩn thận không được có thái độ bá quyền. Sự thận trọng của các anh là đúng đắn.”

Đồng chí Shaoqi và Tổng tư lệnh Zhu nói: “Hãy nhớ giới hạn nhiệm vụ của mình, và nhất định không được vượt quá giới hạn đó. Luôn luôn báo cáo với Chủ tịch Mao và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc về những vấn đề quan trọng khi chúng phát sinh hoặc sau khi các quyết định đã được đưa ra.”

Vẻ mặt Chủ tịch Mao trở nên nghiêm trọng và xúc động hơn. Ông nói với tôi: “Trước cuộc Trường Chinh, cậu đã ở khu vực Trung Xô Viết. Cậu hẳn phải nhớ Li De.”

“Vâng,” tôi trả lời. “Lý Đức là người Đức,” Chủ tịch Mao tiếp tục, “Ông ta từng chiến đấu trong Hồng quân và được tặng thưởng huân chương trong Cách mạng Tháng Mười. Giành được lòng tin của Stalin, ông ta được cử đến hỗ trợ Đảng Cộng sản Trung Quốc và đến Vùng Trung Xô Viết để làm cố vấn quân sự. Chẳng bao lâu, ông ta đã nắm quyền chỉ huy Hồng quân Công nông Trung Quốc. Sự lãnh đạo của Lý Đức đã gây ra thiệt hại to lớn cho sự nghiệp cách mạng Trung Quốc. Ông ta không hiểu rõ điều kiện cụ thể ở Trung Quốc hay tình hình của Hồng quân Trung Quốc. Ông ta không nghiên cứu hay tìm hiểu tình hình, và phớt lờ những quan điểm khác với quan điểm của mình. Cách tiếp cận của ông ta là sao chép trực tiếp và không sửa đổi các chiến thuật và chiến lược đã hiệu quả ở Liên Xô nhưng hoàn toàn không thực tế ở Trung Quốc. Tuy nhiên, với quyền lực được Quốc tế Cộng sản trao cho, ông ta có thể bắt nạt và đe dọa mọi người. Tóm lại, Lý Đức kiêu ngạo, độc đoán, ngoan cố và cưỡng chế, giống như một sứ thần đế quốc thời xưa. Cùng với Bồ Cố và những người theo ông ta, Lý Đức đã thực hiện một loạt các chiến lược và chiến thuật quân sự sai lầm, gây ra cho chúng ta nhiều đau khổ và phải trả giá bằng máu rất đắt.”

Chủ tịch Mao tiếp tục: “Hãy nhớ bài học từ hành vi của Lý Đức ở Trung Quốc khi các anh đang làm việc tại Việt Nam. Hãy chắc chắn rằng các anh cũng nói về điều đó với tất cả các đồng chí trong Đoàn Cố vấn. Hãy khuyến khích mỗi người trong số họ ghi nhớ điều đó bằng cách nói với họ rằng sự giúp đỡ của chúng ta dành cho Việt Nam sẽ không phải là sao chép những cách tiếp cận trước đây, cũng không phải là sao chép trực tiếp; sự giúp đỡ của chúng ta phải thực sự giúp người Việt Nam khá giả hơn. Viện trợ sẽ không hiệu quả nếu các cố vấn Trung Quốc có những kỳ vọng chủ quan. Viện trợ của họ sẽ chỉ hiệu quả nếu họ nhận thức được tình hình đặc thù ở Việt Nam và giữ thái độ khiêm tốn và thận trọng. Họ nên ít nhắc đến những chiến thắng của chúng ta và thường xuyên thảo luận về những thất bại của chúng ta. Chúng ta đã từng trải qua những thất bại. Là một phần công việc viện trợ cho Việt Nam, hãy chắc chắn rằng các anh theo dõi và xem xét lại tất cả những gì mình nói và làm. Hãy tuân theo một thói quen xem xét lại lời nói và việc làm của mình mỗi ngày, hoặc ba ngày một lần, hoặc ít nhất một lần một tuần, để luôn ghi nhớ rõ ràng mình đang đi đúng hướng như thế nào và có thể đang đi chệch hướng ở những điểm nào.”

“Còn về đồng chí Hồ Chí Minh,” Mao tiếp tục, “ông ấy được nhân dân Trung Quốc và Việt Nam kính trọng; trên trường quốc tế, ông ấy thậm chí còn được đối thủ kính trọng.” Việc Chủ tịch Mao đề cao Hồ Chí Minh đến vậy có ý nghĩa rất lớn; lời khen ngợi của ông đã để lại ấn tượng sâu sắc trong tôi. Như vậy, Mao đã cho tôi một bài học vô cùng sâu sắc và đồng thời rất thiết thực về chủ nghĩa quốc tế vô sản.

Bảy

Đối với Chủ tịch Mao, sự nghiệp cách mạng chống thực dân của nhân dân Việt Nam cũng quan trọng như sự nghiệp cách mạng của nhân dân Trung Quốc; ông cam kết giúp đỡ Việt Nam với tinh thần chủ nghĩa quốc tế triệt để và sự hy sinh quên mình. Không chỉ chỉ đạo tôi và các thành viên khác trong đoàn cố vấn theo tinh thần này, Chủ tịch Mao còn thể hiện điều đó bằng hành động của mình.

Trần Ân, Vi Quốc Khánh và tôi đã liên lạc bằng điện tín với Chủ tịch Mao và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc để xin chỉ thị. Các cuộc liên lạc của chúng tôi đề cập đến nhiều vấn đề quan trọng, bao gồm các hoạt động quân sự (như Chiến dịch Biên giới, Trận Điện Biên Phủ và Trận Tây Bắc), việc mở rộng và huấn luyện lực lượng vũ trang Việt Nam, củng cố tư tưởng và tổ chức của Đảng, các vấn đề kinh tế và tài chính, cải cách ruộng đất, viện trợ quân sự, an ninh công cộng, tình báo và quan hệ với các dân tộc thiểu số. Chủ tịch Mao đã đọc, sửa đổi và ký tất cả các điện tín gửi đến và nhận từ Trần Ân, Vi Quốc Khánh và tôi. Ông tự tay soạn thảo những điện tín đặc biệt quan trọng. Mỗi khi Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam gửi điện tín cho Chủ tịch Mao và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc để xin ý kiến, Chủ tịch Mao và Ban Chấp hành Trung ương đều gửi điện tín trả lời có đề xuất. Trong những thông điệp quan trọng, Chủ tịch Mao luôn ghi chú: “Ý kiến ​​của chúng tôi chỉ để các ngài tham khảo. Hãy tự quyết định; các ngài hiểu tình hình hơn chúng tôi.”

Đồng chí Vương Gia Tương đã chủ trì một nhóm thuộc Ban Liên lạc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, soạn thảo một bộ quy tắc tạm thời để các cố vấn Trung Quốc tại Việt Nam tuân theo. Chủ tịch Mao đã bổ sung những điều quan trọng khi chỉnh sửa bản dự thảo, bao gồm: “Chăm sóc từng tấc đất thuộc về nhân dân Việt Nam; tôn trọng độc lập dân tộc Việt Nam và phong tục tập quán của nhân dân Việt Nam; ủng hộ Đảng Lao động Việt Nam và đồng chí Hồ Chí Minh, lãnh đạo nhân dân Việt Nam.” Như vậy, lời lẽ của quy tắc này thấm đẫm tinh thần quốc tế của Chủ tịch Mao và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Khi tôi trở lại Trung Quốc năm 1952 để trình báo cáo nhiệm vụ thường kỳ, tôi đã báo cáo với Chủ tịch Mao rằng hầu hết các cố vấn Trung Quốc đều ổn định trong công việc theo chỉ thị của Chủ tịch Mao và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, cũng như theo tinh thần chủ nghĩa quốc tế. Tuy nhiên, một số ít người trong số họ vẫn chưa quen với khí hậu nhiệt đới ẩm ướt ở Việt Nam, với muỗi, hay với lối sống khác biệt. Một số người thường xuyên bị ốm, mắc bệnh sốt rét và sụt cân đáng kể. Hơn nữa, do thường xuyên phải đối mặt với chiến đấu trên bộ và các cuộc oanh tạc trên không của Pháp, những cố vấn này lo sợ rằng họ sẽ mất mạng ở Việt Nam. Họ hy vọng hoặc đã xin được chuyển về Trung Quốc sớm.

Nghe vậy, Chủ tịch Mao im lặng. Một lúc sau, ông nói nhỏ: “Norman Bethune là một người Canada đã vượt hàng ngàn dặm đường đến Trung Quốc, quyết tâm giúp đỡ nhân dân Trung Quốc trong cuộc kháng chiến chống Nhật. Không mưu cầu lợi ích cá nhân, ông sẵn sàng hy sinh tất cả những gì mình có. Bethune là hiện thân của tinh thần chủ nghĩa quốc tế. Ông đã chết như một người anh hùng và được chôn cất tại Trung Quốc. Ông là một chiến sĩ quốc tế xuất sắc mà chúng ta sẽ mãi tôn vinh và ghi nhớ.”

Chủ tịch Mao tiếp tục: “Nhiều đồng chí trong Đảng của chúng ta là người miền Bắc, đã làm việc, chiến đấu và định cư ở miền Nam Trung Quốc. Một số người đã hy sinh mạng sống ở miền Nam. Trong khi đó, nhiều người miền Nam đã làm việc, chiến đấu và định cư ở miền Bắc; một số người trong số họ cũng đã hy sinh mạng sống. Tất cả các cố vấn của chúng ta ở Việt Nam đều là đảng viên được Đảng cử đến giúp đỡ người Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống Pháp. Tại sao họ không tiếp tục làm việc, chiến đấu và sinh sống ở Việt Nam? Tại sao họ không chết ở Việt Nam?” Chủ tịch Mao sau đó đọc hai câu thơ cổ điển: “Một người trung thành có thể được chôn cất ở bất cứ nơi nào; có cần thiết phải mang hài cốt bọc da ngựa của anh ta về nhà không?”<sup>11</sup> Sau đó, ông giải thích ý nghĩa của câu thơ cho tôi.

Tám

Đảm bảo nguồn cung lương thực và một hệ thống tiền tệ hiệu quả là những mục tiêu quan trọng trong chương trình viện trợ của Trung Quốc dành cho Việt Nam. Chúng được xác định ngay từ tháng 3 năm 1950 khi Hồ Chí Minh, Trương Chinh, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp báo cáo với tôi về tình hình ở Việt Nam. Họ xác định vấn đề lương thực và tiền tệ là những vấn đề cấp bách và khó giải quyết nhất mà họ cần sự giúp đỡ của chúng tôi.

Tôi đã báo cáo về vấn đề lương thực và tiền tệ cho Chủ tịch Mao và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Chủ tịch Mao và đồng chí Thiệu Kỳ đã phản hồi và đưa ra chỉ thị. Họ lập luận rằng giải pháp cơ bản cho các vấn đề kinh tế và tài chính ở Việt Nam, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến lương thực và tiền tệ, là phải xóa bỏ các hệ thống tài chính và kinh tế cũ mà thực dân Pháp đã thiết lập và tiếp tục kiểm soát, và thay thế chúng bằng các hệ thống mới. Chủ tịch Mao và đồng chí Shaoqi đã đề cập đến kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong thời kỳ kháng chiến chống Nhật và chiến tranh giải phóng, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã xây dựng một loạt các chính sách tài chính và kinh tế để giải quyết hiệu quả những vấn đề này. Các chính sách đó bao gồm việc áp thuế lương thực, thu hồi tiền tệ khỏi lưu thông và khuyến khích sản xuất công nghiệp. Chủ tịch Mao và đồng chí Shaoqi nói với tôi rằng những chính sách này nhìn chung phù hợp với Việt Nam và có thể dùng làm tài liệu tham khảo.

Theo chỉ thị của Chủ tịch Mao và đồng chí Shaoqi, các cố vấn và tôi bắt đầu giúp cải cách hệ thống cung cấp lương thực và tiền tệ của Việt Nam. Chúng tôi đã giới thiệu kinh nghiệm của Trung Quốc cho người Việt Nam và điều chỉnh chúng cho phù hợp với tình hình ở Việt Nam, từ đó giúp họ thiết lập hệ thống riêng của mình. Công việc này bao gồm từ chiến lược và hoạch định chính sách vĩ mô, đến xây dựng kỷ luật dưới hình thức điều lệ, quy định và chỉ thị, cũng như các mệnh lệnh và hoạt động thực thi. Kết quả là, tình hình tài chính và kinh tế của Việt Nam đã được cải thiện rõ rệt vào năm 1951. Binh lính và cán bộ dân sự có đủ ăn và không còn phải chịu đói. Người dân cũng có nhiều thứ để ăn hơn. Đồng tiền Việt Nam được ổn định và lạm phát được kiềm chế. Thị trường dần trở nên sôi động. Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Trương Chính và Võ Nguyên Giáp đều hài lòng với những diễn biến này. Như Thủ tướng Phạm Văn Đồng tuyên bố năm 1951: “Chủ tịch Mao và Đảng Cộng sản Trung Quốc đã giúp đỡ chúng ta một cách vô tư, cử cố vấn giúp chúng ta giành thắng lợi chiến lược trong trận Biên phòng năm 1950, và do đó đã thay đổi quyết định tình hình kháng chiến của chúng ta. Giờ đây, các cố vấn Trung Quốc đã giúp chúng ta giải quyết những vấn đề khó khăn và cấp bách nhất - những khó khăn về tài chính và kinh tế, đặc biệt là liên quan đến lương thực, tiền tệ và sản xuất. Sự giúp đỡ này thể hiện chủ nghĩa quốc tế vĩ đại của Chủ tịch Mao và Đảng Cộng sản Trung Quốc, và cho thấy hiệu quả của Tư tưởng Mao Trạch Đông và kinh nghiệm cách mạng ở Trung Quốc khi được áp dụng tại Việt Nam.”

Chín

Sau Chiến dịch Biên giới năm 1950, chúng ta đã tiến hành nhiều chiến dịch và tham gia nhiều trận đánh, bao gồm các trận đánh ở Trung lưu sông Hồng [tháng 12 năm 1950 - tháng 1 năm 1951], Ninh Bình [tháng 5 - tháng 6 năm 1951], Trận Đông Bắc [tháng 3 - tháng 4 năm 1951], Thượng Lào [tháng 3 - tháng 5 năm 1953], Tây Bắc [tháng 10 - tháng 12 năm 1951], Chiến dịch du kích Đồng bằng sông Hồng và Điện Biên Phủ [tháng 3 - tháng 5 năm 1954]. Cuối cùng, quân xâm lược thực dân Pháp buộc phải ngồi vào bàn đàm phán ở Geneva và chấp nhận thỏa thuận ngừng bắn. Nhân dân Việt Nam cuối cùng đã giành được thắng lợi quyết định.

Chính trong kinh nghiệm chiến tranh Việt Nam chống Pháp mà đồng chí Hồ Chí Minh, Đảng Lao động Việt Nam và nhân dân Việt Nam đã hiểu được chủ nghĩa quốc tế của đồng chí Mao Trạch Đông. Đáp lại tinh thần chủ nghĩa quốc tế vĩ đại của Mao Trạch Đông, nhân dân Việt Nam kính trọng đồng chí Mao Trạch Đông đến nỗi gọi ông là “Bác Mao”, thể hiện tình cảm chân thành. “Bác” cũng chính là cách gọi kính trọng và trìu mến mà nhân dân Việt Nam dành cho đồng chí Hồ Chí Minh.

Lịch sử là người phán xét công bằng nhất và là nguồn tham khảo tốt nhất. Bất chấp thời gian trôi qua và tình hình thế giới thay đổi, tư tưởng quốc tế vô sản của Mao Trạch Đông và những đóng góp của ông vào thắng lợi của Việt Nam trước Pháp sẽ sống mãi trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam.

https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/glorious-model-proletarian-internationalism-mao-zedong-and-helping-vietnam-resist-france

https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/95437/download

16 September 1950 Battle of Đông Khê

https://digitalarchive.wilsoncenter.org/places/china

1992

A Glorious Model of Proletarian Internationalism: Mao Zedong and Helping Vietnam Resist France

https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/glorious-model-proletarian-internationalism-mao-zedong-and-helping-vietnam-resist-france

With support from Chinese Military Advisory Group, the Viet Minh launches the Battle of Đông Khê, also known as the Border Campaign, on 16 September 1950. Vietnamese troops successfully seize Đông Khê, a strategic outpost in northern Vietnam, from French forces on 18 September. Mao Zedong encourages Ho Chi Minh to continue the assault on French forces in Cao Bằng, and by 13 October (1950) the Viet Minh had taken control over the entire Sino-Vietnamese border region.

Với sự hỗ trợ từ Nhóm cố vấn quân sự Trung Quốc, Việt Minh đã phát động Chiến dịch Đông Khê, còn được gọi là Chiến dịch Biên giới, vào ngày 16 tháng 9 năm 1950. Quân đội Việt Nam đã giành được Đông Khê, một tiền đồn chiến lược ở miền bắc Việt Nam, từ tay quân Pháp vào ngày 18 tháng 9. Mao Trạch Đông khuyến khích Hồ Chí Minh tiếp tục tấn công quân Pháp ở Cao Bằng, và đến ngày 13 tháng 10 năm 1950, Việt Minh đã kiểm soát toàn bộ khu vực biên giới Trung Quốc - Việt Nam.

https://digitalarchive.wilsoncenter.org/places/china

1992

A Glorious Model of Proletarian Internationalism: Mao Zedong and Helping Vietnam Resist France

https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/glorious-model-proletarian-internationalism-mao-zedong-and-helping-vietnam-resist-france 

18 January 1950 China Recognizes North Vietnam

https://digitalarchive.wilsoncenter.org/places/china

https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/glorious-model-proletarian-internationalism-mao-zedong-and-helping-vietnam-resist-france

On 18 January 1950, the People’s Republic of China formally recognizes and establishes diplomatic relations with the Democratic Republic of Vietnam, or North Vietnam. Later that month the Chinese Communist Party, intent on supporting revolutions in Asia, sends Luo Guibo, a high-ranking commanders, to Vietnam to assist Ho Chi Minh’s forces in the war against France.

Ngày 18 tháng 1 năm 1950 Trung Quốc công nhận Bắc Việt Nam

Ngày 18 tháng 1 năm 1950, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chính thức công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với Cộng hòa Dân chủ Việt Nam, hay còn gọi là Bắc Việt Nam. Cuối tháng đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc, với mục tiêu hỗ trợ các cuộc cách mạng ở châu Á, đã cử Luo Guibo, một chỉ huy cấp cao, đến Việt Nam để hỗ trợ lực lượng của Hồ Chí Minh trong cuộc chiến chống Pháp.

https://digitalarchive.wilsoncenter.org/places/china

https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/glorious-model-proletarian-internationalism-mao-zedong-and-helping-vietnam-resist-france

No comments:

Post a Comment