202511114 Cộng Đồng Tham Luận Tình Trong Tuyến Lửa
Thơ Trần Quốc Bảo
20251114 cdtl 01
Tình Trong Tuyến Lửa
Làm sao quên được tình xưa,
Người yêu của lính, tuổi vừa đôi mươi.
Theo anh từng bước chẳng rời,
Vui buồn chia sẻ cuộc đời chiến binh!
Đã hay, ba nổi bảy chìm,
Xông pha trận mạc, muôn nghìn rủi ro!
Thế mà không chút đắn đo,
Theo ra tuyến lửa, chẳng lo lắng gì!
Dấn thân vào cuộc tình si,
Bên chồng, coi nhẹ hiểm nguy chiến trường!
Cũng gối đất, cũng nằm sương!
Bốn vùng chiến thuật, ta thường có nhau.
20251114 cdtl 02
Cho anh… hai bé tí nhau,
Dễ thương, đâu thể ngọc châu sánh bằng!
Trại gia binh, những tưởng rằng,
Là nơi diễm phúc Trời dành đôi ta.
Nhưng rồi… khói lửa tăng gia,
Vợ con có lúc cũng ra chiến hào.
Cùng chồng, tử thủ tuyến đầu!
Cũng dòng Trưng Triệu, há nào sợ chi!
Vẫn duyên dáng, nhưng gan lỳ!
Cứu thương tiếp tế, khác gì lính đâu!
Vợ chồng sát cánh bên nhau,
Tình trong tuyến lửa… biết bao nhiêu tình!
Ngờ đâu vận Nước điêu linh,
Giang sơn nhuộm đỏ… Chuyện mình thê lương!
Mỗi lần nhớ đến Quê Hương,
Nhớ người vợ lính can trường hiếm hoi.
Trần Quốc Bảo
Richmond, Virginia
Địa chỉ điện thư của tác giả:
quocbao_30@yahoo.com
Phiet Pham
From: thephiet_2002@yahoo.com
Tue, Nov 11 at 2:11 PM
Sau cuộc đổi tiền lần thứ hai năm 1978: Cuộc đào thoát trong đêm của một gia đình “tư sản”.
Cù Mai Công.
24-9-2025
Sau 1975, năm 1978 là một năm căng thẳng: Kh’mer đỏ gây xung đột ở biên giới Tây Nam, cuộc “cải tạo công thương nghiệp tư doanh” (dân gọi là “đánh tư sản”) đi vào cao điểm… Đặc biệt là việc căng thẳng đối phó Trung Quốc ở biên giới phía Bắc và chuyện nóng: Nạn kiều (người Hoa) di tản khỏi Việt Nam cả trăm ngàn người…
Tất cả dẫn đến cuộc đổi tiền lần thứ hai sau 1975, phạm vi cả nước, theo tỉ lệ một đồng Ngân hàng Nhà nước ở miền Bắc được đổi một đồng mới, còn ở miền Nam, một đồng mới bằng 0,80 đồng (80 xu) phát hành ngày 22-9-1975. Và cũng như lần đổi tiền lần đầu tiên ở miền Nam ngày 22-9-1975, mỗi gia đình, cá nhân chỉ được đổi một hạn mức nhất định, còn lại gởi ngân hàng.
Cùng với những căng thẳng về kinh tế, chính trị, việc đổi tiền lần này đã làm bùng phát chuyện vượt biên, di tản của hàng triệu người Hoa lẫn người Việt.
Nội dung này rất lớn và phức tạp, tôi hoàn toàn không đủ sức thể hiện – dù gia đình tôi lúc ấy cũng suýt bị quy là tư sản, bị chính quyền địa phương mời lên, ngỏ ý “mượn nhà” mặt tiền, ba bốn tầng làm hợp tác xã. May lúc đó, ngay sau 1975, hai anh tôi cao 1,77m và 1,79m, được Quân khu 7 tuyển quân, với nhiệm vụ là thành viên Đội tuyển bóng chuyền Quân khu 7 – hạng A2 TP.HCM. Nhà có hai con trong bộ đội nên chính quyền địa phương cũng nể mặt xíu, không nỡ ép.
Chỉ xin ghi lại một góc rất nhỏ ở vùng Ông Tạ, nơi hàng trăm gia đình bị “cải tạo công thương nghiệp tư doanh”):
Năm 2020, để chuẩn bị mặt bằng cho tuyến Metro 2 (tuyến Đường sắt đô thị Thành phố Hồ Chí Minh), giai đoạn 1 Bến Thành – Tham Lương, vài nhà thuộc quản lý nhà nước ở ngã ba Ông Tạ đã được giải tỏa đầu tiên.
Một buổi sáng sau giải tỏa, trên đống gạch vụn, xà bần của ngôi nhà ấy bỗng xuất hiện một người đàn ông lớn tuổi, tóc nhiều sợi bạc. Ông cầm theo một cây cuốc nhỏ, lặng lẽ vào một góc ngôi nhà cũ, cuốc cuốc đào đào gì đó. Mảnh đất giải tỏa, xà bần lổn nhổn, người qua lại cũng không chú ý, chắc nghĩ đó là một người lượm ve chai, moi tìm sắt vụn sau giải tỏa.
Một lúc sau, người đàn ông đó buông cuốc, dừng tay, gương mặt thoáng vẻ thất vọng, lặng lẽ ra về, như lúc tới.
Ngôi nhà bị giải tỏa, nơi người đàn ông đào, cuốc ấy ở ngay góc ngã ba Thoại Ngọc Hầu (nay là Phạm Văn Hai) – Phạm Hồng Thái (Cách Mạng Tháng Tám) xưa là một tiệm tổng đại lý bán sỉ bánh kẹo, thuốc lá lớn, không người Ông Tạ nào không biết: Tiệm Quang Minh.
Xưa học tiểu học ở Trường trung tiểu học Mai Khôi (nay là Trường tiểu học Bành Văn Trân), tôi hay ghé xe bánh mì của bà Liêm, thúng xôi của bà Ngoạn ngồi ghé trước cửa tiệm bánh này mua ăn. Nhìn vào tiệm, tôi thấy ê hề bánh kẹo nội, ngoại đủ loại, rất thèm.
Ông chủ tiệm bánh xưa tên Thúy, sinh năm 1927, gốc Lưu Phương, một làng đạo ở Kim Sơn, Phát Diệm. Bà chủ tên Cậy, có vẻ trẻ hơn ông nhiều, ăn nói nhẹ nhàng, hiền lành. Cả hai ông bà đều mộ đạo, kính Chúa yêu người.
Thoạt đầu gia đình ông bà và các con ở đầu hẻm 158 đường Thoại Ngọc Hầu cùng dãy và gần nhà tôi. Trong hẻm có gia đình “tam đại đồng đường” của bố mẹ tiến sĩ sử học Nguyễn Nhã, ông trùm du đãng Sơn Đảo… Có lúc ca sĩ Phương Dung cũng mướn nhà trọ trong hẻm một thời gian.
Sau đó, ông bà mua ngôi nhà này, vốn có chủ cũ là tiệm gạo Quang Vinh, chỉnh sửa, xây mới lại thành ngôi nhà có thể nói là hiện đại và đẹp nhất khu ngã ba Ông Tạ lúc ấy: Mặt tiền nhà là hệ thống lam bê tông dọc, ngang; tường bên ngoài đá rửa trộn kính vụn nghiền nhỏ, nắng chiếu vào, ánh sáng óng ánh rất đẹp.
Ông Thúy vốn từng làm cho Công ty dược Pharma. Năm 1971, ông ngăn đôi phía bên đường Phạm Hồng Thái mở tiệm thuốc Kim Sơn cho con trai là anh Minh, lúc ấy mới 18 tuổi đứng bán.
… Quay trở lại người đàn ông cuốc, đào góc nhà. Đó là ông Hoàng Văn Minh, Việt kiều Mỹ, con trai cả của ông bà chủ tiệm bánh Quang Minh xưa. Hồi Covid-19 năm 2021, thấy tôi bỏ tiền túi tự đi làm từ thiện, anh ngỏ ý gởi tôi 500 USD để phụ một tay. Nhưng tôi lúc ấy còn xoay sở được nên đành khất lại.
Người con trai cả của Quang Minh đã cuốc, đào tìm gì ở ngôi nhà xưa của mình? Trong một quán cà phê trong vùng Ông Tạ, anh Minh “thú thật” với tôi: Tìm số vàng cha mẹ vốn chôn giấu ở góc đó trước khi gia đình bị “đánh tư sán” trong đợt “Cải tạo công thương nghiệp tư doanh” năm 1978 ở vùng Ông Tạ – một trong những khu vực trọng điểm của quận Tân Bình lúc ấy. Có lẽ do khu này nhiều tiệm vàng, nhà buôn lớn, xây ba, bốn tầng.
Anh Minh cho biết: “Đào ở chỗ chôn vàng, xuống một chút, thấy ống nước nhựa Bình Minh được lắp, thay ống nước sắt – gang đúc hồi xưa là biết ai đó khi thay ống nước cũ đã phát hiện ra số vàng này.
Đó là số vàng gia đình anh không kịp đào, mang đi trong một đêm năm 1978. 0 giờ đêm ấy, chính quyền đã đưa người tới kiểm kê. Do bố mẹ anh không chịu ký giấy hiến nhà, chính quyền đã niêm phong cửa nẻo, tạm giữ cả gia đình anh trong nhà. Bố trí người canh bên ngoài, ngay trước nhà.
Tuy nhiên, buổi chiều trước đó, một người quen thân của gia đình làm trong bộ máy chính quyền phường đã gọi ba anh ra tiệm phở Bình, cạnh trường Thánh Tâm (nay là Trường trung học cơ sở Tân Bình) báo khẩn cấp: “Nhà ông bà sẽ kiểm kê lúc 0 giờ”.
Ngay lập tức, toàn bộ tiền mặt, vài trăm lượng vàng, ba xe hơi Honda Civic, Peugeot 404, Peugeot 504 của gia đình đã được “di tản” sang nhà một người quen ở Gò Vấp.
Rất liều lĩnh, còn anh Minh nói là một “phép lạ”: Ba giờ sáng, anh lên sân thượng, leo qua nhà bên cạnh, thoát ra ngoài, đến nhà một người bạn của ba, mượn một xe tải nhỏ. Anh cầm lái, “đút đít” xe vào hàng hiên gần nhà. Cả gia đình (bố mẹ và ba em gái) leo xuống trong khi nhóm canh chừng vẫn trong giấc ngủ say tuổi đôi mươi, hay biết mà lờ đi không rõ.
Cả nhà ghé ngôi nhà đã gởi tiền, vàng nhận lại rồi chạy thẳng ra Vũng Tàu. Tới Hàng Xanh, bị chặn hỏi đi đâu, bố anh nói đi Kinh tế mới. Anh em chặn cười: “Vũng Tàu làm gì có khu Kinh tế mới nào”, nhưng cũng thông cảm cho đi.
Gia đình ghé xã Phước Hòa xin cư trú. Bí thư xã cười: “Bị đánh tư sản phải không?” nhưng cũng cấp cho nửa mẫu đất làm ruộng.
Ở tạm thôi, từ số vàng lấy kịp khi rời nhà, cả gia đình anh lần lượt tìm nhiều đường vượt biên, may mắn trót lọt hết.
Phiet Pham
From: thephiet_2002@yahoo.com
Sun, Nov 9 at 12:02 PM
Xin gửi một số tác phẩm kiếm Hiệp của tác giả Kim Dung để nhớ lại một thời mê truyện kiếm hiệp của tuổi học trò.
- ANH
HÙNG XẠ ĐIÊU
- BẠCH MÃ KHIẾU TÂY PHONG
- BÍCH HUYẾT KIẾM
- CÔ GÁI ĐỒ LONG -
- HIỆP KHÁCH HÀNH
- LIÊN THÀNH QUYẾT
- LỘC ĐỈNH KÝ
- PHI HỒ NGOẠI TRUYỆN
- THẦN ĐIÊU ĐẠI HIỆP
- THẦN ĐIÊU HIỆP LỮ
- THIÊN LONG BÁT BỘ
- THƯ KIẾM ÂN CỪU LỤC
- TIẾU NGẠO GIANG HỒ
- TUYẾT SƠN PHI HỒ
- UYÊN ƯƠNG ĐAO
- VIẸT KIẾM NỮ
- Ỷ THIÊN ĐỒ LONG KÝ
Link tải sách về:
https://drive.google.com/drive/folders/1Foa8M0ylmV6DitKl-A7CKnIJ6fFqkcTu?usp=sharing
Dịch giả Hàn Giang Nhạn.
20251114 cdtl 03
Đoàn Xuân Thu
Hàn Giang Nhạn, là dịch giả tiêu biểu đưa các tác phẩm võ hiệp của Kim Dung đến với bạn đọc miền Nam trước 1975. Ông được biết đến rộng rãi qua các bản dịch *Thiên Long Bát Bộ*, *Tiếu Ngạo Giang Hồ*, *Lộc Đỉnh Ký*, *Hiệp Khách Hành*, *Liên Thành Quyết* và *Tố Tâm Kiếm* (Thư Kiếm Ân Cừu Lục), tạo nên một “thời kỳ vàng son” của văn học võ hiệp tại Sài Gòn.
Ông tên thật là Bùi Xuân Trang sinh ngày 8/5/1909 tại Thái Bình trong một gia đình chú trọng học vấn. Từ nhỏ, ông đã học Hán ngữ với chú họ, Quốc ngữ với cha, và tiếng Pháp với một chú ruột.
Dù gầy yếu, ông luôn được gia đình thúc giục học hành nghiêm túc. Năm 17 tuổi, mẹ ông qua đời, buộc ông phải sớm tự lập, vừa đi dạy kèm vừa tiếp tục theo học chương trình Trung học. Năm 19 tuổi, ông trúng tuyển kỳ thi vào ngành Sư phạm Nam Định, trong khi cả tỉnh chỉ lấy 40 giáo sinh.
Sau khi tốt nghiệp, ông dạy học tại nhiều địa phương, từ Phú Thọ đến Trung du Hải Phòng, rồi trở về quê nhà. Sau đó, ông chuyển sang làm việc tại Sở Công Chánh Hải Phòng và theo thời cuộc, vào Sài Gòn năm 1954. Ba năm sau, ông dạy học tại Trường Trần Lục, Tân Định.
Hàn Giang Nhạn bắt đầu sự nghiệp dịch thuật chuyên nghiệp từ cuối thập niên 1950, dựa vào vốn Hoa ngữ mà ông đã học từ thuở nhỏ.
Bản dịch đầu tiên của ông là "Thiên Long Bát Bộ", mở đầu cho chuỗi tác phẩm võ hiệp Kim Dung mà ông tiếp nhận. Các tác phẩm tiếp theo được ông dịch liên tục, không theo thứ tự sáng tác của Kim Dung tại Hồng Kông, nhưng đều giữ nguyên tinh thần võ hiệp và nét văn hóa Trung Hoa.
Ông sử dụng bút danh Hàn Giang Nhạn để chuyên dịch các tác phẩm võ hiệp; còn hai bút danh khác của ông là Thứ Lang (cho văn chương, khảo cứu, học thuật, lịch sử) và Vô Danh Khách (cho các bài hài hước hoặc ngắn). Bút danh Hàn Giang Nhạn ra đời năm 1963, khi các tác phẩm Kim Dung bắt đầu xuất hiện tại Sài Gòn qua Minh Báo Hương Cảng.
Quá trình dịch thuật của ông đặc biệt công phu. Ông đọc từng trang báo gốc, dịch ngay tại chỗ, và có trợ lý chép lại bản dịch. Văn phong của ông vừa trung thành với nguyên tác, vừa phóng khoáng, vừa thơ mộng. Các đoạn văn vần trong truyện gốc khi dịch sang tiếng Việt vẫn giữ được nhịp điệu, ví dụ đoạn mở đầu *Tiếu Ngạo Giang Hồ*:
*Gió Xuân đầm ấm, ngàn liễu xanh tươi,
Hoa phô sắc thắm, hương nức lòng người.*
Hay bài thi Khiển Hoài của Đỗ Mục trong *Lộc Đỉnh Ký*:
*Lưu lạc Giang Nam đã bấy lâu
Cùng người nhỏ bé ở bên nhau
Mười năm chợt tỉnh Dương Châu mộng
Mang tiếng trăng hoa nghĩ lại sầu.*
Những câu chữ này không chỉ truyền tải nội dung mà còn tái hiện cảm xúc, nhịp điệu và tinh thần võ hiệp của Kim Dung. Nhờ đó, bản dịch của ông được đánh giá là tự nhiên, sống động, và hoàn thiện hơn nhiều so với các bản dịch đơn giản chỉ chuyển ngữ.
Về Kim Dung, cần lưu ý: ông viết truyện bằng tiếng Trung phồn thể, xuất bản tại Hồng Kông. Khi dịch sang tiếng Anh, những tác phẩm của ông không đạt được sự nổi tiếng như ở Việt Nam, bởi lẽ: ngôn ngữ Anh khó truyền tải đầy đủ bối cảnh lịch sử, sắc thái võ hiệp, văn hóa và triết lý Đông phương vốn đậm đặc trong nguyên tác. Các bản dịch tiếng Anh thường bị giản lược, khiến độc giả phương Tây khó cảm nhận chiều sâu nhân vật, mạch truyện và yếu tố văn hóa đặc trưng. Trong khi đó, Hàn Giang Nhạn bằng vốn hiểu biết văn hóa Đông phương, kỹ năng Hoa – Việt linh hoạt, đã giúp truyện Kim Dung tới tay độc giả miền Nam một cách trọn vẹn và sinh động.
Ngoài Kim Dung, Hàn Giang Nhạn còn dịch các tác giả khác như Ngọa Long Sinh, Lương Vũ Sinh, Cổ Long, góp phần phổ biến tiểu thuyết võ hiệp rộng rãi. Ông cũng tự mình sáng tác một số tiểu thuyết võ hiệp, song nổi bật hơn cả vẫn là vai trò dịch giả Kim Dung.
Nhìn chung, Hàn Giang Nhạn đã giúp các tác phẩm võ hiệp trở thành hiện tượng văn hóa tại miền Nam trước 1975. Do công sức của ông, hàng triệu độc giả được trải nghiệm những câu chuyện về Kiều Phong, Đoàn Dự, Mộ Dung Phục, Vương Ngọc Yến, các chùa Thiên Long, Nhạn Môn Quan và nhiều khung cảnh lịch sử Trung Hoa huyền thoại. Bản dịch của ông không chỉ là chuyển ngữ mà còn là cầu nối văn hóa, giúp người Việt Nam hiểu và cảm nhận tinh thần võ hiệp Kim Dung một cách sâu sắc.
Hàn Giang Nhạn mất năm 1981, kết thúc cuộc đời gắn bó với học hành, giáo dục và dịch thuật. Sáu năm cuối đời, ông gác bút, nhưng các bản dịch của ông vẫn sống mãi, trở thành di sản văn hóa, nuôi dưỡng tâm hồn độc giả miền Nam và làm nền tảng cho việc tiếp nhận truyện kiếm hiệp Kim Dung trong văn hóa đọc Việt Nam.
Tóm lại:
Hàn Giang Nhạn (Bùi Xuân Trang, 1909–1981) là dịch giả quan trọng nhất của Kim Dung tại miền Nam trước 1975.
Kim Dung** viết truyện bằng tiếng Trung phồn thể.
Dịch sang tiếng Anh khó nổi tiếng vì văn hóa, bối cảnh và sắc thái võ hiệp không được truyền tải đầy đủ.
Sự nghiệp dịch thuật của Hàn Giang Nhạn kéo dài hàng chục năm, với các tác phẩm được bạn đọc miền Nam đón nhận nồng nhiệt, giữ nguyên tinh thần và nhịp điệu của nguyên tác.
Nhờ Hàn Giang Nhạn, các tác phẩm võ hiệp Kim Dung trở thành một phần ký ức văn hóa sống động, và tên ông trở thành biểu tượng của sự tận tụy, kỹ năng dịch thuật và tình yêu văn chương.
ST



No comments:
Post a Comment