Tuesday, October 15, 2024

20241015 CDTL Ho Chi Minh Ruoc Phap Vao Viet Nam

20241015 CDTL Ho Chi Minh Ruoc Phap Vao Viet Nam


***

Hồ Chí Minh âm thầm rước Pháp trở lại Việt-Nam qua hòa ước Modus Vivendi ký ngày September 14, 1946.

***  

Ho Chi Minh signed joint declaration and Modus Vivendi

https://history.state.gov/historicaldocuments/frus1946v08/d75 

1.    Document 75

Foreign Relations of the United States, 1946, The Far East, Volume VIII

851G.00/9–1746: Telegram

The Ambassador in France (Caffery) to the Secretary of State

confidential

Paris, September 17, 1946—5 p.m.
[Received September 17—3:24 p.m.]

https://history.state.gov/historicaldocuments/frus1946v08/d75

Franco-Vietnam Modus Vivendi of September 14th, 1946

http://www.vietnamgear.com/modusvivendi.aspx

Franco-Vietnam Modus Vivendi of September 14th, 1946

1.              Viet-Nam nationals in France, French nationals in Viet-Nam will enjoy the same freedom of “establishment” as nationals, as well as freedom of opinion, of teaching, of commerce, of circulation, and more generally all democratic liberties.

2.              French property and enterprises in Viet-Nam may not be submitted to a stricter regime than that accorded property and enterprises of Viet-Nam nationals, particularly with regard to taxes and labor legislation. This legal equality will be accorded on a reciprocal basis to the property and enterprises of Viet-Nam nationals in the territories of the French Union.
The status of French property and enterprises in Viet-Nam may only be modified by mutual agreement between the French Republic and the Democratic Republic of Viet-Nam.
All French property requisitioned by the Government of Viet-Nam, of which persons or enterprises have been deprived by the Viet-Nam authorities, will be returned to their owners or representatives. A mixed commission will be appointed to set the conditions of this restitution.

3.              In order to renew cultural relations which France and Viet-Nam are both desirous of developing, French schools of various grades may function freely in Viet-Nam. They will follow official French programs. By special agreement, the necessary buildings will be attributed to these establishments. They will be open to Viet-Nam students.
Scientific research and the establishment and operation of scientific institutes are free in all the terrorist of Viet-Nam for French nationals. Viet-Nam nationals will enjoy the same privileges in France.
The Instut Pasteur will be restored in its rights and property. A mixed commission will settle the conditions under which the Ecole Francais d’Extreme Orient will resume its activity.

4.              The Government of the Democratic Republic of Viet-Nam will call upon French nationals by priority each time it requires advisors, technicians or experts. The priority accorded to French nationals will only cease to operate in case of impossibility on the part of France to furnish the requested personnel.

5.              As soon as the present problem of monetary harmonisation is solved, a single and identic currency will have legal tender in the territories placed under control of the Government of the Democratic Republic of Viet-Nam and in the other territories of Indochina.
This currency id the Indochinese piastre now issued by the Bank of Indochina pending the creation of an issuing institution.
The status of the issuing institution will be studied by a mixed commission in which all the members of the Federation will be represented. This commission will also coordinate currency and exchange. The Indochinese piastre is part of the "zone franc."

6.              Viet-Nam forms a custom union with the other countries of the Indochinese Federation. Consequently, there will exist no internal customs barriers and the same tariffs will be applied everywhere on entry into and departure from Indochinese territory.
A coordinating committee for customs and foreign commerce, which may furthermore be the same as the committee for currency and exchange, will study the necessary measures of application and will prepare the customs organization of Indochina.

7.              A mixed coordinating commission for communications will study the necessary measures to re-establish and improve communications between Viet-Nam and the other countries of the Indochinese Federation and of the French Union: overland, maritime, and air transportation; postal, telephonic, telegraphic and radio-electric communications.

8.              Pending the conclusion by the French Government and the Government of the Democratic Republic of Viet-Nam of a definite agreement regulating the question of diplomatic relations between Viet-Nam and foreign countries, a Franco-Viet-Nam mixed commission will set the measures to be taken to assure consular representation of Viet-Nam in neighboring countries and Viet-Nam relations with foreign consuls.

9.              Anxious to assure as soon as possible in Cochin-China and in southern Annam the restoration of public order necessary both to the free development of democratic liberties and to the resumption of commercial transactions and conscious of the happy effect which the cessation on both sides of all acts of hostility and violence might have in this connection, the French Government and the Government of the Democratic Republic of Viet-Nam have decided together on the following measures:

a.              All acts of hostility and violence on both sides will cease;

b.              Agreements between French and Viet-Nam general staffs will settle the conditions of application and control of measures decided upon together;

c.              It is specified that prisoners now held for political reasons will be freed, with the exception of those held for crimes and offenses under common law;
The same will apply to prisoners taken in the course of (military) operations;
Viet-Nam guarantees that no action will be taken and no act of violence will be tolerated against any person because of his attachment of loyalty to France; reciprocally the French Government guarantees that no action will be taken and no act of violence tolerated against any person because of his attachment to Viet-Nam;

d.              the exercise of democratic liberties defined in Article I will be reciprocally guaranteed;

e.              unfriendly propaganda on both sides will cease;

f.               the French Government and the Government of the Democratic Republic of Viet-Nam will collaborate to render nationals of ex-enemy countries harmless;

g.              a person appointed by the Government of the Democratic Republic of Viet-Nam and approved by the French Government will be accredited to the High Commissioner to establish the cooperation necessary to execute this agreement.

10.         The Government of the French Republic and the Government of the Democratic Republic of Viet-Nam agree to seek together the conclusion of special agreements on all questions which may arise, in order to strengthen their friendly relations and prepare the way for a general final treaty. The negotiations will be resumed to this end as soon as possible and at the latest in January 1947.

11.         The dispositions of the present modus vivendi, made in duplicate, will go into effect October 30, 1946.

Done at Paris, September 14, 1946

For the Government of the Democratic Republic of Viet-Nam, The President of the Government,
Signed: Ho Chi Minh

For the Provisional Government of the French Republic The French Minister for Overseas France,
Signed: Marius Moutet

http://www.vietnamgear.com/modusvivendi.aspx

Phiet Pham 

From: thephiet_2002@yahoo.com

Mon, Oct 14 at 1:24 PM

Subject: Fw: Lịch sử không thể chỉ được biết có một nửa

 

Mời đọc để hiểu tường tận Vietnam đã được Vua BẢO ĐẠI ký ngày 11 tháng 3 năm 1945 và chính phủ Trần Trọng Kim quản trị . Sau đó 5 tháng giặc Cọng cướp chính quyền lếu láo nói và viết công đánh Pháp thực dân và...

 

Lịch Sử không thể chỉ được biết có một nửa

 

Gs. Phạm Cao Dương

 

“Hoàng đế Bảo Đại vào 11/3/1945 đã ký đạo dụ ‘Tuyên cáo Việt Nam độc lập’, khôi phục nền độc lập của đất nước, thống nhất Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ”.

 

Sự Thực Về Ngày 2 Tháng 9, 1945, 73 Năm Nhìn Lại: HAI BẢN TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP THAY VÌ MỘT, Lịch Sử Không Thể Chỉ Được Biết Có Một Nửa.

 

Trong lịch sử tranh đấu giành độc lập của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ hai mươi, hai lần nước ta đã được các nhà cầm quyền đương thời chính thức tuyên bố độc lập.  Lần thứ nhất vào ngày 11 tháng 3 năm 1945 bởi Hoàng Đế Bảo Đại và lần thứ hai vào ngày 2 tháng 9 năm 1945 bởi Chủ tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Hồ Chí Minh.  

 

Hai lần cả thảy, nhưng đa số người Việt chỉ biết hay chỉ được học có một lần.  Họ chỉ biết hay chỉ được học bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 mà không biết hay không được học bản tuyên ngôn của Vua Bảo Đại ngày 11 tháng 3, 1945, ngót sáu tháng trước đó.  Lịch sử do đó chỉ được biết có một nửa thay vì toàn vẹn.  Bài này nhằm bổ khuyết cho tình trạng thiếu sót đó, đồng thời phân tích nội dung và ý nghĩa của từng bản.


Bài này được trích đăng một phần từ tác phẩm Trước Khi Bão Lụt Tràn Tới: Bảo Đại-Trần Trọng Kim và Đế Quốc Việt Nam, 9/3/1945-30/8/1945 của tác giả, do Nhà xuất bản Amazon in và phát hành, thể theo lời yêu cầu của một số quý vị độc giả, vì lý do này hay lý do khác, không có cuốn sách này trong tay, muốn biết rõ hơn và đầy đủ hơn về hai bản tuyên ngôn quan trọng này, liên hệ tới định mạng và lịch sử đầy đau thương, máu xương và nước mắt của dân tộc Việt Nam.


TUYÊN NGÔN CỦA HOÀNG ĐẾ BẢO ĐẠI


Hoàn cảnh được công bố

 

Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoàng Đế Bảo Đại được công bố ngày 11 tháng 3 năm 1945, hai ngày sau khi Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương và sau một thời gian dài hơn bốn năm, từ cuối tháng 9 năm 1940, sau khi quân Nhật vào phần đất này của Đông Nam Á, gần năm tháng trước khi Nhật Bản đầu hàng và Thế Chiến Thứ Hai kết thúc.  Trong thời gian này Việt Nam bị sống dưới sự cai trị của cả người Pháp, từ sau khi Hòa Ước 1884 được ký kết, lẫn người Nhật, từ ngày 22 tháng 9 năm 1940, với một hậu quả khủng khiếp là Trận Đói Tháng Ba Năm Ất Dậu.  Hoàn cảnh này đã làm cho không chỉ riêng những người Cộng Sản, vốn chủ trương đánh đổ chế độ quân chủ để “cướp chính quyền” (chữ của chính người Cộng Sản) để từ đó thực thi cách mạng vô sản mà luôn cả những người không những không có cảm tình với chế độ quân chủ đương thời mà còn chủ trương lật đổ chế độ này để thay thế bằng một chế độ dân chủ, không nhìn nhận giá trị đích thực của bản tuyên ngôn này.  Lý do là vì Bảo Đại luôn luôn bị coi như một ông vua bù nhìn, trước kia trong tay người Pháp và lúc đó trong tay người Nhật. Theo họ trước kia người Pháp bảo sao, ông làm vậy và sau đảo chính 9 tháng 3 năm 1945, người Nhật bảo ông tuyên bố độc lập thì ông tuyên bố độc lập, thế thôi.  Người ta chỉ hiểu hay được học đơn giản như vậy.  Nền độc lập mà Bảo Đại tuyên bố theo họ chỉ là do người Nhật ban cho và bản tuyên ngôn của ông chẳng có một giá trị gì trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của người Việt. Thực chất của nó chỉ là “sự tuyên bố công khai việc thay thầy đổi chủ của triều đình Bảo Đại” [1] không hơn không kém.  Sự thực không đơn giản như vậy.  Người Nhật có lý do làm đảo chính lật đổ người Pháp và Bảo Đại có lý do phải chấp nhận yêu cầu của người Nhật tuyên bố Việt Nam độc lập. Lý do của Bảo Đại đã được ông giải thích khi tiếp kiến Trần Trọng Kim và cố gắng thuyết phục ông này chấp nhận làm thủ tướng đầu tiên của chính phủ Nam Triều độc lập.  Nguyên văn câu nói của Bảo Đại được Trần Trọng Kim kể lại như sau:


–         Trước kia nước Pháp giữ quyền bảo hộ nước ta, nay đã không giữ được nước cho ta, để quân Nhật đánh đổ, vậy những điều trong hiệp ước năm 1884 không có hiệu quả nữa, nên Bộ thượng thư đã tuyên hủy hiệp ước ấy. Trẫm phải đứng vai chủ trương việc nước và lập chính phủ để đối phó mọi việc. 
[2]


Người ta cần phải nhớ là hơn mười năm trước đó, sau khi du học từ Pháp về tới Huế được hai ngày, ngày tháng 10 tháng 9 năm 1932, Bảo Đại đã ra Dụ số 1 tuyên bố chấp chính và khẳng định chế độ quân chủ của Nam Triều hủy bỏ Quy Ước 6 tháng 11 năm 1925 do Hội Đồng Phụ Chính, đứng đầu là Tôn Thất Hân, ký với Toàn Quyền Đông Dương thời ông còn nhỏ tuổi và đang du học bên Pháp, tước bỏ hầu hết các quyền hành còn lại của nhà vua trừ các quyền có tính cách nghi lễ, ân xá, sắc phong, tế lễ… kèm theo nhiều dụ khác nhằm thực hiện những cải cách quy mô trong nền hành chánh của chính phủ Nam Triều, nhưng đã bị người Pháp ngăn cản và bị thất bại.   Đảo chính 9 tháng 3 năm 1945 và lời yêu cầu tuyên bố độc lập của người Nhật dù gì đi chăng nữa cũng là điều vị hoàng đế còn trẻ tuổi này từ lâu mong đợi.  Ngoài ra theo nhận định và giải thích nhằm thúc đẩy Trần Trọng Kim “chịu khó” lập chính phủ mới. Ông nói:


- Trước kia người mình chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn, nhưng mình cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có chính phủ thì người Nhật bảo mình bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông nên vì nghĩa vụ cố lập thành một chính phủ để lo việc nước. 
[3]


Hai tiếng “cơ hội” Bảo Đại dùng ở đây cho ta thấy ông từ lâu mong có dịp này. Đồng thời ông cũng hiểu rằng nền độc lập mà ông tuyên cáo chưa phải độc lập hẳn.  Chưa hết, tuyên bố rồi ông còn có nhu cầu phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập và nhất là để tránh không cho người Nhật “lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta.”  Một sự e ngại chỉ có những người có kiến thức về lịch sử và chính trị học mói biết được.  Ngoài ra những tiếng “rất có hại cho nước ta” cũng cho người ta thấy đối tượng của hành động tuyên cáo độc lập của ông không phải là ngôi vua mà là đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam, đất nước của ông và thần dân của ông. Cái nhìn và quan điểm này cũng như sự hiểu biết của ông về tình hình thế giới và thế tất bại của người Nhật về sau đã được ông nói rõ trong hồi ký của ông. Riêng đối với người Nhật, ông đã không tin tưởng ở họ cũng như chiêu bài Đại Đông Á của họ.  Nói cách khác Bảo Đại ở vị thế phải chấp nhận nhập cuộc dù ông hiểu rõ sự phức tạp của vấn đề.  Phần khác như ông cũng nói tới trong hồi ký của ông:  “Độc lập là ước mơ của tất cả mọi người Việt Nam thời đó”.


Nội dung bản Tuyên ngôn


Đây là một bản văn tương đối ngắn so với những bản văn cùng loại, nhằm ba mục tiêu chính yếu là hủy bỏ một hòa ước Triều Đình Huế trước kia đã ký với nước Pháp, tuyên bố Việt Nam độc lập, đứng vào khối Đại Đông Á trong chương trình phát triển chung, đồng thời bày tỏ sự tin tưởng vào “lòng thành” của nước Nhật với nguyên văn như sau:


Cứ tình hình chung trong thiên hạ, tình thế riêng cõi Đông Á, chính phủ Việt Nam tuyên bố từ ngày này điều ước bảo hộ với nước Pháp bãi bỏ và nước Nam khôi phục quyền độc lập.


Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập và theo như lời tuyên ngôn chung của Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vượng chung.


Vậy Chính Phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc, quyết chí hợp tác với nước Nhật, đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên. 
[4]


Bản Tuyên Bố được đề ngày 11 tháng Ba năm 1945 tức ngày 27 tháng Giêng năm Bảo Đại thứ 20 được Bảo Đại ký tên với sáu thượng thư phó thự. Sáu vị thượng thư gồm có: Phạm Quỳnh, bộ Lại, Hồ Đắc Khải, bộ Hộ, Ưng Úy, bộ Lễ, Bùi Bằng Đoàn, bộ Hình, Trần Thanh Đạt, bộ Học, và Trương Như Định, bộ Công. Theo Bảo Đại đây là lần đầu tiên trong lịch sử một văn kiện được ký bởi nhà vua và tất cả các nhân vật quan trọng nhất trong triều đình. 
[5]

 

Đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập này của Bảo Đại, người ta cần chú ý tới những chi tiết sau đây:


Thứ nhất: Gọi là tuyên ngôn nhưng thực sự đây chỉ là một văn kiện hủy bỏ một điều ước đã được ký kết trước đó vì do tình hình biến chuyển, một trong hai phía đã không tôn trọng được những gì mình đã ký kết hay không thực thi được những gì mình đã ký kết trong một sinh hoạt quốc tế. Điều ước bị hủy bỏ ở đây là Hòa Ước Giáp Thân được ký kết giữa Triều Đình Huế và người Pháp ngày 6 tháng 6 năm 1884, đặc biệt hai điều khoản của hòa ước này  là điều khoản thứ nhất, theo đó Việt Nam công nhận và chấp nhận Quyền Bảo Hộ của nước Pháp và điều khoản thứ mười lăm, theo đó nước Pháp cam kết bảo đảm sự toàn vẹn  lãnh thổ của các xứ do vua Việt Nam cai trị và bảo vệ nhà vua chống lại những sự xâm nhập từ bên ngoài  và những cuộc nổi loạn từ bên trong. 
[6]  Sự hủy bỏ này phải được hiểu là do người Pháp bất lực không bảo vệ được Việt Nam trước sự bành trướng của quân đội Nhật và cuối cùng là chính người Pháp đã bị người Nhật lật đổ trong cuộc Đảo Chính ngày 9 tháng 3 năm 1945. Sự hủy bỏ này cũng có tính cách đơn phương từ phía Bảo Đại với tư cách là người kế vị chính thống của Triều Đình Nhà Nguyễn căn cứ vào những gì đã xảy ra vào thời điểm này.  Điểm  cần được lưu ý ở đây là từ ngữ hòa ước trong văn kiện này được dùng theo số ít, trong tiếng Việt, không có chữ “các” hay “những” đi kèm và trong tiếng Pháp không có chữ “s” theo sau để biểu lộ số nhiều.  Điều này có nghĩa là bản tuyên cáo này chỉ hủy bỏ hòa ước bảo hộ tức Hòa Ước Giáp Thân 1884 mà thôi thay vì hủy bỏ tất cả các hòa ước đã được ký kết trước đó. Đó là các Hòa Ước Nhâm Tuất 1862 và Hòa Ước Giáp Tuất 1874 liên hệ tới xứ Nam Kỳ theo đó xứ này đã bị nhường dứt cho người Pháp và trở thành thuộc địa của họ, không còn thuộc quyền cai trị của Vua và Triều Đình Huế nữa. Vấn đề thâu hồi xứ Nam Kỳ do đó chưa được giải quyết ngay nhưng đã trở thành mối bận tâm và một phần hành quan trọng của chính Bảo Đại ngay từ buổi nhà vua tiếp kiến Đại Sứ Nhật Yokoyama và của Chính Phủ Trần Trọng Kim trong gần suốt thời gian chính phủ này tồn tại.  Xứ Nam Kỳ chỉ được người Nhật trao trả trong những ngày cuối của chính phủ này và chỉ chính thức trở về với lãnh thổ quốc gia Việt Nam ngót năm năm sau, vào giữa tháng 6 năm 1949, và do Bảo Đại với tư cách Quốc Trưởng tiếp nhận từ tay người Pháp. Đây cũng là một sự kiện ít người biết đến.


Thứ hai: “Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập… giúp cho cuộc thịnh vượng chung.” Câu này xác định phương thức hoạt động nhằm thực hiện tư cách độc lập (tự phát triển như một quốc gia độc lập không phụ thuộc vào nước ngoài, mà ta phải hiểu ngầm là trong đó có cả Nhật Bản, cho xứng đáng một quốc gia độc lập) và thế đứng của Việt Nam trên trường quốc tế (tự coi mình là một phần tử của Khối Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vượng chung).  Nên để ý tới khẩu hiệu Châu Á của Người Á do người Nhật đưa ra trong thời gian này, một khẩu hiệu hàm chứa sự độc lập của các nước Á Châu lúc đó còn là thuộc địa của các đế quốc Âu Châu. Đây cũng là một cách nói trước một cách khéo léo để ngăn chặn trước sự can thiệp vào nội tình Việt Nam của người Nhật.

Thứ ba: “Chính phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc…”. Câu này nhằm buộc chặt lời hứa của người Nhật bằng cách nhấn mạnh vào sự trung thành với những gì họ đã nói, với quan niệm trung thành như một truyền thống chung của các dân tộc Á Đông.


Thứ tư:  “quyết chí hợp tác với nước Nhật đem hết tài sản trong nước để cho đạt được mục đích như trên”.  Mục đích như trên là mục đích gì?  Phải hiểu mục đích này bao gồm hai phần là “tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập” và “giúp cho cuộc thịnh vượng chung” như là một phần tử của khối Đại Đông Á chứ không phải cho Đế Quốc Nhật Bản.


Thứ năm:  Vì bản tuyên ngôn của Hoàng Đế Bảo Đại được ban hành vào lúc Việt Nam “chưa phải độc lập hẳn” theo Vua Bảo Đại, nên có tác giả cho rằng nó “không thể coi là có giá trị pháp lý quốc tế gì”. 
[7]  Nhận định này cần phải được xét lại nếu ngưòi ta nghĩ tới trường hợp của Bản tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ.  Bản tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ được công bố ngày 4 tháng 7 năm 1776.  Lúc đó Hoa Kỳ chưa độc lập chút nào, chứ chưa nói là chưa độc lập hẳn.  Chính quyền thuộc địa của người Anh và quân đội Anh vẫn còn đó.  Dân chúng 13 thuộc địa của xứ này còn phải chiến đấu thêm hơn bảy năm nữa, mãi đến năm 1783 Thỏa Ước Paris mới được ký kết, bảy năm, xin nhắc lại (từ ngày 4 tháng 7 năm 1776 đến ngày 3 tháng 9 năm 1783, sau Chiến Thắng Yorktown) và Hoa Kỳ mới được người Anh công nhận là một quốc gia độc lập thực sự.  Còn nếu so sánh tình trạng độc lập của Việt Nam vào lúc Hoàng Đế Bảo Đại công bố bản tuyên ngôn của ông, với tình trạng độc lập của Việt Nam vào ngày 2 tháng 9, 1945, lúc Hồ Chí Minh đọc bản tuyên ngôn của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, mọi chuyện vẫn y nguyên, người Pháp vẫn chưa công nhận mà phải đợi đến ngày 8 tháng 3 năm 1949 với Hiệp Định Élysée, hay muộn hơn nữa, với Hiệp Định 4 tháng 6 năm 1954.  Có điều một bản tuyên ngôn hay một lời tuyên bố chỉ là một bản tuyên ngôn, một lời tuyên bố mà thôi.  Nó chỉ là để người viết hay người nói ra nó bày tỏ quan điểm, chủ trương và ý chí của mình.  Nó hoàn toàn chủ quan.  Còn giá trị của nó tới đâu là tùy ở nội dung của nó và luận cứ của các đương sự dưới nhãn quan của người đọc.  Luận cứ của Vua Bảo Đại là vì người Pháp bất lực không bảo vệ được Việt Nam trước sức bành trướng của người Nhật hồi đầu thập niên 40 của thế kỷ trước, theo đúng như Hòa Ước Bảo Hộ, 6 tháng 6 năm 1884, quy định, nên hòa ước này bị kể như đã không được người Pháp thi hành, do đó không còn hiệu lực nữa và đương nhiên bị hủy bỏ. Luận cứ này đã được các nhà ngoại giao, luật học hay sử gia dùng, để cho rằng chế độ bảo hộ của người Pháp ở Bắc Kỳ và ở Trung Kỳ đã chấm dứt ngay từ ngày 22 tháng 9 năm 1940 chứ không phải đợi đến mãi ngày  9 tháng 3 năm 1945 hay sau này.  Xứ Nam Kỳ là một ngoại lệ, không bị chi phối bởi những sự kiện này.


Thứ sáu:  Nội dung của bản tuyên ngôn của Vua Bảo Đại không hề chứa đựng lời lẽ lên án, mạt sát hay thù hận người Pháp hay tuyệt giao với nước Pháp, từ đó một cánh cửa được để mở cho các cuộc gặp gỡ ngoại giao để điều đình về sau này, từ đó hai dân tộc có thể trở thành bạn và hợp tác với nhau về lâu, về dài.     


Nói cách khác và tóm tắt lại, đây là một bản văn tuy ngắn ngủi, cô đọng nhưng rất quan trọng vì nó vừa mang tính cách pháp lý, có liên hệ tới nhiều văn kiện ngoại giao khác đã được  hình thành trước đó, vừa biểu lộ chủ trương của một quốc gia được trao trả độc lập trong một hoàn cảnh không nhận không được, vô cùng tế nhị và phức tạp, vào lúc  tình hình thế giới biến chuyển quá nhanh và hoàn toàn bất lợi cho quân đội và quốc gia đảm nhận sự trao trả nền độc lập này. Mỗi điều nói ra, mỗi chữ được viết đều đòi hỏi người soạn thảo phải vô cùng thận trọng và ước tính kỹ càng.

 

Nội các Trần Trọng Kim (báo Trung Bắc Chủ Nhật 20/5/1945, Thư viện Quốc gia Pháp)


Ai là tác giả của bản tuyên ngôn này?

 

Người được nói đến nhiều nhất là Phạm Quỳnh, lúc đó đang giữ chức thượng thư bộ lại.  Điều này có nhiều phần đúng nếu người ta để ý tới khả năng nghị luận và viết văn, viết báo kèm theo sự hiểu biết và kinh nghiệm của một học giả, một người làm báo, và sau đó là một ngự tiền văn phòng tổng lý của nhà vua cũng như thượng thư bộ lại lúc đó.  Nó cũng được Phạm Khắc Hòe, đương thời là ngự tiền văn phòng tổng lý của Vua Bảo Đại, trong hồi ký của ông này xác nhận. [8]  Tuy nhiên theo Nguyễn Kỳ Nam, trong hồi ký của nhà báo này, thì trong một cuộc tình cờ gặp Phạm Quỳnh trên Cầu Trường Tiền Huế và được hỏi về bản tuyên này, Phạm Quỳnh đã bác bỏ và cho biết bản văn này là do Đại Sứ Yokoyama đưa cho ông ngày 11 tháng 3 yêu cầu các vị thượng thư ký tên. [9] Chuyện này có thể đúng và có thể sai, nhưng sai thì hợp lý hơn vì vào lúc được Nguyễn Kỳ Nam hỏi, Phạm Quỳnh không còn giữ chức vụ gì nữa nên phủ nhận những gì thuộc quá khứ liên hệ tới mình; ngoài ra nếu sự thực là như vậy, Phạm Khắc Hoè có thể cũng biết và nói ra, trong khi những gì viên Tổng Lý Văn Phòng này kể lại có vẻ đủ chi tiết hợp lý hơn, kể cả chuyện hai thượng thư Hồ Đắc Khải và Trương Như Đính khen “Cụ Lại giỏi thật!”.  Phạm Khắc Hoè ghi là sau khi Phạm Quỳnh trình bày lý do của buổi họp của Cơ Mật Viện


 “Bảo Đại hỏi ai có ý kiến gì không? Thì mọi người đều hoan nghênh việc tuyên bố độc lập và Bùi Bằng Đoàn nói thêm là trong bản tuyên bố cần nói rõ việc xóa bỏ các hiệp ước đã ký kết với Pháp.  Phạm Quỳnh mỉm cười và nói ông ta đã không quên việc đó, rồi với vẻ mặt hớn hở tự đắc, ông ta thò tay vào túi áo rút ra hai tờ giấy và nói tiếp: “Tâu Hoàng đế! để cho gọn việc, chúng tôi đã trộm phép dự thảo một bản tuyên bố, xin Hoàng đế cho phép tuyên đọc”.  Phạm Quỳnh trịnh trọng đọc bản quốc văn rồi bản dịch Hán văn.  Bản dự thảo có ba ý kiến chính:  Một là tuyên bố Việt Nam độc lập; hai là xóa bỏ các hiệp ước đã ký với Pháp; ba là Chính phủ Việt Nam độc lập sẽ hợp tác thân thiện với Chính phủ Đại Nhật Bản để cùng nhau xây dựng khối thịnh vượng chung Đại Đông  Á.

 

Phạm Quỳnh đọc xong, Hồ Đắc Khải và Trương Như Đính tấm tắc khen “Cụ Lại giỏi thật!”. Còn không ai có ý kiến gì thêm bớt cả.  Bảo Đại bảo Phạm Quỳnh đưa bản thảo cho tôi làm mọi việc cần thiết để trong mười lăm phút có văn bản đưa vào ký. [10]


Điều đáng tiếc là cho tới nay người ta không rõ những bản văn chính này nằm ở đâu, còn hay đã mất?

 

 

BẢN TUYÊN NGÔN CỦA CHỦ TỊCH CHÍNH PHỦ LÂM THỜI VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA HỒ CHÍ MINH


Hoàn cảnh được công bố

 

Nguyên văn bản Tuyên Ngôn

 

Hỡi đồng bào cả nước,


“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng, Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự    do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

 

Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ.  Suy  rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

 

Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói

“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”

 

Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.

 

Thế mà hơn tám mươi năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta.  Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.

 

Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.

 

Chúng thi hành những luật pháp dã man.  Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết.

 

Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu.

 

Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.

 

Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.

 

Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều.

 

Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.

 

Chúng giữ độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng.

 

Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cầy và dân buôn, trở nên bần cùng.

 

Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.

 

Mùa thu năm 1940, phát-xít Nhật đến xâm lăng Đông-dương để mở thêm căn cứ đánh Đồng minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích:  Pháp và Nhật.  Từ đó dân ta càng cực khổ nghèo nàn.  Kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng-Trị đến Bắc-    Kỳ hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.

 

Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khi giới của quân đội Pháp.  Bọn thực dânPháp hoặc bỏ chạy hoặc đầu hàng.  Thế mà chẳng những chúng không “bảo hộ” được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật.

 

Trước ngày 9 tháng 3 biết bao lần Việt minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật.  Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng, lại thẳng tay khủng bố Việt minh nữa.

 

Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số tù chính trị ở  Yên-bái và Cao-bằng.

 

Tuy vậy, đối với người Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày 9 tháng 3, Việt minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua bên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp chạy ra khỏi nhà giam Nhật, và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ.

 

Sự thật là từ đầu mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải là thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt-nam dân chủ cộng hòa.

 

Sự thật thì dân ta đã lấy lại nước Việt-nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay  Pháp.

 

Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị.  Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt-nam độc lập.  Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa.

 

Bởi thế cho nên, chúng tôi, Lâm thời Chính phủ của nước Việt-nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt-nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa  bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt-nam, xóa bỏ hết mọi đặc quyền  của Pháp trên đất nước Việt-nam.

 

Toàn dân Việt-nam, trên dưới một lòng, kiên quyết chống lại âm mưu của bọn  thực dân Pháp.

 

Chúng tôi tin rằng các nước Đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Tê-hê-răng và Cựu-kim-sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt-nam.

 

Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!

 

Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt-nam dân chủ cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:

 

Nước Việt-nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước  tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt-nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững tự do, độc lập ấy.


(Nhà Xuất Bản Sự Thật, Hà Nội, 1976)

 

 

Phân tích Nội dung


Bản Tuyên Ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh, vì được phổ biến rộng rãi và hầu như được coi là duy nhất gắn liền với ngày 2 tháng 9, ngày Quốc Khánh của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, rồi Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nên đã được nhiều người đọc, phân tích và tìm hiểu. Trong phần này người viết chỉ nêu lên những gì ít được mọi người nhắc đến hay để ý đến mà thôi.


Trong khi Tuyên Cáo của Hoàng Đế Bảo Đại đơn giản chỉ là một bản văn thuần túy pháp lý nhằm hủy bỏ hòa ước bảo hộ mà triều đình Huế đã ký trước đó, căn cứ vào sự bất lực của người Pháp, vì người Pháp đã không giữ được cam kết ghi trong điều khoản thứ nhất và điều khoản thứ mười lăm của hòa ước này, mà không nhằm vào một đối tượng quần chúng hay quốc tế nào, thì bản Tuyên Ngôn của Hồ Chí Minh nhằm vào toàn thể người Việt qua lời mở đầu  “Hỡi đồng bào cả nước…”.  Tuy nhiên ở những đoạn cuối Hồ Chí Minh lại nhắm vào các nước Đồng Minh.  Điều này phải tinh ý người ta mới nhận ra được.  Về tư cách, Bảo Đại nhân danh Hoàng Đế Việt Nam, người đứng đầu của một quốc gia độc lập đã tồn tại từ trước khi người Pháp xâm lăng và là người kế thừa chính thống của các vua chúa Nhà Nguyễn, thì Hồ Chí Minh đã nhân danh “Lâm Thời Chính Phủ của nước Việt Nam mới.” Mới là vì đến ngày đó chính phủ này mới chính thức được ra mắt trước quốc dân.  Lời văn do đó phản ảnh hai tư cách của bản chất của hai con người khác nhau. Một người là Hoàng Đế kế thừa chính thống của một triều đại đã trị vì một quốc gia từ hơn non bốn trăm năm trước, dù cho là chỉ còn hư vị; người kia là lãnh tụ của một phong trào cách mạng vừa chủ trương chống Pháp, vừa chủ trương chống Nhật và lật đổ chế độ quân chủ để giành chính quyền. Văn phong trong bản tuyên ngôn của Bảo Đại là văn phong bình thường của người cầm quyền; còn văn phong của Hồ Chí Minh mang tính cách kêu gọi và ở một mức độ nào đó có tính cách bình dân, kể lể dài dòng và nhất là xách động.


Mở đầu cho bản tuyên ngôn, Hồ Chí Minh đã trích dẫn  một số câu trong phần đầu của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của người Mỹ và một câu trong Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách Mạng Pháp.  Sự trích dẫn này, vào lúc mà sự hiểu biết của quần chúng Việt Nam còn thấp kém, đặc biệt là về lịch sử Hoa Kỳ và thế giới, chắc chắn không nhằm vào quần chúng người Việt mà nhằm vào người Mỹ và người Pháp.  Lý do là Hồ Chí Minh như là một đảng viên Cộng Sản Quốc Tế chắc chắn đã hiểu hơn ai hết là người Mỹ vào thời điểm này đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong chính tình ở Á Châu, trong đó có Việt Nam.  Được nguời Mỹ công nhận là coi như làm chủ được chính quyền.  Hiểu được như vậy, ngay từ khi còn ở chiến khu Hồ Chí Minh đã tìm cách tiếp xúc và cộng tác với người Mỹ của cơ quan OSS từ hồi còn ở chiến khu, và đã yêu cầu họ cung cấp cho ông một bản Tuyên Ngôn Độc Lập của nước Mỹ, đồng thời nói về lịch sử nước Mỹ như là một cách để chinh phục cảm tình của họ.  Đó chính là lý do tại sao ngày 29 tháng 8 năm 1945, hai ngày trước khi Hồ Chí Minh tuyên đọc Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của ông, lúc 10 giờ 30 sáng, ông đã cho xe tới chở Archemedes L. A. Patti, trưởng nhóm tình báo OSS mới tới Hà Nội không lâu tới gặp ông.  Mục đích của cuộc gặp mặt theo Hồ Chí Minh không phải là để bàn về chuyện người Tàu mà là để nói về những gì ông đã làm vài ngày trước đó (buổi họp ngày 27/8 về Chính Phủ Lâm Thời) và ít ngày sau đó (ngày 2 tháng 9 đã được chọn là Ngày Độc Lập, Hồ Chí Minh sẽ tuyên bố Việt Nam độc lập và giới thiệu thành phần chính phủ lâm thời) với Patti như là người đầu tiên được biết.  Quan trọng hơn hết ở đây là Hồ Chí Minh đã cho Patti coi bản nháp của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của ông bằng tiếng Việt mà Pattti không đọc được và chỉ hiểu sơ sơ qua lời một thông ngôn…
[19]  Vì chỉ nhằm mục tiêu lôi cuốn sự chú ý và cảm tình của người Mỹ, Hồ Chí Minh đã không đi xa hơn nữa và rất có thể ông cũng không hiểu rõ hơn hay cố tình không hiểu sự khác biệt trong quá trình giành độc lập của mười ba thuộc địa của người Mỹ vào cuối thế kỷ XVIII và của nước Việt Nam thời năm 1945.  Vì vậy ông đã áp dụng quan điểm của người Mỹ về quyền bình đẳng, quyền được sống tự do và mưu cầu hạnh phúc của mọi – người – như-là-những-cá-nhân riêng lẻ theo đúng như tinh thần của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của người Mỹ vào trường hợp chung của cả nước Việt Nam-như-một -quốc-gia đòi quyền độc lập một cách gượng ép hay ít ra là suy luận theo quan điểm chủ quan của ông với dụng ý riêng của ông. Cũng vậy với những gì ông trích dẫn từ bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách Mạng Pháp.


Phần kế tiếp, Hồ Chí Minh lên án người Pháp và người Nhật, đồng thời ông kể công cho Việt Minh: “Trước ngày mồng 9 tháng 3, đã bao lần Việt minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật…”, sau đó “đã  giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu nhiều người Pháp ra khỏi nhà  giam Nhật và  bảo vệ  tính mạng và tài sản cho họ” và kết luận rằng “Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt-nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp”.  Điều này như người viết đã nói ở trên là không đúng sự thật.  Sự thật là Chính Phủ Bảo Đại – Trần Trọng Kim đã lấy lại được toàn thể nước Việt Nam từ Bắc chí Nam, bao gồm luôn cả xứ Nam Ký từ trong tay người Nhật, trước khi người Nhật đầu hàng và Việt Minh đã cướp chính quyền từ trong tay của chính phủ Bảo Đại -Trần Trọng Kim trong những ngày 17 và 19 tháng 8 năm 1945 sau đó, sau khi Nhật đã đầu hàng, nói cách khác sau ngày 15 tháng 8 năm 1945.  Lý do là vì Việt Minh “đã có đường riêng của họ rồi”, nói theo Phan Anh, Bộ Trưởng Thanh Niên trong Chính Phủ Trần Trọng Kim và sau này là Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng trong Chính Phủ Liên Hiệp của Hồ Chí Minh. 
[20] Trong những đoạn này Hồ Chí Minh đã dùng các từ ngữ ta hay “dân ta” hay “đất nước ta”, nhưng mục đích không nhằm vào người Việt Nam mà vào người Pháp.  Ông đã kể công với người Pháp, giữ một cánh cửa mở, phòng ngừa họ trở lại.


 Phần cuối cùng của bản văn, từ “Bởi thế cho nên…” cho đến hết, lời văn cho người ta thấy Hồ Chí Minh không hướng về người Việt mà về cả thế giới. Trong phần này ông xưng là “chúng tôi, Lâm thời Chính phủ, đại biểu cho toàn dân Việt -nam “ để tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, kêu gọi các nước Đồng Minh công nhận quyền độc lập của dân Việt-nam…Phần này Hồ Chí Minh thay vì nói về quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của mọi-người-như-những-cá-nhân do Tạo Hóa ban cho, những quyền phải hiểu là tự nhiên ai cũng có, đã nói về quyền hưởng tự do và độc lập.  Đây là một lập luận có tính cách cưỡng ép, hoàn toàn không đúng với tinh thần của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Người Mỹ và nhất là của bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách mạng Pháp mà danh xưng của nó đã nói lên một cách rõ ràng:  Nhân Quyền và Dân Quyền, không thể hiểu sai được.  Độc lập của một dân tộc không phải luôn luôn đồng nghĩa với tự do, dân quyền và nhân quyền của mỗi một cá nhân người dân như một thành phần của dân tộc ấy.  Không những thế, thay vì coi những quyền này là do Tạo Hóa ban cho, Hồ Chí Minh lại lý luận là vì dân tộc Việt Nam là “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc ấy phải được độc lập!”.  Lý luận như vậy người ta phải hiểu, theo Hồ Chí Minh, rằng những dân tộc không gan góc chống lại những thế lực đè nén, áp bức mình và không gan góc đứng về phe Đồng Minh, chống phát-xít là không đáng được tự do, độc lập.  Cũng vậy, với các quyền độc lập, tự do và mưu cầu hạnh phúc của con người như là những cá nhân trong xã hội.   Chính vì vậy Luật Sư Trần Thanh Hiệp, khi được Đài Á Châu Tự Do phỏng vấn ngày 2 tháng 9 năm 2007, đã có lý khi ông gọi bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh này là “một bản tuyên ngôn phi nhân quyền” 
[21]  dù cho là nó đã được chính tác giả của nó trích và soạn thảo theo tinh thần của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của người Mỹ và bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của người Pháp. Nhưng dù nói thế này hay thế khác sự kiện này đã phản ảnh chủ trương giai đoạn của những người Cộng Sản Việt Nam mà Hồ Chí Minh ở đây là một trường hợp điển hình.

Về thời gian soạn thảo, nhiều người cho rằng Hồ Chí Minh chỉ có ít ngày sau khi ông từ chiến khu của Việt Minh về Hà Nội, trong khi ông còn phải bận rộn với nhiều vấn đề cấp bách khác.  Điều này không đúng vì trước đó từ lâu, như đã nói ở trên, khi tiếp xúc với một sĩ quan người Mỹ, ông nhờ người này kiếm cho ông một bản tuyên ngôn độc lập của người Mỹ rồi. 
[22]  Nói cách khác, Hồ Chí Minh đã nghĩ tới và đã thai nghén bản tuyên ngôn của ông từ lâu chứ không phải chỉ ít ngày trước ngày 2 tháng 9 năm 1945.  Do đó những gì ông nói tới, những từ ngữ ông dùng đều được cân nhắc kỹ càng và đều có dụng ý riêng với những mục tiêu riêng mà chỉ sau này phải phân tích kỹ, đối chiếu kỹ và có thể sau này khi mọi việc liên hệ đã xảy ra rồi, người ta mới có thể hiểu được.  Điều đáng tiếc là khi thực thi những gì ông đã trích dẫn và đề cao trong bản tuyên ngôn của ông, Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông và sau này những người nối nghiệp ông trong Đảng Cộng Sản Việt Nam chỉ thực thi những gì ông đã suy rộng ra theo lối suy luận loại suy (độc lập của dân tộc) mà làm ngược lại những gì đích thực về nhân quyền và quyền tự do mưu cầu hạnh phúc của từng cá nhân con người, theo đúng nguyên bản của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của người Mỹ cũng như  bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của ngưòi Pháp.  Nói cách khác, Hồ Chí Minh và các đồng chí của ông trong đó có Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, cũng như hậu duệ của các ông, thay vì đi theo con đường tự do, dân chủ của các nhà lãnh đạo của cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ, trong đó có Washington, Jefferson, dựa theo đúng tinh thần của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của họ mà các ông đã trích dẫn phần mở đầu, đã theo con đường của Lê Nin, Xít Ta Lin và Mao Trạch Đông.  Hậu quả là 67 năm sau, Bà Hillary Clinton, Ngoại Trưởng Hoa Kỳ, đã phải công khai nhắc người đồng nhiệm của Bà ở Việt Nam và luôn cả các ông Nguyễn Tấn Dũng, Thủ Tướng Chính Phủ và Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam về vấn đề dân chủ và nhân quyền ở Việt Nam.  Người ta không hiểu là khi làm công việc nhắc nhở này, Bà Clinton có biết rằng 67 năm trước Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập của ông với phần trích dẫn về nhân quyền từ bản Tuyên Ngôn Độc Lậpcủa nước Mỹ hay không?  Người viết tin là có.  Cũng vậy với Đại Sứ David Shear khi ông này tới thăm Bác Sĩ Nguyễn Đan Quế và Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ ở Saigon.  Nhưng dù có hay không, khi trích dẫn những tài liệu này, Hồ Chí Minh và từ đó Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã mắc một món nợ tinh thần với cả hai dân tộc Mỹ và Pháp và nhân ngày 2 tháng 9  năm 2018 này, những ai quan tâm đến vấn đề nhân quyền và dân quyền ở Việt Nam hiện tại, nhất là người Mỹ và người Pháp, nên nhắc nhở những người đang nắm vai trò lãnh đạo ở quốc gia này phải tôn trọng và thực thi những gì Hồ Chí Minh, người đã khai sáng nên chế độ của họ cần phải “thật thà” như ông thường khuyên mọi người, đặc biệt là các “cháu ngoan” của ông, coi như một giá trị đạo đức, coi trọng những lý tưởng mà người sáng lập ra Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đã viện dẫn từ hai bàn Tuyên Ngôn Độc lập của Hoa Kỳ và Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Pháp, coi như một hình thức trả nợ mà bình thường mọi người đều phải làm, nếu không muốn mang tiếng là lừa đảo.  Về điểm này, tuy nhiên, người ta cũng cần phải dè dặt vì bản Tuyên Ngôn Độc Lập Ngày 2 tháng 9 Năm 1945 sau đó đã bị sửa lại nhiều lần cũng giống như bức thư gửi Hồ Chí Minh gửi cho các học sinh nhân lễ khai trường đầu tiên khi nước Việt Nam mới được độc lập cùng năm mà người viết bài này đã phải học thuộc lòng, cho đến giờ này hãy còn nhớ từng chữ.  Người ta không biết những chi tiết nào đã bị sửa nhưng theo nhà nghiên cứu Nguyễn Thành từ Hà Nội, trong bài viết nhan đề “Trong Lịch Sử Nước Ta Đã Có Hai Hay Ba Bản Tuyên Ngôn Độc Lập” đăng trong Nghiên Cứu Lịch Sử, Số 1 (278), (I- II), 1995, “lại có nhiều dị bản, sai nhau đến 22 từ, được sửa đi sửa lại nhiều lần từ sau ngày 2-9-1945 đến năm 1973 thì thật không thể hiểu nổi.” [23]

         
1945 – 2018,  bảy mươi ba năm đã trôi qua.  Đã đến lúc người ta phải trả lại lịch sử những gì gọi là sự thực của nó khi tìm hiểu hai bản tuyên ngôn này, đồng thời trả tất cả những món nợ mà vì bất cứ lý do gì những người đi trước đã mắc phải, nhất là nợ chính đồng bào mình.


Một điều khác vô cùng quan trọng độc giả cũng nên để ý khi tìm hiểu hai bản tuyên ngôn này là mục tiêu tối hậu của những người Cộng Sản không phải là độc lập cho quốc gia, đất nước và dân tộc Việt Nam mà là cách mạng quốc tế vô sản và xã hội chủ nghĩa theo quan niệm riêng của họ, như người ta đã thấy ngay từ những năm đầu của thập niên 1950 với sự thúc đẩy của Nga Xô và Trung Cộng. Tranh đấu cho nền độc lập của quốc gia chỉ là một chiêu bài, một phương tiện họ dùng để đạt mục tiêu tối hậu này. Những gì Hồ Chí Minh nói trong bản tuyên ngôn của ông do đó chỉ nhằm mục tiêu xách động quần chúng nhất thời, sau đó không còn được chính ông và hậu duệ của ông tôn trọng, chưa nói là làm ngược lại, trong đó có những gì ông nặng nề lên án người Pháp.

 


Phạm Cao Dương

Khởi sự viết năm 2012, sửa lại Mùa Khai Trường năm 2018

                                         


[1] Dương Trung Quốc. Việt Nam: Những Sự Kiện Lịch Sử (1919-1945). Hà Nội: Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 2002, tr. 288.

[2] Lệ Thần Trần Trọng Kim. Một Cơn Gió Bụi (Kiến Văn Lục). Saigon: Nhà Xuất Bản Vinh Sơn, 1969, tr. 49.

[3]   -nt-, tr. 51.

[4] Dương Trung Quốc. Việt Nam, đã dẫn, tr.388; Nguyễn Vỹ. Tuấn, Chàng Trai Nước Việt (Chứng Tích Thòi Đại Từ 1900 đến 1970), Quyển II. Saigon,1970. Fort Smith, AR tái bản tại Hoa Kỳ, tr. 512. S. M. Bao Dai. Le Dragon d’Annam. Paris: Plon, 1990. tr. 104; Bảo Đại, Con Rồng Việt Nam, Hồi Ký Chánh Trị 1913-1997.  Los Alamitos, CA: Nguyễn Phước Tộc Xuất Bản, 1990, tr. 162; Cameron, Alan W. Vietnam Crisis.A Documentary History, Vol. I, 1940-1956. Ithaca, NY: Cornell University Press, 1971. tr. 31-32; Hai bản tiếng Việt in trong tác phẩm của Dương Trung Quốc và tác phẩm của Nguyễn Vỹ hơi khác nhau về ngôn từ nhưng hoàn toàn giống nhau về nội dung. David G. Marr trong Vietnam 1945, The Quest for Power (Berkeley: University of California Press, 1995), trang 71 có nói tới bản tiếng Việt và tiếng Pháp ở văn khố Pháp và bản đăng trên tờ Dân Báo, ngày 12 tháng 3. Vũ Ngự Chiêu cũng nói tới tờ Tin Mới, nhưng nhất thời nguời viết bài này chưa đến được các nơi cần đến để tìm kiếm.

[5] S.M. Bao Dai, Le dragon d’Annam, đã dẫn, tr. 104.

[6] Taboulet, Georges. La teste Francaise en Indochine, histoire par les extes de la France en Indochine des origins à 1914, tome II. Paris, Adrien-Maisonneuve, 1956. Tr. 809-812; Phan Khoang, Việt Nam Pháp Thuộc Sử, 1884-1945. Saigon, 1961, Tái Bản ở Hoa Kỳ, tr. 322-328.

[7] Phạm Hồng Tung, “Trao Đổi về Một Số Ý Kiến Liên Quan Đến Lịch Sử Nội Các Trần Trọng Kim và Cách Mạng Tháng Tám” trong Nghiên Cứu Lịch Sử, Số 8 (424), 2011, tr. 55.

[8] Phạm Khắc Hoè. Từ Triều Đình Huế Đến Chiến Khu Việt Bắc. Huế: Thuận Hóa, 1987, tr. 16.

[9] Nguyễn Kỳ Nam, Hồi Ký “1925-1964”.  Saigon, 1964, tr. 168-169.

[10] Phạm Khắc Hoè, Từ Triều Đình Huế…, đã dẫn, tr. 16-17.

[11] Giáo Sư Viện Sĩ Nguyễn Khánh Toàn chủ biên, Lữ Huy Nguyên sưu tầm biên soạn. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội, 1980, tr. 812 – 823.

[12]  Hà Nội: Éditions en Langues Étrangères, 1971, tr. 51.

[13] S.M. Bao Dai. Le Dragon…, tr. 103.

[14] Võ Nguyên Giáp. “Những Năm Tháng Không Thể Nào Quên”, trong Tổng Tập Hồi Ký. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân, 2006. Tr. 255.

[15] Phạm Khắc Hoè. Từ Triều Đình Huế…., tr. 76.

[16] Phùng Quán. Ba Phút Sự Thật.Thành Phố Hồ Chí Minh: Nhà Xuất Bản Văn Nghệ, 2006, tr. 114-115.

[17] Hồ Chí Minh.Tuyên Ngôn Độc Lập Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Sự Thật, 1976, tr. 13. Nguyễn Khánh Toàn và Lữ Huy Nguyên, Tổng Tập Văn Học Việt Nam, Tập 36. Hà Nội, 1980, tr. 812-823.

[18]    -nt-, tr. 134.

[19]  Patti, Archimedes L.A. Why Vietnam? Prelude to America’s Albatoss. Berkeley; University of California Press, 1980, tr. 223.

[20] Thụy Khuê, Nói Chuyện Với Hoàng Xuân Hãn Và Tạ Trọng Hiệp.  California: Văn Nghệ, 2002, tr. 180-181.

[21] Trần Thanh Hiệp và Trương Giang. “Một Bản Tuyên Ngôn Phi Nhân Quyền”, trên Nhật Báo Người Việt, số 7940, ngày Thứ Hai, 3 tháng 9 năm 2007.

[22] Sĩ quan này là Trung Úy Dan Phelan, người đã nhảy dù xuống gặp Hồ Chí Minh trong chiến khu của ông này. Xin xem: Fenn, Charles, Ho Chi Minh, A Bibliographical Introduction, New York: Scribner’s Sons, 1973, tr. 81-82; Duiker, William J. Ho Chi Minh. New York: Hyperion, 2000, tr. 301; Against Japan. Lawrence, Kansas: University of Kansas, 2006, tr. 243-244; bản dịch tiếng Việt của Lương Lê Giang nhan đề OSS và Hồ Chí Minh, Đồng Minh Bất Ngờ Trong Cuộc Chiến Chống Phát Xít Nhật. Hà Nội: Nhà Xuất Bản Thế Giới, 2007, tr. 367-368. Xin để ý: trong nhan đề tiếng Việt người dịch đã thêm hai chữ Phát Xít vào danh xưng Nhật.

[23]  Số 1 (278), (I- II), 1995, tr. 186.

 

 

No comments:

Post a Comment