20191210 Rut Quan Khoi TK Quang Duc
***
Chiến sử trận liệt của Quân Lực Việt Nam Cộng
Hòa 1955-1975 cho đến hôm nay vẩn chưa có một ai đủ khả năng đút kết
thành tài liệu quân sử để lại cho hậu thế mai sau vì các lý do sau đây:
Những bài viết về chiến sử không đủ để bao
gồm các trận địa.
Không có đủ những phóng đồ hành quân chiến
trận.
Các Sỉ Quan tham chiến có tầm nhìn về hai mặt
chiến thuật và chiến lược quá hiếm hoi, ngoại trừ một số Sĩ Quan
trẻ sau 1965 đã có những bài viết ngắn về những chiến trận mà
chính họ đã tham gia, tuy vậy những bài viết nầy có tính cách cá
nhân và thiếu những phóng đồ hành quân diển tiến của chiến trận.
Khiến cho tuổi trẻ Việt Nam sau nầy khó có thể
tìm lại những sự thật trong cuộc chiến, chiến thuật chiến lược cho
toàn cảnh cuộc chiến.
Những người có khả năng cung cấp tài liệu đã
lần lượt ra đi, để lại một khoảng trống lịch sử quan trọng. Đây là
một mất mát lớn cho các thế hệ sau nầy.
Để điền khuyết những tài liệu thiếu sót về
hình ảnh mà chúng tôi góp nhặt lại từ trên các website, xin mạo muội
thêm vào những không ảnh dựa vào diển tiến của các trận đánh dĩ
nhiên còn rất nhiều thiếu sót vì chúng tôi không có đủ khả năng cho
những software đắt tiền (mọi việc làm đều tự túc tự lực) để thực
hiện hình ảnh chiến trận vào những tài liệu nầy.
Vả lại, tài liệu chính xác về các trận chiến
còn rất khiêm nhường.
Qua bài viết về cuộc rút quân tại Tiểu Khu
Quảng Đức đã cho thấy tầm quan trọng của trận địa nầy vì thế chúng
tôi thực hiện thêm một số không ảnh cùng các bản đồ hành quân củ đưa
vào trong tài liệu để cho dễ hiểu hơn là những dòng chữ khô khan.
Khi đọc tài liệu xin mọi người đặt trọng tâm
vào những diển tiến trận địa hơn là những trình bày cảm tính cá
nhân.
***
This is a listing of US and allied places and names in
the RVN AO.
Cựu Thiếu tá Trần Văn Bường
Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh kiêm Tham Mưu Phó Hành Quân Tiểu Khu Quảng Đức
Chỉ Huy Trưởng Pháo Binh kiêm Tham Mưu Phó Hành Quân Tiểu Khu Quảng Đức
+ Giới thiệu tỉnh Quảng Đức
Sau khi thắng trận đánh thừa chết thiếu sống tại Căn cứ 42A (đèo
Chupao-Pleiku),ngày 19/6/1972, tôi được vinh thăng thiếu tá đặc cách tại mặt
trận. Đó là một phần thưỡng cao quý nhất tôi may mắn được (vì lên cấp tại
mặt trận rất hiếm hoi đối với quân đội, đặc biệt binh chủng pháo binh (PB) như
tôi lại càng khó khăn gấp trăm lần). Một tháng sau, tôi rời tiểu đoàn 233
PB sang làm tiểu đoàn phó tiểu đoàn 69 PB đóng tại Biển Hồ Pleiku. Với
chức vụ mới này tôi thường đi hành quân với tư cách sỉ quan liên lạc pháo binh
cạnh Bộ Chỉ Huy Biệt Động Quân (BĐQ) quân Khu II của Đại tá Phạm Duy Tất (sau
lên chuẫn tướng), hoặc Bộ Chỉ Huy tiền phương của QĐII.
Vào giửa tháng 12/73, từ
Pleiku tôi theo bộ chỉ huy tiền phương quân đoàn II do Đại tá Nguyễn Trọng Luật
chỉ huy bay đến tiểu khu Quảng Đức (TK/QĐ) điều động cuộc hành quân giải tỏa áp
lực địch tại căn cứ Buprang (quận Kiến Đức).
20191210 RQKTKQD 01
Căn cứ này nằm cạnh
Quốc lộ 14 sát ranh giới Campuchia, cách thị xã Gia Nghỉa tinh Quảng Đức chừng
ba mươi cây số,được bảo vệ bởi liên đoàn địa phương quân (ĐPQ) của tiểu khu
Khánh Hòa và tiểu khu Quảng Đức. Vừa đến trung tâm hành TK/QĐ chưa tới
hai đêm, căn cứ Buprang bị thất thủ bởi đặc công địch được xe tăng T54 yễm
trợ. Thiếu tá Nguyễn Hưũ Nghiã (Phan Thiết)-Chỉ huy trưởng PB/TK/QĐ bị
mất tích trong trận này. Tôi nhận lệnh thay thế thiếu tá Nghĩa ngay hôm
đó. Một tuần sau, đại tá Phạm Văn Nghìn về làm tỉnh trưởng Quảng Đức thay
thế trung tá Nguyễn văn Thiện và sau đó ông giao tôi kiêm nhiệm luôn chức vụ
Tham Mưu Phó hành quân tiểu khu. Vì vậy tôi có dịp đi lại nhiều nơi, biết
nhiều điều đặc biệt về quân sự thuộc TK/QĐ từ lúc tới cho đến khi rút quân.
Căn cứ Đức Lập va
Kate
http://legacy.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/ap_doan_van-6433-2.pdf
20191210 RQKTKQD 02
Trước khi trình bày
cuộc rút quân của TKQĐ, tôi xin nói sơ lược về tỉnh này. Quảng Đức là một
tỉnh nhỏ được thành lập từ thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm nằm dọc theo quốc lộ
14 giáp ranh Campuchia và các tiễu khu Phước Long, Lâm Đồng,Tuyên Đức và Banmêthuột.
Tỉnh có ba quận: Kiến Đức, Đức Lập, Khiêm Đức (Gia Nghỉa), và chi khu biệt lập
Đức Xuyên.
20191210 RQKTKQD 0320191210 RQKTKQD 04
Dân chúng hầu hết là
người Thượng sống về nghề làm rẫy và săn bắn thú rừng, còn lại là người
Kinh. Hầu hết là gia đình quân nhân, công chức và dân buôn từ miền xuôi
lên. Đặc biệt quận Đức Lập nằm về hướng Bắc của tỉnh Quảng Đức, giáp với
tỉnh Banmêthuột, đất đai màu mỡ, dân chúng phần nhiều là người Miền Trung di cư
vào lập nghiệp từ năm 1954, sau ngày chia đôi đất nước, sống về nghề trồng trà
và café rất thịnh vượng. Quảng Đức là một tỉnh nhỏ và nằm sát ranh giới
Campuchia - hành lang xâm nhập của quân Bắc Việt - nên chịu áp lực của Cộng
Quân rất nặng nề. Từ năm 1972, quốc lộ 14 nằm song song và sát với ranh
giới Miên Việt xuyên qua ba tỉnh Phước Long, Quảng Đức, Banmethuột,bị gián đoạn
giửa ranh giới Phước Long và Quảng Đức. Vì vậy Quảng Đức chỉ còn xử dụng
được đoạn đường bộ duy nhất từ Bubinh xuyên qua thị xã Gia Nghĩa đi Banmethuột
mà thôi. Tỉnh Phước Long rơi vào tay địch đầu năm 1974.
20191210 RQKTKQD 05
20190428 Phước Long
Trận Đánh Thăm Dò
+ Trận đánh mỡ màn “Chiến dịch mùa Xuân của
VC”
Theo tin tình báo cũng như tài liệu thu được tại chỗ do pháo binh bắn quấy rối
và hệ thống điện tữ chung quanh chi khu Đức Lập cho biết: sư đoàn 968 tân lập
cùng sư đoàn 10 Bắc Việt có thể sắp tấn công Banmêthuôc. Tiểu khu trưởng tiểu
khu Quảng Đức, đại tá Phạm Văn Nghìn đã xin thêm quân phòng thủ quận Đức Lập
nhưng chưa được. Sáng ngày thứ bảy (8/3/75), tôi tháp tùng đại tá Nghìn
đáp trực thăng ra quận Đức Lập có gặp đại tá Vũ Thế Quang -Tư Lệnh Phó sư đoàn
23 Bộ Binh (BB) - cũng đến đây thị sát tình hình. Sáng hôm đó, Đại tá
Nghìn chỉ thị trung tá Trần Nguyên Khoa (k18ĐL) - trung đoàn phó trung đoàn 53
BB- đang chỉ huy trung đoàn trừ đóng gần chi khu Đức Lập, phải dời bộ chỉ huy
nhẹ của ông cùng các đơn vị bảo vệ vào căn cứ Daksak - một căn cứ thật kiên cố
do lực lượng đặc biệt Mỹ để lại- cách vị trí đóng quân hiện tại chừng ba cây
số. Hiện trung đoàn 53 BB trừ đang được tăng phái cho tiểu khu Quảng Đức.
20191210 RQKTKQD 06
Can Cu Duc Lap, Daksak,
Kate
20191210 RQKTKQD 07
Duc Lap
20191210 RQKTKQD 0820191210 RQKTKQD 09
Nói là Trung đoàn trừ
(-) chứ thực sự quân phòng thủ tại bộ chỉ huy nhẹ này chỉ có một chi đoàn trừ
(-) 1/8 thiết vận xa M113 của đại uý Tánh, đại đội trinh sát của trung đoàn mà phân
nửa đã hoạt động bên ngoài tìm tin tức, một trung đội pháo binh 105 ly (TĐ
231PB), một trung đội PB155 ly thuộc tiểu đoàn 230 PB và một ít bệnh binh của
tiểu đoàn 2/53BB. Thám sát xong nhận thấy không có đũ thời gian, việc di
chuyển dời lại sáng hôm sau (9/3/75). Nào ngờ, khoảng năm giờ sáng, trước
giờ quân ta chuẫn bị di chuyển vào căn cứ Daksak như dự định, Cộng quân bắt đầu
pháo ào ạt rồi sau đó tấn công biển người vào các đơn vị ta.
Đáng tiếc thay những
đợt pháo đầu tiên lại trúng ngay vào bộ chỉ huy nhẹ của trung tá Trần Nguyên
Khoa. Dù ông là một sỉ quan giỏi, lanh lợi, đã từng được thăng cấp tại
mặt trận, nhưng vì nơi đóng quân hiện tại là một căn cứ dả chiến hầm hố không
được kiên cố lắm nên không chịu nổi sức công phá của các loại pháo địch, đặc
biệt pháo 130 ly. Cầm cự không lâu, hơn phân nửa số thiết vận xa bão vệ
bộ chỉ huy nhẹ bị tê liệt, hầm chỉ huy của trung tá Khoa bị sập.
Đại uý Buì Minh Ngọc (Phanthiết) - sỉ quan liên lạc pháo binh của trung đoàn 53
BB- bị thương nặng và chết ngay sau đó. Trung tá Trần Nguyên Khoa bị
thương ở sau ót và cánh tay trái gảy gần đứt lìa được lính pháo binh dìu ra
khỏi căn cứ nhưng rồi bị bắt làm tù binh ngày hôm sau. Nếu.. nếu… hôm đó
(8/3/75), bộ chỉ huy nhẹ trung đoàn 53 di chuyển đi, Việt Cộng không điều
nghiên kịp mục tiêu, tình hình có thể khác. Điều này rất đúng với câu ta từng
nghe: “không nên để lại ngày mai những gì có thể làm hôm nay”.
Chi khu Đức Lập gần đó
cũng bị pháo và tấn công tơi bời cùng một lúc, nhưng nhờ hầm hố kiên cố cộng
với sự gan lì,mưu lược của trung tá quận trưởng Nguyễn Cao Cực (K13ĐL),Việt
Cộng không làm gì được lại bỏ đầy xác ngoài bờ rào quận. Cũng lúc này,
tại căn cứ Núi Lửa cách Chi khu Đức Lâp về phía Tây chừng sáu cây số, nơi trung
đội pháo binh 105 ly của trung úy nguyễn Văn Quý (Phanthiêt) đóng, được bão vệ
bởi đại đội chỉ huy thuộc tiểu đoàn 261 ĐPQ/QĐ (các đại đội tác chiến hoạt đông
bên ngoài) của thiếu tá Bùi Ngọc Long cũng bị pháo khủng khiếp.
Tóm lại Việt Cộng đồng
loạt tấn công ba nơi trên cùng một lúc với những cơn mưa pháo tới tấp khiến
chúng ta không thể yễm trợ hổ tương nhau được. Chúng đã áp dụng tiền pháo
hậu xung biển người trận này rất hiệu quả. Khoảng bảy giờ sáng, sau
khi nhận được chiếc trực thăng tăng phái từ phi đoàn 235 trực thăng Pleiku, tôi
tháp tùng đại tá Nghìn bay về hướng Đức Lập. Trước khi rời trung tâm hành
quân tiểu khu ra trực thăng, tôi còn nghe trung uý Quý (căn cứ Núi Lửa) vừa nói
vừa cười báo cáo thành tích hạ địch của đơn vị mình: ‘Bắn đã tay quá Bắc Bình
ơi’.. Bắc Bình là danh hiệu tôi thường dùng trong nội bộ pháo binh. Tôi mừng
thầm lên phi cơ gọi tiếp anh để biết tình hình nhưng không thấy trung úy Qúy
trã lời. Bên tần số bộ binh bão vệ anh cũng không liên lạc được.
Bay gần tới căn cứ Núi Lửa cũng không thấy hồi âm mà chỉ thấy một làn khói
trắng từ căn cứ bốc lên. Làn khói đó chính địch đã đánh dấu cho phe chúng
biết đã chiếm được mục tiêu Núi Lửa. Thấy làn khói bốc lên chúng tôi nhìn
nhau không ai nói gì ngoài sự ngậm ngùi thương xót số phận đau thương chết chốc
của quân mình, thuôc cấp mình và chỉ còn có cách báo cáo lên thượng cấp và xin
tăng viện từ Sư Đoàn 23BB và quân đoàn II.
20191210 RKTKQD 10
Tôi xin mở dấu ngoặc ở
đây để nói rõ hơn về sự mất liên lạc đột ngột nói trên. Cuối năm 1983, sau
khi được phóng thích khỏi trại tù cải tạo (từ Nam ra Bắc), trên đường về
Phanthiêt thăm Ba Má tôi, tình cờ gặp anh Nguyễn Văn Quý (Trung đội trưởng PB
Núi Lửa nói trên) đang bán quán café chòm hõm tại bến xe đò
Phanthiêt-Saigòn. Anh em nhìn nhau nghẹn ngào trong lần tái ngộ đau
thương giửa cuộc đổi đời cay nghiệt. Anh mời tôi dùng ly càfê đen gọi là
tình nghĩa thầy trò thuở nào trong đơn vị. Nhắc lại chuyện mất liên lạc
tại căn cứ Núi Lửa năm nào. Anh trầm ngâm một lát, ánh mắt hướng về nơi
xa xăm dường như để hồi tưởng lại quá khứ đầy u ám rồi cho biết: “Sở dỉ mất liên lạc với tôi vì đang bắn địch ngon lành, bổng dưng
đài tác xạ bị pháo sập chết mấy quân nhân và địch ùa vào từ lưng đồi phía sau
bất ngờ không trở tay kịp đành phải tìm đường tẫu mã”. Anh vừa
nói vừa cười một cách chua chát, đắng cay vì phải dùng từ “tẫu mã”. Tôi
hỏi anh: “Anh bắn hay quá, sao để chúng bắn sập hầm chỉ huy?”
Mặc dù biết tôi đùa nhưng anh cũng giải thích cho vui: “Chúng trốn chui trốn nhủi nơi nào mình đâu có biết, trong khi đó
mình đóng quân một chỗ trơ trơ chúng bắn điều chĩnh hoài phải trúng thôi”.
Và… cũng tại bến xe đò Phan Thiết – Sài Gòn đó, năm nay (11/2006) khi từ Mỹ trỡ
về thăm gia đình, người chạy Honda ôm cho tôi biết anh Quý đã ra người thiên
cổ. Tôi không còn cơ hội mời lại anh dùng một ít chất cay. Tôi tìm
đến gia đình anh hầu thắp một nén nhang cho người em vắng số nhưng không
thấy. Rồi! Lại một đàn em vắng số ra đi. Vĩnh biệt Quý,một
chiến hữu đáng mến từng chung chiến đấu thuở nào.
Tóm lại,lúc bấy giờ
chỉ còn chi khu Đức Lập của trung tá Nguyễn Cao Vực, dù không được yễm trợ của
quân bạn vẫn cầm cự với địch. Ngoài việc kêu gào cấp trên tăng viện gấp,
đại tá tỉnh trưởng vẫn bay vòng vòng rất thấp trên khu vực quận Đức Lập đến
trưa đễ hướng dẫn, trấn an và khuyến khích trung tá Vực và thuộc hạ cố gắng
phòng thủ chờ quân ta tiếp viện. Xa xa đằng kia, cũng tại vùng trời Đức
Lập, trung tá Võ Ân (K12 TĐ), trung đoàn trưởng trung đoàn 53BB (lên đại tá
trước ngày quân ta nhận lệnh đầu hàng) cũng đang bay tìm quân của bộ chỉ huy
nhẹ trung đoàn 53 BB đang thất lạc. Hình như anh đã tử bệnh tại Mỹ sau
nhiều năm bị Cộng Sản bắt đi tù đày hành hạ đói rét. Khác với những
lần trước, mỗi khi bị địch tấn công mạnh, ngoài lực lượng pháo binh sẵn có, phi
cơ yễm trợ đũ loại bay đầy trời; lần này,mấy ngày nay vùng trời Đức Lập phẵng
lặng, vắng vẻ làm sao!Tàu bay tàu bò biến đâu cả ngoài hai chiếc trực thăng chỉ
huy nói trên. Trong khi đó tại Ngả ba Dakson cách căn cứ Núi Lửa chừng
tám cây số về hướng Tây do tiểu đoàn 2/53 BB của Đại úy Nguyễn Tiên (k11 TĐ vừa
thay thế thiếu tá Võ Đức Lai) và một trung đội pháo binh 105ly đóng quân, không
thấy đấm đá gì, nhưng không hiểu tại sao chúng tôi không liên lạc được
họ. (Núi Lửa giữa chi khu Đức Lập và Ngã Ba Dakson). Quá đau lòng trước
sự thất thủ của quân bạn gần đó không được yễm trợ nên sau khi đại tá Phạm Văn
Nghìn quay về trung tâm hành quân tiểu khu, tôi cùng phi hành đoàn mỗi người
một khúc bánh mì bay trở lai hướng Ngả Ba Dakson.
Trực thăng bay vòng
nhiều lần trên vùng này, càng lúc càng thấp để cố gắng liên lạc và quan sát
tình hình. Thấy tiểu đoàn 2/53BB vẫn đang tư thế bố trí sẵn sàng chiến
đấu, tôi yêu cầu phi cơ trưởng (hình như anh Hùng Thầy Tu hay anh Vệ) tìm cách
đáp xuống. Sau khi được lệnh, anh bay thêm mấy vòng để xem hướng nào
thuận tiện và an toàn, rồi anh… đột nhiên nhào xuống rất nhanh trông như chú
diều hâu đang xà xuống gắp mồi dưới đất. Đang tư thế sắp đậu, bổng nhiên
nhiều loạt pháo đối phương rớt cạnh máy bay khiến anh ta cho tàu lướt về phía
trước cất cánh lên nhanh, xém đụng rừng cây trước mặt. Một phen xém chết
đã qua! Anh quay lại nhìn tôi với nét mặt thầm trách “nguy hiểm vậy mà bảo đáp”. Anh phi công này rất
lanh lợi và bình tĩnh, nếu không thì cả đám không chết vì pháo địch cũng chết
vì các cành cây. Từ đó đến khi rút bỏ tiểu khu Quảng Đức,tôi không liên lạc
được với cánh quân này.
Ngày thứ nhất trôi
qua, ngày thứ hai trông chờ quân ta tăng viện như cấp trên đã định. Bất
hạnh thay! Ngày thứ hai dài lê thê đó lại là ngày thất vọng nhất khi Cộng
quân tấn công thẳng vào thị xã Banmêthuột và phi trường Phụng Vực. Riêng
các lực lượng khác của ta đồn trú tại Quảng Đức đều bị địch cầm chân cả không
thể nào lấy đi giúp Đức Lập được. Càng chờ đợi, sự tổn thất càng tăng lên
trước những loạt pháo đũ cở cuả địch. Mặt khác không còn trông chờ vào sự
tăng viện của quân bạn được nửa, trung tá Vực cùng thuộc cấp đành rút khỏi
quận, băng rừng về căn cứ Đạo Trung mấy ngày sau và được trực thăng đón về
TK/Quảng Đức. (Đạo Trung cách QĐ trên 15 cây số).
Rút quân
Đức Lập và Banmêthuột đã mất. Như vậy từ trái (tỉnh Phước Long) sang
phải, cả về hướng trước mặt của tỉnh Quảng Đức đã hoàn toàn lọt vào tay VC, chỉ
còn một phần phía sau xa, giáp với tỉnh Tuyên Đức và Lâm Đồng, phân ranh bởi
con sông Kinh Đà. Con lộ duy nhất nối liền hai tỉnh Quảng Đức và Lâm Đồng
đã bỏ phế từ lâu chỉ có dân “xe be” sữ dụng và do VC kiểm soát
20191210 RQKTKQD 11
Như vậy tỉnh Quảng Đức
đã mất gần phân nửa lãnh thổ. Trước tình trạng tỉnh bị cô lập ba hướng
lại không còn được yễm trợ quân sự và địch ngày càng bám sát đánh phá ta nhiều
nơi trong tỉnh, khiến tinh thần chiến đấu quân dân có phần sa sút. Các vị
thân hào nhân sĩ trong tỉnh đã liên lạc với trung ương xin tỉnh Quảng Đức được
rút bỏ sớm hầu giảm thiểu sự thiệt hại. Chưa thấy kết quả ra sao, bổng
trưa ngày 25 tháng 3 năm1975, khi biết tin quân đoàn II bị tổn thất nặng nề lúc
rút lui và toán liên lạc không quân (ALO của đại úy Cầu) đặt tại tiểu khu Quảng
Đức đột nhiên lên trực thăng rời tỉnh, mang theo tất cả phương tiện điều động
không yểm, khiến tinh thần quân dân trong tỉnh đã nao núng càng nao núng
thêm. Lúc đó, Đại tá Phạm Văn Nghìn đang đi họp ở QĐ II chưa về, Trung tá
Phạm Đức Dư vừa chuyển về làm Tham Mưu Trưởng tiểu khu, liền tổ chức buổi họp
khẩn cấp. Ngoài sự hiện diện của trung tá Dư còn có trung tá Hoàng Kim
Thanh, liên đoàn trưởng liên đoàn 24 BĐQ đóng tại quận Kiến Đức; thiếu tá Trần
Văn Bường chỉ huy trưởng pháo binh kiêm tham mưu phó hành quân Tiểu khu; thiếu
tá Phạm Văn Tư trưởng phòng 3 TK (đừng nhằm với thiếu tá Phạm Văn Tư khóa 19
Đalạt trưởng phòng hai tiểu khu vượt ngục bị bắn chết tại trại tù Suối Máu Biên
Hòa năm 1976). Vừa vào họp trung tá Dư tuyên bố: “Hôm nay chúng ta hành quân về phương Đông”. Chỉ
một câu đơn giản ai cũng hiễu đó là lệnh rút lui, không cần sơ đồ phóng đồ gì
cả. Thành ra, với vị trí đóng quân hiện tại, liên đoàn 24 BĐQ đi theo
phương giác từ quận Kiến Đức về Lâm Đồng, các đơn vị cơ hửu hoặc tăng phái tiểu
khu cũng từ nơi đóng quân di chuyển về Lâm Đồng theo phương giác từ.
20191210 RQKTKQD 12
Sau khi rời phòng họp,
tôi cho lệnh thiếu tá trưởng phòng 3, Phạm Văn Tư ra lệnh các đơn vị tăng phái
cũng như các đơn vị trực thuộc đóng quân quanh thị xã, đi theo đường mòn xe be
đến bờ phà sông Kinh Đà về quận Di Linh (Lâm Đồng), các đơn vị còn lại tùy tình
trạng an ninh tại chỗ rút về Lâm Đồng. Trung tâm hành quân, trung tâm
tiếp vận tiểu khu, đặc biệt kho xăng và kho đạn phải phá huỷ. Không được
phá phách bệnh viện, phố xá, chợ búa. Cần nói thêm, trong thời gian này
tiểu khu Ninh Thuận tăng phái cho tiểu khu Quảng Đức hai đại đội biệt lập (4
đại đội luân phiên), một của đại uý Nguyễn Văn Đức (Phanthiết K20 ĐL), một của
đại uý Tôn Thất Kỳ (Huế), đại uý Trần Công Triệt (Phanrang,K18ĐL) và…
Bản đồ Di Linh.
20191210 RQKTKQD 13
Riêng pháo binh, tôi
cho lệnh các trung đội trưởng phá huỷ súng bằng loại lựu đạn M14. (lựu đạn có
chứa chất chì đặc biệt chảy ra bám vào nồng súng đại bác không xữ dụng
được). Chỉ có trung đội pháo binh của trung uý Bá đóng trên đường hành
quân được giữ nguyên kéo theo đoàn quân mà thôi.
Đoàn quân dân rời bộ
chỉ huy Quảng Đức được khoảng năm giờ đồng hồ, một tin không vui đưa đến.
Từ đầu máy bên kia,trung úy Bá báo cáo: “chiếc cầu nhỏ bắc qua suối bị
hư không thể nào kéo súng qua được Bắc Bình ơi”! (Bắc Bình là
danh hiệu của tôi trong đơn vị). Chết cha! Đi hành quân không có đại
bác yểm trợ là cả một sự bất lợi khi địch xuất hiện ngoài tầm vủ khí cá nhân
hay bị tấn công bằng biển người. Tôi than thầm như vậy, nhưng mặt khác
vẫn cố giử bình tỉnh ra lệnh cho anh Bá cố gắng thám sát hai bên cầu tìm mọi
cách kéo súng qua. Trời vừa tối, ánh hoàng hôn cuối cùng vừa khuất sau
rặng núi cao, mọi người hầu như mệt mỏi. Tôi cho đoàn quân tạm nghỉ
chờ. Chừng nửa giờ sau, trung úy Bá cho biết không có nơi nào đem súng
qua được. Con rạch tuy nhỏ nhưng đất mềm xe và sung nặng dễ bị lún.
Tôi đành cho lệnh phá súng pháo binh và tiếp tục bám sát theo đoàn quân
trước. Đi được hơn một giờ đồng hồ đoàn quân nghỉ qua đêm và tới bờ sông
Kinh Đà khoảng năm giờ chiều ngày hôm sau.
Đang chuẫn bị vượt
sông để theo đường mòn về hướng Quận Dilinh như lời đề nghị của thiếu tá Nguyễn
văn Ấn (Quận trưởng Di Linh cùng K18 ĐL với Trần Nguyên Khoa và tôi), bổng từ
bên kia bờ sông có tiếng la của đám VC dội lại:“Muốn qua sông phải bỏ súng
xuống, đi từng người một,đưa hai tay lên đầu”. Nghe chúng hô
“Đưa tay lên đầu”, mình đâm tức xổ nho: “Đ.. m… đầu hàng cái ...”.
Quan sát kỹ thấy chúng chỉ có chừng mươi lăm người nối tiếp nhau đi chung quanh
các gốc cây cổ thụ bên bờ sông để chúng ta lầm tưởng họ nhiều lắm. Biết
vậy, nhưng vì khúc sông này rộng khoảng bốn năm trăm thước; nước sâu tới rốn
chảy hơi mạnh khó lòng vượt nhanh để lấn áp chúng. Tôi tiếc thầm, nếu
súng pháo binh không bị hủy, ta chỉ cần trực xạ mấy quả cha con chúng nhảy hết,
tha hồ lội qua sông. Nhưng dù sao cũng may cho chúng ta phát hiện được
chúng bên đó, nếu không, đoàn quân ta cứ tà tà lội qua như chỗ không người thì
sẽ… nếu không bị bắt làm tù binh thì cũng bị đi mò tôm cả đám giửa giòng sông.
“Biết Người biết Ta
trăm trận trăm thắng”, ông bà ta nói như vậy. Biết mình ở thế bất lợi, thôi
đành nhịn nhục tìm đường khác đi để tránh thiệt hại, đó là thắng vậy. Sau
khi thảo luận với trung tá Dư, tôi cho lệnh đại úy Ngô văn Nhị (K12TĐ), chỉ huy
phó của tôi, hướng dẩn toán quân hỗn họp Địa phương quân và pháo binh đi lui về
sau, dùng phương giác từ đi về hướng Tây dọc theo bờ sông tìm chỗ vượt sông dễ
hơn để đánh bộc hậu địch cho đoàn quân sau vượt qua. Mục đích cho đi luì
về sau để đánh lạc hướng địch và dân chúng khỏi bám theo. Nếu dân chúng
bám theo sẽ làm lộ kế hoạch; hơn nửa họ không thể gồng gánh, bồng bế con cái
lên đồi xuống dốc được. Bảo vệ an ninh họ, phía sau còn có quân của chi
khu Khiêm Đức do thiếu tá quận trưởng Nguyễn Khắc Hiếu (K19 ĐL) chỉ huy, bên
cạnh đó còn có mặt cả hai vị trưởng và phó ty an ninh quân đội (thiếu tá Đậu
Văn Đề, thiếu tá Nguyễn văn Điệp) và nhóm Cảnh Sát Quốc Gia của trung tá Giang.
Trong khi cánh quân
của tôi đi về phía phải (hướng Tây) thì tiểu đoàn 259 ĐPQ của thiếu tá Phan Văn
Giỏi đi về phía trái (hướng Đông) dọc sông Kinh Đà về cầu đại Ninh (ranh giới
Đàlạt và Lâm đồng). Đi nhiều hướng địch không thể theo dỏi và bám sát
hết. Trời vùa tối, màn đêm dầy đặc, đoàn quân di chuyển rất chậm, nhiều
lúc phải xữ dụng đèn pin tìm lối đi. Thỉnh thoảng nghe nhiều tiếng kêu
“oan oát” từ xa của các chú mang (nai con) lạc đàn hoặc thấy những đôi mắt ngơ
ngác dại khờ của các chị mển đang nhìn chăm chăm ánh đèn pin. Bình thường
gặp như vậy số mạng các chị xem như đã xong, đơn vị có bửa thịt rừng ngon lành
rồi. Đằng này có lệnh không được nổ súng chỉ trừ trường hợp gặp địch
thôi. Nhờ vậy các chị được thêm tuổi thọ. Lội suốt đêm gần tới năm
giờ sáng, đại úy Ngô Văn Nhị báo cáo đã tới khúc sông cạn hẹp có thể vượt được.
Đại úy Nguyễn Duy Huynh, xử lý thường vụ Chị Huy Trưởng trung tâm tiếp vận
(thay thế thiếu tá Trương Minh Dũng đi học), tiến về phía trước tăng cường cho
đại úy Nhị tìm cách vượt sông. Vì đường đồi lên xuống khó khăn, tối om như
mực lại đi theo phương giác từ trong màn sương bao phủ nên khi gặp bờ sông, chỉ
cách điểm đứng chiều hôm qua ba bốn cây số thôi. Khúc sông hơi cạn, đá
lỏm chỏm, nước chảy hơi siết có thể vượt được. Đại úy Nhị cho anh hạ sĩ
quan pháo binh buộc sợi dây thừng lội qua bờ sông bên kia cột vào gốc thông nào
đó cho đoàn quân sau nắm đi qua. Chẳng may anh này bị trượt chân bị nước
cuốn trôi chết giửa giòng sông. Toán quân gần đó đổ xô tới tiếp cứu nhưng
vô vọng. Sợ bị lộ điểm vượt sông bởi những tiếng la ồn ào khi tiếp cứu, đoàn
quân tiếp tục theo đường mòn đi về hướng Tây tìm nơi an toàn hơn để
vượt. Đi mải đến chiều mới gặp khúc sông sâu rộng, nước chảy lờ đờ có thể
vượt qua dễ hơn.
Vượt sông Kinh Đà về Bão Lộc.
Theo các quân nhân từng sống ở đây cho biết khúc sông này có thể có cá sấu nguy
hiểm. Dù vậy, nhưng không thể nào đi xa hơn về hướng Tây sợ bị ngộ nhận
với liên đoàn 24BĐQ cũng đi về Lâm Đồng phát xuất từ phi trường Nhơn
Cơ. Hơn nửa, càng đi xa về hướng Tây điểm đến Bảo Lộc càng xa, thà vượt
sông nơi đây ruổi gặp cá sấu đói chỉ nuốt vài người xấu số còn hơn quanh quẩn
lâu trong rừng càng nguy hiểm mà chưa chắc có nơi nào tốt hơn. Lệnh chặt
cây kết bè ban hành, chỉ có những người yếu hoặc không biết lội mới được ngồi
trên bè thôi.
20191210 RQKTKQD 14
Bộ chỉ huy qua bờ sông
bên kia trời đã khuya. Tất cả đoàn quân nghỉ đêm, đồng thời giử an ninh
cho đoàn quân qua sau. Dù hai ngày qua chưa có hạt cơm nào trong bụng
nhưng không cảm thấy đói. Phải chăng cái đói nhường chỗ cho sự mệt nhọc lo
âu. Qua theo dỏi hệ thông truyền tin, được biết đoàn quân dân hôm qua kẹt
tại bờ Kinh Đà, được đại tá tỉnh trưởng lần lượt chuyển qua Bảo Lộc (LĐ) bằng
trực thăng, nên ý nghỉ quay lại cứu họ không còn nữa.
Với tình hình hiện
tại, tôi nghĩ địch không còn lẩn quẩn trong rừng như trước mà đã ra thị thành
uy hiếp quân ta. Nghỉ vậy nên sự e ngại bị phục kích trên đường rút quân
không còn cao nên khi gà rừng vừa dứt tiếng gáy báo hiệu bình minh đang đến,
tôi cho lệnh đoàn quân phía trước tiếp tục đi theo đường mòn về hướng xã Tân
Rai (LĐ) mặc dù phải băng qua các hậu trạm của VC. May mắn không có gì trở
ngại trên đường rút quân, nhờ vậy thời gian đến Lâm Đồng rất nhanh chỉ mất ba
ngày bốn đêm. Toán quân đi trước băng qua các nhà lô VC chỉ gặp mấy chàng
thương binh bệnh hoạn, chúng bắn vài phát súng lẻ tẻ báo động rồi đâm đầu giọt
hết. Các trạm này chứa nhiều bao gạo Mỹ còn mới tinh, lính ta đốt bỏ. Trên
đường về Tân Rai vài quân nhân cho tôi biết: “đêm vượt sông, khi bè gần đến
bờ có nghe vài tiếng la ơi ới rồi buông tay không hiểu nguyên do và cũng không
phân biệt được ai vì trời tối thui”. Có thể một vài quân nhân
xấu số nào đó bị đuối sức buông tay hay có thể bị cá sấu đói ăn thịt
chăng! Chỉ một trong hai điều đó hay cả hai! Thật đáng thương. Trung
tá Phạm Đức Dư xuất thân từ sỉ quan tài chánh, làm Tham Mưu Trưởng Tiểu khu Lâm
Đồng từ khi còn đại uý cho đến khi chuyển qua làm tham mưu trưởng tiểu khu
Quảng Đức gần một tháng thôi (tôi xử lý chức vụ này trước khi ông
đến). Trung tá Dư đã lớn tuổi, chưa quen lội hành quân, thành ra ông đã để
tôi điều động tất cả đoàn quân từ lúc bắt đầu di chuyển. Và sau mấy ngày
vất vả trong rừng, trung tá Dư bị mệt xiểu khi đoàn quân vừa tới xã Tân Rai
(LĐ). Ông được nghỉa quân xã này (đệ tử cũ) đưa ông về nhà riêng của ông
tại quận Bảo Lộc chăm sóc. Từ đó tôi không còn gặp ông.
Đến Tân Rai được nữa
giờ, bộ chỉ huy nhẹ chúng tôi được đại tá Nghìn cho trực thăng đón về tỉnh Lâm
Đồng. Riêng đại úy Ngô Văn Nhị vẫn tiếp tục chỉ huy cánh quân về thẳng
thị xã Bảo Lộc. Bộ chỉ huy chúng tôi đến phi trường Bảo Lộc trời đã xế
chiều. Thời tiết mát diệu với những cơn gió hiu hiu phàn phất mang theo
mùi hương thơm ngào ngạt từ các cánh đồng trà vừa mới đâm bông đầy hương
sắc. Tình hình rất yên tỉnh, chợ phố sinh hoạt bình thường, chỉ nghe lai
rai những tiếng đạn đại bác của ta từ xa dội lại; có thể đang yễm trợ cho một
tiền đồn nào đó đang bị địch tấn công. Chúng tôi yên tâm như không có gì
xảy ra, thong thả dùng một bửa cơm chiều no nê với lẩu canh chua cá bông lau
nóng bỏng, dỉa thịt kho tàu kèm theo ít rau chua thật ngon miệng, bù đắp lại
phần nào những ngày đói khác hiểm nguy băng rừng vượt suối. Với tình hình
còn sáng sủa đó, sau khi dùng cơm xong chúng tôi vào ngủ một giấc ngon lành đến
sáng như chưa bao giò có. Sáng ra, đại úy Nguyễn Duy Huynh, tôi và các
quân nhân thuộc toán chĩ huy ra ăn bún bò tại một quán xập xệ ngoài chợ.
Tứ bề yên tỉnh không nghe một tiếng súng nào cả. Dự định ăn xong sẻ dạo
phố kiếm đôi giày nhà binh khác thay thế cho đôi giày Mỹ lội mấy ngày nay đã bị
há mõ rồi. Nào ngờ,đang ăn ngon miệng bà chủ quán bổng nói “Xe tăng VC vào thành phố từ hôm đến giờ, sao mấy ông còn ngồi đây?” ‘Vậy hả! Bà nói đùa hay nói thật
đó? Tôi hỏi lại bà chủ quán.
“Ai đám đùa với mấy ông chuyện quan trọng như vậy.”
Bà chủ nói tiếp.
Nghe xong, tôi vẫn
bình tĩnh. Tính tiền xong (không thuộc loại cao lâu ăn quỵt thổ đỉ chơi lường),
vội rời quán. May thay lúc đó có một chiếc xe Jeep của toán liên lạc không
quân (ALO) thuộc tiểu khu Lâm Đồng trờ tới, trong xe chỉ có một anh tài xế thôi. Đại
úy Huynh là bạn của thầy anh tài xế này từ lâu nên chận lại hỏi: ‘Thầy mầy đâu rồi?’ “Dạ, ổng bay khi hôm rồi”. Người
tài xế trả lờì như vậy. “Vậy mầy theo tao”
Đại úy Huynh nói như ra lệnh. Anh tài xế bước ra sau nhường tay lái cho
tôi, Huynh ngồi ghế bên cạnh, các quân nhân còn lại ngồi hết phía sau.
Tôi trực chỉ ra phi trường Bảo Lộc cách đó không xa vì lính Quảng Đức về tập
trung nơi đây từ tối hôm qua. Vừa đến cổng phi trường, tôi lấy làm ngạc
nhiên khi thấy lính Lâm Đồng từ trong phi trường túa ra. Họ nói tăng VC tới đầu
phi đạo rồi, lệnh trung tá tỉnh trưởng Vương Đăng Phong bảo họ về ĐàLạt. Tôi
chưa tin vì tình hình còn yên lặng quá, chỉ thấy phe ta túa ra ngày càng đông
mà chả nghe tiếng “xe tăng xe tiết”gì cả.
Đang do dự, bổng thiếu
tá Nguyễn Văn Ấn từ quận Di Linh rủ rê tôi: “Mầy đến đâu rồi, đến quận ăn
cơm rồi tử thủ với tao”. Tôi trã lời nửa đùa nửa thật: “Mầy lạnh cẳng rồi hay sao rủ tao. Mầy hảy chuẫn bị heo gà
nhiều đi, Cậu sẻ đến ngay”. Thế là tôi lái xe hướng về quận Di
Linh (Dilinh nằm khoảng giửa Bảo Lộc và ĐL). Xe đang “phon phon” trên
đường nhựa, bổng lệnh của đại tá Nghìn từ trực thăng bảo tôi: “Sao bây giờ anh mới mở máy” Tôi chưa kịp trã lời,
đại tá Nghìn lệnh tiếp: “Anh phải tập trung các đơn vị
của mình vào phòng thủ với quận Di Linh”. Nhận được lệnh trên,
tôi cố lái xe nhanh hơn (thua Cao Bồi một xiếu thôi, nếu chậm các xe lính phía
trước giọt hết sao!), qua mặt một số xe chở lính đằng trước rồi thắng gấp giửa
đường và xuống xe bắt đầu chận các xe chở lính lại. Chiếc xe đầu tiên tôi
chận lại là lính thuộc tiểu khu Lâm đồng. Họ thấy tôi mang hia đôi mảo
trông oai vệ chứ chưa biết tôi là ai nên còn cự nự chưa muốn xuống xe; viện cớ
lệnh trung tá Phong bảo họ về Đàlạt. Nói vậy chứ cuối cùng thấy gương mặt
tôi có chút Cô Hồn vương vấn nên họ đành xuống (không phải hiền lành như nai tơ
khi gặp các cô đâu). Chỉ có lính Quảng Đức khi thấy tôi ra hiệu tự động
xuống xe. Bố trí quân tạm xong, tôi và Huynh vào gặp Quận Ấn. Vừa đi vừa
mừng thầm “trong hoàn cảnh này hai thằng cùng khóa, chiến đấu bên nhau càng
vững tâm hơn”. Tại quận, chúng tôi tình cờ gặp trung tá tỉnh trưởng Vương
Đăng Phong rời Lâm Đồng đến đây từ bao giờ. Tôi chỉ nghe tên ông
thôi. Đây là lần đầu tiên được gặp. Tôi chào và trình trung tá Phong
về ý định phòng thủ của Đại tá Nghìn. Vừa nghe xong ông hỏi tôi:
– Anh đảm nhận chức vụ
gì bên tiểu khu Quảng Đức?
– Chỉ huy trưởng pháo
binh kiêm tham mưu phó hành quân TK/QĐ. Tôi trã lời.
– Anh có quân đây
không?
– Dạ có, đang bố trí
ngoài kia. Tôi lại đáp.
-Tỉnh trưởng anh đang
ở đâu? Ông lại hỏi tiếp.
– Đang bay trên vùng
để hướng dẫn các cánh quân còn kẹt trong rừng ra. Tôi lại trả lời tiếp như vậy.
Không cần suy nghỉ,
Trung tá Vương Đăng Phong nói: ‘Tình hình như thế này, Tỉnh
trưởng anh có máy bay, có chuyện gì ông ta bay đi, còn tôi với anh … thì
sao?’ Không cần tôi có ý kiến ông tiếp: ‘Vậy anh muốn ở lại thì ở, tôi đi. ‘Nói xong, ông ra
lệnh thiếu tá Nguyễn văn Ấn nhổ antenna 292 và chuẫn bị di chuyển. Trầm
ngâm một lát, tôi báo cáo đại tá Nghìn quyết định của trung tá Phong như
vậy. Im lặng một hồi lâu, đại tá Nghìn nói: “Thôi, ai sao mình vậy!” Suy
nghỉ một lúc không tìm ra kế hoạch nào khác, chúng tôi âm thầm buồn tênh suy
nghỉ mông lung quên nói câu nào từ giã người bạn đồng khóa, Nguyễn Văn
Ấn. Ra đứng trước thuộc cấp đang bố trí chờ lệnh bên ngoài, tôi chậm rải
nói trong nghẹn ngào: “Thôi… các anh tìm mọi phương tiện về Đàlạt”.
Tôi cắn môi than thầm: “Như vây“Cả đoàn quân rút về từ Quảng Đức ra sau bị kẹt
hết rồi”.
Trở lại Đàlạt
Tới cầu Đại Ninh trời vừa xế bóng. Thấy trung sĩ Vũ Nguyên Cường đang đứng
xớ rớ cạnh hai chiếc xe thiết giáp V100 của tiểu khu Lâm Đồng. Anh cho
biết hai chiếc xe V100 được tăng cường giử cầu Đại Ninh mấy ngày nay và trung
tá tỉnh trưởng Vương Đăng Phong đã qua cầu rồi. Lúc bấy giờ, đại úy Ngô Xuân
Diên, yếu khu trưởng khu cầu Đại Ninh, đứng đầu thành cầu chuyển lệnh trên: “Quân Quảng Đức được qua cầu còn quân Lâm Đồng chưa thấy địch đã bỏ
chạy phải ở lại chiến đấu”. Dù không bị ràng buộc bởi lệnh
trên, chúng tôi vẫn quanh quẩn nơi đó như còn nuối tiếc một cái gì quý giá lắm
vừa đánh rơi. Hơn nửa giờ sau mới bắt đầu về Đalạt.
Đã lâu lắm rồi tôi mới
trỡ lại xứ sương mù Đà Lạt trong trường hợp ngoài dự định này. Đà Lạt thời
tiết mát lạnh quanh năm rất thích hợp với bao loài hao quý kể cả loài “Hoa Biết
Yêu”. Nơi đây có nhiều trường trung học và đại học nỗi tiếng của cả nước. Về
quân sự có Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam thân thương mà bao chàng trai trí
thửc ao ước được học. Quân trường đã từng một thời nổi tiếng đẹp và lớn
nhất Đông Nam Á (trước năm1975). Ở đó tôi được mặc vào người bộ đồ lính
đầu đời, được huấn luyện từ lúc chập chững bước vào đời binh nghiệp đầy gian
lao nguy hiểm, bỏ lại sau nếp sống thư sinh nơi Saigòn hoa lệ. Ở đó tôi
vào đời với một niềm tự hào mảnh liệt, một tương lai huy hoàng đầy hứa hẹn của
trai thời lọan như ta từng học:
“Làm trai cho đáng lên trai, Xuống Đông,Đông tỉnh,lên Đoài,Đoài yên”.
Đà Lạt chiều cuối Xuân
trời vẫn man mác lạnh. Thỉnh thoảng từng cơn gió nhẹ thổi qua làm bay bay
những mái tóc bồng bềnh của các nàng kiều nữ cao nguyên quanh năm môi thắm má
hồng, đang rảo bước trên các con đường đồi thoi thỏi quanh co. Hình ảnh
gợi tình đó hôm nay hơi vắng so với những ngày thanh bình trước đây; dù vậy vẫn
đủ sức quyến rũ khách hữu tình lui tới nơi này. Chung quanh cái hồ nổi
tiếng thơ mộng ngàn đời mang tên Nử sĩ tài hoa đầy nhựa sống -Hồ Xuân Hương-
hằng ngày thường đầy ấp nam thanh nử tú, những cặp tình nhân, những đôi uyên
ương vừa mới kết tóc se duyên, đến đây tâm sự, tay trong tay, cặp từng cặp, dìu
nhau theo nhịp đập con tim nay thưa thớt làm sao! Hàng hoa Anh đào tươi mát rộ
nở trong khí tiết xuân đang khoe sắc trắng hồng nằm ngạo nghể dọc bên đường từ
Hồ đến rạp chiếu bóng Hòa Bình, chắc không mấy ai còn đũ tinh thần chiêm ngưởng
hay ca tụng vẻ đẹp kiêu sa đài các của nó.
Rất tiếc, thời gian và
hoàn cảnh không cho phép đến thăm lại tất cả những thắng cảnh tươi mát bốn mùa
như: Thung Lủng Tình Yêu, Hồ Than Thở, Thác Prenne, Thác Camly, Trại Hầm, Chùa
Sư nử… vân vân và vân vân. Những nơi đã từng có ít nhiều vương vấn bao kỹ
niệm vui buồn khắc sâu trong tìm thức ở tuổi đôi mươi, lúc còn trong quân
trường Đàlạt, nhất là vào những dịp dạo “phố Hoa Đào” cuối tuần. Còn nhớ
lúc bấy giờ, có rất nhiều người đẹp từ bốn vùng chiến thuật (thỉnh thoảng trong
đám xuân xanh ấy, cũng có mấy Nàng trông khá quen, thuộc dạng Hoa Khôi Xứ Mắm
Phan Thiết như Hùynh M, Quỳnh U., Hồng.L.v.v.) vào thăm các Chàng Võ bị Hào
Hoa. Những đoạn phim tình cảm ngắn ngủi tươi mát đó hiện ra trong tìm thức
tôi không lâu,rồi tan biến nhường chỗ cho nổi âu lo của những ngày hiểm nguy
sắp đến, như cụ Nguyễn Du đã viết:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Thật vậy, Đàlạt đang
ngột ngạt trong không khí chiến tranh. Những người giàu có, các sinh viên
từ xa đến học hầu như di tản gần hết. Phố xá mở cửa lưa thưa, người bộ
hành vội vã trên đường về, thỉnh thoảng đó đây những chiếc xe nhà binh đầy lính
chạy tuần tra trên đường phố trong thế sẵn sàn chiến đấu với quân thù. Qua một
đêm ngon giấc trên nệm ấm giường êm tại khách sạn cao sang “La Palace” bên cạnh
bờ hồ Xuân Hương; sáng hôm sau, sau khi điểm tâm ở cà phê Tùng xong, tôi được
lệnh bay về Lâm Đồng hướng dẩn các cánh quân đang trong rừng ra. Bầu trời
Lâm Đồng hôm nay rất quang đãng, tầm nhìn rất tốt. Từ trực thăng nhìn
xuống thấy đoàn người đang hối hả vừa đi vừa chạy trên đường hướng về
Đàlạt. Trong quận Di Linh loáng thoáng một ít bóng người ăn mặc hỗn tạp ra
vào. Trực thăng xuống thấp hơn các bóng người này trốn mất. Đoán chắc
đó không phải là quân ta mà cũng không phải là dân hôi của, thành ra khi liên
lạc được với các cánh quân bạn, tôi hướng dẫn họ đi xa quận này, về hướng cầu
Đại Ninh an toàn hơn. Khi biết tôi đang bay trong vùng Bảo Lộc, từ cánh quân
dưới đất thuộc tiểu khu Quảng Đức doThiếu tá Nguyễn Khắc Hiếu (K19ĐL), quận
trưởng quận Châu Thành Quảng Đúc) chỉ huy, gọi tôi. Anh cho biết đã bị sốt
rét mấy ngày nay không thể tiếp tục đi được, yêu cầu tôi bốc dùm anh ra khỏi
vùng đồng thời cho xin mấy cục pin PRC 25. Anh cho biết đã giao quyền chỉ
huy lại cho Đại úy Tích, sĩ quan phụ tá của anh rồi. Quan sát một lúc
thấy bải đáp khá trống trải, tôi yêu cầu phi cơ trưởng (hình như anh Huỳnh Chí
Thành hay Trần Hoài phi đoàn 215 trực thăng) đáp cạnh quả đạn khói màu vừa đánh
dấu baỉ đá. Thiếu tá Hiếu vào trực thăng xong, phi hành đoàn cất cánh lên
ngay lại bị mấy loạt súng AK47 bắn theo tới tấp. Lại một phen nguy hiểm vì
địch bắn ta mà ta không thấy hướng địch. Nếu bắn lại không trúng địch mà
trúng quân bạn lại càng ân hận, vì vậy phi cơ chỉ tiếp tục bay. Bình phi
xong, trực thăng bay thêm nhiều vòng nửa hầu tìm thêm có cánh quân nào cần giúp
không, nhưng vì thiếu tá Hiếu quá mệt chúng tôi phải rời vùng trở về
Đàlạt (anh Hiếu qua Mỹ dịp tháng 4/75 tại Nam Cali và tử bệnh năm
2003. Một niên đệ thân tình ra đi!). Và ngày hôm sau bộ chỉ huy tiểu
khu chúng tôi gồm cả đaị tá tỉnh trưởng, được lệnh đi đường bộ về Nha Trang.
Sở dỉ phải quan sát kỷ
quận Di Linh như đã nói trên vì tôi biết chiều hôm qua, sau khi quận này bỏ
ngỏ, tiểu đoàn 202 ĐPQ thuộc tiểu khu Tuyên Đức đóng tại cầu Đại Ninh (Di Linh
cách cầu Đại Ninh chừng 60 cây số) được lệnh tái chiếm quận này mà không biết
sáng đó đã vào được chưa! Sau này mới biết địch đã chiếm quận rồi và quân
ta chưa vào được. Chính trung uý Nguyễn Thắng Lợi, sĩ quan quân số kiêm xử
lý thường vụ trưởng ban ba tiểu đoàn 202ĐPQ xác nhận. Anh cũng cho biết
thêm trên đường tiến đến quận Di Linh, tiểu đoàn anh đánh bắt được một chiếc xe
be trang bị súng 57 ly không giật, giả làm tăng T54 của địch để hù
ta. Tiểu đoàn anh chưa chiếm lại được quận Di Linh, một phần vì các nút
chận của địch khá mạnh, một phần vì áp lực tâm lý rút lui của quân bạn lúc đó.
Xin nói thêm, tiểu
đoàn 202 ĐPQ của tiểu khu Tuyên Đửc là một đơn vị đánh giặc nổi tiếng ở quân
khu II, dưới quyền chỉ huy của thiếu tá Lê Xuân Phong. Anh Phong là một vị
chỉ huy dũng cảm và lanh lợi, đã từng hai lần vượt ngục ngoài bắc nhưng không
thoát nổi để rồi chịu nhiều trận đòn thù trối chết. Tôi từng ở tù chung
với anh tại trại giam huyện Tân Kỳ tỉnh Nghệ Tĩnh vào thập niên 1980. Lúc
ở tù anh lao động tà tà cho qua ngày mà mình thường dùng từ “cà nhỏng chống xăm
lăng” chứ không phải thuộc diện lao động là vinh quang như VC dụ khị.
Liên Đoàn 24 BĐQ.
Lâm Đồng mất không chỉ làm cho lực lượng TK/QĐ chới với mà còn làm cho LĐ24 BĐQ
một phen xính xáng. Xin mở dấu ngoặc ở đây để giới thiệu sơ qua về LĐ24
BĐQ. Đứng đầu tàu là trung tá Hoàng Kim Thanh, liên đoàn phó là trung tá
Đào Đức Châu. Liên đoàn gồm ba tiểu đoàn sau:
§ Thiếu tá Trần Đình Đàng (K15ĐL) tiểu đoàn
trưởng tiểu đoàn 63 (TĐ63BĐQ).
§ Thiếu tá Hoàng Đình Mẫn (K2 Đồng Đế Nhatrang)
tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 81(TĐ81BĐQ)
§ Thiếu tá Vương Mộng Long (K20ĐL), tiểu đoàn
trưởng tiểu đoàn 82 (TĐ82BĐQ).
§ Pháo đội Pháo binh 105 ly của đại úy Giang yễm
trợ trực tiếp cho liên đoàn này..
Như phần trên đã nói, LĐ24 BĐQ được tăng cường cho TK/QĐ, nhiệm vụ chính bão vệ
quận Kiến Đức. Sau khi rời phòng họp TK/QĐ, trung tá Hoàng Kim Thanh về lệnh
cho các đơn vị trực thuộc thi hành kế hoạch như đã định. (không phải TK/QĐ bỏ
quên LD24BĐQ). Khi liên đoàn còn ở điểm vượt sông Kinh Đà, quân ta vô ý để lựu
đạn nổ khiến trung tá liên đoàn trưởng và trung úy Minh -sĩ quan truyền tin
liên đoàn- và vài binh sĩ bị thương phải chờ tải thương. Ngày hôm sau
thiếu tá Hoàng Đình Mẫn cũng được rời liên đoàn vì cơn bệnh sốt rét cấp tính và
hai ngày sau nửa trung tá Đào Đức Châu cáo bệnh cũng được trực thăng bốc
đi. Bấy giờ Liên đoàn như rắn mất đầu cụt đuôi (từ của Thiếu tá Trần Đình
Đàng xác nhận tình trạng LĐ lúc đó). Tuy là khóa đàn em, kém thâm niên cấp
bậc và quân vụ so với các vị tiểu đoàn trưởng khác nhưng nhờ tài chỉ huy, lanh
lợi, gan dạ chịu đánh đấm, thiếu tá Vương Mộng Long được cấp trên chỉ định chỉ
huy liên đoàn này từ lúc đó. Vì liên đoàn phải di chuyển theo phương giác
từ lại xuyên qua rừng thông rậm rạp và phải chờ tải thương nhiều lần nên khi ra
tới Bảo Lộc thấy cờ VC đã “cấm dùi” tự hồi nào, Liên đoàn đành phải chuyển
hướng về Đức Trọng, rồi Thiện Giáo (Bình Thuận). Liên đoàn phải lòng vòng trong
rừng mất nhiều ngày quần áo tả tơi, lương thực khô cạn. Mải đến ngày 5
tháng 4 năm 1975, từ chiếc L19 của quân đoàn IÌI, trung tá BĐQ Nguyễn Khoa Lộc
(K18ĐL) mới liên lạc được với LĐ24BĐQ và khẩn cấp xin trực thăng bốc đơn vị này
ra. Sau mấy ngày dưởng thương bình phục, trung tả Hoàng Kim Thanh trỡ lại
nhiệm vụ, lần lượt trực thăng vận liên đoàn về Phan Thiết an toàn.
Tiểu đoàn 82 BĐQ của thiếu tá
Vương Mộng Long được xem như đơn vị chủ lực, và cũng là đứa con cưng của liên
đoàn, được không vận ra trước tiên tại phi trường Phanthiêt đổ thêm xăng rồi
được tăng cường cho sư đoàn 18BB tại Long Khánh trong ngày 6/4/75. Tại đây tiểu đoàn này đã đánh một trận oai hùng với VC mà chúng ta
biết được lúc còn trong tù hay hải ngoại sau này.
Nhưng với tình hình
đất nước lúc bấy giờ, dù gan dạ và tài giỏi đến đâu cũng khó lòng chận đứng
được sức tiến cũa Cộng Quân. Lúc đó, taị Long Khánh, địch quân bị dội lại vì ăn
phải hai quả bom tinh khôn (C.P.U) bất đắc dĩ của ta mà thôi. Vì không đủ
trực thăng bốc liên đoàn ra cùng ngày nên hai tiểu đoàn 63 và 81 được chuyển ra
sau bảo vệ phi trường Phanthiết. Sau đó không chịu nổi áp lực địch, hai
tiểu đoàn này rút ra hướng biển để được trực thăng vận về Hàm Tân. Không
được đi suông sẻ như Tiểu khu Quảng Đức, Liên đoàn 24BĐQ phải trải qua nhiều
ngày đói rách tả tơi, băng rừng vượt suốt hiểm nguy, song vẫn duy trì được kỹ
luật và tinh thần chiến đấu cao. Đó mới là điểm đáng kính phục. Chính tiểu
đoàn 82 BĐQ đã chứng minh điều đó qua trận đánh với VC tại Long Khánh trong
những ngày cuối cùng. Họ chỉ buông súng đầu hàng vào giờ chót vì lệnh
thượng cấp. Thật đáng ca ngợi thay!
Nhân đây tôi xin được
giới thiệu về thiếu tá BĐQ
Vương Mộng Long, cựu tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 82 BĐQ.
Năm 1972-1973, tôi
thường hành quân với tư cách sĩ quan liên lạc pháo binh cạnh bộ chỉ huy BĐQ/QKII
dưới quyền chỉ huy của đại tá Phạm Duy Tất, lúc đó anh Vương Mộng Long là
trưởng phòng 2 của BĐQ quân khu ÌI. Anh đã từng chỉ huy quân báo nhảy
từng toán nhỏ vào sào huyệt địch, đôi lúc anh nhảy cùng với họ để làm gương và
tìm những tin tức sốt dẻo. Ngoài trận Long Khánh nói trên, nếu ai đã từng ở Pleiku tháng chín
năm 1974 chắc không quên mình đã từng xuống đường chào mừng tiểu đoàn 82 BĐQ
của thiếu tá Vương Mộng Long về thành phố khao quân sau trận tử thủ căn cứ
Pleime (Pleiku). Tiểu đoàn anh đã đánh tan trung đoàn 48 thuộc sư đoàn 320
CSBV khi họ thí mạng cùi tấn công căn cứ này. Khi bị tù ngoài Bắc, với sự can đảm có thừa, anh đã hai lần
vượt ngục trốn lâu cả tháng trời nhưng cuối cùng vẫn không vượt khỏi gông cùm
Cọng Sãn. Mỗi lần bị bắt lại đều được “đấm bóp” kỷ, bị bề hội đồng xém
chết. Dở mủ xin chào lòng dũng cảm đầy gan dạ của anh-thiếu tá Vương Mộng
Long- khóa 20 Trường Võ Bị Đà Lạt- Con Cọp Độc của Biệt Động Quân Quân Lực Việt
Nam Cộng Hoà.
Đạn khói pháo binh trị tăng địch
Nói về xe tăng địch, tôi xin trình bày một sự việc dù muộn màng nhưng mục đích
không phải để khoe mình; còn nói để lấy kinh nghiệm thì trể rồi không còn
nửa. Giữa tháng 12/1973, tại quận Kiến Đức tỉnh Quảng Đức (nay là tỉnh Đắc
Nông), sau khi chiếm đồn Buprang địch thừa thắng xông lên, tăng T54 tiếp tục
tiến chiếm đồn Bu-Bông gần đó chừng hai cây số đường chim bay. Trung úy
Nguyễn Văn Năm (Bến Tre), trung đội trưởng PB 105 ly tại đồn Bu Bông dùng đạn
nổ bắn trúng tăng địch nhưng nó vẫn lù lù tiến về căn cứ anh, quá thất vọng anh
báo tôi như vậy. Từ bộ chỉ huy nhẹ hành quân của QĐII đặt tại tiểu khu
Quảng Đức, tôi cho lệnh anh nạp đạn khói vào bắn (súng cách xe địch gần hai cây
số).
Thế rồi, quả đạn khói
thứ nhất đi, một chiếc tăng địch bị khựng lại quả đạn khói thứ hai đi, một
chiếc tăng nửa đứng yên và các chiếc tăng còn lại đâm đầu chạy trốn vào rừng
gần đó. Đơn vị anh reo hò mừng rỡ. Khi nghe anh báo cáo về trung tâm
hành quân đã hạ được hai xe tăng địch (lần đầu tiên PB hạ xe tăng địch bằng đạn
khói), chúng tôi rất vui mừng và thấy “cặp lon đại uý sắp lắp lánh trên cổ áo
anh”. Nhưng… nhưng tiếc thay, đơn vị bảo vệ trung đội PB của anh bị đánh
toe tua không đũ khả năng chống lại tăng T54 địch, buộc anh phải rút, nếu không
họ bỏ lại (pháo binh không trực tiếp chiến đấu một mình ngoài trường hợp bất
khả kháng). Vì vậy, anh đành ngậm ngùi nuối tiếc nếu không nói là ấm ức, phá
súng tháp tùng theo họ. Nửa giờ sau các anh không quân vào vùng lại báo
cáo hạ được hai tăng địch! (trể rồi anh bạn, nhưng dù sao cũng cám ơn anh đã
xác nhận có hai xe tăng địch CHẾT tại trận). Thóang nghỉ của tôi khi cho bắn
đạn khói lúc đó là vì trong đạn khói có chất lân tinh (phot pho) khi đạn trúng
xe chất lân tinh tỏa ra tứ hướng trúng da thịt người, cháy âm ỉ không chịu nổi
hoặc nếu trúng đứt xích, xe sẽ không xữ dụng được. Sách vở cả Mỹ lẫn Việt
không có dạy đạn khói pháo binh hạ tăng địch. Tôi cho bắn đạn khói vì vài
thoáng nghỉ nói trên, nào ngờ đạn khói lại hiệu quã như vậy. Rất tiếc lực
lượng ta lúc bấy giờ không tái chiếm lại đồn Buprang nên không thể khai thác
được hiệu quả thật sự của đạn khói như thế nào ngoài việc làm xe tăng địch đứng
cứng như trên. Vì trận này quân ta tổn thất khá nặng (mất đồn Buprang)
ngoại trừ pháo binh hạ được hai chiếc tăng địch nên thành tich của trung úy
Nguyễn Văn Năm không được cấp trên lưu ý. Anh chỉ được thượng cấp cho đi
du lịch Đài Loan năm 1974 trong đoàn “chiến sĩ xuất sắc” qua sự giới thiệu của
tôi.
Đầu tháng 1/1974,trước
mặt trung tướng Nguyễn Xuân Thịnh-Chỉ Huy Trưởng pháo binh quân lực VNCH-tôi
xác nhận “đạn khói pháo binh trị được xe tăng” nên sau đó Bộ Chỉ Huy Pháo Binh
có ra văn thư về việc phải xử dụng đạn khói pháo binh bắn tăng địch, nhưng có
lẻ văn thư này không được phổ biến rộng rải cho toàn thể quân lực VNCH nên quân
ta rất còn e sợ khi nghe có tăng địch xuất hiện. Đã e sợ thì không còn
tinh thần chiến đấu. Giới đá gà goị những con gà mới thấy mặt đối phương
đã bỏ chạy là gà rót. Thất bại từ tâm lý đó!!!
Về vùng cát trắng
Kẻ viết bài này xin được nói rõ hơn một chút về mình sau khi rời Đalạt. Chúng
tôi về đến Nha Trang trời vừa chạng vạng. Đường xá tấp nập xe
chạy. Người đi, hầu hết là quân đội và dân chúng chạy giặc từ cao nguyên
về, hoặc từ vùng ngoài vào. Tôi lê la ra quán cơm Viêt Nam nằm sát bờ
biển, mục đích không phải để nhìn trăng “di chuyển qua các làn mây” (lúc nhỏ
tôi tưởng như vậy) mà cũng không phải để ngắm dáng Chị Hằng phản chiếu dưới mặt
nước, hay nghe những tiếng sóng vổ rì rào pha lẫn những tiếng rao “đậu hủ nóng
hôn”của các cô bán tào phủ về đêm, mà chỉ muốn cho tâm hồn bớt căng thẳng và
kiếm chút gì bỏ bụng sau một ngày mệt mõi. Tình cờ gặp hai người bạn cùng
khóa năm xưa (thiếu tá Phạm Văn Trung thuộc trung tâm huấn luyện Không Quân Nha
Trang và t/t Huỳnh Văn Giai phòng tuyển mộ nhập ngủ Khánh Hoà). Gặp nhau
tay bắt mặt mừng nhưng nụ cười không trọn vẹn trên vành môi vì sự bi thảm của
đất nước hiện tại. Như đàn chim sau khi đũ lông đũ cánh phải lìa tổ ấm
tung bay khắp bốn phương trời. Sau hai năm tròn dồi mài văn võ, chúng tôi
đã rời mái trường mẹ thân yêu cuối năm 1963 về phục vụ bốn vùng chiến
thuật. Nay tình cờ hội ngộ trong hoàn cảnh éo le này. Tuy nhiên dù hoàn
cảnh nào, chúng tôi cũng không quên nhắc nhở những kỹ niệm thời sinh viên sĩ
quan, nay thằng nào sống chết ra sao và cũng không quên mời nhau “năm mươi phần
trăm em ơi” để vơi đi phần nào nổi lo hiện tại và cũng làm tăng thêm niềm vui
cho dịp tao ngộ này. Đang thao thao bất tuyệt những chuyện đánh nhau sống
chết, bổng Phạm Văn Trung hỏi tôi: “Vợ con mầy đâu rồi, sẵn sàn
sáng mai tao gửi máy bay về Saigòn cho sớm?” Trong hoàn cãnh
này, được người bạn nhả ý vậy thật là quá quý. Riêng vợ chồng Giai đã
biết gia đình tôi nhiều trong những lần đi học hay nghỉ mát ở Nha Trang rồi,
còn Trung chỉ mới gặp lần đầu nên tôi cám ơn và giải thích lòng vòng một tí cho
anh biết. “Cám ơn hảo ý của mầy, vợ tao đang làm tại Tổng Cục Du Lịch ở Saì
gòn. Riêng hai đứa con vừa được cậu nó đưa lên thăm tao. Thấy tình hình không
yên; Tao gửi tụi nó theo trực thăng của cơ quan Dao (cố vấn tiểu khu) về nhà ba
má Trần Thiện Thanh ở Bão Lộc để nhờ hai ông bà lo xe cho chúng về Saigòn cách
nay gần mươi ngày, nếu trể tụi nó bị lội hành quân với tao rồi”.
Hôm nay, tình hình
quân sự tại đèo Khánh Dương hơi bi quan, quân dù đóng tại đèo Khánh Dương có vẻ
muốn nhúc nhích. Dù trời chưa khuya nhưng chúng tôi vẫn ý thức được: “vui
chơi không quên bổn phận”. Khoảng chín giờ, chúng vội chia tay nhau sớm về
lo việc mình. Riêng phần tôi trưa hôm sau vào trình diện Bộ Chỉ
Huy/PB/QĐII (trong sân bay Nhatrang) nhận nhiệm vụ mới. Hôm ấy, trước khi
vào trình diện BCH/PB/QĐII, đại tá Nghìn dặn tôi: “Anh vào xem thấy nhận được thì
nên nhận, ngược lại thì ra đây bay trở lại Đàlạt với tôi nhận nhiệm vụ mới, tôi
chỉ chờ anh một tiếng đồng hồ thôi”. Trình diện đúng giờ hẹn,
đại tá Phan Đình Tùng -chỉ huy phó PB/QLVNCH và trung tá Phạm Hữu Chương-
rất vui vẻ đề nghị tôi làm tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 69PB thay thế trung tá
Chương (tôi từng làm phó cho ông tại tiểu đoàn này năm 1972). Trung tá Chương
đưa tôi đi quan sát hậu trạm tạm thời của tiểu đoàn 69 PB trú trong sân bay
Nhatrang. Trên đường đi, trung tá Chương cũng khuyến khích tôi: “Biết khả năng và thâm niên cấp bậc cũa anh nên đại tá chỉ định
thẳng anh, đây là cơ hội vàng hiếm có để bắt cái lon trung tá chứ binh chủng
mình khó lên lắm”. Nghe hai tiếng trung tá cũng ham nhưng mà..
qua hơn nửa giờ đồng hồ gọi là “thăm lính cho biết sự tình” tôi nhận thấy tiểu
đoàn di tản từ Pleiku về đây có vẻ bi thảm quá, súng ống chưa trang bị
kịp. Nếu tôi chấp thuận phải đem đơn vị vào căn cứ Động Bà Thìn (giửa
đường Nhatrang-Cam Ranh) huấn luyện, trang bị lại. Lâu quá!
Nhận thấy nhiệm vụ quá
nặng nề khó lòng thực hiện được trong hoàn cảnh bi đát gấp rút như thế này, tôi
từ chối. Ra đến nơi hẹn, đại tá Nghìn chờ không được đã đi Đàlạt rồi. Thầy
trò tôi (tài xế và tôi) nghỉ qua đêm chờ sáng mai đi Đàlạt. Sáng hôm sau, trên
đường rời Nha Trang, người và xe cộ hổn độn chật ních, hầu như không còn trật
tự lưu thông nửa. Chúng tôi lách đi rất khó khăn mới tới được
Phanrang. Gặp vợ đại uý Trần Công Triệt (họ hàng và cùng khóa 18 ĐL) đang
lăng xăng với năm đứa con dại muốn tìm cách vào phi trường về
Sàigòn. Riêng đại úy Triệt đang chỉ huy đại đội trấn thủ trên đập Đa Nhim.
Tôi đưa sáu mẹ con bà Triệt (đầy xe jeep 8 người) vào phi trường và được trung
tá Nguyễn Văn Thiệt (K18ĐL) và thiếu tá Trương Khương (K19ĐL) là không đoàn
trưởng và không đoàn phó không đoàn phòng thũ đưa lên phi cơ về Saìgòn mấy phút
sau đó. Phần tôi tiếp tục hướng về Đàlạt. Vừa qua khỏi đèo Sông Pha,
bị đoàn xe từ Đà Lạt đổ xuống không thể nào tiếp tục được. Họ cho biết
đàlạt đã bỏ ngỏ. Tôi đành quay lại phi trường Phanrang (2/4/75?). Tối
đó quân dù đã nhóm khỏi đèo Khánh Dương và trung tâm huấn luyện Lam Sơn bắt đầu
rút. Tướng Phú và đại tá Lý Bá Phẩm (tỉnh trưởng Nhatrang cũng có mặt tại
phi trường Phanrang đêm đó). Thấy tôi ở đó vài ngày chẳng có nhiệm vụ gì, Trung
tá Nguyễn Văn Thiệt (bạn cùng K18ĐL) và thiếu tá Trương Khương giúp tôi về
Sàigòn. Tôi trình diện BCH/PB/VNCH và nhận lệnh tăng cường cho PB quân
đoàn ÌII phòng thủ tại Long Thành cho đến ngày mất nước, rồi khăn gói đi tù từ
Nam ra Bắc. Sang Mỹ theo diện H.O đầu năm 1991.
Kết luận
Đó là một số hiểu biết trong phạm vi trách nhiệm hạn hẹp của tôi tại một vùng
cao nguyên hẻo lánh trong giai đoạn đen tối nhục nhã của lịch sữ nước
nhà. Cuộc chiến quân sự đã qua dù kêt thúc không theo chiều hướng mong đợi
của ta. Ta không thể hoàn toàn trách Mỹ bỏ rơi đồng minh; mà không khe
khắt chính mình; đặc biệt những người từng nắm chức vụ chỉ huy cao trước ngày
có hiệp định Paris 1973. Ông bà ta từng nói: “Tiên trách kỷ hậu trách
nhân” (Trách mình trước khi trách người). Những đau thương, đói khổ mất tự
do của dân Việt Nam từ ngày Miền Nam bị cưởng chiếm đến nay vẫn còn tồn
tại. Hình ảnh của những người cùng một chiến tuyến với ta: thượng cấp,
thuộc cấp, bạn bè phơi thay nơi trận địa. Những người dân vô tội nằm chết
đó đây. Những người chết do bị hành hạ đói khát trong lao tù Cộng Sản,
trong rừng sâu hoặc làm mồi cho cá mập ngoài biển cả trên đường tìm tự do chưa
phai mờ trong trí ta. Có những người không chỉ chết một lần. Họ đã hy
sinh để cho quê hương Việt Nam Tự Do, Dân Chủ, Hạnh Phúc, Phú Cường. Là
Người Việt Quốc Gia, chúng ta không thể quên ơn Họ. Chúng ta hảy cùng thắp
nén hương lòng hướng về Họ và cầu nguyện cho linh hồn Họ sớm về nơi Họ
muốn. Chúng ta cũng không quên ơn những“Quân, Cán, Chính, Dân” đã hy sinh
đời trai trẻ của mình, đặc biệt không quên các Chú, Bác anh chị thương bệnh
binh đang sống đói khổ nhục nhã nơi quê nhà, nơi vùng kinh tế mới xa xôi hẻo
lánh nào đó. Nếu có dịp đền ơn chúng ta đừng nở làm ngơ, điều mà lương tâm
con người, đặc biệt những người từng chịu ơn, không cho phép.
Houston,Texas Xuân 2005
LTS:
§ Sinh quán tại Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận năm
1940.
§ Xuất thân khóa 18 ĐàLạt với cấp bậc thiếu uý
thực thụ tháng 11/63.
§ Trung uý thực thụ tháng 11/65.
§ Đại uý thực thụ 7/1969
§ Thiếu tá đặc cách mặt trận 7/72.
§ Thiếu tá thực thụ 1/1973
§
The Battle for LZ Kate
Phan Rang
11°33'44.94"N 108°59'40.96"E
FB BuPrang 1 YU495558 (6433-1)
12°15'29.06"N 107°17'21.83"E
SF BuPrang 2 YU681509 (6433-2) '70 ****
12°12'42.60"N
107°27'36.49"E
SF BuPrang old aka Bu Glao SF Camp. 5th SF Det. A-4, Dec64.
YU521543 (6433-2)
12°14'40.00"N
107°18'49.17"E
SF BuPrang 3 YU489561 (6433-1) Bu Prang GIDG Camp. 5th SF.
12°17'18.32"N
107°18'20.22"E
BanMeThuoc
12°39'57.37"N
108° 2'18.19"E
Ea Krong Ana DakLac
12°28'50.62"N
108°10'42.45"E
Tinh QuangDuc
12°28'54.66"N
108°10'33.95"E
Ea Krong Kno
12°26'18.63"N
108° 9'34.52"E
Ea Krong Kno
12°26'18.63"N
108° 9'34.52"E
Duc An
12°15'4.87"N
107°36'53.88"E
TX Gia Nghia Khiem Duc
12° 0'4.54"N
107°41'0.06"E
Kien Duc
11°59'50.84"N
107°30'43.51"E
Phuoc Long
11°50'11.11"N
106°59'40.43"E
Phuoc Binh
11°48'31.19"N
106°57'33.61"E
An Lộc
11°39'7.30"N
106°36'27.20"E
Tân khai, An Lộc
11°32'55.62"N
106°36'57.92"E
Lam Dong
11°34'31.01"N
108° 8'34.32"E
Phan Rang
11°33'44.94"N
108°59'40.96"E
SF DucXuyen AP916497 (6633-3) aka Dong Khet, Buon Krong,
Krong Kno SF Camp. 5th SF.
12°11'52.29"N
108° 9'39.91"E
FB DucLap YU903755 (6533-4) aka Camp Duc Lap.
12°25'56.29"N
107°39'57.99"E
SF DucLap YU91327513 (6533-4) Hill
722. 5th SF Det. 38, A-239, Oct66/69. 1 2 3 4 5
12°25'43.45"N
107°40'31.49"E
SF BuGiaMap YU343375 (6433-3) aka FSB
Snuffy, Dja Map SF Camp, FOB Bu Gia. 1 2 3
12° 5'37.36"N
107° 8'54.59"E
FB Kate YU576537 (6433-2) Also 581548.
12°14'18.46"N
107°21'49.38"E
FB Kate YT300255 (6431-3) aka LZ Kate (1st Cav). SF led 3
Mike Force.
11° 4'54.10"N
107° 6'6.10"E
FB Kate YS421883 (6430-3) RAR.
10°44'44.76"N
107°12'35.48"E
FB Kate XT306255 (6231-3) 1st Cav. '69. Note FSB Kate at
YT300255.
11° 5'12.27"N
106°11'29.74"E
FB Suzan YU511429 (6433-2) Also 514432. 1
12° 8'28.35"N
107°18'12.76"E
FB Annie YU483513 (6433-2) 1
12°13'0.93"N
107°16'44.18"E
BuKrak
12°15'45.52"N
107°17'23.95"E
Những căn cứ Lực Lượng Đặc Biệt củ trong tỉnh
Quảng Đức
Vietnam War for The One’s Who Fought It Lat Long Bases
Bu Prang (old) TYPE SF 12.244444 107.313658
Lat(N) 12.244444
Long(E) 107.313658
Grid/Map/Description
YU521543 (6433-2) aka Bu
Glao SF Camp. 5th SF Det. A-4, Dec64.
Bu Krak TYPE SF 12.260707 107.284361
Lat(N) 12.260707
Long(E) 107.284361
Grid/Map/Description
YU489561 (6433-1) aka Bu
Prang. 5th SF Det. A-236. 1 2 3 4 5
Bu Prang TYPE SF 12.2846911
107.3032986
Lat(N) 12.2846911
Long(E) 107.3032986
Grid/Map/Description
Bu Prang TYPE SF 12.211832 107.460137
Lat(N) 12.211832
Long(E) 107.460137
Grid/Map/Description
YU681509 (6433-2) '70. 1
2
Buon Sar Pa TYPE SF 12.402248 107.606928
Lat(N) 12.402248
Long(E) 107.606928
Grid/Map/Description
YU839721 (6533-4) aka
Plei Buk SF Camp. 5th SF.
Duc Lap TYPE SF 12.428737 107.675413
Lat(N) 12.428737
Long(E) 107.675413
Grid/Map/Description
YU91327513 (6533-4) Hill
722. 5th SF Det. 38, A-239, Oct66. 1 2 3 4 5
Gia Nghia TYPE SF 12.012420 107.727727
Lat(N) 12.012420
Long(E) 107.727727
Grid/Map/Description
YU97452909 (6533-3) aka
Buon Konho SF Camp.
No comments:
Post a Comment