20251112 CDTL Cộng Sản Giặc Hồ Đang Phá Sử Việt Phần 2 Bản Việt Ngữ
***
Xin độc giả lưu ý về những ngày, tháng vì đây là những mốc thời gian quan trọng trong lịch sử Việt-Nam và tài liệu của những mốc thời gian nầy sẽ được trình bày trong bài kế tiếp “Phần 3”.
***
The first Indochina war 1946 1954 and the Geneva agreement 1954
“Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất 1946-1954 và Hiệp định Genève 1954”
https://www.tandfonline.com/doi/full/10.1080/23311983.2024.2365048#d1e162
https://www.tandfonline.com/doi/full/10.1080/23311983.2024.2365048#abstract
20251112 cdtl chcsgh 00
Pham Duc Thuan
Dr. Pham Duc Thuan, the responsible author and main researcher of the article is a lecturer at Can Tho University (Vietnam). He received a PhD in History in 2018 and is an expert in modern Vietnamese history and Vietnamese diplomatic history. He is currently teaching at the School of Education, Can Tho University, and is the leader of the Department of History Education.
“Tiến sĩ Phạm Đức Thuận, tác giả và nghiên cứu viên chính của bài viết, là giảng viên tại Đại học Cần Thơ (Việt Nam). Ông nhận bằng Tiến sĩ Lịch sử năm 2018 và là chuyên gia về lịch sử Việt Nam hiện đại và lịch sử ngoại giao Việt Nam. Hiện ông đang giảng dạy tại Khoa Sư phạm, Đại học Cần Thơ, và là Trưởng Bộ môn Sư phạm Lịch sử.”
Tran Minh Thuan
Dr. Tran Minh Thuan is also a researcher in Vietnamese history, he has a PhD in History in 2019 and is an expert on the history of the Mekong Delta.
“Tiến sĩ Trần Minh Thuận cũng là nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam, ông có bằng Tiến sĩ Lịch sử năm 2019 và là chuyên gia về lịch sử Đồng bằng sông Cửu Long.”
Article: 2365048 | Received 25 Feb 2024, Accepted 03 Jun 2024, Published online: 10 Jun 2024
Bài viết: 2365048 | Nhận ngày 25 tháng 2 năm 2024, Chấp nhận ngày 03 tháng 6 năm 2024, Đăng trực tuyến ngày 10 tháng 6 năm 2024.
https://www.tandfonline.com/doi/full/10.1080/23311983.2024.2365048#abstract
Abstract - Tóm tắt
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, tình hình Đông Dương có những diễn biến phức tạp. Nhật Bản đầu hàng Đồng minh và tình hình thuận lợi cho quân đội Pháp quay trở lại Đông Dương tiếp tục chế độ cai trị thuộc địa như trước năm 1945. Điều đó đã châm ngòi cho một cuộc chiến tranh, chủ yếu là giữa Việt Nam (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) và thực dân Pháp. Cuộc chiến diễn ra trên toàn bộ bán đảo Đông Dương và là một trong những điểm nóng của Chiến tranh Lạnh. Từ năm 1950, Việt Nam nhận được sự hỗ trợ từ Liên Xô và Trung Quốc. Cuộc chiến với những lợi thế lớn hơn dần dần nghiêng về phía Việt Nam. Năm 1954, mặc dù nhận được sự hỗ trợ lớn từ Hoa Kỳ, quân đội Pháp vẫn thất bại tại Điện Biên Phủ. Điều này dẫn đến một giải pháp quân sự và chính trị tại hội nghị Geneva. Trong hội nghị này, các kế hoạch và âm mưu của các nước lớn đã phản ánh đầy đủ sự phức tạp mà Chiến tranh Lạnh mang lại. Số phận của các nước nhỏ và yếu không được coi trọng, dẫn đến các cuộc xung đột dai dẳng, châm ngòi cho cuộc chiến tranh quy mô lớn tiếp theo ở Việt Nam và toàn bộ bán đảo Đông Dương từ năm 1961 đến năm 1975.
1. Introduction - Giới thiệu
Vào thế kỷ 19, Đông Dương (Việt Nam, Lào và Campuchia) trở thành thuộc địa của Pháp. Từ đó, các phong trào đấu tranh giành độc lập ở đây phát triển mạnh mẽ. Mặc dù bị Pháp đàn áp và khủng bố, các phong trào vẫn diễn ra ác liệt, đặc biệt là khi Chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai bùng nổ. Tại Việt Nam, Hồ Chí Minh đã thành lập tổ chức Việt Minh, đấu tranh giành độc lập cho Việt Nam và giúp đỡ rất nhiều cho Lào và Campuchia. Tháng 9 năm 1945, Việt Nam tuyên bố độc lập và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Với sự hỗ trợ của Anh, Pháp đã tái chiếm Việt Nam. Việt Minh dưới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh tuyên chiến với Pháp vào cuối năm 1954, cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất nổ ra (Lacouture, Citation1970). Trong cuộc chiến này, từng bước, Việt Nam nhận được sự hỗ trợ từ Liên Xô và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (một nước Trung Quốc mới do những người cộng sản do Mao Trạch Đông lãnh đạo thành lập). Năm 1954, với trận đánh lớn tại Điện Biên Phủ, Việt Nam đã đánh bại quân đội Pháp, buộc Pháp phải chấp nhận các yêu sách của họ tại Geneva. Hội nghị Geneva về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được tiến hành với những phiên đàm phán căng thẳng, kết quả phản ánh những vấn đề mà Chiến tranh Lạnh mang lại. Tài liệu này cho thấy những kế hoạch được vạch ra bởi các cường quốc như Hoa Kỳ, Liên Xô, Trung Quốc, Anh và Pháp (Tønnesson, Citation1985). Nội dung của hội nghị này, cùng với thực tế chiến trường của cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, đã dẫn đến một trong những cuộc chiến tranh lớn nhất thế kỷ XX, Chiến tranh Việt Nam.
2. Literature review – Nhận xét tổng quát
Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất và Hiệp định Genève là một nội dung lịch sử quan trọng của thế kỷ XX, đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả. Asselin (Trích dẫn 2013) trong cuốn "Con đường dẫn đến Chiến tranh Việt Nam của Hà Nội, 1954–1965" cho rằng, mặc dù không miễn trừ vai trò của Washington trong việc khơi mào chiến tranh năm 1965, cuốn "Con đường dẫn đến Chiến tranh Việt Nam của Hà Nội" cho thấy những người chỉ đạo nỗ lực chống lại Hoa Kỳ và các đồng minh của họ ở Sài Gòn ít nhất cũng phải chịu trách nhiệm tương đương trong việc tạo ra hoàn cảnh dẫn đến cuộc xung đột có thể nói là bi thảm nhất thời Chiến tranh Lạnh. Nghiên cứu về cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất có thể được đề cập bởi Livingston (Citation2015) với Embers of War: The Fall of an Empire and the Making of America’s Vietnam, McHale (Citation2021) với The First Vietnam War (Currey, Citation2003; Hupe, Citation2015; Lacouture, Citation1970; Miller & Vu, Citation2009; Pascoe & Army; Citation2005; Tucker-Jones, Citation2017). Nghiên cứu về hiệp định Geneva đã được đề cập trong các bài báo nghiên cứu nổi bật của Pieere (Citation2006), Watt (Citation1967), Hannon (Citation1967) và Cable (Citation1986). Các tác giả không chỉ nghiên cứu tiến trình của hội nghị mà còn phân tích các khía cạnh quốc tế bị chi phối bởi chiến tranh lạnh. Các nghiên cứu chuyên sâu phân tích vai trò và kế hoạch của Liên Xô và Trung Quốc trong hội nghị có thể kể đến như Radchenko, 2021 với Liên Xô và Châu Á, những năm 1940-1960, Jian (Trích dẫn 1993), Landon (Trích dẫn 1966), Lüthi (Trích dẫn 2006), Randle (Trích dẫn 2015), Ongsuragz (Trích dẫn 1980), Shee (Trích dẫn 1990), hay Shao (Trích dẫn 1986) với chính sách ngoại giao của Chu Ân Lai và việc trung lập hóa Đông Dương, 1954–55, Gaiduk (Trích dẫn 2003) với Đối đầu với Việt Nam: Chính sách của Liên Xô đối với Xung đột Đông Dương. Những nghiên cứu này không chỉ cung cấp những tài liệu xuất sắc mà còn góp phần làm sáng tỏ nội dung về cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất và Hiệp định Geneva. Đây là những nghiên cứu mà chúng tôi tham khảo và có di sản để thực hiện nghiên cứu của mình.
3. Methodology - Phương pháp luận
Bài viết này nhằm mục đích nghiên cứu Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946–1954) và Hiệp định Genève (1954). Để đạt được mục tiêu này, bài viết sử dụng các phương pháp nghiên cứu lịch sử quân sự và quan hệ quốc tế để phân tích các vấn đề nghiên cứu. Bên cạnh việc tham khảo các nghiên cứu và đánh giá của các học giả đi trước, tác giả sử dụng phương pháp so sánh để đánh giá mối tương tác thực tiễn giữa lý thuyết và dữ liệu. Tác giả tin rằng dữ liệu là cơ sở quan trọng để đánh giá chính xác tình hình và bối cảnh của Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946–1954) và Hiệp định Genève (1954).
4. The first Indochina war (1946–1954) - Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1946–1954)
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, tình hình Đông Dương rất phức tạp khi các hiệp định ở Potsdam và Yalta cho phép Quân đội Trung Hoa Dân Quốc và quân đội Anh tiến vào Đông Dương để giải quyết vấn đề quân đội Nhật Bản. Vào thời điểm này, thực dân Pháp, đồng minh của Anh trong Chiến tranh thế giới thứ hai, đã nhanh chóng lợi dụng tình hình để âm mưu tái lập ách thống trị của họ ở Đông Dương, nơi đã bị Nhật Bản cướp đi. Tình hình ở Đông Dương, chủ yếu là ở Việt Nam, ngày càng căng thẳng. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dưới sự lãnh đạo của lãnh tụ Việt Minh Hồ Chí Minh đã có những cuộc đàm phán với Pháp và Trung Hoa Dân Quốc để lập lại hòa bình nhưng nhanh chóng đi vào bế tắc. Vào giữa năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sang Pháp cùng một phái đoàn ngoại giao do Phạm Văn Đồng dẫn đầu, một hội nghị được tổ chức tại Fontainebleau về vấn đề Việt Nam. Kết thúc hội nghị Fontainebleau, không có giải pháp chính trị, ngoại giao hoặc quân sự nào được thông qua. Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký “Hiệp định tạm thời” với Đại diện Chính phủ Pháp, Bộ trưởng Moutet, vào ngày 14 tháng 9 năm 1946, nhượng lại nhiều quyền cho Pháp ở Đông Dương.
Căng thẳng gia tăng vì phía Pháp luôn muốn tái lập quyền thống trị của mình ở Đông Dương và Việt Nam (Giáp, Trích dẫn 2015). Do đó, một cuộc chiến tranh là không thể tránh khỏi. Ngày 19 tháng 12 năm 1946, chiến tranh chính thức nổ ra, lực lượng Việt Minh và quân đội Pháp bước vào một cuộc chiến tranh quy mô lớn, mà chúng ta vẫn gọi là Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất.
4.1. Phase 1: 1946–1950 - Giai đoạn 1: 1946–1950
Trong thời gian này, quân đội Pháp đã nhiều lần tấn công căn cứ Việt Minh ở Việt Bắc (vùng núi phía Bắc Việt Nam) nhưng đều thất bại. Việt Minh cũng gặp nhiều khó khăn do không có đồng minh thực sự. Thiếu vũ khí, lương thực, chi phí và thậm chí cả nhân lực đã buộc Việt Minh phải đàm phán với Pháp. Tuy nhiên, mọi cuộc đàm phán đều không thành công do ý đồ thực dân của chính quyền Pháp. Họ luôn muốn Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung là thuộc địa của họ như trước năm 1945. Năm 1948, Pháp lập ra một chính quyền mới ở Việt Nam, gọi là "Chính phủ Quốc gia Việt Nam", thực chất là "chính phủ bù nhìn" của Pháp.
4.2. Phase 2: 1950–1954 - Giai đoạn 2: 1950–1954
Trong giai đoạn này, một sự kiện quốc tế lớn có tác động sâu sắc đến Đông Dương là việc lực lượng cộng sản Trung Quốc do Mao Trạch Đông lãnh đạo đã đánh bại Trung Hoa Dân Quốc do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo. Đầu năm 1950, Việt Minh nhanh chóng thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc mới (Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa). Hai bên nhanh chóng công nhận lẫn nhau và ngay sau đó là việc Liên Xô công nhận ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Viện trợ từ hai nước này nhanh chóng đến Việt Nam và lúc này, chiến tranh Đông Dương thực sự bước vào giai đoạn quyết liệt và đầy kịch tính. Quân đội Việt Minh dưới sự lãnh đạo của Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nhanh chóng mở hàng loạt chiến dịch quân sự tấn công quân đội Pháp. Mặc dù Chính phủ Pháp đã cử Tướng Jean de Lattre de Tassigny, Salan và Henri Navarre sang Việt Nam và nhận được nhiều sự hỗ trợ từ Hoa Kỳ, nhưng họ vẫn phải chịu những thất bại đáng xấu hổ tại Đường 14, Hòa Bình, Lạng Sơn và đặc biệt là tại Điện Biên Phủ (Hupe, Citation2015).
Tháng 3 năm 1954, quân đội Việt Minh đã tấn công quân đội Pháp tại Điện Biên Phủ. Sau hơn 50 ngày đêm tấn công, ngày 7 tháng 5 năm 1954, Điện Biên Phủ thất thủ. Quân đội Pháp đã thua một trận quyết định tại Việt Nam. Với thất bại này, cuộc chiến tranh Đông Dương và thời kỳ thuộc địa của Pháp cũng phải chấm dứt. Pháp buộc phải tham dự Hội nghị Geneva với tư cách là kẻ bại trận và phải gánh chịu những kết quả bất lợi nhất.
5. Geneva agreement (1954) - Hiệp định Geneva (1954)
Ngày 27 tháng 7 năm 1953, tại Bàn Môn Điếm trên bán đảo Triều Tiên (biên giới giữa Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc), lễ ký kết “Hiệp định Đình chiến Triều Tiên” đã diễn ra, chấm dứt cuộc chiến tranh kéo dài 3 năm. Sự kiện này đã thúc đẩy xu hướng giải quyết các xung đột thế giới thông qua đàm phán hòa bình.
Từ vấn đề Bán đảo Triều Tiên, Trung Quốc và Liên Xô cũng mong muốn sớm đạt được một giải pháp hòa bình ở Đông Dương sau giải pháp ở Triều Tiên. Ngày 19 tháng 9 năm 1953, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô Georgi Malenkov đã phát biểu quan điểm của mình về vấn đề “lấy hiệp định đình chiến ở Triều Tiên làm điểm khởi đầu để giảm bớt căng thẳng quốc tế ở khắp mọi nơi, bao gồm cả Đông Dương”. Ngày 21 tháng 9 năm 1954, Andrei Vishinsky, đại diện Liên Xô tại Liên Hợp Quốc, đã đề xuất “cắt giảm vũ khí và tuyên truyền để đẩy lùi nguy cơ một cuộc chiến tranh mới” (Jian, Trích dẫn 1993). Thủ tướng Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Chu Ân Lai ngay lập tức ủng hộ đề xuất của Liên Xô (ngày 8 tháng 10 năm 1953) và nêu vấn đề "Vai trò của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Trung Hoa tại Liên Hợp Quốc" (Jian, Trích dẫn 1993). Ông nhắc lại lập luận của Ngoại trưởng Liên Xô Malenkov về việc giảm căng thẳng quốc tế để củng cố hòa bình ở châu Á. Vào thời điểm đó, những người Cộng sản trong Quốc hội Pháp ủng hộ chính sách của Moskva và Bắc Kinh nhanh chóng lên tiếng yêu cầu đàm phán hòa bình với Hồ Chí Minh (đại diện của Việt Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa).
Hội đồng Hòa bình Thế giới đã thông qua nghị quyết vào tháng 9 năm 1953 kêu gọi nhân dân các nước đấu tranh chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương. Tháng 10 năm 1953, Đại hội Công đoàn Thế giới lần thứ III họp tại Viên (Áo) và quyết định lấy ngày 19 tháng 12 năm 1953 làm Ngày đoàn kết lao động thế giới với Việt Nam, yêu cầu Chính phủ Pháp chấm dứt chiến tranh xâm lược Việt Nam. Tất cả những tình hình trên, cùng với những thắng lợi quân sự của Việt Minh trước quân đội Pháp năm 1953, đã tạo cơ sở cho mặt trận ngoại giao của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa triển khai các kế hoạch ngoại giao mới.
Ngày 26 tháng 11 năm 1953, trong một cuộc trả lời phỏng vấn báo chí quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Nếu thực dân Pháp tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược, nhân dân Việt Nam quyết tâm tiếp tục cuộc chiến tranh yêu nước” (Asselin, Trích dẫn 2007) cho đến thắng lợi cuối cùng. Nhưng nếu Chính phủ Pháp đã rút ra bài học từ chiến tranh những năm gần đây và muốn đạt được một lệnh ngừng bắn ở Việt Nam bằng cách đàm phán và giải quyết vấn đề Việt Nam một cách hòa bình, thì chúng tôi sẵn sàng đàm phán… Cơ sở của lệnh ngừng bắn ở Việt Nam là Chính phủ Pháp chân thành tôn trọng nền độc lập thực sự của Việt Nam (Asselin, Citation2007). Tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ thiện chí hòa bình của Việt Nam, đồng thời tác động đến dư luận Pháp, mở ra khả năng giải quyết hòa bình cuộc chiến ở Đông Dương. Nhân dân Pháp, vốn đã chán ngấy chiến tranh, đã gây sức ép buộc Chính phủ Pháp phải ngay lập tức đàm phán với Chính phủ Hồ Chí Minh. Dưới áp lực từ nhiều phía, ngày 19 tháng 11 năm 1953, Thủ tướng Pháp Joseph Laniel đã phải tuyên bố: “Nếu một giải pháp danh dự xuất hiện, Pháp sẽ vui lòng chấp nhận một giải pháp ngoại giao cho cuộc xung đột” (Asselin, Citation2007).
Ngày 25 tháng 1 năm 1954, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao bốn nước Liên Xô, Hoa Kỳ, Anh và Pháp tại Berlin đã nhất trí triệu tập một hội nghị quốc tế có sự tham dự của đại diện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Geneva để thảo luận về giải pháp hòa bình cho vấn đề Triều Tiên và lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Ngày 5 tháng 3 năm 1954, Quốc hội Pháp đã khai mạc phiên họp đặc biệt để thảo luận về vấn đề Đông Dương. Ngày 10 tháng 3 năm 1954, Quốc hội Pháp đã thông qua nghị quyết ủng hộ việc triệu tập Hội nghị Geneva nhằm tìm kiếm giải pháp chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Về vấn đề này, Tổng tư lệnh quân đội Pháp tại Việt Nam, Henri Navarre, đã viết: “Việt Minh đã đạt được mục tiêu của mình. Hòa bình chỉ phụ thuộc vào họ. Thực vậy, Việt Minh biết rằng khi cuộc họp được tổ chức, với sự tham gia của nhiều nhà ngoại giao và hàng trăm nhà báo, Pháp sẽ khó lòng từ chối các điều kiện được đưa ra, nhất là khi nó bao gồm cả việc Pháp bị đánh bại thảm hại, điều này sẽ bị lợi dụng để làm suy yếu tinh thần của Pháp. Chúng ta đã mắc bẫy” (Tucker-Jones, Trích dẫn 2017).
Ngày 26 tháng 4 năm 1954, Hội nghị Geneva chính thức khai mạc, với sự tham gia của các Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Đại Hàn Dân Quốc. Bắc Triều Tiên (Hàn Quốc), tập trung thảo luận vấn đề Bán đảo Triều Tiên. Tuy nhiên, các cuộc đàm phán về vấn đề Triều Tiên đã thất bại, không có thỏa thuận nào về vấn đề Bán đảo Triều Tiên được thông qua, điều này đòi hỏi một kết quả tốt hơn về vấn đề Đông Dương nếu các bên không muốn Hội nghị Geneva tan vỡ mà không đạt được bất kỳ kết quả nào.
Năm nước lớn tham gia hội nghị vẫn chưa thống nhất về việc xác định thành phần các nước liên quan tham gia Hội nghị Geneva về Đông Dương. Phía Pháp đề nghị chỉ có đại diện của ba chính phủ thân Pháp là "Chính phủ Quốc gia Việt Nam" (do Bảo Đại lãnh đạo), Lào và Campuchia tham dự Hội nghị cùng với năm cường quốc. Phía Liên Xô đề nghị có đại diện của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (do Hồ Chí Minh lãnh đạo), nhưng Anh, Pháp và Hoa Kỳ đã không chấp nhận đề nghị này. Tuy nhiên, khi quân đội Việt Minh mở cuộc tấn công cuối cùng vào Điện Biên Phủ (ngày 1 tháng 5 năm 1954), biết rõ thất bại là không thể đảo ngược, ngày 2 tháng 5 năm 1954, ba nước này đã thông báo cho Liên Xô rằng họ chấp nhận sự hiện diện của đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Geneva về Đông Dương.
Ngày 4 tháng 5 năm 1954, theo lời mời của Chính phủ Liên Xô và Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, một phái đoàn của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Văn Đồng dẫn đầu đã đến Geneva.
Tham dự Hội nghị có đại diện của 9 đoàn đại biểu (Watt, Citation1967): Đoàn đại biểu Liên Xô do Bộ trưởng Ngoại giao Molotov dẫn đầu, Đoàn đại biểu Trung Quốc do Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Chu Ân Lai dẫn đầu, Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Văn Đồng dẫn đầu, Đoàn đại biểu Pháp do Bộ trưởng Ngoại giao G. Bidault dẫn đầu, Đoàn đại biểu Hoa Kỳ do Ngoại trưởng John Foster Dulles dẫn đầu, Đoàn đại biểu Anh do Bộ trưởng Ngoại giao Eden dẫn đầu, cùng với ba đoàn đại biểu của Chính phủ Quốc gia Việt Nam (do Nguyễn Quốc Định dẫn đầu), Vương quốc Lào và Vương quốc Campuchia. Liên Xô và Anh đồng chủ trì hội nghị.
Hội nghị Geneva về Đông Dương kéo dài 75 ngày với 31 phiên họp, bao gồm 7 phiên họp toàn thể và 24 cuộc họp cấp Trưởng đoàn. Hội nghị được chia thành 3 giai đoạn:
5.1. Phase 1 (from 8 May 1954 to 19 June 1954) - Giai đoạn 1 (từ ngày 8 tháng 5 năm 1954 đến ngày 19 tháng 6 năm 1954)
Bên cạnh việc trao đổi chương trình nghị sự và thảo luận, các đoàn đại biểu đã trình bày quan điểm về giải pháp cho vấn đề Việt Nam và Đông Dương.
Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Phạm Văn Đồng dẫn đầu đã đề nghị đại diện lực lượng kháng chiến Lào và Campuchia tham dự. Ngày 10 tháng 5 năm 1954, Phạm Văn Đồng phát biểu, nêu rõ lập trường của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa:
Giải quyết đồng thời cả vấn đề quân sự và chính trị.
Để giải quyết đồng thời cả ba vấn đề Việt Nam, Lào và Campuchia, ông nhấn mạnh rằng chính phủ Pháp phải công nhận các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, Campuchia và Lào.
Quân đội nước ngoài phải rút khỏi ba nước Đông Dương, đây là cơ sở quan trọng nhất để chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Lập trường của Việt Nam được Trung Quốc và Liên Xô ủng hộ. Ngày 25 tháng 5 năm 1954, trong một phiên họp kín, Phạm Văn Đồng đã đề nghị hai nguyên tắc cho vấn đề đình chiến:
Ngừng bắn hoàn toàn trên toàn Đông Dương.
Điều chỉnh vùng kiểm soát theo thực tế ở Campuchia, Lào và Việt Nam.
Về chính phủ Bảo Đại (Chính phủ Quốc gia Việt Nam), Nguyễn Quốc Định đưa ra lập trường: ‘Chính phủ Quốc gia Việt Nam là nhà nước duy nhất có thẩm quyền đại diện cho Việt Nam, quân đội Việt Minh có thể tham gia lực lượng quân sự chung, sau tổng tuyển cử tự do “Quốc gia Việt Nam” sẽ tổ chức thành lập một chính phủ duy nhất do Bảo Đại lãnh đạo’ (Landon, Trích dẫn 1966). Đề xuất này của Nguyễn Quốc Định bị coi là phi lý và không thực tế (Watt, Trích dẫn 1967).
Ngày 27 tháng 5 năm 1954, Pháp đồng ý lấy đề nghị của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa làm cơ sở để thảo luận trong các cuộc đàm phán. Trung Quốc nêu ra 6 điểm về các vấn đề quân sự như ngừng bắn toàn diện và đồng thời ở ba nước Đông Dương, thành lập Ủy ban Kiểm soát Quốc tế gồm các nước trung lập, nhưng không đề cập đến khía cạnh chính trị của giải pháp.
Ngày 29 tháng 5 năm 1954, sau 4 phiên họp toàn thể và 8 cuộc họp cấp phái đoàn, Hội nghị Geneva đã quyết định (Cable, Trích dẫn 1986):
Ngừng bắn toàn diện và đồng thời.
Đại diện quân đội Việt Nam và Pháp đã gặp nhau để có những thỏa thuận chi tiết về khu vực kiểm soát và ngừng bắn.
5.2. Phase 2 (from 20 June 1954 to 10 July 1954) - 5.2. Giai đoạn 2 (từ ngày 20 tháng 6 năm 1954 đến ngày 10 tháng 7 năm 1954)
Trong thời gian này, hầu hết các trưởng đoàn các nước đều trở về báo cáo, chỉ riêng Phạm Văn Đồng ở lại Geneva. Các cuộc họp hẹp và các cuộc họp của tiểu ban quân sự Việt-Pháp đã được tổ chức. Các cuộc họp chủ yếu thảo luận về các vấn đề tập trung, di chuyển quân đội, trao trả tù binh chiến tranh và việc đi lại giữa hai miền Nam Bắc Việt Nam. Tuy nhiên, các cuộc họp hẹp tại Geneva lúc này không đạt được tiến triển đáng kể nào.
Khi thảo luận về vấn đề tập trung lực lượng quân sự, phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đề xuất phương án tập trung tại chỗ, không phân chia khu vực tập trung quân sự ngay khi bắt đầu đàm phán. Phía Pháp ngay lập tức bác bỏ phương án này. Pháp đề xuất tạm thời phân chia khu vực tập trung quân sự và thành lập chính phủ Liên hiệp. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chấp nhận ý tưởng về ranh giới quân sự và Tổng tuyển cử, đồng thời cũng đưa ra đề xuất về đường phân giới. Hai bên đàm phán rất quyết liệt, Pháp đề nghị ở vĩ tuyến 18, Việt Nam muốn ở vĩ tuyến 13 vì thành phố Huế, cũng như vị trí chiến lược của Đà Nẵng hay Tây Nguyên của Việt Nam (Pieere, Citation2006).
Trước tình hình bế tắc về vấn đề vĩ độ trong việc phân chia vùng kiểm soát giữa Pháp và Việt Nam. Từ ngày 3 đến ngày 5 tháng 7 năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đến Liễu Châu gặp Thủ tướng Chu Ân Lai (Shao, Citation1986). Tại đây, Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng việc chọn vĩ tuyến 13 là hợp lý, vĩ tuyến 17 là “không thể chấp nhận được” và ít nhất là vĩ tuyến 16. Tuy nhiên, Chu Ân Lai có ý kiến: “Nếu cuộc đấu tranh tại hội nghị xác định ranh giới tạm thời gặp khó khăn, đề nghị linh hoạt về vĩ độ” (Jian, Citation1993). Chu Ân Lai nói với Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Tôi sẽ bàn bạc với Molotov và cố gắng hết sức để thực hiện chỉ thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Vì chúng ta ở xa, không có điều kiện trao đổi, nếu việc đấu tranh xác định ranh giới tạm thời gặp khó khăn, nếu phải chọn vĩ tuyến 17, tôi mong Chủ tịch Hồ Chí Minh lưu tâm đến vấn đề quan trọng nhất, đó là có hòa bình và có điều kiện thống nhất Việt Nam” (Jian, Trích dẫn 1993).
Ngày 9 tháng 7 năm 1954, phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đề nghị hạ xuống vĩ tuyến 14, trong khi Pháp vẫn giữ nguyên vĩ tuyến 18. Ngày 13 tháng 7, phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lại đề nghị hạ xuống vĩ tuyến 16. Ngày 17 tháng 7, phái đoàn Pháp kiên quyết đề nghị rằng biên giới quân sự ở vĩ tuyến nào cũng không quan trọng, miễn là nằm ở phía bắc Quốc lộ 9 miền Trung Việt Nam. Đây là dữ liệu lịch sử cho thấy Trung Quốc dưới thời Mao Trạch Đông đã có tác động rất lớn đến Hội nghị Geneva.
5.3. Phase 3 (from July 11 to July 21, 1954) - 5.3. Giai đoạn 3 (từ ngày 11 tháng 7 đến ngày 21 tháng 7 năm 1954)
Trong 10 ngày cuối của Hội nghị Genève, nhiều cuộc gặp gỡ và trao đổi song phương, ba chiều hoặc đa phương đã diễn ra giữa các Trưởng đoàn. Các cuộc gặp chủ yếu thông qua các văn kiện, bao gồm các điều khoản thực hiện Hiệp định, và cuối cùng là phiên họp toàn thể bế mạc Hội nghị.
Ngày 15 tháng 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã họp Hội nghị lần thứ VI tại Hà Nội dưới sự chủ trì của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tại đây, các nhà lãnh đạo cao nhất của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đồng ý với chủ trương "dùng biện pháp đàm phán để lập lại hòa bình ở Đông Dương" (Asselin, Trích dẫn 2007). Ngày 19 tháng 7 năm 1954, Việt Nam và Pháp đã thỏa thuận ranh giới tạm thời sẽ là vĩ tuyến 17, cách Quốc lộ 9 khoảng 10 km. Điều này phù hợp với ý kiến của Anh và Hoa Kỳ cũng như với sự đồng thuận của Trung Quốc và Liên Xô.
Phía Pháp đã phải nhượng bộ bằng cách chấp nhận tổ chức tổng tuyển cử vào tháng 6 năm 1956. Thay vì “mơ hồ” về thời điểm tổ chức tổng tuyển cử ở Việt Nam, Pháp đã phải chấp nhận yêu cầu nêu rõ bằng văn bản: “Đường ranh giới quân sự chỉ là tạm thời và không thể được diễn giải theo bất kỳ cách hợp pháp nào để trở thành biên giới chính trị hoặc lãnh thổ” (Landon, Citation1966).
Có một vấn đề là chính phủ Pháp lo ngại cuộc đàm phán với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ bị đổ vỡ nên họ tránh gặp đại diện của “Chính phủ Quốc gia Việt Nam” và chỉ yêu cầu Hoa Kỳ thông báo cho phái đoàn này về các thỏa thuận của họ với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Việc thành lập hai khu vực tập kết quân sự đã được thảo luận riêng rẽ giữa Pháp, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Trung Quốc và Hoa Kỳ, nhưng mãi đến cuối Hội nghị Geneva, phái đoàn “Chính phủ Quốc gia Việt Nam” mới được công bố (Pháp chỉ coi “Chính phủ Quốc gia Việt Nam” là “con rối” chính trị để duy trì ảnh hưởng và lợi ích của Pháp tại Việt Nam) (Buchan, Trích dẫn 1975).
Trong cuộc họp đêm 20 tháng 7 năm 1954, năm trưởng đoàn đại biểu Anh, Pháp, Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam đã thống nhất vào phút chót lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự và thời hạn tổng tuyển cử ở Việt Nam là sau 2 năm.
Ngày 21 tháng 7 năm 1954, Hội nghị Geneva về hòa bình ở Đông Dương kết thúc.
Các tài liệu được ký kết tại hội nghị bao gồm:
Ba Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, Lào và Campuchia.
Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị.
Hai tuyên bố riêng biệt của Phái đoàn Hoa Kỳ và Phái đoàn Pháp, ngày 21 tháng 7 năm 1954.
Công hàm trao đổi giữa Phạm Văn Đồng và Mendes France.
Các thỏa thuận đạt được tại hội nghị
Thỏa thuận chung cho ba nước: Việt Nam, Lào và Campuchia: Công nhận và tôn trọng các quyền cơ bản của nhân dân ba nước Đông Dương: độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mỗi nước, không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi nước.
Chấm dứt chiến sự trên toàn Đông Dương.
Pháp rút quân khỏi lãnh thổ ba nước Đông Dương. Quân Việt Minh rời khỏi Lào và Campuchia.
Ở Đông Dương không có căn cứ quân sự nước ngoài và các nước này sẽ không có liên minh quân sự với nước ngoài.
Tổng tuyển cử sẽ được tổ chức ở mỗi nước.
Không trả thù những người hợp tác với đối phương.
Trả tự do cho tù binh và người bị giam giữ.
Thành lập Ủy ban chung về kiểm soát và giám sát quốc tế Hiệp định Geneva.
Các thỏa thuận riêng với từng nước, bao gồm cả các thỏa thuận liên quan đến Việt Nam
Bao gồm 4 nội dung chính:
Các quy định về đình chiến và lập lại hòa bình: ngừng bắn, tập hợp và chuyển quân được cả hai bên thực hiện trong vòng 300 ngày; chuyển giao khu vực, trao trả tù binh chiến tranh và thường dân bị giam giữ, chuyển đổi khu vực, và việc giải quyết mồ mả liệt sĩ của cả hai bên tham chiến.
Các quy định về duy trì và củng cố hòa bình tại Việt Nam: Thiết lập đường biên giới quân sự tạm thời tại vĩ tuyến 17 và khu phi quân sự (sông Bến Hải - tỉnh Quảng Trị). Vĩ tuyến 17 là đường biên giới quân sự tạm thời, không được coi là ranh giới chính trị hay lãnh thổ, cấm tăng cường quân nhân, binh lính, vũ khí và các phương tiện chiến tranh khác vào Việt Nam, cấm xây dựng căn cứ quân sự mới, cấm hai miền tham gia bất kỳ liên minh quân sự nào, cấm sử dụng mỗi miền Bắc và Nam của Việt Nam để phục vụ bất kỳ chính sách quân sự nào.
Điều khoản chính trị: Tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam sẽ diễn ra vào tháng 7 năm 1956, nhân dân được tự do lựa chọn nơi cư trú trong thời gian chờ đợi. Các bên không được bức hại, trả thù hoặc phân biệt đối xử với những người đã hợp tác với bên kia trong chiến tranh.
Các điều khoản quy định việc tổ chức thực hiện Hiệp định: Ủy ban Kiểm soát Liên hợp, Ủy ban Giám sát Quốc tế Trung lập.
6. Some comments about the first Indochina war and the Geneva agreement-Một số nhận xét về cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất và Hiệp định Genève.
Việc ký kết Hiệp định Geneva năm 1954 đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam, đánh dấu bước tiến toàn diện trên con đường đấu tranh giành độc lập và thống nhất đất nước. Hiệp định Geneva đã nâng cao vị thế của Việt Nam, từ một quốc gia không được bất kỳ nước nào công nhận sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, trở thành một quốc gia được cộng đồng quốc tế công nhận, tạo cơ hội làm nền tảng, động lực cho cuộc chiến tranh chống Mỹ sau này. Tuy kết quả Hội nghị chưa như mong đợi, nhưng những thắng lợi và bài học mà Hội nghị này mang lại là kinh nghiệm quý báu để Việt Nam thực hiện các Hiệp định quốc tế khác trong tương lai.
Với Hiệp định Geneva, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nắm quyền kiểm soát miền Bắc Việt Nam (từ vĩ tuyến 17) và trở thành chỗ dựa vững chắc cho cách mạng giải phóng miền Nam và cuộc đấu tranh thống nhất đất nước sau năm 1954. Hiệp định Geneva “ra đời trong bối cảnh quốc tế như vậy, trong sự tương quan lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường, nhưng đã không đạt được tất cả những điều ta mong muốn”. Tuy nhiên, nó đã góp phần chấm dứt ách thống trị kéo dài một thế kỷ của Pháp, buộc quân đội xâm lược phải rút lui, và Pháp phải công nhận bằng văn bản nền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của ba nước. Đông Dương, vốn không có căn cứ quân sự nước ngoài nào ở ba nước này, về nguyên tắc chấp nhận một cuộc tổng tuyển cử tự do làm cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh lâu dài của chúng ta, và chấm dứt cuộc chiến tranh kéo dài chín năm trên toàn bán đảo Đông Dương” (Miller & Vu, Citation2009).
Ngày 22 tháng 7 năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận xét: “Vì hòa bình, thống nhất, độc lập và dân chủ của Tổ quốc, trong 8, 9 năm qua, toàn dân, toàn quân, toàn cán bộ và Chính phủ ta đã đoàn kết chặt chẽ, thống nhất từ trên xuống dưới, chịu đựng gian khổ, vượt qua mọi khó khăn, kiên quyết kháng cự và đã giành được nhiều thắng lợi vẻ vang (…). Chúng ta đã giành được thắng lợi to lớn. Chính phủ Pháp đã công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước ta, thừa nhận quân đội Pháp sẽ rút khỏi nước ta, từ nay phải ra sức đấu tranh để củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, hoàn toàn độc lập và dân chủ trong toàn quốc” (Asselin, Trích dẫn 2007).
Những thắng lợi và hạn chế của giải pháp Geneva đối với Việt Nam cũng phản ánh tương quan lực lượng giữa các nước lớn trên trường quốc tế, phản ánh sự phức tạp trong ý đồ chiến lược của các nước lớn trong đàm phán.
Với Trung Quốc: Từ năm 1950, Trung Quốc can thiệp ngày càng sâu vào công việc của Việt Nam. Yang (Citation2002) viết: “Do chủ trương đấu tranh vũ trang giành chính quyền và tin tưởng vào chủ nghĩa quốc tế, ngay sau khi giành được thắng lợi ở Trung Quốc, ĐCSTQ đã bắt đầu thể hiện sự đồng cảm và hỗ trợ các đảng Cộng sản ở châu Á đang trải qua các cuộc cách mạng. Quyết định hỗ trợ này phần nào phản ánh lợi ích địa chính trị của ĐCSTQ, nhưng những cân nhắc về ý thức hệ vẫn chiếm ưu thế. Mong muốn thúc đẩy cách mạng ở châu Á đã rất rõ ràng trong giai đoạn đầu của CHND Trung Hoa. Các nhà lãnh đạo ĐCSTQ nói với các đảng Cộng sản châu Á khác rằng phương pháp tổ chức mặt trận thống nhất dưới sự lãnh đạo của ĐCSTQ, tạo ra các vùng căn cứ địa cách mạng và giành chính quyền thông qua đấu tranh vũ trang đã thành công trong cách mạng Trung Quốc và nên trở thành “phương pháp cơ bản cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở tất cả các nước thuộc địa và bán thuộc địa khác” với điều kiện tương đương với Trung Quốc. Chính phù hợp với xu hướng ủng hộ cách mạng châu Á này mà ĐCSTQ đã hỗ trợ cho cuộc chiến tranh chống Pháp do những người Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”. Mao Trạch Đông tin rằng Trung Quốc có trách nhiệm phát triển chủ nghĩa cộng sản trên khắp châu Á và từ đó củng cố vị thế của mình trong quan hệ quốc tế. Hội nghị Geneva đã chứng kiến những toan tính ngoại giao của Trung Quốc về vấn đề Triều Tiên và Đông Dương. Trong đó, sự chia rẽ ở cả hai nước đều nằm trong toan tính của Trung Quốc (Jian, Citation1993). Có thể thấy, kết quả mà hội nghị này mang lại cho Trung Quốc là rất to lớn, không chỉ là lợi ích về sức mạnh trong trật tự thế giới mới mà còn là việc tạo ra một vùng đệm an toàn cho Trung Quốc trong cuộc tranh chấp giữa Mỹ và Liên Xô.
Đối với Hoa Kỳ: Hiệp định Genève và thất bại của Pháp ở Đông Dương đã mang lại cho họ một lợi ích lớn trong chiến tranh lạnh, đó là thay thế Pháp và biến Đông Dương thành một khu vực phụ thuộc. Chính phủ Hoa Kỳ tin rằng Đông Dương sẽ trở thành một tiền đồn chống cộng, ngăn chặn Liên Xô và Trung Quốc truyền bá chủ nghĩa cộng sản sang Đông Nam Á (Lacouture, Trích dẫn 1970). Điều này đã dẫn đến sự can thiệp quân sự mạnh mẽ của Hoa Kỳ vào Việt Nam, dẫn đến sự bùng nổ chiến tranh sau đó. Biên bản tóm tắt của Bộ trưởng Ngoại giao cho các thành viên của Quốc hội (Được tổ chức tại Bộ Ngoại giao, ngày 5 tháng 5 năm 1954) đã viết: 'Kế hoạch Navarre đã dự kiến một số thành tựu tấn công trong năm đầu tiên hoạt động, nhưng đến cuối năm thứ hai, người ta hy vọng rằng cuộc chiến sẽ được đưa đến giai đoạn chiến tranh du kích do quân đội bản địa xử lý. Kế hoạch này đã được phát triển một cách thỏa đáng và vẫn còn vững chắc, nhưng ý chí hành động tấn công của Pháp và thậm chí khả năng tự quản của họ đã tan rã. Vào thời điểm diễn ra Hội nghị Berlin, Chính phủ Laniel cảm thấy cần phải tìm cách đạt được hòa bình, nếu không sẽ sụp đổ; nếu điều này xảy ra, một chính phủ theo đuổi hòa bình bằng mọi giá có thể sẽ kế nhiệm. Do đó, tại Berlin, chúng tôi đã nhất trí tham gia Hội nghị Geneva, nhưng Bộ trưởng đã cảnh báo Bidault về khả năng cao sẽ xảy ra các cuộc tấn công quân sự của Cộng sản vì mục đích chính trị. Dự đoán này đã trở thành sự thật với diễn biến tại Điện Biên Phủ và áp lực gia tăng ở phần còn lại của khu vực, gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho vị thế của Pháp (Bộ Ngoại giao, Trích dẫn 1954).
Gửi Liên Xô: Ban đầu, Liên Xô tin rằng Đông Dương không quan trọng bằng các nước Đông Âu. Đó là lý do tại sao Liên Xô gần như đã ủy quyền cho Trung Quốc về các vấn đề Đông Dương (Lüthi, Citation2006). Radchenko (Citation2012) cho biết: 'Chắc chắn, không có nhiều kế hoạch chính sách đằng sau nỗ lực của Khrushchev đối với "thế giới thứ ba", theo cách sử dụng thuật ngữ gây tranh cãi nhưng hữu ích. Nó bắt đầu phần lớn như một màn trình diễn phụ trong cuộc đấu tranh quyền lực của Liên Xô, với Khrushchev tìm cách xây dựng uy tín của mình trong chính sách đối ngoại và do đó làm suy yếu các đối thủ của mình khi kế nhiệm. Tay sai của Stalin là Lavrentii Beria cũng đã làm điều tương tự trong thời gian tạm thời (trước khi ông ta bị thanh trừng và xử bắn), nhưng ông ta hy vọng sẽ chơi lá bài Đông Đức để củng cố quyền lực chính trị của mình. Khó khăn đối với cả Beria và Khrushchev là chính sách đối ngoại đã bị độc quyền bởi cựu ủy viên đối ngoại của Stalin là Viacheslav Molotov, và rất khó để cả hai đạt được thành công lớn trong quan hệ với Hoa Kỳ hoặc Tây Âu trong khi vẫn giữ Molotov ngoài cuộc. Khrushchev chỉ có thể làm điều này một khi ông ta đã khẳng định được quyền lực của mình một cách vững chắc hơn, tức là không phải cho đến năm 1956. Nhưng Molotov không nhúng tay vào mọi việc. Với việc "thế giới thứ ba" phần lớn nằm ngoài tầm ngắm chính trị của Molotov, Khrushchev có cơ hội rõ ràng để khai thác (Radchenko, Citation2012). Sau đó, do sự chia rẽ trong mối quan hệ giữa Trung Quốc và Liên Xô, Liên Xô ngày càng quan tâm đến khu vực Đông Dương, đặc biệt là ở Việt Nam. Mầm mống cho xung đột giữa Trung Quốc và Liên Xô cũng dần hình thành sau năm 1954.
Như vậy, có thể thấy, cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất và Hiệp định Genève đã thể hiện rõ ý đồ của các nước lớn. Những toan tính chính trị của các nước này sẽ một lần nữa khiến Đông Dương nóng lên và cần rất nhiều thời gian để giải quyết vấn đề. Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Bùi Thanh Sơn, trong bài viết gần đây nhân kỷ niệm 70 năm Hội nghị Genève, đã viết: “Nếu như trong “Hiệp định Sơ bộ” năm 1946, Pháp chỉ công nhận Việt Nam là một nước “tự do” trong Liên hiệp Pháp, thì với Hiệp định Genève, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc ta, các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam về độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ đã được chính thức khẳng định trong một điều ước quốc tế và được các nước tham dự Hội nghị Genève thừa nhận, thì đây là cơ sở chính trị, pháp lý hết sức quan trọng để nhân dân ta đấu tranh trên mặt trận chính trị, ngoại giao, thống nhất đất nước trong tương lai” (Sơn, Citation2024).
7. Conclusion-Kết luận
Quan hệ quốc tế sau năm 1945 chứa đựng nhiều vấn đề phức tạp. Sự xung đột lợi ích của các nước lớn đã làm cho tình hình chính trị toàn cầu nóng lên. Chiến tranh Lạnh lan rộng ra toàn thế giới và ảnh hưởng đến nhiều nước, trong đó có các nước trên bán đảo Đông Dương. Có thể thấy rằng cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất và Hiệp định Geneva phản ánh đầy đủ các khía cạnh phức tạp của quan hệ quốc tế trong giai đoạn này. Đây không chỉ là một cuộc chiến tranh quy mô lớn mà còn là nơi các nước lớn như Hoa Kỳ, Liên Xô và Trung Quốc có những âm mưu chính trị để nắm giữ vai trò thống trị trong trật tự thế giới. Ngày nay, nhìn vào cuộc chiến tranh này và Hiệp định Geneva, chúng ta có thể rút ra những kinh nghiệm trong quan hệ quốc tế để các nước có thể có những chính sách đối ngoại thực sự tốt cho đất nước mình. Trong trường hợp của Việt Nam, những bài học về ngoại giao với Trung Quốc trong giai đoạn này là rất quan trọng để hoạch định các chiến lược ngoại giao trong bối cảnh Trung Quốc đang trỗi dậy rất mạnh mẽ.
Disclosure statement- Tuyên bố tiết lộ
Tác giả không báo cáo bất kỳ xung đột lợi ích tiềm ẩn nào.
https://www.tandfonline.com/doi/full/10.1080/23311983.2024.2365048#abstract
Related Research Data
The Geneva Conference of 1954 on Indochina
Source: Unknown Repository
From the Vietnam War to an Indochina War
Source: Unknown Repository
Ilya V. Gaiduk, Confronting Vietnam: Soviet Policy toward the Indochina Conflict, 1945–1963
Source: Journal of Cold War Studies
Source: Journal of American-East Asian Relations
The Geneva Agreements 1954 in Relation to Vietnam
Source: The Australian Quarterly
Hanoi's Road to the Vietnam War, 1954-1965
Source: Unknown Repository
The Vietnam War as a Vietnamese War: Agency and Society in the Study of the Second Indochina War
Source: Journal of Vietnamese Studies
Source: Unknown Repository
Choosing Peace: Hanoi and the Geneva Agreement on Vietnam, 1954–1955
Source: Journal of Cold War Studies
Source: Current History
The Longest Wars: Indochina 1945-75
Source: Journal of Peace Research
The Indochina War and World Politics
Source: Foreign Affairs
https://www.jfklibrary.org/asset-viewer/archives/bbfpp
https://apps.dtic.mil/sti/tr/pdf/ADA007286.pdf
https://avalon.law.yale.edu/20th_century/inch001.asp
https://www.jcs.mil/Portals/36/Documents/History/Vietnam/Vietnam_1947-1954.pdf
http://www.vietnamgear.com/Indochina1954.aspx
https://scalar.usc.edu/works/the-vietnam-war/the-first-indochina-war-1946-1954
https://www.tandfonline.com/doi/full/10.1080/23311983.2024.2365048#d1e162
https://www.tandfonline.com/doi/full/10.1080/23311983.2024.2365048#abstract

No comments:
Post a Comment