Thursday, May 21, 2020

20200522 Ban tin bien Dong


20200522 Ban tin bien Dong


Vietnam-China Conflict in The South China Sea: Unrealistic And Dangerous Suggestions For Vietnam – Analysis
Điện Đàm Trump- Phuk. Bàn Giao cái gọi là má Nấm
China Shocked: US Navy sends submarine forces to South China Sea
South China Sea: China’s expanding nine dashed line
Navy sends subs to sea as message to China
·         By William Cole wcole@staradvertiser.com
·         Today
·         Updated 12:16 am

Wed, May 20 at 2:22 PM
Con Mén
Đọc chuyện Con Mén mà tôi liên tục rơi nước mắt
Hình ảnh Con Mén, cuộc đời Con Mén, tâm tư tình cảm Con Mén
Chính là hình ảnh Quê Hương Dân Tộc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử hơn 10,000 năm của Tộc Việt
Họ đã phải dứt bỏ Quê Hương VN sau năm 1975 để lưu vong trên toàn cõi địa cầu khi chạy trốn VC
Họ đã phải xé nát tâm can khi lìa bỏ Quê Cha Đất Mẹ miền Bắc năm 1954 khi chạy trốn Việt Minh
Họ đã phải dời bỏ thủ đô Phiên Ngung của Đại Việt ở Quảng Đông, Đại Lý ở Quảng Tây sau thời Trưng Nữ Vương thế kỷ thứ I AD
Họ đã phải dời bỏ kinh đô núi non sông nước hữu tình tại Đồng Đình Hồ (Hồ Bắc - Hồ Nam – Vũ Hán) khi Hán Vũ Đế xâm lược Bách Việt thời hậu các Vua Hùng thế kỷ thứ I BC
Họ đã phải dời địa bàn núi Thái Sơn (phía trên Bắc Kinh giáp sông Hoàng Hà) để bôn ba xuôi Nam ngược Bắc vì rợ Khuyển Nhung xâm lược (khoảng trước -3000BC)
Để rồi cho đến tận ngày hôm nay, sau hơn 10,000 năm, câu ru bên tai lũ trẻ như một điệp khúc vĩnh cửu của Ký Úc Quê Hương
Công Cha như núi Thái Sơn
(địa bàn núi Thái Sơn)
Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra
(địa bàn Hồ Đồng Đình - Động Đình Hồ)
Lac Viet
..............................
Chuyện ngắn: CON MÉN
(Tiểu Tử)
Trong khai sanh nó tên là Loan. Ở nhà gọi nó là con Mén, vì hồi sanh nó ra nó chỉ cân được có hai kí lô tư. Bà nội nó bồng nó trên tay, nhỏ xíu như một con mèo. Bà cười văng cốt trầu: "Đu họ nó! Thứ gì mà như con chí mén!" Từ đó, gọi nó là con Mén luôn.

Nó bú sữa mẹ, nhưng vì nhà nghèo nên má nó không đủ sữa, dặm thêm cho nó bằng nước cháo, cho nên nó không mụ mẫm như phần đông các trẻ nít khác. Nó cứ đèo đèo, lớn chậm và ốm tong ốm teo.

Bà nội nó cưng nó lắm. Bởi vì ba má nó chỉ sanh có con trai, một dọc ba đứa, phá phách đánh lộn tối ngày. Bà nội nó thèm có một đứa cháu gái, nhẹ nhàng dễ sai dễ bảo hơn. Bà thường nói: "Có đứa cháu gái để tao có đi đâu nó theo nó xách giỏ trầu". Một ước mơ rất tầm thường nói lên nét bình dị mộc mạc của tâm hồn các bà mẹ quê. Giống như mái nhà tranh chỉ cần có bụi chuối sau hè, có ao bèo trước ngõ … Giống như con rạch nhỏ, chỉ cần đều đặn có nước lớn nước ròng …

Con Mén có thân hình ốm o xấu xí, nhưng lại có đôi mắt sáng, linh động, với cái miệng nhỏ chu chu cũng dễ thương. Bà nội nó nói: "Cái ngữ này lớn lên rồi phải biết. Nó hỗn dàng trời!". Nói như vậy chớ bà ưa nhìn nó ngủ sau khi bú, nhả vú ra rồi mà miệng vẫn còn nút nút.

Quê con Mén ở miệt Hậu giang một làng nhỏ nằm xa tỉnh lị, xẻ đôi bởi một con kinh đào. Vùng này chưa có đường xe chạy, nhưng có nhiều sông rạch nên thiên hạ đi lại bằng ghe to xuồng nhỏ. Hoặc đi bộ dọc theo bờ nước hay băng ngang đồng vào mùa ruộng khô. Xa xa, có những chiếc cầu gỗ bắc ngang kinh rạch, nối xóm này qua xóm nọ. Cầu gỗ cao lêu-nghêu, chân dài cắm sâu vào lòng nước như sợ nước lên làm ướt thân cầu. Người ta qua lại không cần lan can.

Xóm con Mén tên là xóm Cầu Ngang, một cái tên nghe rất thật thà, làm như trên đời này còn có những cái cầu dọc vậy! Xóm nhỏ đó cũng có chợ nhà lồng lợp tôn đơn sơ. Vây quanh chợ là quán cà phê, tiệm chạp phô, tạp hóa, hàng vải … và một tiệm sách, gọi là tiệm sách nhưng chỉ chuyên cho thuê tiểu thuyết, truyện tàu.

Con Mén sanh ra ở đó. Khi nó biết đi biết chạy, bà nội nó lúc nào cũng kè một bên, sợ nó té sông. Vậy mà chẳng mấy lâu sau, nó biết lội hồi nào bà nó cũng không hay, nó học lội với ai bà nó cũng không biết. Mãi đến một hôm, trời nóng bức, con Mén nhảy ùm xuống kinh làm bà nội nó la làng chói lói. Đến khi nhìn lại thấy nó lội như rái, bà mừng chảy nước mắt. Lòng bà vui lắm nhưng bà cũng chưởi đổng: "Mồ tổ cha mày!". Từ đó, con Mén đi đâu một mình bà cũng yên tâm. Bà nói: "Nó giống hệt thằng cha nó hồi nhỏ".

Lớn lên một chút, con Mén lúc nào cũng ở trần, đi chân đất, chỉ mặc có cái quần xà lỏn ka ki. Nó vẫn ốm tong ốm teo, nhưng không thấy nó bịnh bao giờ. Nó chơi với lũ trẻ hàng xóm, chơi trò con trai như con trai. Vậy mà bà nội nó vẫn ưa nó hơn là ba thằng anh của nó, bởi vì đêm nào nó cũng chui vào ngủ với bà. Bà thích vuốt tóc cho nó ngủ và thích nghe mùi thơm hơi thở của con Mén, như ngày xưa, hồi còn trẻ, bà thích nghe mùi thơm của lúa chín, gió ruộng đưa thoang thoảng vào nhà về đêm …

Má con Mén mua đầu chợ bán cuối chợ. Kiếm đủ nuôi mấy miệng ăn. Nghèo nhưng không đói. Ba nó trốn lính một dạo, nhưng rồi cũng bị bắt. Đi quân dịch, làm binh nhì, rồi đi luôn không biết chừng nào giải ngũ.

Ba nó đóng ở đâu miệt Sài Gòn. Lâu lâu về phép, ở nhà được vài hôm. Những hôm đó, con Mén khoái lắm, bởi vì ba nó cũng cưng nó như bà nội nó vậy. Sáng nào, ba nó cũng cõng nó ra tiệm cà phê. Nó ngồi trên ghế đẩu cạnh ba nó, đôi mắt chỉ cao hơn mặt bàn một chút. Người lớn hay vò đầu nó, làm rối bồng mái tóc bum bê. Lúc nào nó cũng được ba nó gọi riêng cho một tách sữa nhỏ. Sợ sữa nóng, ba nó thường sớt ra dĩa cho mau nguội. Nó kê miệng vào thành dĩa, hớp từng hớp nhỏ. Hai bên mép, sữa đóng thành hai đường trắng hếu, nhưng mắt nó ngời lên sung sướng. Những lúc đó, con Mén đong đưa hai chân như người ta đuổi ruồi …

Rồi một hôm, Việt Cộng về xóm Cầu Ngang, bắn phá tơi bời suốt một đêm, sáng bữa sau rút đi mất. Thiên hạ bắt đầu bàn tán. Trời vừa sụp tối đã đóng cửa cài then. Đêm đêm nằm ngủ phập phồng. Sáng ra nhìn nhau lơ láo. Nét thanh bình xóm nhỏ làng quê mất dạng lần lần. Người ta bắt đầu tản cư …

Ba nó về, đưa mẹ con nó lên Sài Gòn. Bà nội nó ở lại. Bà nói: "Tao già rồi, đi đâu chi? Tụi bây lo cho sắp nhỏ đi, đừng lo cho tao". Bà nói cứng như vậy chớ lòng bà đau như dao cắt. Bà biết : bầy vịt nhỏ và mấy gốc mận gốc xoài không giúp được bà thường xuyên lên thăm bầy cháu. Nhứt là con Mén, rứt nó đi y như là cắt đi một núm ruột của bà. Hôm đó, bà nội con Mén ăn trầu nhiều hơn mọi ngày, hết miếng này là têm ngay miếng nọ, mắt nhìn mãi bờ kinh, không nói. Đến khi đưa bầy cháu xuống ghe, bà ôm con Mén vào lòng, hôn nó mà bà khóc ngất. Bà dúi vào tay nó tờ giấy năm chục đồng xếp nhỏ, nói trong nước mắt: "Nội cho con lên trển mua bánh ăn". Nó nghe nồng lên mùi cốt trầu, mùi bà nội nó, cái mùi mà nó đã quen thở đêm đêm khi gối đầu lên tay bà để đi vào giấc ngủ. Nó ôm bà mà khóc như mưa …

Ghe đã đi xa, ghe máy nên đi nhanh hơn ghe chèo. Bà nội con Mén còn đứng ở bờ kinh, mắt rõi theo ghe mà nghe như người bà bị tê dại. Kinh đào dài tun hút. Ghe đã mất dạng từ lâu mà bà vẫn nhìn mãi về phía đầu kinh. Tuốt ở đầu kinh .. xa lắm .. có một lằn dài gạch ngang, người ta gọi là chân trời …

--oOo--

Ba con Mén hốt hụi vay nợ mua một căn nhà nhỏ vách ván lợp tôn ở xóm Bộng, bên kia sông Khánh Hội. Gọi là xóm Bộng bởi vì ở đó có cái ống cống thật to để nước ruộng vào ra khi nước lớn nước ròng. Dân nghèo tứ xứ tản cư về đây, ngày một nhiều, nhà nho nhỏ cất dọc cất ngang, mọc lên như nấm. Cứ có chỗ trống là cất chen vào. Ngoài mặt lộ hết đất, họ cất tràn ra ruộng. Nhà này tựa vào nhà kia như sợ ngã, sát nhau đến độ không còn chỗ để làm đường đi! Muốn vào xóm, có đoạn đi trên bờ đê, gọi là đê nhưng là bờ ruộng cũ bây giờ người ta bồi rộng ra thêm một chút, có đoạn đi trên mấy tấm ván gập gềnh bắc ngang đường nước, có đoạn phải bước hẳn vào nhà người ta để đi qua. Nhà lụp xụp thấp lè tè nên cứ phải cúi lom khom, có khi bước cạnh vợ chồng người ta đang nằm ngủ trong nhà, dưới đất!

Mái nhà con Mén thuộc vào hạng cũng khá cao trong xóm. Ba nó phải đưa tay thẳng lên mới đụng. Nhà nó được lót gạch bông phần nền đất, còn nửa phần sau là đóng cừ lót ván. Ông chủ cũ nói với ba con Mén: "Làm tới đó tôi hết tiền. Thôi thì tạm một khúc nhà sàn, chừng nào cậu muốn, cậu đắp nền thêm". Rồi ông đứng trên sàn nhún-nhún: "Ván còn tốt, còn chịu được năm ba mùa lận". Năm ba mùa đây có nghĩa là năm ba mùa nước ngập. Những hôm mưa nhiều, nước không chảy kịp ra sông, nước lên lé đé mặt sàn. Có nơi nước tràn vào nhà, ngập mấy hôm mới rút. Những hôm đó, người ta treo hết đồ lên nóc, treo vài cái võng để ngủ tòn ten giữa vời …

Nhà con Mén không có đồ đạc gì nhiều: một vài cái rương chất trong một góc, một cái tủ nhỏ kê sát vào vách, quần áo máng trên mấy cây đinh đóng trên vách đối diện, bếp dầu hôi sóng chén dồn vào một góc phía sau. Cái gì cũng tấn vào vách vào góc để chừa khoảng trống giữa nhà dùng làm chỗ ăn chỗ ngủ. Phía sau nhà là sàn nước lộ thiên. Nước chứa trong hai thùng phi nhà binh màu cứt ngựa mà ba con Mén xin từ đơn vị đem về. Tắm rửa giặt giũ ở đó, và về đêm, phóng uế cũng ở đó luôn.

Khu này không có điện nước. Cho nên nhà nào cũng có vài cây đèn dầu hôi và đôi ba thùng phi. Mỗi ngày, có xe xi tẹt đến bán nước, người ta gọi là "đổi nước". Họ kéo ống cao su nhỏ bằng cườm tay, chắp nối thật nhiều khúc mới đủ dài để vào sâu trong xóm. Tiếng máy bơm của họ kêu thật lớn, xành xạch xành xạch điếc tai. Nhưng cũng nhờ nó mà người trong xóm biết là xi tẹt nước đến rồi! Xi tẹt nước chỉ "làm ăn" trong mùa nắng thôi …

Về đây, con Mén ngủ với ba nó, ngủ trên võng. Má nó và ba thằng con trai ngủ dưới gạch. Đêm đầu, con Mén không chịu ngủ, cứ đòi về bà nội. Nó ngồi bẹp dưới đất, khóc ư ử. Lâu lâu gọi một cách thảm não: "Bà nội ơi!" Tiếng "ơi" của nó kéo dài ra, làm má nó cũng nhớ nhà nhớ đất, nước mắt chảy quanh. Ba nó thổi tắt đèn, vói tay ôm nó vào lòng, nằm trên võng đong đưa dỗ: "Nín đi con, nín. Ngủ với ba cũng giống như ngủ với bà nội chớ gì. Rồi mai mốt bà nội con lên ở với con nghen". Tiếng "nghen" bỗng nghẹn ngang nơi cổ, ba nó kềm lắm mới khỏi phải nấc lên. Tuy nhiên, trong bóng đêm, nước mắt cũng âm thầm chảy dài trên má …

--oOo--

Mỗi ngày, ba con Mén đi làm trong đơn vị, sáng đi chiều về, đi bằng xe buýt. Má nó chưa quen nước quen cái nên ở nhà vá áo nấu cơm. Anh em tụi nó lân la làm quen lũ nhỏ trong xóm. Dù ở giữa lòng thành phố, trò chơi của tụi nó vẫn mộc mạc thô sơ như thuở còn dưới ruộng: bắn bi, búng dây thun, lấy nút khoén làm mề đai hay in cát giả làm bánh.

Ít lâu sau, má con Mén được người hàng xóm giới thiệu vào làm phu trong nhà máy ve chai bên kia sông. Mới đầu còn bỡ ngỡ, làm sai làm trật. Chiều nào về, má nó cũng buồn thiu, ra ngồi trên sàn nước, nhìn khoảng trời mở ngỏ trên cao, lâu lâu thở dài. Nhưng lần hồi má nó cũng quen tay, thêm tánh siêng-năng cần cù, nên mấy thầy giám thị cũng thương tình nâng đỡ. Nhờ vậy má nó mới vững lòng tin ở ngày mai. Ngày mai, đối với ba má con Mén, thật là giản dị: "Chừng yên, mình về dưới bà nội tụi nhỏ, lảnh mấy công ruộng mà làm cũng dư sống". Cái hình ảnh của ngày mai đó, người tản cư nào cũng nghĩ giống như nhau: yên rồi về quê làm lại cuộc đời. Họ đã rời làng bỏ xóm ra đi, đi để còn sống mà trở về, nhưng họ vẫn mang theo trong lòng gốc dừa cây cau chậu kiểng. Họ không bám được đất, nhưng họ không để mất được gốc. Chính tình cảm quê hương sâu đậm đó đã giúp họ can đảm nhận chịu cuộc sống tạm bợ ngày hôm nay. Ngày qua ngày, họ mớm niềm tin bằng hy vọng. Và ngày qua ngày họ nuôi hy vọng bằng niềm tin! Cứ lẩn quẩn loanh quanh như vậy cho đến một ngày nào đó, chưa phải là cái ngày mai chờ đợi, người già tắt thở với niềm tin và trẻ con lớn lên không biết phải hy vọng ở cái gì … Chỉ còn thế hệ của ba má con Mén là lây lất sống trong lòng đô thị, ví mình như cây chùm gởi, còn biết thế nào là niềm đau quê hương nhưng vẫn mỏi mòn chờ đợi: "Ngày mai … Ngày mai, rồi trời sẽ lại sáng!".

--oOo--

Mấy anh con Mén đều được đi học, chỉ có nó là chưa. Có lẽ tại vì nó gầy còm nhỏ thó nên ba má nó quên tuổi thật của nó đi, cứ nghĩ: "Sang năm là đến phiên con Mén". Nhưng rồi nó vẫn còi còi như vậy hoài, có lẽ còn lâu mới đi học!

Buổi sáng, ăn cháo xong là cả nhà đi hết. Con Mén ở lại coi nhà. Tiếng là coi nhà chớ lúc nào cũng thấy nó la cà ở hàng xóm, làm bánh giả, búng dây thun. Nó búng dây thun giỏi nhứt xóm. Đã khéo tay lại biết tính toán nên ngày nào nó cũng ăn của trẻ con cùng lứa rất nhiều dây thun. Về nhà, nó cho vào túi ni-long cất kỹ, bởi vì vòng dây thun là "tiền" của tụi nhỏ. Năm vòng thun "mua" được cái nút khoén lô-canh (la-ve, nước ngọt) mười vòng thun một nút khoén ngoại quốc (các loại chai nhập cảng) và phải tới hai chục vòng thun mới có được lon cô ca không, thật hấp dẫn với nền đỏ tươi in chữ trắng … Vòng thun có giá trị như vậy cho nên đứa nào cũng ráng kiếm cho thật nhiều. Rồi cũng giấu kỹ. Rồi cũng đếm tới đếm lui, y như người lớn đếm tiền thật.

Một buổi mai, con Mén mang bọc dây thun ra đầu ngõ tìm bạn. Ở đây, có một quán cà phê hủ tiếu và vài hàng quà bánh điểm tâm. Một bà già bán xôi thấy bọc ni long dây thun con Mén nhét tòn ten ở lưng quần, bèn hỏi:"Dây thun đâu nhiều vậy cháu?". Nó trả lời là dây thun của nó. Bà ta cười hiền hòa: "Vậy hà. Chớ cháu có bán dây thun hôn, bà mua cho. Để cột mấy bọc xôi ý mà". Ở đây, mấy người đi làm sớm không có thì giờ ăn sáng, ghé qua mua gói xôi mang theo để lúc nào tiện thì mở ra ăn. Xôi vẫn được gói bằng lá chuối, nhưng sau đó được cho vào bọc ni lông có sợi thun thắt lại. Vừa sạch vừa gọn.

Nghe hỏi, con Mén phân vân. Tới tuổi này, nó chưa biết đi mua một cái gì bằng tiền thiệt hết. Huống chi nói đến chuyện bán! Nó chỉ biết giả mua giả bán nút khoén, hộp lon, trong thế giới trẻ con nhiều tưởng tượng của nó thôi. Tiền thiệt thì nó chỉ biết có tờ giấy năm chục đồng mà bà nội nó cho nó hồi đó. Nó đưa má nó cất rồi nó quên luôn tới giờ. Thật ra, nó chỉ biết tờ giấy đó là tiền nhưng chẳng biết giá trị là bao nhiêu và cũng không biết dùng tiền đó để làm gì. Bởi vì, trong xã hội trẻ con của nó, chỉ có dây thun là có giá!

Thấy nó đứng ngớ ra mà miệng cười mỉm mỉm, bà bán xôi hiểu ngay, nên đề nghị: "Như vầy nghen, cháu cho bà túi dây thun, bà cho cháu cục xôi bự này nè". Nó nhìn theo tay bà chỉ: mèng ơi! cục xôi bằng "bắp đùi" nằm trong lá chuối xanh láng mướt, ló ra hai đầu vàng hực có mấy miếng dừa lòi ra trắng hếu. Nó nuốt nước miếng, gật đầu. Vậy là lần đầu tiên con Mén biết thế nào là buôn bán trong xã hội của người lớn.

Từ đó, nó thường đem túi ni lông dây thun ra ngõ "mua" xôi. Bà bán xôi thương nó lắm, bởi vì lần nào nó mở hàng bà cũng đều bán đắt. Nhiều hôm vắng nó bà cũng nhớ. Những hôm đó, con Mén "hết tiền". Nhưng thèm xôi, có khi nó cũng mò ra đầu ngõ, đứng xa xa nhìn thau xôi của bà lão. Thau xôi được phủ kín lá chuối, nhưng trong tưởng tượng nó cũng thấy được màu xôi vàng hực! Thấy tội nghiệp, một hôm bà bán xôi gọi nó lại, đưa nó tờ giấy bạc: "Nè! Lấy tiền này mua xôi mở hàng cho bà đi cháu". Nó làm theo như cái máy. Bà bán xôi cảm động, kéo nó ngồi xuống cạnh bà. Nó ăn xôi, mắt ngời lên sung sướng. Nó ốm nhom nhưng gương mặt nó thật kháu khỉnh. Mái tóc bum bê cắt ngắn làm cho cổ nó dài ra. Bà vuốt tóc nó, nghĩ: "Con nhà ai mà dễ thương quá!". Được bàn tay khẳng khiu của bà già vuốt tóc, bỗng nhiên con Mén nghe nhơ nhớ một cái gì. Một cái gì không rõ lắm nhưng là một cái gì thật quen thuộc. Hình như là một cảm giác êm êm, khoái khoái, một cảm giác mà từ lâu, rất lâu nó không nghe thấy nữa. Nó mang máng nhớ một cái gì xa thật xa, một hình ảnh, một cái tên, một người … Nó ngừng nhai, miếng xôi trong miệng đội phồng một bên má. Nó nhìn lên mặt bà bán xôi: má hóp, trán nhăn, tóc lưa thưa bạc. Đúng lúc đó, từ tiềm thức của nó bật lên hình ảnh của bà nội nó. Chỉ trong có một giây mà nó nhớ lại hết, từ bàn tay vuốt tóc, từ cánh tay gối đầu, từ mùi cốt trầu hăng hăng mà nó ghiền thở đêm đêm để ngủ. Nó nghe nghẹn ở ngực. Nó nghe như muốn khóc. Môi dưới nó trề ra. Miệng nó méo xệch. Nó buông cục xôi, đứng lên chạy ù vào ngõ. Vừa chạy, vừa kêu từng tiếng thật rã-rời: "Bà …nội … ơi …!" Tiếng "ơi " của nó kéo dài ra trong xóm, nức nở như một đường cày trên mặt ruộng …

--oOo--

Việt Cộng về chiếm hết mấy làng, trong đó có xóm Cầu Ngang của con Mén. Ít lâu sau, có tin bà nội nó chết. Ba má nó không dám về chịu tang, chôn cất, phần vì không có tiền, phần vì sợ Việt Cộng. Ba nó lấy một cái rương kê vào giữa vách, đặt lên đó một chén gạo và hai cây đèn cầy. Đốt đèn, đốt nhang cắm vào chén gạo, xong, ba má nó vừa lạy vừa khóc. Lần đầu tiên con Mén thấy ba nó khóc. Không biết gì, nhưng sao nó cũng muốn khóc theo. Mấy thằng anh nó ngồi xếp bằng một hàng, im thin thít. Sau đó, ba nó ôm nó vào lòng, ngồi nhìn khói nhan và hoa đèn lâu thật lâu. Nó hết nhìn cái rương lại nhìn mặt ba nó.Tự nhiên nó thấy thương ba nó vô cùng.

Mãi sau này con Mén mới biết cái rương đó là bàn thờ bà nội nó.

--oOo--

Bây giờ, con Mén cũng được đi học. Bây giờ, ba nó cũng sắm được chiếc xe đạp để đi làm. Má nó thì vẫn đi đò ngang để qua nhà máy ve chai. Mấy anh nó, vì trường cũ hết lớp phải qua trường khác xa hơn, vẫn đi bộ.

Má nó đã lên cấp thợ, nhờ vậy mà trong nhà thấy dễ thở hơn, sắm thêm một số đồ đạc và má nó có đeo một sợi dây chuyền … Chớ ba nó thì vẫn còn lẹt đẹt ở cấp binh nhì, loại binh nhì dùng sai vặt trong văn phòng, đơn vị.

Nhờ đi học, con Mén mới biết nó tên thật là Loan. Hôm đưa nó vào trường, ba nó dặn: "Khi nào cô giáo điểm danh, kêu Lê Thị Loan thì con hô lớn lên có mặt. Nghe con!". Nó ngạc nhiên: "Ủa? Con tên là Mén mà!" Ba nó phải giải nghĩa rằng Loan là tên trong còn Mén là tên ngoài, ra đường mình lấy tên ngoài chớ vào trường là phải lấy tên trong vân vân … Đối với nó, ngoài trong gì lộn xộn quá. Nó chỉ biết rằng tên Loan nghe thật dễ thương nhưng lạ hoắc, còn Mén thì thật là quen tai. Tuy nhiên, có cái tên dễ thương, nó cũng nghe lòng phơi phới.

Nhờ đi học, con Mén hết ở trần, hết đi chân đất, nhưng tóc vẫn hớt bum bê cao. Nó đội nón vải có bo như tai bèo, mặc áo trắng tay phùng quần dài đen, chân mang dép Nhựt. Bây giờ, thật sự nó mới có nét con gái! Ba nó nhìn nó trìu mến: "Mẹ họ! Con gái của ba coi cũng đặng ớn!" Rồi ba nó hôn nó đầy mặt. Nó rút cổ lại vì nhột, cười khúc khích. Tình thương đâu đó bỗng trào dâng miên man. Giống như nước triều lên ôm xóm Bộng, âm thầm nhưng thật là chan chứa.

Con Mén càng lớn, ba nó càng cưng nó nhiều. Bởi vì nó thông minh, học giỏi. Và bởi vì nó mang nhiều nét của bà nội nó. Ba nó thường nhìn nó, nói: "Thứ gì mà giống bà nội như in!" Điều mà ba nó không để ý là con Mén còn giống bà nội nó ở chỗ hay chửi đổng "Mồ tổ cha nó!" mỗi khi nó bực mình chuyện gì. Có lẽ tại vì nó chửi lầm bầm nên ba nó không nghe.

Mấy anh con Mén đi học buổi sáng, nó đi học buổi chiều. Thành ra lúc nào trong nhà cũng có đứa học ê a, đứa nằm sấp xuống gạch nắn nót làm bài. Hầu hết tụi nhỏ trong xóm đều học chung một trường, nên đi và về cùng một lúc, đứa trước đứa sau đi thành một hàng dài. Đến khi tụi nó học bài cũng nghe uềnh oang như tiếng ễnh ương vào mùa nước nổi.

Trưa, con Mén cuốc bộ đi học. Chiều ba nó đi làm về, đạp xe ghé ngang trường rước nó. Những lúc đó nó thấy hãnh diện vô cùng. Ngồi trên bọt ba ga, cặp táp đeo lủng lẳng ở cổ, hai bàn tay nhỏ nắm lấy dây nịt của ba nó để giữ thăng bằng, nó nói chuyện huyên thuyên, hỏi ba nó đủ thứ. Ba nó lúc nào cũng có câu trả lời, cũng góp vào câu chuyện rất hào hứng chớ không phải ậm à ậm ừ. Cho nên, đối với nó, trên đời này chỉ có ba nó là nhứt!

Vậy mà thời gian sau này, ba nó bị cấm trại liên miên. Nó đành đi học một mình và về một mình. Tối, nó ngủ một mình ên trên võng. Bây giờ nó lớn, nên không gào khóc như thuở nó mới xa bà nội nó. Nó biết xấu hổ, nên úp mặt vào chiếc áo nhà binh của ba nó âm thầm khóc rấm rứt. Rồi một lúc nó cũng ngủ thiếp đi, ôm chiếc áo như ôm lưng ba nó vậy.

--oOo--

Việt Cộng tràn về chiếm hết miền Nam. Mấy ngày cuối cùng của tháng tư 75 thật là kinh hoàng. Thiên hạ rần rần, nhốn nha nhốn nháo. Ba con Mén chạy bộ về đến nhà, mồ hôi mồ kê, mặt xanh như tàu lá, chỉ mặc có cái quần đùi. Ba nó hổn hển nói với má nó: "Mẹ họ! Trong lúc lộn xộn, thằng nào nó đớp cha nó chiếc xe đạp của anh, làm anh chạy bộ về muốn tắt thở ". Má nó lo lắng: "Còn quần áo của anh đâu?" Ba nó nhăn nhó: "Cởi liệng cha nó rồi. Mặc để Việt Cộng nó bắn thấy tiên tổ à!". Rồi ba nó phun nước miếng cái phụt như phun một cái gì thật đắng. Má nó vội đưa cho ly nước, ba nó cầm lấy, uống ừng ực như người bị mắc xương, mắt lồi ra căm phẫn. Không biết Việt Cộng ra sao, nhưng thấy ba nó tả tơi như vậy con Mén cũng phát tức. Nó lầm bầm chưởi đổng: "Mồ tổ cha nó!"

--oOo--

Ít lâu sau, con Mén đã biết Việt Cộng là gì. Nó cũng bắt chước người lớn, gọi trổng là "họ", chớ không hiểu rằng tiếng "họ" mà người lớn dùng có ý nghĩa mỉa mai cay đắng, bởi vì bây giờ mới thấy giữa "họ" và "mình" có quá nhiều dị biệt.

"Họ" bây giờ tên là "cách mạng". Ba con Mén bây giờ bị "họ" gọi là "ngụy quân". Má con Mén bây giờ lúc nào cũng tự xưng là "vợ ngụy" mặc dù thuộc thành phần công nhân lao động.

Xóm Bộng bây giờ cũng đổi thay bề mặt. Vựa gạo của chú Chành người Tàu bị tịch thu để biến thành trụ sở "Ủy ban nhân dân". Người lạ ở đâu về đó làm chủ tịch, thơ ký. Chú Năm hớt tóc đầu ngõ bỗng thành ông "tổ trưởng", còn bác Bảy thợ hồ được thiên hạ gọi bằng "tổ phó an ninh". Chỉ có dân trong xóm vẫn còn là dân trong xóm! Thiên hạ "nhong nhóng" đợi một thời gian coi tình hình ra sao, nhưng rồi ít lâu sau cũng chẳng thấy ai rục rịch dọn về quê về làng. Mong ước bình dị "yên rồi, về quê sanh sống", một mong ước được chắt chiu nuôi dưỡng từ bao nhiêu năm, bây giờ giống như bọt nước bờ sông từ từ tan rã. Cái "Ngày mai trời lại sáng" bây giờ thật sự chỉ là một giấc mộng! Thiên hạ thường chép miệng: "Ở dưới quê họ cũng tịch thâu hết rồi. Về làm cái khỉ gì? Ở đâu cũng vậy thôi!". Dân tản cư bỗng thấy mình như bị mồ côi, vĩnh viễn bị cắt đứt với gốc dừa cây cau chậu kiểng. Từ thân chùm gởi họ đã trở thành đám lục bình. Xóm Bộng mặc nhiên thành điểm tựa để đám lục bình bám vào đó làm một quê hương, đất đứng.

Người trong xóm bây giờ thấy gần gũi nhau hơn. Làm như là không phải dân tứ xứ đến đây, mà như là tất cả đều sanh trưởng ở xóm Bộng. Bây giờ họ mới nhận thấy rằng họ giống nhau từ suy tư đến nếp sống, từ cách ăn mặc đến lời lẽ nói năng. Họ không biết rằng biến thiên của thời cuộc đã cho họ có một đối tượng, thế giới cộng sản và con người cộng sản để nhận xét và so sánh. Đối tượng đó bây giờ thật rõ nét, không còn được ngụy trang bởi những mỹ từ. Cho nên họ nhìn thấy không điểm nào giống họ hết, từ con người đến phong tục tập quán. Tự nhiên, họ cùng đứng về một phía và họ còn thấy cần tựa vào nhau để sinh tồn. Cũng giống như nhà của họ ở: phải xây cất bám vào nhau, kèo cột câu vào nhau, phên vách nối vào nhau để đứng vững. Xóm Bộng chưa bao giờ biết bão lụt, nhưng trong nội tâm người xóm Bộng bây giờ đang bão lụt tơi bời …

--oOo--

Ba con Mén đi học tập ba hôm rồi về nằm nhà gác tay lên trán. Má nó vẫn đi làm. Anh em nó vẫn đi học.

Thời gian sau, ba nó cũng kiếm được việc làm ở bến tàu Khánh Hội, sáng đi chiều về. Đêm đêm, ba má nó thay phiên nhau đi họp phường hoặc họp tổ. Lâu lâu, thằng anh lớn của nó đại diện ba má ra phòng họp ngồi cho có mặt. Những lúc đó, thấy nó mang theo hoặc quyển sách hoặc cuốn tập để thừa dịp có đèn sáng mà học bài cho ngày hôm sau …

Bỗng một đêm, công an khu vực cầm đèn bấm đưa bộ đội đến bắt ba con Mén dẫn đi. Cả xóm nhốn nháo trong bóng tối. Má nó chạy theo kêu khóc, trợt bờ đê té lên té xuống. Đến đầu ngõ có đèn sáng, ba nó nói với má nó: "Chắc họ bắt lầm, chớ anh không có làm gì hết. Em yên tâm!"

Ở nhà, mấy anh em nó thắp đèn rồi ngồi nhìn nhau mếu máo. Hàng xóm thay nhau đến ngồi với tụi nó cho đến khi má nó trở về, đầu cổ bơ phờ quần áo lấm lem bùn đất. Họ an ủi má nó, xì xầm bàn tán cho tới khuya mới ra về.

Đóng cửa tắt đèn từ lâu mà con Mén nằm trên võng còn nghe má nó khóc thút thít. Nó cảm thấy thương má nó, thương ba nó. Rồi nó đâm tức giận mấy thằng công an bộ đội. Kềm không được, nó buột miệng chửi lớn:"Mồ tổ cha nó!". Tiếng của nó lanh lảnh, sắc bén, rạch bóng đêm như một lưỡi dao lam. Má nó giật mình, ngừng khóc, vói tay mò mẫm rờ đầu nó. Nó nắm lấy bàn tay áp vào một bên má như muốn chia sớt niềm đau. Má nó bỗng nghe bàn tay mình ươn ướt.

Mấy hôm sau, vẫn không thấy ba nó về. Trái lại, công an khu vực đến thăm má nó thường hơn. Và lần nào cũng khuyên: "Chị cứ yên tâm. Nếu nhà nước xét thấy anh ấy không có nợ máu với nhân dân, anh ấy sẽ được thả về thôi. Ta sáng suốt chớ không ác ôn như ngụy đâu, chị ạ!"

Ít lâu sau, có tin ba con Mén bị đưa đi học tập cải tạo ở đâu ngoài Trung. Má nó khóc hết nước mắt. Tên công an khu vực lại đến nhà khuyên: "Đi học tập chớ đi tù đâu mà chị sợ. Cứ học tập tốt là được về ngay thôi. Yên chí!" Thoáng nghe như vậy, con Mén tức cành hông. Nó nhìn tên công an chỉ có nửa con mắt!

--oOo--

Má con Mén bị "họ" cho nghỉ việc. Gọn như liệng một món đồ vô dụng vào sọt rát! Tên thủ trưởng gọi má nó vào văn phòng, nói bằng một giọng trắng nhách như vôi: "Tập thể đã nhất trí cho chị nghỉ việc ngay từ bây giờ, bởi vì chị không còn đủ điều kiện để phục vụ nhân dân nữa. Chị lấy hết đồ đạc của chị rồi đi về đi.". Đồ đạc là cái áo, cái khăn lông, cái nón lá và đôi dép cao su đúc. Một tên an ninh đi theo đến cổng, dặn: "Chị đừng trở lại đây làm gì nữa. Không tốt đâu!". Má nó lầm lủi đi, chẳng nói chẳng rằng. Cũng chẳng nhỏ một giọt nước mắt. Bởi vì má nó đã chuẩn bị tinh thần từ ngày biết tin ba nó đi học tập cải tạo. Dưới chế độ cộng sản, đã là vợ con của "ngụy " là phải biết dọn mình chịu đựng sự kỳ thị của kẻ cầm quyền …

Khi má con Mén về đến nhà thì tụi nhỏ đã đi hết, đứa đi học, đứa đi lao động trong trường. Má nó bèn dọn dẹp đồ đạc rồi nấu cơm một cách thản nhiên như chẳng có gì xảy ra hết. Bình thường, má nó không về giờ này, nên hàng xóm để ý. Vài người chạy sang hỏi han như trong gia đình: "Bộ có chuyện gì sao mà má con Mén về nhà giờ này vậy?". Hỏi, nhưng trong lòng họ đã đoán ra câu trả lời hết chín phần mười. Má nó cũng nghe an ủi: "Dạ thì họ đuổi chớ sao! Ngụy mà! Kể số gì?" Rồi má nó cười thật mỉa mai. Một bà già phát tức, phun cốt trầu cái phẹt: "Hứ! Cái giống gì mà thiệt vô nhân đạo. Người ta đã nghèo, một thân một mình làm nuôi bầy con mà cũng đuổi cho đành!". Một bà khác thêm vào: "Thôi đi! Nói gì cái thứ đó! Mồ ông mả cha của tụi nó mà tụi nó còn coi không ra gì thì nói chi tới bà con mình". Nghe mấy tiếng "bà con mình" bỗng nhiên má con Mén mủi lòng, chảy nước mắt. Từ ngày bỏ xóm Cầu Ngang tạm cư ở xóm Bộng này, mặc dù có chồng con ở một bên, má nó vẫn nghe bơ vơ lạ lùng. Má nó thấy thiếu con kinh đào bờ đê thẳng tấp, thiếu chiếc cầu gỗ nhón cao chân dài, thiếu màu vàng ruộng lúa, thiếu mùi thơm bông cau, thiếu họ hàng ruột thịt … Những thứ mà má nó đã thở từ những hơi thở đầu đời. Những thứ mà má nó đã nhìn từ khi nụ nhìn biết phân biệt. Tất cả, tất cả đã trở thành nhịp sống của chính bản thân của má con Mén. Mất đi những thứ đó, má nó cảm thấy như bị tách biệt ra khỏi cuộc đời này … Xóm Bộng tuy hiền, nhưng trước đây người cùng xóm đối xử với nhau còn nhiều dè dặt, ít qua lại với nhau, gặp nhau chào hỏi xã giao lấy lệ. Do đó, mặc dù sống trong xóm nhỏ đông người, má con Mén vẫn thấy như mình sống lẻ loi giữa đồng giữa ruộng. Niềm đau đó má nó dìm sâu trong nội tâm từ bao lâu nay, bây giờ mấy tiếng "bà con mình" thật chất phác nhưng thật gần gũi, thật đậm đà tình lân lý, đã mở ngỏ khơi nguồn. Má nó khóc mà nghe lòng thật ấm cúng và cũng thật là thênh thang trải rộng. Giống như ruộng lúa xóm Cầu Ngang được ươm vàng dưới nắng, cuối mùa mưa …

--oOo--

Biết thân phận mình không làm sao tìm được việc làm ổn định, dù làm phu quét đường đổ phẩn, má con Mén cầm thế một mớ nữ trang quần áo rồi đi buôn đầu chợ bán cuối chợ. Tưởng giống như ngày xưa ở dưới quê, té ra thật là chật vật. Ở đây và bây giờ, có một trăm người bán nhưng không có một vạn người mua. Quá nhiều người bán bởi vì những người này một số không chịu đi làm cho chế độ, một số bị chế độ sa thải đành buôn bán lắt nhắt để kiếm sống. Quá ít người mua bởi vì thiên hạ không còn tiền …

Anh em con Mén cũng đã nghỉ học, ở nhà giúp má tụi nó bằng cách đi bươi đống rác lượm ve chai, giấy vụn, bao ni lông … Má con Mén cắt bao bố tời may lại thành túi nhỏ cỡ bằng ba giỏ đi chợ, có hai quai để tụi nó mang vào vai vào cổ. Mấy đứa lớn mang ba túi mỗi đứa, mấy đứa nhỏ tùy bữa mà đeo khi một khi hai. Đứa nào cũng cầm một que sắt đầu uốn cong như cái móc. Thằng lớn hay đùa: "Tụi mình bây giờ thành Cái Bang hết. Tao là trưởng lão ba túi, còn tụi bây là đệ tử. Mỗi ngày tủa ra đi hành hiệp trên mấy đống rác thành phố Hồ Chí Minh quang vinh!" Rồi tụi nó cười vui như chẳng biết phiền lụy là gì.

Má con Mén thì khác. Ưu tư nằm ngay trong ánh mắt nụ cười. Những đêm trằn trọc đã đào sâu đôi má. Càng ngày, con người càng héo hon. Tuy nhiên, chẳng bao giờ nghe má nó mở miệng than một lời. Thấy tội nghiệp, hàng xóm thừơng qua thăm mẹ con con Mén để phụ tụi nhỏ lựa ra và xếp riêng thành đống miểng chai theo miểng chai, ni long theo ni long, giấy theo giấy v.v… Lâu lâu họ cũng mang cho vài khúc mía, trái dừa hoặc mấy nhúm tôm khô. Có gì cho nấy, không còn nề hà dở ngon hay nhiều ít. Má con Mén đều nhận hết, không bao giờ từ chối đẩy đưa. Bây giờ, làm như là người ta sống thật tình với nhau hơn hồi trước. Làm như là thiên hạ cần có nhau như hơi thở cần cho cuộc đời. Có lẽ bởi vì họ đã mất tất cả những gì họ đã có, bây giờ họ chỉ còn lại có nhau thôi …

Lần hồi rồi má con Mén cũng phải bán đi chút đỉnh đồ đạc trong nhà để đủ có miếng ăn cho lũ nhỏ. Lúc này tụi nó lớn thấy rõ, mặc dù ăn uống kham khổ. Mấy bà hàng xóm thường nói: "Trời sanh, trời nuôi". Mà thật, tới con Mén cũng cao lên, tuy vẫn còn gầy. Tay chân hơi ghẻ lở nhưng gương mặt vẫn kháu khỉnh nhờ mái tóc vẫn hớt bum bê cao. Nó không chịu để tóc dài. Mỗi lần má nó đề nghị "Để tóc dài đi con cho nó thành con gái" nó lắc đầu nguầy nguậy, tóc bum bê xòe ra như rẻ quạt: "Nực thấy mồ …" Mấy hôm đầu đi bươi rác, nó còn mang dép Nhựt. Sau đó, nó lượm một mớ giày Ba ta rách mũi, chọn được hai chiếc vừa chân thì một xanh một vàng. Nó mang vào, hí hửng: "Kệ nó! Khác màu như vậy khỏi sợ chúng nó ăn cắp". Rồi nó đem đôi dép Nhựt rửa sạch, cất kỹ. Không ai hỏi, nhưng nó vẫn giải thích: "Để giành mai mốt có đi học lại, có mà mang". Nghe nó nói, thằng anh hai nó nhìn nó rất lâu, bồi hồi xúc động. Anh nó nhận thấy con Mén không còn là con nít nữa.

--oOo--

Má con Mén có một người chị ruột tên Ánh, Nguyễn Thị Ánh, hồi đó nấu bếp cho vợ chồng một ông Tây. Khi gia đình ông này dọn về xứ, chị Ánh cũng đi theo họ rồi ở luôn bên đó. Ít lâu sau, có tin chỉ lấy chồng người Pháp rồi hai vợ chồng đưa nhau qua làm ăn ở Phi Châu. Chỉ cũng đã vào quốc tịch Pháp và đổi tên là Anne, bà Anne Brioude.

Khi má con Mén bắt đầu cạy gạch bông nền nhà lên bán để độ nhật, thằng anh con Mén nói "hết ăn tủ tới ăn rương, bây giờ tụi mình ăn tới gạch!" thì chị Ánh ở bên tây về kiếm thăm. Ông chồng khuyên không nên về sợ gặp khó khăn, nhưng chỉ vẩn quyết định: "Tôi phải về kiếm tụi nó coi ra sao. Nghe nói bây giờ bên Việt Nam dân chúng đói khổ lắm". Rồi chị mua thật nhiều hàng vải quà cáp làm như gia đình chị bên nhà còn rất đông. Thật ra, chị Ánh chỉ còn có má con Mén là ruột thịt, nhưng mười mấy năm xa cách đã làm cho tình thương trong lòng chị thật mênh mông, không bờ không bến, đến độ chị không đo lường được nữa không phân biệt được nữa đâu là tình thương em đâu là tình thương quê hương …

Về Sài Gòn, chị Ánh vẫn gọi là Sài Gòn vì thói quen, chị ở khách sạn Hữu Nghị. Ngày ngày chị đi dò hỏi tin tức má con Mén, từ những người quen xa xa chỉ qua những người cùng gốc ở Cầu Ngang nhưng đã lên làm ăn ở thành thị từ trước … Cứ phăn lần phăn lần rồi chị Ánh cũng tìm ra xóm Bộng. Đến đây, chị gặp một trở ngại lớn: người trong xóm không biết ai tên là Nguyễn thị Hoa hết. Chị giải thích dài dài: "Nó nhỏ nhỏ con, người tròn trịa trắng trẻo, năm nay chừng băm mấy chớ chưa già lắm". Chị tả hình dáng của người em gái cách đây đã mười mấy năm, cái thời mà hai chị em còn ở dưới quê, trưa trưa hay ra ngồi trên cây dừa bắt ngang đường nước, thọc chân trong nước mát, đong đưa kể chuyện tâm tình … Hình ảnh đó, chị đã mang đi và giữ vẹn cho đến bây giờ, quên mất là thời gian đã đi qua và nét đời đã bị bôi đi vẽ lại! Không ngã lòng, chị tìm cách nói với mấy bà già trong xóm: "Cháu tên là Nguyễn thị Ánh, con em cháu tên Nguyễn thị Hoa. Tụi cháu dân ở Cầu Ngang, miệt dưới …". Địa danh Cầu Ngang đã giúp mấy bà nghĩ ra má con Mén. Một bà hỏi: "Có phải cô đó có bốn đứa con không?" Chị Ánh mừng rỡ: "Đúng rồi! Người ta nói nó có bốn đứa con, ba trai một gái!". Bà già gật đầu: "Vậy là má con Mén rồi!". Trước khi chỉ đường, bà trách nhẹ: "Kiếm má con Mén thì nói kiếm má con Mén! Cô cứ nói Nguyễn thị Hoa hoài, ai mà biết ai!"

Vậy là hai chị em gặp nhau. Gặp nhau thật là ngỡ ngàng. Quá nhiều thay đổi để nhìn ra nhau ngay và xa cách đã quá lâu nên tình cảm bị chìm sâu trong tìm thức. Phải một vài giây im lặng để tìm lại những nét cũ trên gương mặt bây giờ và để những tình cảm bị bỏ quên từ ngày xưa được trả về với hiện tại. Sau phút ngỡ ngàng hai chị em ôm chầm lấy nhau, khóc nức nở.

--oOo--

Chị Ánh đã quyết định: gia đình con Mén phải qua Phi Châu ở với chỉ. Nhìn tay chân ghẻ lở của bầy cháu, nhìn gương mặt già trước tuổi của đứa em, chị nghe bất nhẫn vô cùng. Chị nói: "Không được! Ở lại đây tụi bây cùi luôn, ngu luôn. Qua bển tao lo cho hết. Còn ba tụi bây, từ từ rồi tính sau”. Rồi chị sắp đặt: “Chị để lại một mớ tiền, em lo liệu cho mấy đứa nhỏ và đi thăm nuôi chồng em. Chừng chị về bên đó, chị sẽ gởi tiếp thêm để em chạy lo giấy tờ. Tốn bao nhiêu thì tốn, nhưng phải đi khỏi xứ này gấp!”. Má con Mén như người không biết lội vừa chìm xuống nước ngoi lên ôm được cái phao, nhìn trời cao lồng lộng bên trên mà cảm nhận cuộc sống này vẫn còn có lối thoát.

Chị Ánh trở về Pháp. Tụi nhỏ vẫn tiếp tục bươi đống rác ngày ngày để đừng ai để ý. Má con Mén chạy chọt dò dẫm rồi cũng tìm ra trại học tập của chồng.

Lần đi thăm nuôi đầu tiên, con Mén có đi theo. Thấy ba nó gầy nhom, nó rớt nước mắt. Má nó kể chuyện dì Ánh cho ba nó nghe, ba nó vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Nhưng khi nghe hỏi ý kiến về vụ cho mấy đứa nhỏ sang Phi Châu, ba nó bỗng im lặng nhìn ra bìa rừng làm như câu trả lời nằm ở đâu ngoài đó. Một lúc sau, ba nó nói, thật trầm tĩnh: “Ờ … tính như vậy cũng được. Cho mấy đứa nhỏ nó có tương lai …”. Rồi ba nó cầm lấy hai bàn tay nhỏ của nó, vừa bóp nhẹ vừa nhìn nó thật lâu. Nó cũng nhìn ba nó: chưa đầy một năm mà ba nó già đi nhiều, mắt sâu xuống, gò má nhô lên, râu tóc rối bời … Ba nó đã làm tội tình gì mà “tụi nó” đày đọa ba nó ra như vậy? Rồi nó nhìn ra mấy thằng bộ đội đứng lớ ngớ ngoài kia, môi nó mím lại, mắt nó lồi ra: nó muốn lấy que sắt cào bươi "tụi nó” tả tơi như nó nó đã cào bươi mấy đống rác! Từ đó, con Mén biết thế nào là hận thù …

--oOo--

Dì Ánh đã gởi về đầy đủ giấy tờ, má con Mén cũng đã nạp hồ sơ xin xuất cảnh qua Côte d’Ivoire (Phi Châu). Nhờ có tiền gởi về, má nó chạy chọt đút lót nên cũng không gặp nhiều khó khăn. Cho đến ba con Mén bây giờ cũng được các cán bộ dành nhiều dễ dãi.

Thời gian qua mau, mới đó mà đã hai năm mấy. Khi ba con Mén được thả về thì mẹ con tụi nó chỉ còn chờ ngày lên máy bay. Ba nó về mà có cảm tưởng như được đặc cách cho về để đưa vợ con đi vậy. Bởi vì, sau đó, ba nó vẫn sẽ phải sống chật vật một mình trong một vùng kinh tế mới nào đó, và tuy không còn ở trong trại nhưng vẫn ở lại trong xứ thì cũng giống như bị giam trong một trại tập trung khổng lồ.

Ngày ba nó trở về, căn nhà nhỏ bỗng trở nên quá nhỏ để tiếp những người hàng xóm. Ai cũng mừng cho gia đình con Mén, mừng thật sự, bởi vì đối với họ, ba con Mén là người của đại gia đình xóm Bộng. Vậy mà cái đại gia đình đó vẫn chưa ai hay rằng tụi con Mén sẽ bay đi tìm sống tự do ở một chân trời khác. Bởi vì má con nó luôn luôn giữ kín chuyện này, cũng như mọi người đang lo xuất cảnh hay toan tính vượt biên, chẳng một ai dám hé răng.

Bây giờ con Mén lớn rồi, nên nó để cái võng cho ba nó nằm. Nó săn sóc ba nó từng chút, lấy khăn lông nhúng nước cho ba nó lau mặt, nấu trà cho ba nó uống, bới cơm cho ba nó ăn. Mẹ con nó ngồi dưới đất vây quanh võng để nghe ba nó kể chuyện cải tạo đầy khổ nhục. Ba nó bây giờ hút thuốc rê như ống khói. Ba nó thấy bầy nhỏ nhìn mình chăm chú, nên mỉm cười phân trần như tự bào chữa: “Hồi đó ba đâu biết hút thuốc. Rồi trong trại, phần vì lạnh, phần vì buồn, bạn tù chia nhau điếu thuốc rê. Riết rồi ghiền luôn, bỏ không được”. Con Mén nghe thương ba nó vô cùng. Nó muốn nhào lại ôm ba nó để chia sớt ngần đó tháng năm chồng chất bằng đói lạnh buồn đau. Nó muốn nhào lại cầm tay ba nó đặt lên một bên má của nó, rồi an ủi ba nó bằng những lời lẽ thật là dịu thật là ngọt. Nó muốn … nó muốn … Nhưng, không hiểu sao nó vẫn ngồi yên nhìn ba nó mà nghẹn ngào chảy nước mắt. Có lẽ nó tự nhận thấy bây giờ nó không còn là con nít nữa.

--oOo--

Bữa đi phi trường thật là tội nghiệp. Cả nhà len lén đi, không dám chào ai hết. Gọi là đi chính thức nhưng giống như là đi trốn, đi chui. Má con Mén dặn dò mấy đứa nhỏ thật kỹ lưỡng, rồi kết luận: “Sợ bà con biết rồi ba con buồn, hiểu chưa?”

Nếu bà con biết thì có lẽ bà con sẽ buồn thật. Không phải chỉ buồn vì xa tụi con Mén, mà còn buồn vì số phận hẩm hiu của mình, bởi vì không phải ai cũng được may mắn như gia đình con Mén. Điều mà má nó không nói ra là trong thâm tâm má nó rất ái nái khi phải bỏ xóm Bộng ra đi. Má nó thấy mình giống như lính đào ngủ trong khi bạn đồng đội đang gan lỳ chịu đựng. Ngồi trên xe đi phi trường mà má con Mén cứ lâu lâu lại thở dài …

Phi trường đông thật đông, Người đi không có bao nhiêu mà người tiễn đưa thì thật là nhiều. Kẻ đi người tiễn nào mắt cũng mọng đỏ. Họ đã khóc đâu từ hồi còn ở nhà hay từ hồi còn trên xe, đến đây còn thấy có người khóc tiếp. Dĩ nhiên buổi tiễn đưa nào cũng buồn, nhưng tiễn đưa mà biết rằng vĩnh viễn không gặp lại nhau nữa thì buổi tiễn đưa đó mới thật là đau đớn. Nó cũng giống như đi chôn người thân, cho nên có nhiều người ôm nhau khóc thật thảm thiết. Người đi cũng như kẻ ở đều chết điếng trong lòng. Lời nói chỉ còn là nước mắt.

Mấy anh em con Mén lần lượt ôm ba tụi nó, khóc như mưa bấc. Con Mén được ba nó ôm sau cùng, ôm thật lâu … Ba nó siết chặt nó vào lòng mà nghe như có cái gì trạo trực từ lồng ngực đưa lên cổ. Ba nó nhắm nghiền mắt lại, nuốt xuống như nuốt liều thuốc đắng.

Đến khi ba nó hôn nó lần cuối thì nước mắt ở đâu bỗng trào ra như suối. Trong một khoảnh khắc, người đàn ông quê mùa cục mịch đó bỗng nghe thân xác của mình tan ra thành nước, bỗng thấy tất cả đều nhòe nhoẹt tối đen mà mình thì đã chết đi, chết hẳn. Thời gian như ngừng lại rất lâu …

Rồi cũng phải buông rời nhau ra để thực sự nhìn nhau lần cuối. Những người tiễn đứng thành hàng dài, còn rán chồm qua hàng rào ngăn cách để núm níu người đi. Chỉ trong vài giây ngắn ngủi đó, tất cả đau thương cô đọng lại thành tiếng nấc, rồi người ta khóc to lên không còn cần giữ ý tứ gì nữa. Giống như lúc liệng nắm đất lên mặt quan tài nằm sâu dưới huyệt. Ở đây, đúng là “người đi” đi vào một thế giới khác.

Ba con Mén nhìn theo vợ con bước vào bên trong, khoảng cách không có bao nhiêu nhưng sao thấy xa mút như đầu con kinh đào ở xóm Cầu Ngang. Con kinh đào mà thuở ấu thơ ba nó đã từng nô đùa tắm mát bây giờ cũng xa lắm nhưng còn có ngày ba nó nhìn thấy lại, chớ vợ con thì … Ba nó ngừng suy tư ở đó để vẫy tay lần cuối trước khi vợ con bước qua khuôn cửa kiếng. Cánh cửa đóng lại khô khan như gương mặt mấy thằng công an đứng gần quanh đó, dửng dưng như chẳng có chuyện gì xảy ra ! Trong phòng đợi, con Mén lẩm nhẩm đánh vần khẫu hiệu được vẽ to trên tường bằng sơn đỏ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.

--oOo--

Tôi quen con Mén ở Abidjan, thủ đô xứ Côte d’Ivoire. Má nó đưa anh em nó lại để học Pháp văn với tôi, cùng với những đứa con của mấy gia đình tỵ nạn khác.

Con Mén bây giờ không còn “mén” nữa. Nó tròn trịa ra, đôi má phinh phính hồng. Tóc bây giờ đã để dài chấm vai, đuôi tóc quớt quớt.

Khi đã quen thân, con Mén tỉ tê kể cho tôi nghe từng mẫu chuyện nhỏ trong cuộc đời của nó, nhớ đâu kể đó, không thứ tự lớp lang. Nhưng phần lớn, chính má nó kể lại, tỉ mỉ hơn, nhứt là đoạn nó còn nhỏ.

Những lúc con Mén kể chuyện, mặt nó tươi ra, rạng rỡ, mắt nó ngời lên tinh anh. Và khi nó nói về ba nó, nó không thiếu một chi tiết. Lâu lâu nó ngừng lại để chêm vào: “Cũng tại tụi Việt Cộng hết!”. Đến những đoạn bi thảm của ba nó, có khi nó ngừng kể, mắt nó đầy căm thù, tiếng nó bị nghiến lại trong răng. Tôi đoán nó đang chửi thầm: “Mồ tổ cha nó!”

Một hôm, nó nói với tôi: "Bác Hai nè! Bác đừng nói với ai hết nghen. Con muốn nhờ bác dạy con chữ quốc ngữ nữa. Hồi đó con mới học hết lớp một rồi nghỉ học luôn tới giờ nên con còn dốt lắm!".

Rồi nó chớp chớp mắt, giọng nói bỗng trở nên trìu mến: "Con muốn học quốc ngữ để con viết thơ cho ba con ..".

Câu nói đó đã làm tôi xúc động đến ứa nước mắt!

Từ bao lâu nay, người tị nạn chỉ nhờ tôi dạy Anh văn hay Pháp văn. Đây là lần đầu tiên trong đời lưu vong, tôi được người nhờ dạy quốc ngữ. Lại là một cô gái nhỏ. Và cô học chỉ để viết thơ về cho cha cô ở Việt Nam! Giản dị như vậy. Vậy mà sao tôi có cảm tưởng như tôi vừa được nhắc đến quê hương, nhắc bằng chữ i, chữ tờ … Và được thấy lại một nét quê hương qua hình ảnh người con muốn viết thơ về cho cha vì vẫn không muốn cắt lìa cuống rún!

Tôi nhìn con Mén mà thấy thương thấy quí nó vô cùng. Nó không hiểu cái nhìn của tôi nên gật gật đầu, lập lại: "Con muốn viết thơ cho ba con!".

Tôi cầm hai bàn tay nó bóp nhẹ: "Ừ, … bác sẽ dạy con … bác sẽ dạy con …".

Trên gương mặt phinh phính của con Mén, nở ra một nụ cười rạng rỡ. Chắc nó đang nghĩ đến ba nó, đến cái ngày mà nó có đủ chữ đủ câu để nắn nót viết cho ba nó những bức thơ dài …

Ở Abidjan không có sách giáo khoa Việt Nam. Tôi phải nhờ một người bạn ở Paris mua gởi sang. Từ đó, ngày ngày tôi dạy riêng con Mén mà có cảm tưởng như chính tôi đang đi học lại.

Bây giờ, tôi thấy quí vô cùng những chữ la tinh mang móc câu, để trở thành chữ ư chữ ơ, đội nón úp nón ngửa để trở thành chữ â chữ ă, kéo theo mấy dấu lăn quăn nằm dưới nằm trên … Bởi vì nhờ có chúng nó mà cha con con Mén vẫn thấy được gần nhau mặc dầu ở xa nhau cách nửa địa cầu. Bởi vì nhờ có chúng nó mà tôi đã khám phá ra con Mén, một đứa gái nhỏ tuy tị nạn bao năm ở xứ người mà trong lòng vẫn còn giữ nguyên hình ảnh của xóm Bộng, của Sài Gòn, của Việt Nam …

Truyện ngắn: Con Mén-Tiểu Tử 

FWD from: 
Tat Thang Vu' via PSXH, 
Tinh Tran    tinhtranthanh@yahoo.com
myngoc nguyen <berna54@yahoo.com

Thu, May 21 at 11:12 AM
Chuyện vui và tình cảm!
“Thằng bố vợ tôi”
hoànglonghải  
Gọi bố vợ bằng thằng là điều không ai chấp nhận được. “Tứ thân phụ mẫu”, cha mẹ vợ hay cha mẹ chồng đều phải được kính trọng, thương yêu như nhau.
Cha vợ hay cha chồng đều gọi bằng cha, bằng bố. Mẹ vợ hay mẹ chồng đều được gọi bằng mẹ hay má, v.v… Trong luân lý nầy, người Mỹ khác với người Việt.. Không phải là cha mẹ sinh ra mình, mà cha mẹ của vợ hay chồng, họ thêm vào chữ “in law”. Tại sao phải phân biệt cha mẹ vợ hay cha mẹ chồng?
Thế mà tôi gọi bố vợ bằng “thằng”.
Nếu người ta chưởi cho, mắng là đồ mất dạy, hổn láo, vô văn hóa cũng là chuyện thường.

Bố vợ tôi không phải là người mất tư cách hay vô lương tâm, hay làm điều chi vô luân bại lý mà để tôi khinh thị gọi bằng “thằng”. “Ông” là người rất hiền lành!
Thế mà một buổi sáng, bọn tôi ba “đứa”, những “đứa” còn sót lại trong cuộc chiến tranh tàn khốc vừa qua, nay “lưu lạc” ở xứ “Mỹ cờ hoa” nầy, ngồi uống cà-phê trong một cái quán ăn sáng ở Orange County, quán tuy không đẹp nhưng thanh lịch, cây cỏ chung quanh tươi mát đẹp đẽ, vậy mà Quang mắng tôi một câu nghe thật buồn cười:
-“Mày dẹp cái trò “bố bố con con” của mày lại đi. Mày, tao với nó là bạn, bạn từ hồi còn mặc quần xà-lỏn, gọi nhau “mày mày tao tao” quen đã mấy chục năm. Bây giờ nghe mày xưng “bố con” với nó, tao không thấy buồn cười mà thấy bực mình, mất vui.”
Quang gọi là “nó”. Nó là bố vợ tôi đấy, là một đứa bạn trong bọn tôi đấy.
Sao gọi là “bọn tôi”?
&
Trước Hiệp Định Genève 1954 thành phố Saigon chỉ “rộng” tới cầu Trương Minh Giảng. Bên kia cầu, còn là vùng đất hoang, lầy lội, lau sậy mọc um tùm. Vùng đất ấy, xưa, chỉ có một xóm nhà nhỏ, của dân mò cua bắt ốc và trộm cắp. Người ta gọi đó là “Xóm Vẹc”.
Hồi ấy, dân chúng tập trung sống ở trung tâm Saigon, còn như ai ở “Xóm Vẹc”, là vùng ngoại ô, mất an ninh. Dân nhậu Saigon, nhà ở Xóm Vẹc, một là nhậu cho “tới chỉ” thì ngủ lại nhà bạn. Còn như ai muốn về thì lo về sớm. Về khuya trên đường Xóm Vẹc, không chừng bị du đảng đánh cho, bị cướp tiền bạc, bị lấy xe đạp.
Lỡ như ai đó nhậu chưa tới, nửa muốn ở, nửa muốn về, bạn bè sẽ có người bảo: “Thôi để cho ông ấy về, đường khuya nguy hiểm”.
&
Thế rồi cả triệu người di cư năm 1954. Ai gốc nông dân, người ta định cư ở vùng nông thôn, dinh điền, khu trù mật… tiếp nối cái nghề tổ tiên để lại. Ai dân Hà Nội hay thành phố ở ngoài Bắc, không quen làm ruộng thì tập trung ở Saigon hay các thành phố khác phía nam vĩ tuyến.
Không còn đủ đất ở trung tâm Saigon, nên thủ đô miền Nam phình rộng ra.
            Ngay xứ tôi ở, Xóm Vẹc ngày xưa, nay dân di cư tập trung đông đúc. Từ phía đầu cầu Trương Minh Giảng, lên tới “Lăng Cha Cả” là chỗ người Bắc định cư.. Những khu vực được nhiều người nhắc tên mới là “Xóm Bùi Phát”. Có phải họ gốc Bùi Chu/ Phát Diệm? Nhà Thờ Ba Chuông, Cư Xá Đô Thành.
Nhà Thờ, Chùa và Chợ theo dân mà mọc lên.
Lăng Cha Cả ở cuối đường Trương Mình Ký, ngày xưa vắng vẻ, quạnh hiu, nay thành nơi đô hội. “Cái nhà lăng” kiểu xưa, ngói âm dương, cột kèo cũ kỷ nằm chơ vơ, xa lạ trước những ngôi nhà lầu cao vài ba tầng, kiểu mới, hiện đại.
            Bọn tôi, cũng gốc “rân ri-cư”, – như chúng tôi thường gọi đùa chính mình -, từ năm lên năm, lên mười, lớn lên ở cái “Xóm Vẹc” thời xa xưa ấy. Tên đường Alfred Eyriaud Des Vergnes đổi thành đường Trương Minh Giảng, nối dài tới cuối đường, chỗ gần tới cổng Bộ tổng Tham Mưu Quân Đội VNCH là đường Trương Minh Ký.
            Chúng tôi bỏ không gọi Xóm Vẹc mà gọi theo những cái tên mới, xuất hiện cùng thời với dân di cư đến định cư ở đây. Tên “Xóm Vẹc” biến mất hồi nào mà không ai hay! Tội nghiệp hay không tội nghiệp cho một ông Tây tên Vẹc, một ông “thực dân”?
            Bọn tôi không dưới năm đứa, không quá mười tên, học tiểu học với nhau, đầu tiên ở cái trường tư trong xóm, do một ông giáo già người Bắc di cư, nay đã nghỉ hưu, mở lớp dạy tư tại nhà. Một phần là vì chính phủ chưa kịp mở trường cho dân di cư, một phần, học ở đây thay vì phải vào thành phố.
Học ở “Trường Xóm”, chúng tôi khỏi phải đi xa, xe cộ bất tiện, tai nạn nguy hiểm. Học gần nhà, bố mẹ dễ “kiểm soát”, lại có ông thầy già nghiêm khắc, bọn chúng tôi bớt hoang nghịch.
            “Trường Xóm” của chúng tôi nó tương tự như trường của mấy ông đồ ngày xưa ở làng quê: Học trò đủ hạng tuổi, đủ hạng lớp… Kể theo cách ngày trước, thấp nhất là lớp Năm. Lớp nầy đông nhất, trên hai chục “đứa”. “Đứa” là học sinh nhỏ đấy. Rồi đến lớp Tư, học sinh ít hơn. Lớp Nhất là ít nhất, chỉ có mấy “anh”. “Anh” cũng là học sinh, nhưng lớn tuổi hơn bọn tôi, nên phải gọi bằng “anh” cho “phải phép”. Lớp nầy thầy dạy kỹ lắm vì năm tới phải thi vô trường công, khỏi học trường tư. Trường tư phải đóng học phí. Không kịp đóng học phí, học sinh sẽ bị đuổi học, về nhà xin tiền đóng tiếp để được học tiếp. “Tiên “học phí”, hậu học văn”. “Trường tư” thường bị mang tiếng kinh doanh hơn giáo dục. Nhưng không đóng học phí, tiền đâu trả lương cho thầy?!
            Được mấy năm, ông thầy già qua đời. Nghề làm thầy giáo mà: “Tổn lắm”. Bố tôi thường nói vậy. Mẹ tôi bảo làm thầy giáo “dễ bị ho lao”. Người đời thì bảo là nghề “bán cháo phổi”. Ông thầy già, sức yếu, lại nhiều năm gian khổ, dù không bị bệnh lao, ông vẫn qui tiên sớm là chuyện thường.
            Ổng chết rồi, bọn chúng tôi vẫn nhớ ông, và thương ông nữa, bởi ông có một điều đáng quí: Tận tâm với bọn trẻ chúng tôi, mặc dù chúng tôi vẫn ngán cây roi mây của ông, một là để thầy nhịp nhiều lần trên mặt bàn, nhắc chúng tôi im, không được nói chuyện, phải học bài làm bài chăm chỉ, và cũng “phết vào đít” thằng nào đó, cái tội nghịch trong giờ học hay đánh lộn ngoài giờ.
            Ông thầy già qua đời rồi, trường “Xóm Vẹc” của tôi đóng cửa. Không ai nối nghiệp ông ở cái xóm mới định cư nầy.
Chúng tôi xuống học lớp Nhất ở một cái trường tư khác, trên đường Kỳ Đồng, của “ông cha nhà thờ”. Trường có lớp nầy lớp kia đàng hoàng, nhưng bọn học trò chúng tôi thì không đàng hoàng. Sau giờ học, có khi bỏ cả giờ học, chúng tôi leo “Xe Buýt Đỏ”, loại nầy vừa thay cho “Xe Buýt Vàng”, để chui vào Sở Thú chơi.
            Ông tuyệt vời! Những buổi lang thang trong Sở Thú. “Làm học trò nhưng không sách cầm tay! Có tâm sự đi nói cùng cây cỏ” Ông nhà thơ Đinh Hùng nói chỉ đúng có một nửa, vì chúng tôi “Có tâm sự” gì đâu!?
Tới giờ, lo tìm về cho đúng giờ để “ông bô bà via” của chúng tôi vẫn nghĩ chúng tôi là những đứa học trò ngoan.
            Lên Trung Học, mỗi đứa chúng tôi xa nhau hơn. Đứa vào trường công, đứa vào trường tư. Gần thì Huỳnh Thị Ngà ở Xóm Chùa, vào Huỳnh Khương Ninh ở Đa-Kao, đứa xa hơn, Hưng Đạo, gần đường Trần Hưng Đạo.
            Bấy giờ thì tình hình Saigon “vui lắm”. Biểu tình, đá đảo, hoan hô, tuyệt thực, tự thiêu, đảo chánh, “biểu dương lực lượng”… xảy ra đều đều, tháng nào cũng có hay mỗi năm, năm bảy bận. Cũng có khi chúng tôi đi biểu tình “cho vui”, cho đời thêm “màu sắc”
            Đậu tú tài, được vô đại học; nhưng chiến tranh đã gần kề. Súng không còn nổ ở Bình Giả, Đắk-Tô, Ban-Hét… “xa tít mù khơi” nữa mà gần kề hơn, có khi ngay tại Saigon. Việt Cộng gài lựu đạn, mìn, khủng bố. Thế rồi chúng tôi lần lượt vô quân trường lúc nào mà ngay chính mình cũng không nhớ tới nữa.
Tới tuổi rồi, không đi sao được. Với lại, mấy ông thầy đứng trên bục giảng làm chúng tôi “hứng chí” không ít: “Áo chàng đỏ tựa ráng pha, ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in”.
Chúng tôi bỗng thấy “gần gũi” với màu áo lính trận, màu xanh cây rừng, màu hoa dù, màu rong biển…
            Vài bữa đi học về, nghe bố mẹ hay ai đó trong gia đình nói: “Thằng X. đi Võ Bị rồi!” Rồi lại: “Thằng Y. vô Không Quân”, rồi lại “Thằng Z. đi Nhảy Dù”, “Thằng T. đi Biệt Động Quân”. Biệt Động Quân là cọp “Ba Đầu Rằn” đấy.
            Một hôm, gặp “Thằng bố vợ tôi”, sau nầy. Nó bảo: “Tao đi Quân Cụ”. Tôi ừ, nghĩ “Lớ ngớ như mày, ra đơn vị tác chiến, “bỏ mạng sa tràng sớm.” Nói thì nói vậy, chứ đời chưa hẳn vậy.... “Đơn vị không tác chiến, có khi bỏ mạng sớm, còn như ai đánh giặc ngày nầy qua tháng khác, lại sống nhăn.
            Thế rồi có đứa hy sinh, có đứa bị thương, thành thương binh, có đứa bị Việt Cộng bắt..
            Trong bọn tôi, tôi là người bị bắt sớm nhất, tù Việt Cộng sớm nhất. Năm 1971, tôi bị chúng nó bắt ở Hạ Lào. Những đứa còn lại, đều thua tuổi tù tôi những 4 năm. Sau Ba mươi tháng Tư, chúng nó mới lục tục kéo nhau “trình diện”, “đóng tiền đi ở tù”. Xem ra, tôi là “tù trưởng” của bọn chúng.
            Từ Hạ Lào, Việt Cộng đưa “bọn tù binh chúng tôi” ra Bắc. Năm ký Hiệp Định Paris, tưởng chúng tha về, như các tù binh khác, nhưng không thấy động tĩnh gì cả. Sau nầy mới biết, khi Chính Phủ VNCH yêu cầu thả chúng tôi ra, bọn Việt Cộng nói chúng tôi bị bắt ở Lào là do Pathet Lào giam giữ, chúng nó không có trách nhiệm.
Miệng lưỡi Cộng Sản, ghê gớm thật!
Mãi tới 16 năm sau, tôi mới “được tha ra khỏi trại cải tạo”. Đó là câu ghi trong cái gọi là “Lệnh Tha”.
Sau 16 năm tù, về lại xóm cũ thấy quạnh hiu. Quạnh hiu là ở lòng người! Nhà cửa thì vẫn thế, không thay đổi gì nhiều. Người tuy đông mà vắng vẻ. Thế hệ cha ông chúng tôi, hầu như “qui tiên” hết cả rồi. Thế hệ tôi thì cũng tan tác. Mười phương tám hướng chúng nó đi hết: Vượt biên, kinh tế mới, về quê làm ruộng, đi làm ăn xa. Bọn trẻ lớn lên, nhiều đứa nhìn tôi xa lạ. Tôi xa nhà đã hơn hai mươi năm. Những đứa ngày tôi ra đi, nay hơn hai chục tuổi, làm sao chúng biết tôi là ai?
&
Khi tôi đạp chiếc xích-lô ngang cổng nhà người bạn cũ thì một cô gái khoảng hai mươi tuổi, tất tả từ trong nhà chạy ra, tay xách, tay mang, gọi ơi ới:
-“Chú Đức, chú Đức, chở cháu đi với.
Tôi dừng xe lại chờ.
Ra tới nơi, cô gái hỏi:
-“Chú đưa cháu qua chợ Hòa Hưng được không? Cháu đi gấp, sợ trễ.”
Tôi hỏi:
-“Cô muốn đi đường nào? Qua ngã Tân Sa Châu hay lên Thoại Ngọc Hầu. Đi ngã Tân Sa Châu ngắn hơn.”
-“Đường Tân Sa Châu xấu lắm. Lên Thoại Ngọc Hầu dễ đạp hơn.”
Cô gái ngồi lên xe xong, tôi nghiêng mình lấy đà đạp xe đi.
Một chốc, cô gái hỏi:
-“Chú ăn gì chưa?”
-“Dân Saigon không ăn sáng, chỉ uống càphê thôi. Trưa mới ăn.”
-“Buổi trưa chú ăn ở đâu?”
-“Không chắc ở đâu, ngang đâu tấp đấy, miễn no với rẻ thì thôi.”
-“Khổ nhỉ? Chốc nữa chú uống càphê với cháu. Có chỗ nầy càphê ngon lắm.” Cô gái nói.
-“Cô sợ trễ mà?” Tôi hỏi.
-“Một chút không sao!” Cô ta trả lời.
Một lúc cô ta hỏi:
-“Chú đạp xe từ hồi nào?”
-“Cải tạo về tới giờ!” Tôi trả lời.
-“Sao gọi là cải tạo? Tù chớ.” Cô gái cải chính....
-“Với ai quen mới gọi tù.. Lỡ gặp cán bộ, gọi tù nó phê bình đấy!” Tôi nói.
-“Ối giời! Bây giờ ai còn ngại gì nữa. Cán bô, Công An cũng như mình thôi, kiếm ăn cả. Cứ theo “Chính sách đường lối” thì lấy gì sống!” Cô gái trả lời.
Lại một lúc, cô ta nói:
-“Bố cháu cũng tù về đấy! Chú biết không?”
-“Biết sao không? Ông ấy là bạn với tôi từ hồi còn nhỏ đấy! Bố cháu cũng đỡ vất vả. Mẹ cháu và chị em cháu đảm đang. Ông ấy chỉ giúp vợ việc lặt vặt.”
Tôi nhớ tới Hiền. Có lẽ là bố cô gái. Nó hiền đúng như tên nó. Dù có lính lác như tôi, nhưng nó ít gian khổ hơn nhiều. Nghĩ thế, tôi nói:
-“Ai có gia đình cũng đỡ. Tôi tù về thì không còn ai!”
-“Cháu biết, hàng xóm mà! Người trong nhà chú lần hồi đi cả. Mấy anh lớn chị lớn vượt biên. Ông cụ qua đời, ít lâu bà cụ cũng đi theo. May họ chưa lấy nhà, nhờ bà cô già.”
Quả thật khi tôi tù về thì nhà không còn ai, chỉ còn bà cô già, chị của bố tôi. Bà ở góa từ khi còn trẻ, không chồng con gì cả. Trước 1975, bà vô chùa. Sau đó, thấy bố mẹ tôi cô quạnh, cô bỏ chùa về săn sóc, cơm nước cho bố mẹ tôi. Bố mẹ tôi mất rồi, Việt Cộng tính lấy nhà vì bà là chị bố tôi, chúng nại cớ bà không có quyền thừa kế, thì tôi về. Cũng may, còn được căn nhà che mưa nắng, không thì ngủ gầm cầu.
Trong khi uống càphê, cô gái hỏi:
-“Hồi còn trẻ sao chú không lấy vợ như ba cháu?”
-“Lấy vợ sao được? Ba cháu ở “đơn vị không tác chiến”, có “chữ thọ”, lấy vợ không lo gì, chớ như bọn tôi, hành quân “mút mùa Lệ Thủy”, có ở nhà đâu. Với lại: “Lỡ khi mình không về thì thương người vợ chờ…”
-“Chú cũng thơ thẩn dữ!” Cô gái cười nói.
-“Thơ người ta! Với lại, hồi đó chương trình Việt Văn thơ văn nhiều lắm. Bọn tôi phải học Chinh Phụ Ngâm.”
-“Cháu học sau “giải phóng”, chẳng biết gì hết! Cháu có nghe nói Chinh Phụ Ngâm, nhưng có biết gì đâu!”
-“Đó là bản dịch của bà Đoàn Thị Điểm. Hay lắm. Tôi nghe ông thầy giảng mấy lần câu “Cổ lai chinh chiến địa, kỷ kiến hữu nhân hồi”, nên khi đi lính rồi, ngại tính việc lấy vợ.” Tôi giải thích.
-“Câu chú đọc nghĩa như thế nào?” Cô gái hỏi.
-“Những người đi chinh chiến, ít thấy trở về!” Tôi nói lại theo lời thầy giảng ngày trước.
-“Đang đánh nhau với ngoài kia, mà lại dạy cho học trò như thế, cháu thấy có mâu thuẫn đấy!” Cô ta nhận xét.
-“Dĩ nhiên! Nhưng mà đất nước tự do, không cấm được. Đi lính là bổn phận, không lý không cần tới văn chương!” Tôi nói.
Cuối cùng, trước khi đi tiếp tới chợ, cô ta nói:
-“Nói chuyện với chú vui đấy! Hay cứ mỗi sáng, chú đưa cháu sang chợ. Cháu khỏi lo trễ chợ, chú cháu mình lại uống càphê. Tiền xe cháu tính đủ cho chú.”
-“Được thôi! Tôi chạy một ngày sao cho đủ mua gạo với rau muống là đủ, về nghỉ. Thành ra cũng thoải mái.”
Vậy rồi, mỗi ngày, tôi đưa cô ra ra chợ. Quen dần, chiều lại thêm một “cuốc”, đón cô ta về.
Công việc cứ thế diễn ra gần nửa năm. Trong khoảng thời gian đó, vì cùng xóm, có lần cô ta vào nhà thăm tôi, xem tôi ăn ở như thế nào, và bày tỏ vài ý kiến về cảnh sống của tôi: Đàn ông không vợ, sống với bà cô già. Bà cô đã già, nấu cơm bằng củi, khi chín khi khê, áo quần tôi lâu ngày không giặt, treo trên vách, thúi hoắc mồ hôi…
Vì vậy, một lần cô ta hỏi tôi:
-“Chú Đức! Sao chú không lấy vợ đi?”
Tôi thành thật nói:
-“Ai chịu làm vợ tôi bây giờ? Cô thử nghĩ đi!”
Một lúc tôi lại nói:
-“Nửa đời nửa đoạn, trẻ không còn trẻ, già cũng chưa già hẳn.” Rồi tôi đọc nhại câu ca dao “Lấy ai ai lấy bây giờ lấy ai!” Trẻ thì họ không thể lấy tôi, ít ra tôi cũng lớn hơn vài chục tuổi. “Nửa đời hương phấn” thì “có đũa có đôi.” Còn lại thì có ai đó góa chồng mà tay dắt tay bồng: “Em tay bế tay bồng”, đâu phải “người yêu năm cũ” để mà “thương thiếu phụ bên sông!”
-“Hồi ấy chú không có người yêu?” Cô ta hỏi.
-“Vâng! Tôi nói rồi! Sợ người ta “Góa phụ ngây thơ!”
-“Hồi ấy tại sao chú đi lính?” Cô ta lại hỏi.
-“Ai cũng đi thì mình đi. Tôi có anh bạn cùng ở Dù.... Anh nó quá ba mươi, đang dạy học, bỗng tình nguyện đi lính?” Tôi nói.
-“Không được miễn lính à?”
-“Có đâu! Mậu Thân ở Huế, ông người Huế – thấy học trò mang khăn tang nhiều quá nên ông bỏ dạy đăng lính. Có vợ con rồi đấy.”
-“Bây giờ mà chú không lấy vợ, cháu cũng không lấy chồng!”
-“Sao kỳ thế?” Tôi ngạc nhiên hỏi.
Cô ta chưa kịp trả lời thì xe đã tới chợ. Cô ta xuống xe, quày quả vào chợ!”
&
Thế rồi ngày ngày qua đi…
Một hôm, tôi gợi chuyện:
-“Mấy bữa nay, tôi cứ suy nghĩ hoài! Tại sao cô nói cô không lấy chồng.”
-“Chú nghĩ coi! Đời bây giờ có anh thanh niên nào vừa mắt mình để lấy làm chồng! Con gái phải có “thần tượng” chứ! Cháu lớn lên, thế hệ chú và ba cháu qua rồi, vô tù hết cả rồi. Nhưng hình ảnh những người lính thời đó, vẫn còn lại trong lòng cháu. Cháu thấy thích và ngưỡng mộ khi nghĩ đến họ. Còn như đời bây giờ…” Cô ta bỏ lửng câu nói.
-“Bây giờ thì sao?” Tôi giả bộ hỏi.
-“Bây giờ, thời bình, cái hào hùng của người lính không còn nữa. Giữa cái hổn độn xã hội bây giờ, cháu biết tìm ai?” Cô ta tâm sự.
-“Cũng có người cho cô vậy!” Tôi an ủi.
-“Khó lắm chú à! Thanh niên bây giờ, muốn kiếm sống, phải lo chạy mánh.”
-“Cô cho chạy “mánh” là không đứng đắn sao?” Tôi hỏi.
-“Mánh là mánh mung. Mánh mung thì làm người đứng đắn thế nào được?” Cháu lấy một anh chạy mánh làm chồng sao?” Cô gái than thở.
-“Gắng tìm một người không chạy mánh mà chọn làm chồng.” Tôi nói.
-“Khó lắm chú à! Ai cũng phải chạy mánh hết, ai cũng phải mánh mung để kiếm sống! Muốn sống, buôn bán như cháu cũng mánh. Lấy một công nhân, viên chức, muốn sống cũng chạy mánh. Mánh với mọi người, riết rồi vợ mánh với chồng, chồng mánh với vợ. Vợ chồng coi như xong.”
-“Đó là cách “quản lý xã hội” của họ đấy. Ai cũng phải có một cái gì đấy, để chính quyền coi như cái án treo, khi cần thì cho vào tù cho dễ.”
-“Kinh thật chú nhỉ? Thành ra cháu không thể lấy chồng, đành chịu vậy!”
Lại đến chợ! Cô ta quày quả vào chợ.
Thế rồi ngày ngày qua đi…
Một hôm cô ta hỏi tôi một câu, tôi cho là “động trời!”
-“Cháu muốn chú cưới cháu làm vợ!”
Tôi lặng người đi, vừa kinh ngạc, vừa lạ lùng. Tôi hỏi:
-“Tại sao cháu nói thế?”
-“Không phải cháu muốn đi HO với chú. Gia đình cháu cũng chuẩn bị đi HO như chú. Không lấy chú, không đi HO với chú, cháu đi với ba mẹ cháu. Cháu muốn chú cưới cháu vì suy đi tính lại, cháu chẳng thấy ai hợn.”
-“Tại sao cháu nghĩ thế? Tuổi tác xa nhau quá mà!”
-“Hai chục tuổi mà xa gì. Đàn bà mau già lắm. Mẹ cháu nói vậy. Cháu sinh vài đứa con, coi như cháu… già bằng chú.. Vả lại tình yêu chú à! Cháu nghĩ cháu cũng có thể yêu chú vậy. Cháu có đọc sách Chu Tử. Tình yêu không cần tuổi tác.”
-“Chú nghĩ cháu không yêu chú! Cháu chỉ thương hại!”
-“Ba cháu nói người Việt giàu tình thương. Cha mẹ, vợ chồng, anh em, bà con, tất cả đều bắt đầu bằng tình thương. Ngày xưa, không yêu nhau mà lấy nhau, người ta thương nhau, rồi yêu nhau. Sau nầy người ta đổi chữ đấy chú à!” Cô gái nói.
-“Đổi chữ là sao?” Chú chưa hiểu.
-“Ba cháu nói hồi xưa ít dùng chữ “yêu” mà thường nói chữ thương. “Thương nhau cởi áo cho nhau…” Chớ đâu phải “Yêu nhau…” Yêu nhau là nói theo cách bây giờ. Xưa là “Thương nhau…” Ba cháu nói bản “Nắng chiều”, chú nhớ không? In đầu tiên, ông nhạc sĩ viết “Lạnh lùng nhìn anh, em nói “mến” anh.” Mà không viết “yêu anh”. Sau nầy người ta hát “yêu anh” là sai đấy! Phải không?” Thành ra, cháu có “thương hại” chú, rồi có… “yêu chú” cũng không có gì lạ cả. Con người ta, căn bản là tình thương, không phải tình yêu. Ba cháu giải thích “thương” là cho mà không đòi lại. Yêu là cho mà đòi lại. “Yêu rất nhiều song chẳng nhận bao nhiêu.”
-“Cô sâu sắc đấy!” Tôi nói.
-“Không phải đâu! Ba cháu giải thích cả đấy!”
-“Cóc mở miệng,” (Thằng) đó mà nói là như “Cóc mở miệng”. Nói xong, tôi thấy ngại. Tôi lỡ lời, gọi bố cô ta bằng “thằng”.
Một chốc, tôi nói:
-“Nhưng chú thấy ngại quá! Làm sao chú có thể mở miệng xin cưới cháu với bố mẹ cháu được?”
-“Chú đừng lo! Cháu sẽ nói. Cháu mở đường xong thì chú tiếp tục… rán mà đạp xe xích lô.” Cô ta nói nửa đùa nửa thật.
&
Thế rồi “thằng” ấy trở thành bố vợ tôi.
Tôi rất thương vợ, và kính trọng bố vợ như cô ta kính trọng cha mẹ cô ta vậy. Ở địa vị người rể, tôi gọi thằng bạn thân ấy là “bố” và xưng “con” như vợ tôi vậy!
Rắc rối là từ khi qua Mỹ rồi, cùng ở Orange County, lại cũng đã già, “đất khách quê người”, tình bạn cũ càng thêm khăng khít nên ít nhất, mỗi tuần, sáng Chủ Nhật, cả bọn năm bảy đứa, họp nhau uống cà-phê ở một quán quen, để kể chuyện cũ, vui đùa, chọc quê nhau, một phần vì bạn với nhau từ khi thơ ấu, một phần, cũng “quen đời lính” “lúc nào cũng vui đùa” để quên bớt… súng đạn. Đúng là thói cũ khó chừa.
Cũng rắc rối là cái thằng Quang. Ngồi chung một bàn, quen như ở nhà, – vợ chồng tôi ở chung với bố mẹ vợ – nên cứ quen miệng “bố bố, con con” khiến thằng Quang chưởi tôi không ít bận, cho là gai tai nó. Tôi bỏ “họp mặt” mấy lần, khiến bọn nó nhắc hoài.
Hôm qua, Lộc gọi cho tôi:
-“Ê! Đức, mai chủ nhật, mày vắng mặt là tụi nó chưởi cho đấy!”
-“Nhưng tao…” rồi tôi ngập ngừng.
Lộc nói:
-“Mày sợ thằng Quang chớ gì. Thằng đó “đập chó không ngó đằng sau”.  Tù về, nó mới lấy vợ. Vợ nó trước kia góa chồng, tử trận, để lại hai con, lớn hơn nó ba tuổi. “Trai tân lấy gái nạ dòng”, có ai nói gì đâu!”
Thế là tôi thủ sẵn “vũ khí”.
Ngày hôm sau, đang ngồi cười đùa vui vẻ, thấy tôi “bố bố, con con” với bố vợ, Quang nói:
-“Mày dẹp cái “trò bố con” của mày lại đi. Tao gai quá!”
Tôi phản pháo ngay:
-“Nói thật với mày. Tao thương vợ nên gọi “nó” bằng bố. Mày có thương vợ mày không? Nếu mày thương vợ thì mày gọi vợ mày bằng “Chị” hay bằng “Em? Mày nói “Em yêu chị” hay “Anh yêu em”. Trả lời đi!”
Cả bọn cười ồ.
Vậy là coi như xong một màn “Hài kịch thời đại”!

Bà Tô Thùy Yên: Trăm năm đã chẳng nề hà...
21/05/2020
Orchid Lâm Quỳnh
20200522 BTBD 01
Nhà thơ Tô Thùy Yên 1938- 21/5/2019. (Hình: Người Việt)
Như vậy là đã 2 tháng trôi qua, kể từ ngày phải cách ly xã hội.  Mẹ tôi đã làm hết các việc trong nhà, ngoài ngõ. Lau sàn bằng tay mỗi tuần 2 lần (vì lau bằng cây thì không sạch... và nhanh quá).  Lau cửa kính, cả trong lẫn ngoài (vì lau một mặt thì mặt kia ai lau, và xong sớm quá). Dọn sách cho Ông Ngoại, dời tủ này sang tủ khác (vì từ khi ông ngoại thành chim, không bừa bãi tủ sách nữa, nên sách rất ngay ngắn, đâu cần dọn dẹp, thế là chỉ có thể chuyển từ tủ này sang tủ khác mới có việc thôi).  Sáng ra vườn để chăm sóc cây, vì dù cách ly xã hội, ta cũng phải: “Cảm ơn hoa đã vì ta nở.”

Vậy mà sáng nay, khi trời chưa kịp sáng, khi tôi đang lục đục làm cafe, mẹ tôi đã ào ra và hỏi: “Bưu điện có mở cửa không con?” Tôi trả lời: “Dạ chắc có. Nhưng thời buổi này mẹ chạy ra bưu điện làm gì?” Mẹ tôi nói ngay: “Mẹ cần gởi cây cho bác Bích, mẹ sẽ đi sáng nay.” Tôi biết sẽ không có gì thay đổi được quyết định này của mẹ tôi. Mặc dù cả 2 tháng nay, ngoài mỗi buổi sáng ra thăm mộ bố vào lúc 6 giờ, mẹ tôi không hề bước chân ra đường làm bất cứ một việc nào khác.  Mẹ tôi sợ cô Vi răm rắp, thế nhưng nỗi sợ cô Vi đã không vượt qua tình yêu dành cho bác Bích.   

Tôi không hề biết nguyên tên họ của bác Bích, vì từ lâu lắm rồi, bác là: Bà Tô Thùy Yên. Tôi lâu lắm mới gặp Bác Bích,  ôm Bác được vài lần, nhưng tôi cảm nhận được hơi ấm rất gần gũi, thân quen, vì đó là hơi ấm của mẹ tôi, của một người đi trọn con đường chông gai, nhọc nhằn bên cạnh một tên tuổi lớn, của thi ca Việt Nam.  

Trong văn chương, người phụ nữ luôn được mô tả bằng mắt biếc, bằng môi thơm,  bằng suối tóc, bằng dáng mỏng. Tôi luôn lầm tưởng nàng thơ của thi sĩ này lại là nàng tranh của họa sĩ kia.  Họ luôn dùng những từ ngữ “diễm lệ” để diễn tả về người phụ nữ. Đôi khi tôi cũng không rõ do họ yêu cùng một người, hay trong trí tưởng tượng, nàng thơ của họ toàn là nàng tiên bị đọa xuống trần, “dáng mỏng mưa vời”, mong manh, dễ vỡ. Những nàng thơ luôn cần sự nâng đỡ, chở che... Và khi tất cả các nàng tiên bay về trời, thì bên cạnh chàng thi sĩ còm cỏi, có khi đang bệnh nặng, già yếu... sẽ chỉ còn duy nhất một người phụ nữ, “trăm năm đã chẳng nề hà...”

Một mai nàng ra bãi vô định
Nhìn sông đổi lòng, nhìn núi chuyển chân
Mây bay bay như những vẫy biệt... 
Nàng đứng cho tàn như một nén nhang.
TTY 
20200522 BTBD 02
Nhà thơ Tô Thùy Yên và phu nhân. (Hình: FB HietDinh)
Vậy là Bác Bích đã đi với thi sĩ Tô Thùy Yên trọn một kiếp người. Tuy vậy, tôi tin rằng đối với bà, thi sĩ Tô Thùy Yên không hề:

Đi như đi lạc trong trời đất, 
thủy tận sơn cùng, xí xóa ta. 

Cách đây mấy hôm, khi mẹ tôi gọi phone hỏi thăm Bác. Bác nói: 

“Còn đúng hai tuần nữa là ngày giỗ đầu của anh đó em. Chị đếm từng ngày.” Mẹ tôi kể giọng Bác run run, bác khóc.  Tuy nhiên, ngay sau đó, 2 người đàn bà tỉnh lại ngay.  Hình như đã từ lâu, họ tập cho mình một thói quen chặng đứng nước mắt.  Họ không cho mình được quyền yếu đuối, vì họ không phải là nàng thơ.  Họ là người nuôi dưỡng thơ, để thơ được tự do, sống mãi.  Thế là họ chuyển sang chuyện cây, cỏ, đời sống, chuyện kiếp sau: có chàng thi sĩ.  

Bác Bích chỉ muốn làm một bông sen ở kiếp sau, nhưng bác khẳng định, nếu chẳng may lại làm người thì bác Bích vẫn chọn Bác Tô Thùy Yên làm chồng, để lại “được” khổ thêm kiếp nữa.  

Phần tôi, tôi không tin là Bác Bích chọn thi sĩ Tô Thùy Yên, mà chính thi sĩ đã chọn người phụ nữ ấy để “Sáng nay, ta còn đi bên nhau.”  Thật vậy, dù bao nhiêu thăng trầm, bao lần bạo bệnh, bao nhiêu năm tù đày, bao nhiêu nàng thơ, bao nhiêu mối tình vớ vẩn, ông vẫn luôn trở về nhà, để “sáng nay ta còn đi bên nhau” cho đến ngày ông thật sự “dỗ cho ta giấc ngủ bình yên”. 

Người phụ nữ kiên cường đó đã đi với ông suốt một chặng đường dài.  Ngay từng những ngày đầu khi bà còn là một thiếu nữ ngoài đôi mươi.  Bà đã tuân thủ tuyệt đối theo lời của thân phụ: Khi con đã lấy chồng thì dù có bất cứ lý do gì đi nữa, không bao giờ con được li dị. -Nhưng nếu người ta bỏ con thì sao? -Người đàn bà mà để chồng bỏ thì bỏ đi cho rồi.  

Bác Bích đã không có dịp để thử nghiệm lời của Bố, chàng thi sĩ ấy, sau hơn chục năm tù đày, sau mấy năm loanh quanh lẩn quẩn, tưởng bỏ đi, rồi ông vẫn lừng lững “Ta về”

Ta gọi thời gian sau cánh cửa.
Nỗi mừng ràn rụa mắt ai sâu.
Ta nghe như máu ân tình chảy
Từ kiếp xưa nào tưởng lạc nhau. 
TTY

Tôi tin rằng bà chưa bao giờ để lạc mất ông.  Qua những lần kể chuyện, tôi hiểu được tại sao hai bà mẹ (mẹ tôi và bác Bích) lại thân và yêu nhau đến thế. Họ không yêu thơ, nhưng họ yêu con người của 2 chàng thi sĩ, vô cùng.  Qua những câu chuyện, tôi hiểu được rằng, đối với thi sĩ Tô Thùy Yên, bác Bích không chỉ là vợ, mà còn là bạn, là người tình, là con gái và cả là mẹ nữa.  Bác yêu sự ngây ngô của thi sĩ Tô Thùy Yên. Dù là một thiên tài văn học, khi ở nhà, ông chỉ là một đứa trẻ. Ông để bác Bích quyết định hết mọi vấn đề.  Ông không màn đến tiền bạc. Ông không ngại làm sai.  Ông nói với bác Bích: “Em làm sai, thì em làm lại. Em đi lạc, thì mình đi lại.” Qua những lời kể của bác Bích, tôi bỗng thấy yêu ông quá đỗi.  Hai ông thi sĩ thật giống nhau.  

Nghìn năm nữa, tôi vẫn là đứa trẻ
Cần bàn tay của mẹ thuở lên năm
DTL
Điểm giống nhất của hai ông thi sĩ lớn, là đem hết tất cả chuyện ngoài ngõ, về thuật lại cho vợ.  Kể luôn chuyện của kẻ thứ 3 mới hay chứ! Hình như đối với ông, những người phụ nữ đó cũng chẳng phải là kẻ thứ 3.  Sau khi kể rõ đầu đuôi chuyện tình của mình, ông còn ngây thơ hỏi vợ: “Em thấy như vậy là người ta yêu anh chưa?” Điều hay là Bác Bích cũng trả lời: “như vậy là có tình ý rồi đó”.

Và cứ thế, bác Bích luôn dang tay, để che chở ông.  Lúc ông nằm nhà thương cũng là lúc bác Bích bệnh. Vậy mà ngày nào bác cũng vô nhà thương với ông. Dù tôi không bên cạnh bác, nhưng khi bác kể, tôi hình dung được ngay hình ảnh bác tất tả, ngược xuôi, ra vào bệnh viện. Hình ảnh đó không quen thuộc sao được khi đó cũng là hình ảnh của mẹ tôi, trong những ngày bố bệnh. Mẹ tôi đã ở suốt bên bố hai tháng trời trong nhà thương và không biết về nhà là gì.  Hai bà mẹ hiểu rất rõ trong những giây phút ấy, hai ông bố  không còn là chàng thi sĩ của bao nhiêu thế hệ, mà hai ông đã trở về nguyên trạng, đứa trẻ của riêng bà. 
20200522 BTBD 03
Từ trái: Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, ông bà Du Tử Lê, ông bà Tô Thùy Yên. (Hình dutule.com)

Trong những giây phút đối mặt với tử thần, bố tôi luôn có mẹ tôi bên cạnh.  Dù không được phép, Bà vẫn ngủ lại trong bệnh viện với ông. Tôi nhớ cô y tá thương quá, nên đã cho mẹ tôi, thêm 2 chiếc ghế đểo mẹ tôi xếp lại làm giường ngủ qua đêm.  Bác Bích, thì cũng đã áp lực với bệnh viện, để có được cho mình cái code, vào ra lúc khuya khoắc, khi mà các cửa bệnh viện đã đóng kín bưng. 

Bác Bích kể với mẹ tôi.  Khi bên giường bệnh Bác đã khuyên ông: “Thôi anh đi đi, bạn bè ở trên đó nhiều, anh đi cho vui. Không cần ở lại với em.” Rồi thì, bà thấy hai giọt nước mắt lăn dài trên má ông.  

Cõi chiều đứng lại khóc như liễu, 
có thật là ta đã đi xa
TTY

Tôi tin rằng, tin một cách mãnh liệt rằng, dù trên giường bệnh, trong nhà thương, giữa lúc phải chọn cho mình cuộc chơi riêng, cả hai ông đều không muốn người phụ nữ, người mà hai ông đã chọn sống cùng suốt một chặn đường dài, phải đau thêm một giây nào nữa. 

Phút đó, bên giường bác Yên, chỉ còn anh Đinh Hiệt.  Bên giường bố tôi, chỉ còn tôi, phải chứng kiến cảnh ông trút hơi thở cuối cùng!  

Tôi tin chắc anh Hiệt sẽ không bao giờ xóa được hình ảnh đó trong trí của mình.  Tôi tin rằng, mỗi ngày, hay là ngay cả mỗi phút mỗi giây, anh phải sống với nỗi đau của ngày 21 Tháng Năm năm ấy, cũng như tôi.

Nhưng Tôi cũng tin rằng, bác Yên sẽ trở về, sẽ thủy chung với bác Bích.  

Ta về cúi mái đầu sương điểm,
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời.
Cám ơn hoa đã vì ta nở.
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi. 
TTY

Còn đúng một tuần nữa là giỗ đầu của bác Tô Thuỳ Yên, và 5 tháng nữa là giỗ đầu của bố tôi.  Sáng nay, giữa mùa cách ly, trên đường ra thăm mộ Bố, tôi bật khóc khi nhìn thấy tiệm bánh mì Tip Top trên đường Brookhurst. Nơi mà bao giờ trước khi rời Cali, bác Bích cũng ghé ngang mua vài ổ đem về, chỉ vì “anh Tiên thích bánh mì tiệm này lắm.”

Tôi ước ao, trong giây phút này, giữa mùa cách ly, tôi được ôm bác Bích thật chặt. Tôi sẽ nói với bác là: 
Rồi thì tất cả sẽ nguôi ngoai.
TTY

OrchidLamQuynh
May 15, 2020

Thu, May 21 at 11:11 AM
Bài viết vui. Mời đọc!
 Tử Vi Ông Trump 2020-2021

Tháng nầy, bốn năm trước (5/2016), xã hội Mỹ xôn xao, bận rộn, bàn tán, chọn lựa người Tổng Thống kế tiếp để lãnh đạo Nước Mỹ, sau 8 năm Obama cầm quyền, đã đưa Hoa-Kỳ xuống hố cả Nước.
Chính trị lơ mơ, kinh tế không tăng, thêm chính sách cúi đầu "xin lỗi" bốn phương (không ai biết lỗi gì?); lại bị Tầu cọng chơi xỏ, cho chui từ cửa hậu ra, khiến danh dự và niềm kiêu hảnh truyền thống của Dân Mỹ bị tổn hại trầm trọng...
Do vậy, Đảng Cộng Hòa có tới 16 vị ra tranh cử tổng thống.
Ai cũng hay, ai cũng giỏi, biết tin ai?
vã lại, với "thân phận chùm gởi", tỵ nạn chưa bao lâu ở Nước nầy, làm sao biết thấu chiều sâu của xã hội văn minh phức tạp nầy, mà có ý kiến.
Thôi đành dùng lối xưa, nhờ vào Tử Vi coi cuộc thế thành bại ra sao?.
Coi qua 7, 8 vị có tên tuổi, như: Nghị Sĩ Ted Cruz, Jeb Bush (gia đình 2 đời làm tổng thống), v.v...; chợt thấy trong danh sách nầy có một vị "doanh nhân" cũng ra tranh cử.
Ông nầy cả ba nghành: Lập Pháp, Tư Pháp, Hành Pháp, chưa hề làm qua.
Chưa hề là Dân Biểu, Nghị Sĩ; cũng không hề làm Thống Đốc hay Thẩm Phán; cho đến cái chức Lý Trưởng (Mayor) cũng chưa làm...

Vậy mà dám ra tranh cử tổng thống?, thật lạ...
Nhân vật nầy: Donald Trump, một doanh nhân chưa hề tham chính, nên tôi cũng coi luôn tử vi, coi ra sao?.
Lạ thay, số của Ông trội hơn hết trong đám Cộng Hòa nầy.

Nên tôi chắc Đảng Cộng Hòa sẽ chọn Ông này mặc dầu lúc đó nhiều thành phần NO Trump, phá phách, chống đối; nhưng căn cứ vào tử vi:
người có MỆNH tốt, việc gì cũng qua khỏi, nên tôi quyết đoán:
Đảng Cộng Hòa sẽ chọn Ông, tranh Tổng Thống nhiệm kỳ 2017-2020 sắp tới.

Bên phía Đảng Dân chủ, tôi chỉ coi lá số của Bà Hillary thôi, vì cụ già lụm cụm xã nghĩa lải nhải thuyết Xã Hội Chủ Nghĩa, xưa hơn trái đất, thất bại khắp nơi, chỉ có đám liberals, là khoái chí reo hò ủng hộ.
Bà Hillary có thừa điều kiện để thắng cử:

- Là người Phụ Nữ đầu tiên tranh chức tổng thống Hoa Kỳ, hấp dẫn lắm...
- Rất quen thuộc với giới Hành Pháp (Phu nhân  của cựu T T Clinton),
- Tổng Trưởng Ngoại Giao,
- Nghị Sĩ Quốc Hội,
Vậy là ăn chắc rồi..... nhưng khi so hai lá số, thì một trời, một vực.
Đại hạn của Bà Hillary có Thiên không/kiếp sát; tiểu hạn năm 2017, lại có địa không/địa kiếp.  Trong lúc Ông Trump, đại hạn có Thái Âm/Thái Dương sáng rực, tiểu hạn có Hóa Quyền/ Hóa Lộc, Tướng, Phụ, cáo, binh; nắm quyền sinh sát, trội hẳn Bà Hillary, nên mặc dầu truyền thông, polls ...đều tiên đoán bà Hillary chắc chắn đắc cử, tôi vần quyết, bà sẽ thảm bại. (xem bài mạn đàm bầu cử, att.) .
100% không sai, Ông Trump thắng cử như đã đoán.
Đã qua mấy trăm năm, Tử Vi đẩu số vẫn đoán đúng sự việc, nhiều khi rất kỳ lạ.
(xem Tử Vi Ông Trump 2016-2017, theo att. bên dưới).

Năm nay 2020, lại bầu cử nữa....giữa lúc lao sao Dịch Vũ Hán, nhiều bàn cải cũng không kém phần sôi nổi về nhân vật Biden của Đảng DC; tuy nhiên tôi chưa vội xem số tử vi của Ông này; vì chưa chắc Đảng DC đề cử Ông; mặc dầu Ông là người được chọn để tiếp nối sách lược từ Câu Lạc Bộ Bilderberg với giấc mộng thống trị toàn cầu, bằng cách tạo ra Chính Quyền Thế Giới, trong ‘Trật tự Thế giới mới’ .
"Chính Phủ Thế Giới mới" mà Obama được ủy thác và đã dự định Hillary tiếp tục hoàn tất, ... nhưng bất thành, vì bị Ông Trump bất ngờ xuất hiện, thắng cử, khiến cho Hillary thảm bại tơi bời. Đó chính là nguyên nhân vì sao Đảng DC, truyền thông thiên tả, phe Obama liên tục đánh phá TT Trump 24/24 trong suốt 3 năm qua
(đọc bài " Obama, sứ mạng chưa hoàn tất", att. bên dưới.)


Biden thất thế vì Dịch Vũ Hán đánh thức dân Mỹ, khiến họ thấy rõ:
- Trung Cộng chơi không vô, theo thăm dò của Pew Research ngày 29/3/2020 cho biết 66% dân Mỹ có nhận xét không tốt về Trung cộng; trong khi trước đây, con trai Biden, tháp tùng theo cha, qua Tầu, liền được Tầu hỗ trợ mở Công Ty, một tỷ mỹ kim. Nếu Biden mà được làm tổng thống Mỹ, chắc dân Mỹ phải học kinh nghiệm vượt biên của người tị nạn VN sau 75.
 Dân Mỹ chẳng những giựt mình tỉnh dậy, mà còn nhận thấy ĐCSTQ đã xâm nhập quá sâu vào MỸ, hoạt động theo kế hoạch bao gồm sử dụng gián điệp, tống tiền, kiện cáo, thâm nhập kinh tế, trộm cắp tài sản trí tuệ, tuyên truyền và phá hoại để làm suy yếu nước Mỹ và củng cố sức mạnh của Tàu cộng.
 Hơn nữa, Dân Mỹ đã thấy qua mấy đời Tổng Thống, vì lý do thầm kín nào (?), hay vì bất tài, bất lực (?), đã để cho ĐCSTQ chèn ép Mỹ trên mọi lãnh vực; mà giờ đây, chỉ có mỗi một TT Trump là đương đầu nỗi, phục hồi vinh quang cho MỸ Quốc; có thể đập tan mộng của Tập-Cẩn-Bình dùng chiến lược " Vành đai/Con dường " mong làm bá chủ Thế Giới, nhưng đã chết yểu, một số nước theo Tàu đã mang nợ!  MAKE AMERICA GREAT AGAIN.
Trong nhiều thập kỷ, các nhà lãnh đạo Mỹ đã chấp nhận một phiên bản giả tưởng, tin rằng Tàu cộng muốn tham gia vào các thị trường toàn cầu để cuối cùng trở nên tự do và cởi mở hơn, để có thể sống hòa thuận và cùng có lợi.
Nhiều người trong chính phủ, giới truyền thông và giới học thuật không nhận ra - hoặc từ chối chấp nhận rằng: - Sự THẬT phũ phàng đã làm suy yếu Nước Mỹ và phải kết thúc.
Bây giờ, với Dich Vũ Hán, Nước Mỹ phải đối mặt với một đối thủ cạnh tranh nghiêm trọng không muốn chia sẻ giai đoạn thế giới, mà muốn thống trị và kiểm soát nó.
May mắn thay, lần đầu tiên sau nhiều thập kỷ, Hoa Kỳ có một tổng thống, hiểu được sự nguy hiểm nầy và đang nỗ lực để đập tan nó.
(Xem T T Trump đập tan mộng bá chủ TCB. trong att. bên dưới).

Đảng DC đang ở thế lưỡng nan:
- chọn Biden thì tự đào huyệt chôn mình,
(Riêng đối với người VNCH tị nạn, chắc khó quên lời của TNS Joe Biden tuyên bố vào tháng 4/ 75: “Tôi sẵn sàng biểu quyết bất cứ số tiền cần thiết nào để mang lính Mỹ và dân Mỹ ra khỏi Nam VN về Mỹ, nhưng sẽ không cho một xu nào cho việc di tản và tái định cư bất cứ một người Việt nào! Nước Mỹ không có trách nhiệm phải cứu 1 người hay 100.001 người Việt nào hết! Nước Mỹ không có trách nhiệm gì với họ!
.
- còn chọn người khác, biết họ có theo đúng chỉ thị của mình không?
Trong những ngày tháng tới, sẽ thấy Đảng DC có còn sáng suốt, hay chỉ vì tiền, theo chỉ thị của nhóm Chính Quyền Thế Giới, của các tài phiệt, muốn điều hành Nước Mỹ theo ý riêng của phe nhóm.
Chờ xem...

Trở lại với Tử Vi của Ông Trump...
Năm nay 2020, Ông vào đại hạn Tử Phủ Vũ Tướng, sáng rực.
tiểu hạn có tứ linh: Cái, Hổ, Phượng, Long, công danh quyền quý phỉ nguyền một khi,
rất tốt; nhưng lại bị Kình Dương phùng Lực Sĩ, nên bao công việc Ông làm ích Quốc lợi Dân, bị DC, truyền thông, phe Obama, liberals, che khuất, tạo fakes news, cắt đầu cắt đuôi, khiến người Dân không biết đến những công trình tốt đẹp của Ông.

Có khi vì quá THÙ Ông, hay ăn tiền TC mà còn dùng thông tin của TC đánh phá ông, như ký giả Mỹ Joe Concha, phóng viên của “The Hill”- trang web tin tức của Mỹ có trụ sở tại Washington, D.C., Hoa Kỳ, đã mạnh mẽ lên án các hãng thông tấn chính thống của Hoa Kỳ vào thứ Tư (ngày 6 tháng 5), ông cho rằng họ đã quá tin tưởng vào những tuyên bố về thành tích chống dịch của chính quyền Trung Quốc, lựa chọn thông tin sai lệch cho khán thính giả Mỹ, đó là hành vi lỗ mãng và vô trách nhiệm, không hề nghĩ đến quyền lợi Quốc Gia Dân Tộc .
Dân Mỹ, giờ đây đặt câu hỏi cho đám này như Washington Post, The New York Times, CNN,  MSNBC, v.v.. :
Aren't you ashamed of yourself? Or do you not have a conscience?

Truyền thông  Mỹ ngày nay, không còn là truyền thông thông tin nữa, mà là cơ quan tuyên truyền của đảng phái. Họ chỉ loan tin nào có lợi cho đảng của họ mà thôi. Nếu lỡ có tin không hay cho họ, thì họ méo mó, che dấu, xoay thế nào cho có lợi.
Như 2 ngày trước đây (13/5) CNN tự Poll, Biden vs Trump, hy vọng có dịp nâng cao Biden. Nhưng Poll cho thấy:
Trong 15 Tiểu Ban chiến lược, Trump cao hơn Biden, 52/45.
CNN gỡ gạt, "tuy nhiên trên toàn quốc Biden vẫn cao".
Đó không còn là thông tin, mà là tuyên truyền.
Đau đớn thay, đệ tứ quyền đã bị méo mó hết thuốc chữa!

(cho nên nhìn thấy truyền thông thiên tả Mỹ như vậy, tôi tự an ủi:
Nước của họ mà họ còn như vậy, thì chuyện ăn tiền Tầu, hùa nhau với phe DC, đánh hội đồng VNCH, đối với bọn lỗ mãng và vô trách nhiệm nầy, là dĩ nhiên! .
Than ôi, VNCH chết cũng vì không có tiền... chi như TC, cho lũ truyền thông lỗ mãng và vô trách nhiệm ...không đói, ...chỉ tham!.)
Tài tình của tử vi là thấy được việc xảy ra như vậy, làm cho thêm thích thú khi nghiên cứu khoa này.
Tuy nhiên, sau tháng 7 âm lịch, lối Aug.- Sept. 2020 thì vào các tháng tốt, không gì làm khó cho Ông TRUMP được và coi như NOV. thắng cử là lẽ đương nhiên.
Vì năm sau 2021, tiểu hạn của Ông có: Thai phụ, Cáo, Ấn, Binh, Hình, thêm  Thiên khôi, Quyền, Lộc, đứng đầu thiên hạ là số đã định, theo tử vi.

Nếu cao hứng một chút, không bị Korean Drama cám dỗ, tôi sẽ đoán và so sánh hai số tử vi của Ông Trump và TC Bình.
Rất thú vị, vì cả hai Ông đều vào Đại Hạn Tử  Phủ Vũ Tướng, miếu, vượng địa, đứng đầu thiên hạ, chỉ hơn thua ở vào tiểu hạn năm Tân Sửu, 2021, và ngũ hành thuận lợi cho Mệnh, Thân của người nào, cho thấy người nào trên chân người nào.
Tôi thuờng áp dụng lối so sánh này để đoán các tay đánh Boxe quôc tế, chưa hề sai, chỉ là đoán cho vui với các con, anh em trong gia đình, vì gia đình tôi  không có số hoạnh tài, nên không ai cá cuộc gì hết.
Lưu-Vĩnh-Lữ



No comments:

Post a Comment