Monday, October 21, 2019

20191022 TỬ CHIẾN HẠ LÀO 1971 17


20191022 TỬ CHIẾN HẠ LÀO 1971 17

*** Qua những tài liệu bạch hóa đã cho thấy những trận bomb đánh lầm vào quân bạn VNCH không lầm chút nào mà nó có chủ đích rất rõ ràng. Củng như những cái chết của càc tướng Nguyễn Viết Thanh, Trần Văn Ân cùng phu nhân, tướng Đổ Cao Trí, tướng Nguyễn Văn Hiếu đều có mục đích từ phía người đồng minh mà nhân vật chủ trương chính là Kissinger. Mặt trận Tân Cảnh bị mất và việc xóa sổ Sư Đoàn 22 BB của Đại Tá Lê Đức Đạt củng là chủ trương của người đồng minh và người thi hành lệnh chính là John Paul Vann để bàn giao miền Nam cho CSBV và rợ hán trước khi rút quân.
LAM SON 719: The “Moment of Truth” trang 1-17

TỬ CHIẾN HẠ LÀO 1971, (17) TƯỚNG CREIGHTON ABRAMS

*(Trích sách “Gải Mã Những Bí Ẩn của Chiến Tranh Việt Nam của Bùi Anh Trinh)
Tướng Creighton Abrams và quân đội VNCH
Nói tới chiến tranh Việt Nam người ta thường nói đến Tướng Westmoreland trong thời kỳ 1965-1968 với uy quyền tuyệt đối của một ông Tổng tư lệnh quân lực Đồng Minh tại chiến trường Việt Nam.  Ít có ai nhắc đến người bạn cùng khóa võ bị của Tướng Westmoreland là Tướng Abrams, người thay thế Westmoreland từ 1968 đến 1972.
Sở dĩ người ta không nhắc đến Abrams bởi vì thời gian ông thay thế Westmoreland cũng là thời gian quân đội Mỹ rút về nước…, cho nên nhiệm vụ của ông chỉ là thay Westmoreland cai quản lính Mỹ tại các trại lính ở thành phố để chờ ngày về nước, và phải giảm hết mức số thương vong của quân đội Mỹ.  Nhiệm vụ đó không có gì đáng kể đối với một ông Đại tướng của quân đội Mỹ.
Tuy nhiên có một nhà nghiên cứu lịch sử chính trị Việt Nam là Nguyễn Kỳ Phong đã chú ý nhiều tới tướng Abrams;  không phải chú ý tới chiến thuật chiến lược của ông, mà chú ý tới hoàn cảnh của một ông tướng chỉ huy 500 ngàn quân Mỹ trong kế hoạch rút quân, hay nói thẳng ra là chỉ huy 500 ngàn quân tháo chạy khỏi Việt Nam.
Dĩ nhiên chỉ huy một đội quân tháo chạy thì không có gì đáng để nhắc lại trong lịch sử.  Nhưng Nguyễn Kỳ Phong đã thấy ngay sự bất công của dư luận đối với tài năng và đạo đức của Tướng Abrams.  Nhất là hồi ký của Kissinger và tài liệu mật của Tòa Bạch Ốc được giải mật cho thấy Abrams có vẻ như là một tay nghiện rượu vô trách nhiệm.
Nguyễn Kỳ Phong đã quan sát tật uống rượu của Abrams qua nhận xét của Tướng Bruce Palmer, Phó tư lệnh của Abrams:
“Những buổi chiều làm việc, Abrams trở về căn nhà tiền chế là một Trailer, đặt bên cạnh Bộ tư lệnh MACV nằm trong phi trường Tân Sơn Nhất.  Ở đó ông nghe nhạc thật lớn và uống rượu cho tới khuya.  Ông giải thích cho một người bạn thân đến thăm là ông giải trí như vậy để làm dịu cơn nhức đầu vì hàng ngày đọc những chỉ thị và quân lệnh ngược ngạo mà ông phải nhận từ Hoa Thịnh Đốn về cuộc chiến mà ông phải chỉ huy” (Nguyễn Kỳ Phong trích từ Bruce Palmer, The 25 Year War, trang 133, 135).
Trong trận Mùa hè đỏ lửa 1972, Nixon đã điều tất cả phi cơ B.52 tập trung thả bom Bắc Việt nhưng Abrams đã ra lệnh cho một số B.52 thả bom cứu nguy cho Sư đoàn 23 tại Kontum.  Nixon bảo rằng ông ta cần B.52 để bắt Hà Nội biết điều hơn trong cuộc đàm phán, nhưng Abrams trả lời rằng cuộc đàm phán sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu như để mất Kontum. (Nguyễn Kỳ Phong trích từ Sorley, Thunderbolt, trang 326).
Nguyễn Kỳ Phong cũng trích thuật những đoạn từ trong băng ghi âm các cuộc họp của MACV được giải mã:
“Ngay từ buổi họp đầu tiên sau khi nhậm chức, Abrams quan tâm đến những cơ cấu huận luyện và vũ khí của quân đội VNCH.  Ông nói nếu chúng ta (người Mỹ) muốn quân đội VNCH vững mạnh đề chống lại Cọng sản thì ít ra cũng phải trang bị cho họ đúng mức” (Nghĩa là có hỏa lực tương đương như bộ binh Hoa Kỳ).
“Trong những buổi họp Abrams thường xuyên nhắc đến tên những đơn vị và sĩ quan của quân đội VNCH cho sĩ quan tham mưu của ông.  Vì Abrams thăm viếng các đơn vị ngoài mặt trận thường xuyên, ông có kiến thức tường tận về chuyện xảy ra ngoài chiến trường. 
Đôi khi ông tranh luận về sự giỏi dở của sĩ quan VNCH với các thuộc tướng của ông mỗi khi những bình phẩm của họ ngược lại với nhận xét của ông.  Và khi nói về người dân Miền Nam Việt Nam, về sự hy sinh của họ, Abrams đã không ngần ngại nói trước mặt các sĩ quan cao cấp là Chính phủ Hoa Kỳ không bao giờ hiểu được những hy sinh và đau khổ mà người dân và chiến sĩ Miền Nam đang chịu đựng trong cuộc chiến
*(Nguyễn Kỳ Phong trích từ Abrams Tapes của Lewis Sorley; đoạn băng ghi âm tướng Abrams ca ngợi trước mặt thuộc cấp về tướng Nguyễn Viết Thanh, Tư lệnh Vùng 4 Chiến thuật  và Tướng Nguyễn Bá Liên, Tư lệnh Biệt khu 24 thuộc Quân khu 2) .
Một ghi nhận khác của Sorley về Tướng Abrams sau trận Mùa Hè Đỏ Lửa 1972:
“Về sau nhiều người chỉ trích nói rằng Nam Quân đã đẩy lui được Bắc Quân nhờ có không yểm của Mỹ. Tướng Abrams đã phản ứng mạnh mẽ và nói với các cấp chỉ huy của ông rằng, “Tôi không tin là không có không trợ mọi việc đã giữ vững được. Tuy nhiên phải có những người Việt Nam đứng thẳng chiến đấu. Nếu họ không dũng cảm làm như vậy thì đến mười lần không quân cũng không chận đứng được bọn cộng sản” (Bài tham luận “Reassessing ARVN”, Trần Đỗ Cung dịch)
Abrams chết năm 60 tuổi vì bệnh ung thư, ông có 3 người con trai nối nghiệp cha, một Chuẩn tướng, một Đại tướng và một Đại tá.  Có một lần có người nói: “Lẽ ra Đại tướng Abrams xứng đáng hơn cho một cuộc chiến khác đàng hoàng hơn”.  Người con cả của Abrams trả lời: “Ba tôi không nghĩ như vậy, ba tôi nghĩ rằng chính người dân Miền Nam Việt Nam lẽ ra phải được xứng đáng hơn trong một cuộc chiến đàng hoàng hơn” (sic).
Tướng Abrams và trận Hạ Lào
Tướng Abrams là Tư lệnh quân đội Hoa Kỳ và Đồng minh tại Miền Nam Việt Nam cho nên là người chỉ huy tổng quát cuộc hành quân Hạ Lào.  Dưới ông có có 2 vị tướng chỉ huy trực tiếp:  Đó là Tướng Hoàng Xuân Lãm, chỉ huy lực lượng hành quân của VNCH trên đất Lào. Và tướng Sutherland, chỉ huy Không quân, Pháo binh Mỹ trên đất Lào và bộ binh Mỹ trên đất VN.
Thế nhưng trong 1 tuần sau cùng của cuộc chiến, nghĩa là những ngày chiến trận ác liệt nhất, thì ông Tổng chỉ huy Abrams lại đi thăm gia đình tại Thái Lan, sau đó trở về lại uống rượu suốt ngày.  Trong khi mọi tài liệu quân sử của Mỹ lẫn VNCH đều ghi nhận Tướng Abrams không phải là một con người bê bối.  Trái lại lịch sử quân đội Mỹ cho thấy ông là một vị tướng tài ba và nhân hậu, đặc biệt ông rất nhân hậu với quân đội và nhân dân Việt Nam Cọng Hòa.
Cái gì khiến cho Tướng Abrams đã có hành động không xứng đáng là một ông Tướng tư lệnh trong trận Hạ Lào?
Sau này hồi ký của Tướng Westmoreland, cấp chỉ huy của Abrams tại Ngũ Giác Đài, bào chữa cho Abrams:
“Nhiều sĩ quan Việt Nam không đủ sức cáng đáng khiến cho Tổng thống Thiệu phải can thiệp và tự mình ra lệnh cho các đơn vị, xuống đến cấp Trung đoàn.  Nhiều khi các lệnh này ban ra mà Abrams chẳng hề hay biết”?
Tuy nhiên đó chỉ là cái cách Abrams phủi trách nhiệm trước Westmoreland * (Xếp trực tiếp của Abrams).  Còn sự thực là Abrams thực tình không muốn biết phía VNCH hành động ra sao, bởi vì ông không muốn đích thân ra lệnh dùng bom B.52 hủy diệt quân VNCH.  Cho nên ông tìm cớ tránh sang Thái Lan và sau đó giả cớ say rượu để lơ đi những quyết định quan trọng đã hẹn trước với Kissinger và Nixon.
Abrams có quyền làm như không biết bởi vì theo đúng hệ thống tổ chức của quân đội thì Tướng Cao Văn Viên phải báo cáo cho Tướng Abrams về kế hoạch hành quân của Tướng Lãm đã thay đổi, nhưng vì Tướng Viên giận Tướng Thiệu đã làm việc trực tiếp với Tướng Lãm cho nên ông nín thinh để đổ thừa cho Tướng Thiệu mà không chịu trách nhiệm trước tướng Abrams.
Các cuộn băng ghi âm tại tòa Bạch Ốc được giải mật cho thấy đến ngày 24-3-1971 Kissinger mới phát hiện quân VNCH đã rút về hết, và cũng phát hiện Abrams đã đi Băng Cốc 1 tuần nay…! So lại với tài liệu của Đại sứ Bunker do Stephen Young phổ biến thì trước đó khoảng 1 tuần, vào ngày 19-3-1971 Tổng thông Thiệu thông báo cho Abrams và Bunker hay rằng quân VNCH đã hoàn tất nhiệm vụ và bắt đầu giai đoạn rút quân. *(Trong khi sự thực quân VNCH đã rút từ ngày 8-3-1971).
Như vậy có nghĩa là sau khi nhận được thông báo của Tướng Thiệu thì Abrams không thông báo lại cho Washington mà lại bay đi Băng Cốc thăm vợ và sau đó trở về uống rượu say khướt ngày đêm. Vì vậy khi Kissinger và Nixon phát hiện ra là quân VNCH đã thoát khỏi Tchepone thì cả hai ông đều nổi điên và quyết định cách chức Abrams.
Hồi ký của Chuẩn tướng Haig cho biết khi Nixon ra lệnh ông sang VN thay Đại tướng Abrams thì ông “lấy lời hợp lý khuyên giải Nixon”. Nhưng sự thực nếu Abrams cũng nổi xung đưa vụ này ra ánh sáng thì Haig ở tù mọt gông bởi vì chính ông ta là người thảo ra cái lệnh hành quân giết người đó, một lệnh hành quân hoàn toàn trái với sách vở quân sự.
*[Tuy Haig có viết rằng lệnh hành quân xuất phát từ Ngũ Giác Đài, nhưng hồi ký của Kissinger cho thấy vào ngày 23-2-1971, khi cuộc hành quân bị khựng lại vì pilot Mỹ không chịu bay hành quân thì Kissinger mới “hỏi ý kiến” của Westmoreland, ông xếp của Ngũ Giác Đài, thì ông này đưa ra một dự đoán đen tối bởi vì muốn chiếm và giữ Tchepone thì ít nhất phải có 4 sư đoàn. (Kissinger, The White House Years, trang 1059)].
Cho tới nay, mặc dầu các cuộn băng ghi âm tại MACV (Abrams Tapes) đã được đưa ra công chúng nhưng riêng những cuộng băng ghi âm trong hai tuần 14 và 18 có liên quan đến cuộc hành quân sang Lào lại không được đưa ra…? Có cái gì bí ẩn đằng sau các cuộng băng đó?
Ai cũng đoán ra là trong 2 cuộn băng đó có liên quan tới những lệnh quân sự tối mật mà tính cách tàn nhẫn của nó có thể cáo buộc Nixon tội “diệt chủng, chống lại nhân loại” *(Mưu toan đưa quân của mình đi làm mồi nhử, rồi giết luôn cả quân mình để đạt được ý đồ chiến thuật.  Đây là một tội ác dã man mà từ ngàn xưa không có quân đội nào chấp nhận)…!!  Rốt cuộc tuy tức muốn điên nhưng Nixon không thể làm gì được bởi vì Abrams có quyền đưa nội vụ ra ánh sáng, cho nên Nixon không dại.
BÙI ANH TRINH


No comments:

Post a Comment