20191206 Ban tin bien Dong
South China Sea crisis: Beijing accused of laser
attacks on Australian military aircrafts
China Reacts To Uighur Bill
The China Complex
Chinese defy Hong Kong's protest gloom in hunt for
bargain stocks
·
Đã đến lúc chúng ta
hành động cho Việt Nam
Ts. Nguyễn Đình Thắng
Ngày 5 tháng 12, 2019
Luật Nhân Quyền và Dân Chủ Hồng Kông đã thành luật; dự thảo Luật
Chính Sách Nhân Quyền đối với người Duy Ngô Nhĩ vừa được Hạ Viện Hoa Kỳ thông
qua và chắc chắn sẽ thành luật vì một phiên bản đã được Thượng Viện thông qua
hồi tháng 9. Nay là lúc chúng ta cần vận động Luật Nhân Quyền Việt Nam, HR
1383.
Nội dung của HR 1383
Được Dân Biểu Christopher Smith (New Jersey, Địa Hạt 4) đưa vào
Hạ Viện Hoa Kỳ vào tháng 2 năm 2019, dự thảo Luật Nhân Quyền Việt Nam có 3 điểm
chính:
(1) Cài điều kiện nhân quyền vào chính sách mậu dịch của Hoa Kỳ
với Việt Nam
(2) Yêu cầu Bộ Ngoại Giao báo cáo hàng năm tình trạng nhân quyền
ở Việt Nam với các thông tin chi tiết và cụ thể về từng vụ vi phạm và các giới
chức liên can
(3) Yêu cầu Hành Pháp áp dụng các biện pháp chế tài theo Luật
Magnitsky Toàn Cầu đối với các giới chức liên can
Ngoài ra, HR 1383 còn có điều khoản nhắm vào tình trạng chính
quyền Việt Nam chiếm tài sản của các tôn giáo và của công dân Hoa Kỳ, và đòi
hỏi Bộ Ngoại Giao báo cáo về tình trạng này cũng như có biện pháp can thiệp. HR
1383 cũng có một số điều khoản về hỗ trợ phụ nữ, chống buôn người và bảo vệ các
cộng đồng thiểu số.
20191209 BTBD 01
Tình trạng hiện nay của HR 1383
Tháng 7 vừa qua, BPSOS tổ chức Ngày Vận Động Cho Việt Nam để kêu
gọi các dân biểu Liên Bang đồng bảo trợ cho HR 1383. “Đồng bảo trợ”
(co-sponsor) là không chỉ bỏ phiếu thuận mà còn vận động các đồng viện ủng hộ
khi dự thảo luật được biểu quyết. Đến nay đã có 14 vị dân biểu đứng tên đồng
bảo trợ. Con số này chưa đủ mà phải đạt ít ra là 50.
Muốn thế, chúng ta cần tác động trực tiếp đến các vị dân biểu
Hoa Kỳ.
Thời điểm vận động
Từ giờ đến cuối tháng 1 năm 2020, các vị dân biểu dành nhiều
thời gian ở địa hạt của mình để tiếp xúc cư dân trong địa hạt. Đây là thời gian
lý tưởng để tác động đến họ. Trong 2 tháng tới đây chúng ta cần đạt các mục
tiêu sau:
(1) Tăng số dân biểu đồng bảo trợ từ 14 lên 50
(2) Thuyết phục DB Eliot Engel (New York, Địa
Hạt 16), Chủ Tịch Uỷ Ban Đối Ngoại của Hạ Viện, và DB Michael McCaul (Texas,
Địa Hạt 10), thủ lãnh Cộng Hoà tại uỷ ban này, đưa HR 1383 ra biểu quyết tại Uỷ
Ban Đối Ngoại
(3) Thuyết phục nữ DB Nancy Pelosi
(California, Địa Hạt 12), Chủ Tịch Hạ Viện, đưa dự thảo luật ra biểu quyết bởi
toàn thể Hạ Viện
Lý tưởng, chúng ta muốn Hạ Viện thông qua HR 1383 không trễ hơn
cuối tháng 6, để tháng 7 bắt đầu vận động ở Thượng Viện.
Cách thức vận động
Hạ Viện có 435 dân
biểu Liên Bang. Để tác động càng nhiều càng tốt, người Việt ở khắp Hoa Kỳ cần
tự mình và đôn đốc nhau viết thư cho vị dân cử trong khu vực mình cư ngụ. Thư
mẫu để tiện cho mọi người sử dụng được lưu trữ tại:
Chỉ cần truy tìm tên
của vị dân biểu nơi mình cư ngụ, điền vào mẫu thư rồi gửi đi. Chúng tôi sẽ
hướng dẫn cách truy tên vị dân biểu.
Dưới đây là cách để huy động thêm người góp gió thành bão:
(1) Vận động thân nhân, bạn bè, hàng xóm, đồng
nghiệp… cùng ký tên chung một lá thư để gửi đi.
(2) Trong 2 tháng tới đây, cộng đồng người
Việt ở khắp Hoa Kỳ sẽ có nhiều sinh hoạt tập thể, lễ tết, biểu tình, tuần
hành... Đó là các cơ hội tốt để thu gom chữ ký.
(3) Các hội đoàn đều có thể đứng tên gửi thư
đến các vị dân biểu trong vùng hoạt động.
Xin lưu ý là ký thỉnh nguyện thư không đòi hỏi tư cách công dân
và cũng không hạn chế vào người Việt. Chúng ta có thể vận động những người chưa
là công dân, các bạn bè thuộc các sắc dân khác, các người trẻ chưa đến tuổi đi
bầu, các cựu chiến binh Hoa Kỳ, các hội đồng hương, các vị dân cử cấp địa
phương và tiểu bang… Càng đông và càng đa dạng càng tốt.
Truy thông tin các dân biểu
Đối với người rành
tiếng Anh và quen sử dụng internet, chỉ cần vào đây và điền số mã vùng (zip
code) nơi mình cư ngụ là ra:
Ở những nơi đông dân cư, một mã vùng có thể có 2 hoặc 3 vị dân
biểu. Khi ấy, sẽ cần thêm 4 số kèm sau mã vùng. Trong trường hợp đó, cần cho
địa chỉ đầy đủ. Thao tác này có thể là phức tạp với một số người. Chúng tôi kêu
gọi người có khả năng hãy tình nguyện hướng dẫn đồng hương cần giúp đỡ trong
khu vực hoặc trong vòng quen biết của mình.
Chương trình đòi tài sản ở Việt
Nam
HR 1383 có điều khoản
liên quan đến người Mỹ gốc Việt bị chế độ cộng sản cướp đoạt tài sản sau năm
1954 ở ngoài Bắc hoặc sau năm 1975 ở trong Nam. Đây là cơ hội để những ai trong
hoàn cảnh này yêu cầu Quốc Hội can thiệp. Từ năm 1949 đến nay Quốc Hội đã hành
động để can thiệp cho 660,000 hồ sơ công dân bị mất tài sản qua 43 chương trình
đòi bồi thường tài sản này. Đọc thêm thông tin về đề tài này:
Những ai trong hoàn
cảnh này sẽ được hướng dẫn riêng. Xin liên lạc:
taisan@bpsos.org hoặc 703-538-2190.
Phổ biến thông tin và phát động
phong trào
Chúng tôi kêu gọi các báo, đài phát thanh, kênh truyền hình và
đặc biệt là các bạn sử dụng Facebook giúp phổ biến thông tin và đốc thúc người
Việt ở Hoa Kỳ hưởng ứng.
Chúng tôi cũng kêu gọi mọi cá nhân có lòng hãy chủ động vận động
vòng quen biết của mình hưởng ứng. Có vậy, chúng ta mới nhanh chóng tạo được
phong trào rộng khắp Hoa Kỳ. Các cuộc biểu tình rầm rộ ở Hồng Kông có được là
do rất nhiều thủ lĩnh địa phương huy động các nhóm nhỏ nhập cuộc. Chúng ta nên
học và dùng công thức này.
Và bất luận ở đâu, Hoa Kỳ, Canada, Âu Châu, Úc, Nhật, Thái Lan…
và kể cả Việt Nam, quý vị đều có thể tiếp lửa cho phong trào bằng cách chuyển
tải thông tin và gióng lên lời kêu gọi đến tập thể người Việt ở Hoa Kỳ.
Đã đến lúc chúng ta phải hành động cho đồng bào và đất nước của
chính mình.
Bài liên quan:
Mừng cho Hồng Kông
nhưng đừng quên Việt Nam: Vận động cho Luật Nhân Quyền Việt Nam
http://www.machsongmedia.com/vietnam/nhanquyen/1509-2019-11-29-17-39-03.html
http://www.machsongmedia.com/vietnam/nhanquyen/1509-2019-11-29-17-39-03.html
VUA TRIỀU NGUYỄN DÙNG
CHỮ QUỐC NGỮ ĐỂ THOÁT HÁN
Dec 6 at 12:07 PM
Quốc ngữ và nỗ lực
'thoát Hán' của các vua nhà Nguyễn
Nguyễn Quang DuyGửi tới Diễn đàn BBC từ Melbourne, Úc
o 4 tháng 9 2018
20191206 BTBD 02
Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGESImage captionTranh trên trang Le Petit Journal vẽ Vua Thành Thái (mặc hoàng bào)
và Toàn quyền Paul Doumer duyệt binh ở Hà Nội năm 1902.
Trên Diễn đàn BBC nhà
báo Nguyễn Giang đưa ra một cách nhìn khá mới lạ để ghi công và đánh giá những
nhân vật lịch sử đã đóng góp cho việc truyền bá chữ Quốc ngữ.
"Các vị truyền
giáo có công tạo ra bộ mẫu chữ, nhưng việc này không có gì quá độc đáo hay
quá khó khăn và giả sử nếu không có họ thì việc đó cũng có thể làm được sau
này."
Ý kiến cũng nói rằng
Trung Hoa, Thái Lan, Ấn Độ, Ả Rập, Thổ Nhĩ Kỳ và nhiều quốc gia khác đều đã có
những văn tự bằng tiếng La Tinh nhưng chưa bao giờ trở thành chữ quốc ngữ của
họ.
Cũng theo nhà báo
Nguyễn Giang, Đông Kinh Nghĩa Thục chỉ xóa hàng rào cản tâm lý quá lạc hậu để
giới sỹ phu yên tâm dùng chữ Quốc ngữ.
Xem bài:Những người giúp chữ Quốc ngữ 'làm nên'củaNguyễn Giang
Và rằng chính nỗ lực
tiên phong quảng bá quốc ngữ là của trí thức miền Nam và nhờ chính sách tiến
bộ, khoa học của chính quyền Pháp tại Đông Dương tạo đà cho chữ Quốc ngữ lan
tỏa.
Nhưng tôi nghĩ cũng lạ
tại sao ba nước Việt, Miên và Lào có chung hoàn cảnh, đều là thuộc địa của Pháp
mà Miên và Lào lại không sử dụng La Tinh làm chữ quốc ngữ.
Ở đây cần xem cả đến
công lao các vị vua cuối cùng của triều Nguyễn, dù họ không thực sự nắm quyền
thời Pháp thuộc.
Sắc lệnh của Vua Thành Thái
Theo sử gia Liam
Kelley (2016) vào đầu thế kỷ XX cả người Pháp lẫn những nhà cách mạng đều không
đủ quyền lực để chữ Quốc ngữ có thể lan ra sâu rộng xuống đến tận làng quê.
Các thầy đồ quyết liệt
chống lại các chính sách giáo dục của nhà cầm quyền Pháp với quan niệm chữ Quốc
ngữ là sản phẩm của ngoại bang và là công cụ của các nhà truyền giáo
Qua nghiên cứu những
nguồn tài liệu trong giai đoạn này, sử gia Liam Kelley kết luận chính nhà
Nguyễn mới đi đầu trong công cuộc cải cách giáo dục.
Trong bài "Emperor Thành Thái's Educational Revolution",
Liam Kelley (2016) đã công bố sắc lệnh của vua Thành Thái được lưu trữ trong Đại
Nam Hội Điển Sử Lệ Tục Biên.
Bài viết được Nguyễn
Hồng Phúc lược dịch có đoạn như sau:
"Hoàng đế Thành
Thái đã tuyên bố trong một sắc lệnh rằng vào năm trị vì thứ 18 của ông (năm
1906), cha mẹ có thể quyết định việc cho con theo học một trường ấu học Hán văn
hoặc một chương trình giảng dạy Nam âm (Quốc ngữ).
Với những người học
theo chương trình Hán văn, sẽ có một cuốn sách giáo khoa được soạn ra nhằm giới
thiệu những từ chữ Hán theo cấp độ khó dần. Nó cũng bao gồm một danh mục các
Hán tự kèm theo phiên âm và định nghĩa bằng quốc ngữ được dùng trong tài liệu.
20191206 BTBD 03
Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGESImage captionTranh vẽ trường thi Hán học ở Bắc Kỳ - hình của Chris
Hellier/Corbis
…Trong khi, một cuốn
sách giáo khoa bằng quốc ngữ khác sẽ được soạn ra để dạy những người theo
chương trình học 'Nam âm' nhằm giới thiệu cho họ những thông tin cơ bản về xứ
Đông Dương, thiết chế cai trị của nó, những phong tục tập quán...
Thêm vào đó, cũng có
thêm một cuốn sách nữa được dịch từ Hán văn sang Nam âm nhằm cung cấp những
loại thông tin mà học viên đang luyện thi khoa cử cần biết. Bản dịch này được
soạn ra cho những người không muốn thi khoa cử, nhưng nó vẫn được đưa vào
chương trình để cho họ biết thêm về những gì mà những người đang luyện thi khoa
cử phải học…"
Sắc lệnh này vô cùng
quan trọng vì khi nhà vua ra lệnh sử dụng chữ Quốc ngữ là nhà vua đã công khai
ý định muốn thấy tầng lớp quan lại và sỹ phu phải thoát khỏi ảnh hưởng Trung
Hoa trong giáo dục, văn hóa, và nhất là tư tưởng.
Vừa thoát Trung vừa chống Pháp
Xin nhắc lại về cuộc
đời vị vua trẻ tuổi.
Sinh năm 1879, vua
Thành Thái lên ngôi năm 1889, khi mới 10 tuổi, và đến năm 1907 bị Pháp ép thoái
vị.
Ngài bị quản thúc ở
Vũng Tàu rồi đến năm 1916 bị đày sang đảo Réunion.
Vua là người cầu tiến,
học tiếng Pháp, có hiểu biết khá toàn diện, cắt tóc ngắn, mặc Âu phục, phong
cách của người theo tân học.
Vua thường xuyên tiếp
xúc với sỹ phu và dân chúng, đồng thời trọng dụng nhiều nhân tài, thanh liêm,
đức độ với hy vọng khôi phục và canh tân đất nước.
Sắc lệnh cho dạy Quốc
ngữ chính là văn bản ủng hộ Phong Trào Duy Tân (1906) và Đông Kinh Nghĩa Thục
(1907) thúc đẩy việc theo tân học và dùng chữ quốc ngữ.
Cắt tóc ngắn trở thành
một dấu hiệu của người theo tân học.
Nhiều thanh niên lúc
ấy sắm cho mình một cái kéo, đi tuyên truyền, vận động cắt tóc và vận động canh
tân.
Đến khi Vua bị người
Pháp ép thoái vị năm 1907 hình ảnh một vị vua yêu nước, chống Pháp, cắt tóc
ngắn nhanh chóng lan tỏa xuống đến tầng lớp nông dân.
Tháng 3 năm 1908, bắt
đầu từ tỉnh Quảng Nam, nông dân đầu cắt tóc ngắn lũ lượt kéo đến các phủ huyện
đòi giảm sưu giảm thuế.
Tất cả đều hớt tóc
ngắn đi thành đoàn, phong trào mở rộng vào Nam đến Bình Định, Phú Yên và ra Bắc
đến Nghệ An, Hà Tĩnh.
Pháp và triều Nguyễn
gọi cuộc biến động này là Giặc cắt tóc, ở Bình Định gọi là Giặc đồng bào, sau
được đổi lại là cuộc Dân biến Trung kỳ.
Đây là cuộc đấu tranh
bất bạo động đầu tiên trong lịch sử Việt Nam và đoàn biểu tình lấy biểu tượng
là Vua Thành Thái một vị vua yêu nước, theo tân học nhưng chống Pháp.
Như vậy ngay từ đầu
thế kỷ thứ 20, người Việt đã công khai thực hành phương pháp đấu tranh bất bạo
động với biểu tượng vua Thành Thái, có tổ chức, có chiến thuật, có mục tiêu và
có chiến lược một cách rất rõ ràng.
Cuộc đấu tranh bất bạo
động bị Pháp đàn áp dã man. Nhiều người tổ chức và tham dự bị bắt, phong trào
Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục bị dập tắt.
Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGESImage captionHoàng đế thứ 12 của triều Nguyễn, Khải Định trong cuốn 'The
Peoples of All Nations, Their Life Today and the Story of Their Past, tập I'
do JA Hammerton biên soạn và xuất bản ở London năm 1922
Năm 1907 vua Duy Tân
tiếp nối việc cải cách giáo dục bằng cách cho thành lập Bộ Học nhằm cai quản
việc học hành và thi cử.
Thượng thư Bộ Học Cao
Xuân Dục là một nhà giáo dục cổ vũ thực học, thực tài, bỏ đi kiểu học từ
chương, xa rời thực tế và chủ trương phát triển nền giáo dục "không học vì
bằng cấp" mà phải học lấy thực tài để ra giúp dân, giúp nước.
Đáng tiếc ông lại hết
sức bài bác chữ Quốc ngữ, nhưng không phải vì thế mà chữ Quốc ngữ bị đưa ra
khỏi nền giáo dục.
Theo Trần Gia Phụng từ
năm 1909, chương trình thi Hương bắt buộc thí sinh phải làm các đề thi luận văn
bằng cả chữ Hán lẫn chữ Quốc ngữ.
Ngày 26 tháng 11 âm lịch
năm Mậu Ngọ (tức ngày 28/12/1918) vua Khải Định ra đạo dụ chính thức bãi bỏ
khoa cử kiểu Hán học.
Năm 1919 là năm cuối
mở khoa thi Hương ở Huế, từ đó chữ Quốc ngữ thành chữ viết chính thức của người
Việt Nam.
Vai trò của các ông giáo trường làng
Bên cạnh các trường
công do triều đình và người Pháp lập ra là một hệ thống trường tư do các thầy
đồ sau chuyển thành thầy giáo làng giảng dạy.
Mỗi làng có khi lên
đến vài ba trường, hoặc dạy ở nhà thầy, hoặc ở nhà người giàu có nuôi thầy cho
con ăn học và cho con các nhà lân cận trong làng theo học.
Thầy đồ đa số là những
người có học, có người đỗ tú tài, có người là quan hồi hưu mở lớp dạy học.
Thầy đồ hoàn toàn tự
do không chịu sự giám sát của triều đình.
Mặc dầu được tự do mở
lớp giảng dạy giới thầy đồ vẫn giữ lòng trung với các vua nhà Nguyễn và với
sách Thánh hiền.
Các thầy đồ quyết liệt
chống lại các chính sách giáo dục của nhà cầm quyền Pháp với quan niệm chữ Quốc
ngữ là sản phẩm của ngoại bang và là công cụ của các nhà truyền giáo.
Với họ, chữ Hán giáo
dục về luân lí, về lịch sử, là chữ Thánh hiền còn Quốc ngữ chỉ để đọc báo, đọc
Kinh Thánh, những sản phẩm của quân xâm lược, biết đọc chẳng ích lợi gì.
Nhưng khi sắc lệnh cho
dạy Quốc ngữ của vua Thành Thái được ban ra thì chính các thầy đồ đã thay đổi
đã tự học chữ Quốc ngữ để truyền dạy lại cho học sinh.
Ba lớp Đồng ấu học
trước khi học sinh vào tiểu học đều do các thầy giáo trường làng dạy hoàn toàn
bằng chữ Quốc ngữ.
20191206 BTBD 05
Bản quyền hình ảnhGETTY IMAGESImage captionTriều đình Huế đã có nhiều nỗ lực tự cải cách để hiện đại hóa
quốc gia dù không có quyền lực chính trị
Nhờ thế chữ Quốc ngữ
trở thành phổ thông đại chúng.
Những bộ sách giáo
khoa như Sử ký địa dư giáo khoa thư, Luân lý giáo khoa thư, Quốc văn giáo khoa
thư, được học giả Trần Trọng Kim và các cộng sự biên soạn để dạy lớp ấu học
trường làng.
Bộ sách giáo khoa
'Việt Nam Sử lược' được học giả Trần Trọng Kim soạn để dạy các lớp cao hơn và
đã hoàn toàn chỉ cho những người đã biết Quốc ngữ.
Lên lớp nhì và lớp nhất
ở trường chính phủ, mỗi tuần chỉ dạy chữ quốc ngữ một giờ rưỡi và bậc trung học
chỉ dạy ba giờ.
Thời gian còn lại học
sinh được dạy bằng tiếng Pháp và hầu hết do người Pháp dạy.
Từ đó ta thấy căn bản
tiếng Việt, sử địa, luân lý, văn hóa về Việt Nam của học sinh hầu như đều thu
nhận được từ các thầy giáo trường làng.
Vua Bảo Đại là người Tây Học
Tốt nghiệp trường Khoa
học Chính trị Paris về nước, vua Bảo Đại bắt tay ngay vào việc cải cách đất
nước, mong từng bước khôi phục lại chủ quyền quốc gia.
Ngày 10/12 năm 1932,
vua Bảo Đại cho công bố đạo dụ nước ta theo chế độ Quân chủ Lập hiến, nhà vua
sẽ trực tiếp điều khiển nội các và cho cải cách hành chính, giáo dục và tư
pháp.
Một nội các mới đã
được thành lập gồm những người trẻ theo tân học như Phạm Quỳnh, Ngô Đình Diệm,
Nguyễn Đệ…
20191206 BTBD 06
Bản quyền hình ảnhBETTMANN/GETTY IMAGESImage captionHoàng tử Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy khi học ở Pháp. Sau ông lên ngôi
lấy hiệu là Bảo Đại và là Hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn
Bộ Học được đổi tên
thành Bộ Giáo dục và giao cho Phạm Quỳnh từng là chủ nhiệm báo Nam Phong một
người luôn tha thiết với chữ Quốc ngữ điều hành.
Các cuộc cải cách của
vua Bảo Đại đều bị người Pháp cản trở, riêng cải cách về giáo dục nhờ Phạm
Quỳnh được người Pháp tin nên ít bị cản trở.
Chữ Quốc ngữ được tăng
giờ dạy ở các trường công.
Nhờ thế sau khi Nhật
đảo chánh Pháp, trao trả độc lập cho Việt Nam, chỉ trong vòng 5 tháng chính phủ
Trần Trọng Kim đã thực hiện thành công cuộc cải cách lấy chữ Quốc ngữ làm ngôn
ngữ chính trong giáo dục.
Bộ trưởng Giáo dục
Hoàng Xuân Hãn có công lao lớn khi soạn cả sách toán và kỹ thuật bằng tiếng
Việt Quốc ngữ để dạy ngay trong niên học 1945-46 tại miền Bắc và miền Trung.
Từ 1948 đến 1955,
chính phủ Quốc gia Việt Nam tiếp tục lấy tiếng Việt làm ngôn ngữ giảng dạy
đến hết bậc trung học.
Bắt đầu từ chuyển biến tư tưởng thời Thành
Thái
Học tiếng Pháp, theo
tân học thoát khỏi tư tưởng Trung Hoa nên vua Thành Thái đã hiểu rõ những khái
niệm về tự do, dân chủ, quốc gia, dân tộc, quân chủ, cộng hòa… hiểu từ sách
Pháp không phải từ sách Trung Hoa.
Thay đổi quan trọng
nhất của nhà vua là về mặt tư tưởng, về ý thức đất nước không còn của nhà vua
nữa mà là của quốc gia của dân tộc.
Quốc gia là một thực
thể độc lập có chủ quyền thoát khỏi tư tưởng thuộc địa hay chư hầu Trung Hoa.
Khái niệm 'quốc gia'
bắt đầu được sử dụng đối nghịch với 'thuộc địa', 'chư hầu'.
Mặc dù không có quyền
lực trong tay các vua triều Nguyễn đã thực hiện thành công cải cách từ giáo
dục, văn hóa, đến chính trị đưa đất nước thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Hoa.
Bài học các vua triều
Nguyễn đã thực hiện là nếu muốn cải cách giáo dục phải bắt đầu bằng thay đổi tư
tưởng cho chính mình.
Vì thế, theo tôi, nhu
cầu thiết yếu của đất nước ngày nay không phải là cải cách tủn mủn về phát âm,
ký tự Quốc ngữ mà phải vừa thoát khỏi một ý thức hệ duy nhất, vừa thoát Trung
để khôi phục các nền tảng cơ bản cho Việt Nam.
Bài viết thể hiện quan điểm
riêng của ông Nguyễn Quang Duy, Melbourne, Australia. Quý vị có bài
phản biện, ý kiến đa chiều về chủ đề này hoặc các vấn đề lịch sử Việt Nam,
xin gửi về vietnamese@bbc.co.uk
Dec 3 at 10:43 AM
400 trang tài liệu mật
của Trung Cộng về chính sách Tân Cương bị tiết lộ
Published 28/11/2019 | By VQ2
20191206 BTBD 07
Những em bé người Duy Ngô Nhĩ
Tờ New York Times gần
đây có được một văn kiện nội bộ của Đảng Cộng sản Tàu (ĐCST) dài 400 trang, nội
dung yêu cầu tiến hành giáo dục và đe dọa đối với những trẻ em có cha mẹ đang
bị giam giữ trong các trại tập trung của người dân tộc thiểu số Hồi giáo Tân
Cương. Tài liệu này có hình thức “vấn đáp”, yêu cầu con cái của những người bị
giam giữ phải mỹ hóa trại tập trung và đe dọa rằng, nếu không sẽ ảnh hưởng đến
điểm số thời hạn cha mẹ bị giam giữ.
Trong một báo cáo dài
hôm thứ Bảy tuần trước (16/11), tờ New York Times tiết lộ, những văn kiện này
là văn kiện chính phủ lớn nhất của nội bộ ĐCST bị tiết lộ ra bên ngoài kể từ
khi ĐCST cầm quyền trong nhiều thập niên ỷ qua. Trong 3 năm qua, nhà cầm quyền
ĐCST đã giam giữ hơn 1 triệu người Duy Ngô Nhĩ, người Kazakh, và những người
dân tộc thiểu số khác trong các trại tập trung và nhà tù.
Lãnh đạo ĐCST tại Khu tự
trị Tân Cương đã đem chỉ thị nội bộ có tên “Chính sách vấn đáp đối với
con cái của học viên tại trường giáo dục bồi dưỡng trong trại tập trung thành
phố Turfan” truyền đạt lại cho các quan chức địa phương, đồng thời yêu cầu
họ và các nhân viên công tác cần nhanh chóng gặp mặt những học sinh đang học ở
bên ngoài đang được nghỉ trở về nhà, cấm họ lên tiếng nói ra tình hình chân
thực về những gì họ biết về Trại tập trung Tân Cương.
Trong “kim chỉ nam bồi
dưỡng” này đã cung cấp những đáp án tiêu chuẩn cho việc làm thế nào để trả lời
các vấn đề cụ thể và làm thế nào để “đe dọa” con cái của những người đang bị
giam giữ.
Ví dụ, khi bị hỏi: “Cha
(mẹ, người nhà) tôi đang ở đâu?” thì đáp án tiêu chuẩn là: “Họ ở trong
trường đào tạo do chính phủ thiết lập.” “Họ vào đó là để tiếp nhận giáo dục và
huấn luyện.” “Cuộc sống và môi trường của họ rất tốt, ăn ở miễn phí và tiêu
chuẩn tương đối cao, bạn không phải lo lắng.” “Chi phí ăn uống hàng ngày đều
trên 21 tệ trở lên, thậm chí còn vượt trên cả tiêu chuẩn sinh hoạt của một số
học viên khi còn ở nhà.”
Khi bị hỏi phải câu hỏi
mang tính khẳng định như: “Người nhà tôi khi nào mới kết thúc đào tạo
trở về nhà?” “Nếu đã là đào tạo huấn luyện, sao họ không thể định kỳ về nhà?”,
v.v, một số đáp án tiêu chuẩn là:
“Nếu không tham gia học
tập huấn luyện, thì không thể hiểu triệt để toàn diện về sự nguy hại của tư
tưởng tôn giáo cực đoan.” “Nhất định phải quý tiếc cơ hội mà Đảng và chính phủ
cung cấp giáo dục miễn phí, triệt để xóa bỏ tư tưởng sai lầm, đồng thời học
tiếng Hán và kỹ năng nghề nghiệp, tạo nền tảng tốt cho cuộc sống hạnh phúc của
cả nhà trong tương lai.” “Dù tuổi tác lớn ngần nào, chỉ cần tư tưởng bị lây
nhiễm tư tưởng tôn giáo cực đoan, thì đều cần tham gia học tập bồi dưỡng.”
Văn kiện còn yêu cầu
dùng cuộc nội chiến ở Sirya và Iraq làm ví dụ để thuyết minh.
Đồng thời, văn kiện này
còn yêu cầu quan chức địa phương tiến hành đe dọa một cách trắng trợn đối với
trẻ thơ, nói rõ với chúng rằng, những ngôn từ và hành động ở bên ngoài của
chúng đều sẽ ảnh hưởng đến điểm đánh giá người thân bị giam giữ của chúng, và
hệ thống đánh giá điểm này dường như được dùng để quyết định người nào và thời
gian nào sẽ được thả khỏi trại tập trung.
Văn kiện chỉ thị quan
chức địa phương giáo dục học sinh:
“Người nhà của họ bao
gồm cả cả bạn, ở trong nước cũng cần tuân thủ các quy định của luật pháp quốc
gia, không được tung tin đồn, không được lan truyền tin đồn.”
“Như thế này mới có thể
tăng thêm điểm cho người nhà, sau khi phù hợp với tiêu chuẩn tốt nghiệp thì mới
có thể rời trường học.”
Giới chức địa phương còn
tiến hành đánh giá hành vi trong cuộc sống hàng ngày của con cái những người bị
giam giữ mà họ đã từng gặp nói chuyện, ghi chép tình hình họ tham gia giáo dục,
hội đàm và các hoạt động khác.
Mặc dù văn kiện này dài
đến 400 trang, chỉ đạo chi tiết làm thế nào tiến hành lừa gạt, tẩy não, đe dọa
đối với con cái những người đang bị giam giữ, và yêu cầu chúng giữ miệng, nhưng
đối với hoàn cảnh khó khăn gặp phải do cha mẹ bị giam giữ như “cuộc sống, chi
phí sinh hoạt, học phí, sau khi cha mẹ chúng bị giam giữ thì ai sẽ chăm sóc
cũng như chi trả? Công việc đồng áng trong nhà ai làm?” v.v, lại không hề nhắc
đến chữ nào. Chỉ yêu cầu con cái họ ngậm miệng, cảm tạ Đảng là được.
Tờ New York Times không
tiết lộ chi tiết việc làm thế nào có được văn kiện nội bộ này. Có bình luận nói
rằng, điều có thể suy ra rằng, trong chính sách gây áp lực cao, nội bộ ĐCST
cũng vẫn có những người co chút lương tâm, nhân sĩ không đồng ý với điều ngang
ngược của ĐCST, đã thông qua một đường giây bí mật để công bố văn kiện nội bộ
ra bên ngoài, tiết lộ sự đàn áp tàn khốc của ĐCST sau cái gọi là “trại giáo dục
cải tạo”.
Tuyết Mai
Bất ổn ở Tân Cương phủ
bóng lên Sáng kiến ”Vành đai và Con đường (BRI)”
Dec 7 at 9:45 AM
Bắc Kinh hy vọng rằng Tân
Cương có thể đóng vai trò như một trung tâm vận chuyển và trung tâm về thương
mại, hậu cứ và văn hóa của khu vực. Trong năm 2017, khoảng 66 tỷ USD đã được
đầu tư vào cơ sở hạ tầng tại Tân Cương – tăng 50% so với năm trước. Đường bộ và
đường sắt cao tốc đã được xây dựng để kết nối khu vực này với các khu vực khác
của Trung Cộng.
Chính phủ đã thúc đẩy
hợp tác thương mại và tài chính giữa Tân Cương và các nước tham gia BRI. Thương
mại với các quốc gia BRI chiếm hơn 80% tổng thương mại của Tân Cương. Về phát
triển tài chính, khu vực này dự kiến sẽ trở thành một trung tâm thanh toán
đồng Nhân dân tệ xuyên biên giới.
Tuy nhiên, tỉnh này là
một trong những khu vực bất ổn nhất ở Trung Cộng. Căng thẳng và bạo lực sắc tộc
đã tồn tại từ lâu ở Tân Cương, tạo ra sự bất định cho các dự án BRI. Chính
quyền cũ của Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo đã thử nghiệm chiến lược “phát triển
trước tiên”, với hy vọng rằng các điều kiện kinh tế được cải thiện sẽ giúp
người Hồi giáo Duy Ngô Nhĩ (Uyghur) chấp nhận sự cai trị của Trung Cộng. Hàng
trăm tỷ nhân dân tệ đã được đổ vào vùng biên giới phía tây xa xôi này, tạo ra
sự gia tăng mạnh cho GDP của Tân Cương.
Nhưng các chương trình
phát triển đã không thể xoa dịu nỗi bất bình của người Duy Ngô Nhĩ. Một lý do
là tăng trưởng kinh tế không làm giảm bất bình đẳng thu nhập giữa các nhóm sắc
tộc. Khảo sát Tình hình Lao động Trung Cộng năm 2012 chỉ ra rằng thu nhập bình
quân đầu người hàng năm của người Hán ở Tân Cương là 28,900 NDT (khoảng 4,120
USD), trong khi thu nhập trung bình của người Duy Ngô Nhĩ là 12,800 NDT (khoảng
1,830 USD). Mức này cũng thấp hơn nhiều so với các sắc tộc thiểu số khác ở
Trung Cộng.
Các dự án phát triển của
Bắc Kinh tại Tân Cương phụ thuộc rất nhiều vào các doanh nghiệp nhà nước lớn
vốn thích thuê công nhân người Hán vì kỹ năng ngôn ngữ và chuyên môn của họ.
Người Duy Ngô Nhĩ tin rằng những dự án này đã đưa thêm nhiều người Hán vào khu
vực và những người này đã giành lấy cơ hội việc làm và trở nên giàu, với phí
tổn được đẩy sang cho họ.
Một nguồn gây bất bình
khác là các chính sách tôn giáo mang tính đàn áp trong khu vực. Chính phủ
đã kiên quyết kiểm soát các hoạt động tôn giáo như nghiên cứu Kinh Qur’an, ăn
chay và đội mũ của người Hồi giáo. Những hạn chế khắc nghiệt đối với Hồi giáo
đã làm cực đoan hóa nhiều người Duy Ngô Nhĩ và trong một chừng mực nào đó đã
khuyến khích sự trỗi dậy của chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan ở Tân Cương.
Một dòng tư tưởng chính
làm nền tảng cho phong trào nổi dậy của người Duy Ngô Nhĩ là chủ nghĩa dân tộc,
bắt nguồn từ chủ nghĩa Liên Thổ (Pan-Turkism) vào những năm 1930. Các nhà lãnh
đạo người Duy Ngô Nhĩ như Rebiya Kadeer đã sử dụng chủ nghĩa Liên Thổ như một
phương tiện huy động chủ nghĩa dân tộc, dựa trên mối liên hệ lịch sử và ngôn
ngữ của khu vực này với các quốc gia sử dụng ngữ hệ Thổ Nhĩ Kỳ (Azerbaijan,
Kazakhstan, Kyrgyzstan, Turkmenistan, Thổ Nhĩ Kỳ, Uzbekistan – ND). Chủ nghĩa
Wahhabi, một học thuyết Hồi giáo bảo thủ, đã lan truyền tới miền nam Tân Cương
kể từ những năm 1980, càng làm cực đoan hóa các thế hệ bất đồng chính kiến
trẻ. Một số người trong số họ thậm chí còn bị ảnh hưởng bởi Chủ nghĩa Hồi
giáo (Islamism). Có báo cáo cho thấy khoảng 30 người Duy Ngô Nhĩ từ Tân Cương
đã được đào tạo tại các trại huấn luyện chiến binh đặt tại Pakistan trước khi
họ được khai triển tới Syria.
Để bảo đảm Tân Cương là
một trung tâm kết nối đáng tin cậy cho BRI, đặc biệt là sau một loạt các vụ bạo
lực và tấn công khủng bố từ năm 2013 đến 2014, các nhà lãnh đạo Trung Cộng đã
áp dụng cách tiếp cận song song, kết hợp đàn áp nặng tay với các chính sách
kinh tế và xã hội. Camera giám sát được tìm thấy trên tất cả các đường phố và
thậm chí bên ngoài nhà ở của người dân. Cảnh sát đã được khai triển để tiến
hành kiểm tra điện thoại di động ngẫu nhiên để tìm các nội dung đáng ngờ, và
các quan chức địa phương đã được giao xuống sinh sống ngắn hạn trong nhà của
người dân Duy Ngô Nhĩ. Họ mang theo những món quà nhỏ cho gia đình như thịt
hoặc tiền mặt và theo dõi chặt chẽ các hoạt động hàng ngày của gia đình. Các
trại cải tạo được cho là đang giam giữ hơn một triệu người Duy Ngô Nhĩ là kết
quả của những chính sách cứng rắn nêu trên.
Các chính sách kinh tế
xã hội đã tập trung vào việc làm và giáo dục. Một số nguồn tin cho biết hơn một
nửa số sinh viên tốt nghiệp đại học người Duy Ngô Nhĩ đang thất nghiệp. Thanh
niên thất nghiệp là những “ứng viên” chính tham gia các phong trào nổi dậy. Các
doanh nghiệp nhà nước ở Tân Cương hiện được yêu cầu tuyển dụng ít nhất 70 phần
trăm nhân viên mới là người địa phương, trong đó ít nhất 25 phần trăm là người
dân tộc thiểu số. Nhà nước chọn các doanh nghiệp từ các tỉnh khác để đầu tư vào
Tân Cương với trọng tâm là tạo việc làm. Nỗ lực phát triển du lịch cũng nhằm
thu hút thanh niên dân tộc thiểu số ở nông thôn tìm kiếm việc làm trong lĩnh
vực dịch vụ.
Nhưng một rào cản lâu
nay đối với người Duy Ngô Nhĩ trên thị trường việc làm là kỹ năng tiếng Quan
thoại của họ – một điều kiện tiên quyết quan trọng đối với nhiều nhà tuyển dụng
người Hán. Chính sách giáo dục mới đã chú trọng nhiều hơn vào giáo dục song
ngữ. Từ năm 2017, miền nam Tân Cương bắt đầu cung cấp giáo dục mẫu giáo, tiểu
học và trung học miễn phí cho học sinh.
Liệu các chính sách song
song này có mang lại sự ổn định cho Tân Cương hay không vẫn còn là một câu hỏi
lớn. Nhiều chính sách trong đó là các chiến lược mang tính cưỡng chế. Dạy tiếng
phổ thông được thúc đẩy như là một phần của kế hoạch rộng lớn hơn nhằm mục đích
đồng hóa người Duy Ngô Nhĩ vào văn hóa Trung Cộng – điều có nguy cơ xóa sổ nền
văn hóa của người Duy Ngô Nhĩ. Các trại cải tạo được sử dụng để “thúc đẩy” việc
làm bằng cách buộc các trại viên phải làm việc tại các khu công nghiệp gần đó.
Cũng không có dấu hiệu nào cho thấy những hạn chế đối với Hồi giáo sẽ được nới
lỏng. Những chính sách như vậy có khả năng gây ra sự kháng cự lớn hơn và sự chỉ
trích quốc tế mạnh mẽ.
Tân Cương có thể vẫn
tiếp tục là nguồn gốc gây bất định cho BRI khi mà tình trạng bất ổn xã hội
khiến các doanh nghiệp không mặn mà với khu vực này. Một nhà sản xuất gia vị Ấn
Độ đã hoãn việc mở rộng kinh doanh tại Tân Cương vì căng thẳng sắc tộc và các
thủ tục an ninh quá mức. Sự lên án của quốc tế đã tăng lên khi tình trạng đàn
áp ngày một tồi tệ. Mặc dù Trung Cộng tìm cách tăng cường kết nối toàn cầu
thông qua BRI, các chính sách của họ ở Tân Cương lại có thể khiến nước này trở
nên cách xa hơn với nhiều nơi trên thế giới.
Nguồn: Wei Shan, “Xinjiang casts uncertainty over the
Belt and Road Initiative”, East Asia Forum, 29/11/2019.
Wei Shan là Nghiên cứu viên chính tại Viện Đông Á thuộc Đại học
Quốc gia Singapore (NUS).
Biên dịch: Phan Nguyên
Thương chiến kéo dài
dẫn đến nguy cơ khủng hoảng lương thực
Dec 7 at 9:44 AM
. 6. des. 2019 kl. 07:59
From: thaison21012. 'vi nguyen' via DiendanTuoiHac
From: thaison21012. 'vi nguyen' via DiendanTuoiHac
Date: 12/5/19
Trong bối cảnh chiến tranh thương mại Mỹ –
Trung không ngừng tiếp diễn, Trung Quốc có khả năng xuất hiện vấn đề hóc búa
hơn cả kinh tế đi xuống, đó là khủng hoảng lương thực. Theo dự báo của Bộ Nông
nghiệp Trung Quốc, năm 2020, Trung Quốc sẽ thiếu khoảng 200 triệu tấn lương
thực. Về vấn đề này, có học giả cho rằng khủng hoảng sẽ đe dọa đến chính quyền
của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ).
20191206 BTBD 08
Theo dự báo của Bộ Nông nghiệp Trung Quốc, năm 2020, Trung Quốc
sẽ thiếu khoảng 200 triệu tấn lương thực. (Ảnh minh họa từ Shutterstock)
Lần đầu tiên công bố
Sách trắng an ninh lương thực sau 23 năm
Theo tờ Nam Hoa Tảo báo (SCMP) mới đây đưa tin
có trích dẫn lời của nhà nghiên cứu David Laborde thuộc Trung tâm Nghiên cứu
chính sách lương thực quốc tế (IFPRI) cho biết, những áp lực do thay đổi khí
hậu gây ra cho thấy ngành nông nghiệp cần có cuộc cách tân công nghệ, tuy nhiên
chiến tranh thương mại làm tăng sự không chắc chắn, ảnh hưởng đến đầu tư vào
lĩnh vực liên quan, “Giá lương thực tăng cao ít ảnh hưởng đến nước
giàu, nhưng đối với những nước nghèo thì lại là vấn đề lớn, có khả năng còn dẫn
đến hỗn loạn về chính trị.”
Trước đó, hồi tháng 10, Quốc vụ viện Trung
Quốc đã công bố Sách trắng An ninh lương thực Trung Quốc. Văn kiện này nói rằng
mặc dù chiến tranh thương mại và biến đổi khí hậu làm “tăng thêm nhân tố bất ổn
định”, tuy nhiên cung ứng lương thực của Trung Quốc vẫn “rất ổn định”.
Điều đáng chú ý là, sau 23 năm, đây là lần đầu
tiên ĐCSTQ công bố báo cáo liên quan đến chủ đề đảm bảo lương thực, có chuyên
gia chỉ ra, cách nói “bất ổn định” không chỉ đại biểu cho sự lo lắng của ĐCSTQ,
mà nó còn đại biểu cho sự hoang mang.
Diện tích đất canh tác
phá vỡ ranh giới đỏ từ 1,8 tỷ mẫu xuống 1,55 tỷ mẫu
Diện tích đất trồng trọt của Trung Quốc đang
ngày càng giảm mạnh, năm 2011, ĐCSTQ đề xuất giới hạn đỏ 1,8 tỷ mẫu (diện
tích đất trồng trọt khi đó là 1,826 tỷ mẫu), đây là con số không thể bị phá vỡ
được, cũng tức là giảm xuống dưới 1,8 tỷ mẫu thì người Trung Quốc không thể nào
tự trồng trọt tự cung tự cấp nuôi sống mình được.
Nhưng đến ngày 25/6/2018, số liệu chính thức
mới nhất được công bố cho thấy, diện tích đất canh tác là là 1,55 tỷ mẫu. Chỉ
trong thời gian 7 năm ngắn ngủi, từ con số 1,826 tỷ mẫu giảm xuống còn 1,55 tỷ
mẫu, bình quân mỗi ngày giảm 108 mẫu đất, tương đương với diện tích của 11 sân
bóng đá.
Nguyên nhân căn bản gây ra hiện tượng này chính
là công nghiệp hóa và bất động sản. Hàng loạt nhà máy, nhà ở đang chiếm lĩnh
đất trồng vốn đã không còn nhiều với tốc độ nhanh chưa từng có. Một phương diện
khác, do phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, giá máy móc thu hoạch cũng
không ngừng tăng cao, chi phí mà nông dân bỏ ra để trồng trọt quá cao đã khiến
họ chỉ có thể từ bỏ trồng trọt. Lâu dần, khủng hoảng lương thực của Trung Quốc
sẽ ngày càng nghiêm trọng.
Bình quân mỗi người Trung Quốc chiếm 0,1 hecta
diện tích đất trồng trọt, tương đương với 1/3 diện tích đất canh tác trên đầu
người trên thế giới. Khi phải dựa nhiều vào nhập khẩu, sẽ làm mất quyền tự chủ
lương thực, tất nhiên sẽ dẫn đến khủng hoảng lương thực.
Năm 2020 Trung Quốc sẽ
thiếu gần 200 triệu tấn lương thực
Theo số liệu được Cục thống kê quốc gia Trung
Quốc công bố, năm 2018, tổng sản lượng lương thực toàn Trung Quốc giảm 0,6% còn
657,89 triệu tấn, giảm 3,71 triệu tấn so với năm 2017.
Năm nay, tổng sản lượng lương thực vẫn chưa có
số liệu chính thức, tuy nhiên, trong mùa mưa lũ năm nay, mưa lớn và bão đã tấn
công nhiều nơi của Trung Quốc, khiến cho khu vực sản xuất lương thực chính như
vùng Đông Bắc Trung Quốc bị tổn thất nghiêm trọng.
“Tôi đã làm nghề trồng trọt hơn 20 năm, chưa
từng thấy qua mưa lớn như thế này.” Nông dân Hà Thụ Đông ở thành phố Hắc Hà thuộc khu vực sản
xuất lương thực lớn nhất miền Bắc Trung Quốc chia sẻ với trang tin Caixin tại
Đại Lục, từ cuối tháng 7 đến cuối tháng 8 năm nay, vùng đất trũng đều bị ngập
trong nước, “ngô đều bị ngập chết hết”. Một hộ trồng ngô ở thành phố Tùng
Nguyên tỉnh Cát Lâm nói một cách buồn bã, mùa xuân đã trải qua hạn hán, cuối hạ
lại gặp trận ngập úng hàng chục năm chưa từng có…
Theo dự báo của Bộ Nông nghiệp Trung Quốc, năm
2020, sản lượng lương thực Trung Quốc sản xuất đạt khoảng 554 triệu tấn, trong
khi nhu cầu thực tế vào khoảng 700 triệu tấn, thiếu khoảng gần 200 triệu
tấn.
Hiện tại, tỷ lệ lương thực tự cung tự cấp của
Trung Quốc chưa đến 80%. Quốc tế đều phổ biến cho rằng, khi một quốc gia có tỷ
lệ tự cung tự cấp lương thực chưa đến 90%, xã hội có thể bất an; chưa đến 70%,
thì có thể dẫn đến xáo động. Cho nên, từ góc độ đảm bảo ổn định xã hội, lương
thực của Trung buộc phải dựa vào nhập khẩu. Có học giả cho rằng, một khi xuất
hiện thiếu lương thực nghiêm trọng, thể chế của ĐCSTQ sẽ lập tức đối mặt với
nguy cơ sụp đổ.
Trung Quốc là nước
nhập khẩu lương thực nhiều nhất
Mỹ là nước xuất khẩu lương thực lớn nhất thế
giới, còn Trung Quốc là nước nhập khẩu lương thực lớn nhất thế giới. Theo số
liệu của hải quan Trung Quốc, năm 2018, nhập khẩu lương thực của Trung Quốc lên
đến 108,5 tỷ tấn, là nước nhập khẩu lương thực lớn nhất thế giới. Lương thực mà
Trung Quốc nhập khẩu chủ yếu có nguồn gốc từ Mỹ.
Đối với khủng hoảng lương thực mà chiến tranh
thương mại mang đến cho Trung Quốc, ông Hùng, một tác gia tại tỉnh Hồ Bắc chia
sẻ với Đài Á châu Tự do cho biết, “Bởi vì lương thực chủ yếu của Trung
Quốc đều nhập khẩu từ Mỹ, lương thực mà Mỹ xuất khẩu là rẻ nhất, nếu chiến
tranh thương mại Mỹ – Trung thực sự bùng nổ, vậy thì nhập khẩu lương lực sẽ đối
diện với nguy cơ rất lớn. Trong kho cũng không còn bao nhiêu lương thực dự trữ,
còn lương thực nhập khẩu cũng không dễ dàng, tương lai Trung Quốc đối mặt với nguy
hiểm thiếu lương thực.”
Một phương diện khác, thức ăn chăn nuôi cũng
đối mặt với thách thức lớn, tỷ lệ đậu tương Trung Quốc tự cấp của chỉ có 15%,
đậu tương chiếm 70% lương thực nhập khẩu của Trung Quốc.
Cũng vì thế mà khi chiến tranh thương mại Mỹ –
Trung bùng nổ, cách làm ngừng nhập khẩu đậu tương của Trung Quốc từng bị cựu
quan chức ngoại giao Trung Quốc Long Vĩnh Đồ phản đối, nói Trung Quốc rất cần
đậu tương, ngăn chặn nhập khẩu đậu tương từ Mỹ “là rất không sáng suốt”.
Ông Lưu Khai Minh, người phụ trách Viện Quan
sát xã hội đương đại Thâm Quyến cho biết, nếu chiến tranh thương mại leo thang
thành xung đột chính trị quân sự toàn diện, đặc biệt là xảy ra xung đột trên
biển Đông, Trung Quốc rất có khả năng xảy ra khủng hoảng lương thực. Bởi vì
trong số lương thực nhập khẩu, có đến 60% là nhập từ Mỹ và đồng minh của Mỹ.
Huệ Anh
Doanh nghiệp TQ bị tác
động mạnh bởi ‘Đạo luật’ mới của Mỹ về Hồng Kông
Ngày 27/11 Tổng thống Mỹ Trump đã ký “Đạo
luật Nhân quyền và Dân chủ Hồng Kông” và “Đạo luật Bảo vệ Hồng Kông”,
là những luật có sức mạnh răn đe lớn.
Ngay lập tức, giá cổ phiếu của một số
công ty Trung Quốc niêm yết ở nước ngoài đã nhanh chóng lao dốc, kế tiếp có thể
sẽ xảy ra hiệu ứng dây chuyền.
20191206 BTBD 09
Đã có hiện tượng lao dốc giá cổ phiếu của doanh nghiệp Trung
Quốc đầu tư nước ngoài, có thể xảy ra hiệu ứng dây chuyền (Ảnh: Shutterstock).
Ngày 27/11, Tổng thống Trump tuyên bố rằng ông
đã ký “Dự luật Nhân quyền và Dân chủ Hồng Kông” để chính thức trở thành
luật. Ngay sau đó đông đảo thành viên của cả hai đảng trong Quốc hội Mỹ đã lần
lượt bày tỏ ủng hộ người dân Hồng Kông trong cuộc đấu tranh cho tự do.
Trong một tuyên bố của Nhà Trắng, ông Trump
cho biết:
“Một số điều khoản của đạo luật sẽ can thiệp
vào việc Tổng thống thể hiện uy quyền Hiến pháp liên quan đến chính sách đối ngoại
của Mỹ. Chính quyền hành chính của tôi sẽ ứng xử với từng mục của đạo luật sao
cho phù hợp thẩm quyền Hiếp pháp của Tổng thống về quan hệ đối ngoại.”
Ông cũng đã ký “Đạo luật Bảo vệ Hồng Kông”. Đạo luật này cấm Mỹ xuất khẩu các sản phẩm kiểm soát đám đông
cho chính quyền Hồng Kông như đạn hơi cay, bình xịt hơi cay và đạn cao su.
Ngày 28/11, Bắc Kinh đã phản ứng mạnh mẽ với
việc Tổng thống Trump ký “Dự luật Nhân quyền và Dân chủ Hồng Kông”,
yêu cầu Mỹ không thực hiện luật này và cảnh báo rằng động thái sẽ gây thiệt hại
lớn hơn cho sự hợp tác trong các lĩnh vực quan trọng giữa hai nước.
Liên quan đến vấn đề thông qua đạo luật sẽ ảnh hưởng thế nào đến
đàm phán thương mại Mỹ – Trung, phát ngôn viên Cảnh Sảng của Bộ Ngoại giao
Trung Quốc cho biết, “Vấn đề này sớm muộn sẽ đến”.
Sau khi TT.Trump ký dự luật nêu trên để chính
thức thành luật, hàng năm Bộ Ngoại giao Mỹ có nghĩa vụ nộp báo cáo lên Quốc hội
để xác thực tình trạng quyền tự chủ của Hồng Kông vẫn đáp ứng các yêu cầu của “Đạo
luật Chính sách Hồng Kông” ban hành năm 1992,
để xem xét Hồng Kông có thể tiếp tục được hưởng quy chế ưu đãi
thương mại đặc biệt từ Mỹ. Quy chế đối xử này có ý nghĩa rất lớn để Hồng Kông
thành trung tâm tài chính thế giới.
Theo luật này, các quan chức Trung Quốc liên
quan đến vi phạm nhân quyền ở Hồng Kông sẽ phải chịu các biện pháp trừng phạt
tương ứng, điều này có thể làm thay đổi căn bản mối quan hệ giữa Mỹ và Hồng
Kông.
Theo “Đạo luật Chính sách Hồng Kông” năm
1992, Hồng Kông được Mỹ xem là có địa vị đặc biệt khác với Trung Quốc Đại Lục
trong các lĩnh vực như thương mại và giao thông vận tải.
Nhưng trong trường hợp nếu Tổng thống Mỹ
xác định Khu hành chính đặc biệt này đã “không có quyền tự chủ đầy đủ” thì
Mỹ có quyền ký lệnh hành pháp để tạm đình chỉ quy chế đối xử đặc biệt tại Hồng
Kông.
Từ góc nhìn kinh tế, Hồng Kông có vị thế đặc
thù của một trung tâm tài chính quốc tế, lý do vì nơi đây là một khu vực thương
mại và thuế quan riêng hoàn toàn khác Trung Quốc Đại Lục.
Trong trường hợp chiến tranh thương mại
Trung-Mỹ, thuế quan trừng phạt của Mỹ đối với Trung Quốc sẽ không áp dụng đối
với các sản phẩm xuất khẩu từ Hồng Kông sang Mỹ.
Nhưng sau khi “Đạo luật Nhân quyền và
Dân chủ Hồng Kông” có hiệu lực, nếu xảy ra trường hợp Hồng Kông bị Mỹ hủy
bỏ địa vị đặc biệt, nhìn từ góc độ Hải quan Mỹ thì khi đó Hồng Kông sẽ chỉ được
xem như một cảng thương mại của Trung Quốc, như vậy hàng hóa xuất khẩu từ Hồng
Kông sẽ bị đánh thuế tương tự thuế quan áp dụng cho hàng hóa xuất khẩu từ Đại
Lục.
Những công ty làm ăn tại Hồng Kông mà lợi
nhuận chủ yếu dựa vào hoạt động thương mại trung gian và trung chuyển sẽ gặp
khó khăn về sinh kế, khi đó có thể phải tính toán chuyển hoạt động sang các khu
vực khác.
Ngoài ra, các đạo luật như “Đạo luật
Nhân quyền và Dân chủ Hồng Kông” cũng đã ảnh hưởng đến các công ty
Trung Quốc đầu tư.
Tính đến cuối quý Ba năm nay, có tổng số 2395
công ty niêm yết trên thị trường cấp một (Main-Board Market) và thị trường cấp
hai (Growth Enterprise Market) của Sở Giao dịch Chứng khoán Hồng Kông, trong đó
chiếm 50% công ty niêm yết từ Trung Quốc Đại Lục tương ứng với giá trị thị
trường là 68% và chiếm lượng giao dịch trung bình hàng ngày là 79%.
Tháng 10 năm nay, 22 công ty đã được niêm yết
tại Hồng Kông, trong đó 3 công ty từ nước ngoài, 4 công ty bản địa Hồng Kông,
15 công ty từ Trung Quốc Đại Lục (bao gồm 2 cổ đông kiểm soát từ Trung Quốc Đại
Lục), chiếm 68,2%, tất cả 15 công ty đều tham gia thị trường cấp một, chiếm 75%
trong số 20 công ty niêm yết thị trường cấp một trong tháng Mười.
Ngày 14/11, Ủy ban Đánh giá Kinh tế và An ninh
Mỹ-Trung (USCC) đã đệ trình lên Quốc hội “Báo cáo kiến nghị chiến lược cạnh
tranh đối với Trung Quốc năm 2019”, khuyến nghị Quốc hội ban hành luật cấm
các công ty Trung Quốc niêm yết trên thị trường chứng khoán Mỹ trong bốn tình
huống:
1. Công ty không kịp thời cung cấp cho Ủy ban
Giám sát Kế toán Công ty Đại chúng (PCAOB) các giấy tờ công việc kiểm toán liên
quan đến tình trạng hoạt động tại Trung Quốc;
2. Quy trình công bố thông tin của công ty
không đáp ứng các tiêu chuẩn tốt nhất của Mỹ và EU;
3. Công ty áp dụng mô hình Thực thể lợi ích
biến đổi (Variable Interest Entities, VIE);
4. Công ty không tuân thủ Công bố quy định
công bằng (Regulation Fair Disclosure) và không đồng thời cung cấp thông tin
quan trọng cho tất cả các nhà đầu tư.
Ngày 27/11 đã xảy ra hiện tượng lao dốc giá cổ
phiếu của một số công ty có đầu tư Trung Quốc được niêm yết tại Hồng Kông,
trong đó có những tập đoàn hàng đầu sụt giảm nghiêm trọng mà có thời điểm mức
giảm đến gần 80%, phải tuyên bố dừng giao dịch, ví như Virscend Education giảm
gần 80%, ArtGo Hldgs giảm ‘thảm kịch’ đến 98%.
Trong tuần qua, chứng khoán Trung Quốc
tại Hồng Kông liên tục sụt giảm, trong thời gian tới nhiều khả năng giá cổ
phiếu nhiều công ty Trung Quốc niêm yết ở nước ngoài có thể tiếp tục biến động
lớn hơn.
Trịnh Văn
No comments:
Post a Comment