20220817 Cong Dong Tham Luan Dia Su Linh Nam 29
CẨM-KHÊ DI-HẬN (Q.III: Hồi 86-92)
Posted on November 15, 2012 by Lê Thy
HỒI THỨ TÁM MƯƠI CHÍN
Uy danh động đến bắc phương
(Đại-Nam quốc sử diễn ca)
https://trandaisy.wordpress.com/2012/11/15/cam-khe-di-han-q-iii-hoi-86-92/4/
Trích đoạn:
HỒI THỨ TÁM MƯƠI CHÍN
Uy danh động đến bắc phương
(Đại-Nam quốc sử diễn ca)
Sau khi chôn cất tử sĩ.
Phật-Nguyệt đánh trống, truyền các tướng sĩ vào họp. Bà ban lệnh phủ tuất gia
đình tử sĩ. Cứ như luật Lĩnh-Nam. Tử sĩ tuẫn quốc đương nhiên được thăng lên
một cấp. Lương bổng tử sĩ vẫn tiếp tục phát cho quả phụ, cô nhi. Tử sĩ có mẹ
già, lạc hầu, lạc tướng phải cử người nuôi dưỡng, chu cấp đầy đủ.
Bà mời tướng soái vào họp, định
công thăng thưởng. Cuộc họp vừa bắt đầu, có Thần-ưng ré lên trên không. Mọi
người đưa mắt nhìn Cu Bò. Nó lắng tai nghe tiếng Thần-ưng, rồi trả lời bằng cái
lắc đầu:
– Không hiểu sao Thần-ưng đang
tuần phòng, kêu ré lên báo hiệu có khách tới thăm rồi mất tích. Hay chúng bị
người bắn chết cũng nên.
Mọi người theo Cu Bò ra sân
xem: Tất cả Thần-ưng đồn trú trên hồ Động-đình đều cất cánh bay về phương Nam.
Chúng dàn ra thành từng tốt trăm con một, lượn vòng tròn, giống như tập trận.
Chúng đồng cất tiếng kêu, vui vẻ nhộn nhịp, hòa nhã. Các tướng soái đã được
nghe chúng kêu như vậy hai lần. Lần thứ nhất trong khi bay lượn trên bàn thờ
Quốc-tổ, hôm đại hội hồ Động-đình và hôm cử hoàng-đế Lĩnh-Nam.
Đào Phương-Dung nói với Đào
vương-phi:
– Thưa bác, hồi đánh Long-biên
trở về Thần-ưng thấy hai bác cùng đạo binh Cửu-chân từ xa đến, cũng bay lượn,
reo lên vui vẻ như vậy. Không lẽ bác trai còn sống trên thế gian này ư?
Tây-vu tiên tử lắc đầu:
– Không phải thế đâu cháu ơi!
Thần-ưng là loài chim có linh tính ở Tây-vu. Khi chúng thấy vị thánh nhân, hoặc
chúa tướng tối cao, thì kêu lên báo hiệu cho nhau, bay lượn chào đón. Ta đoán,
dường như có nhân vật quan trọng sắp tới Trường-sa. Không phải vua Trưng, ắt
Bắc-bình vương Đào Kỳ hoặc công chúa Hồ Đề.
Sún Hô nhảy nhót mấy cái, chàng
đã lên đến cành cao chót vót của cây cổ thụ, phóng mắt nhìn về hướng Nam. Chàng
nói vọng xuống:
– Đúng rồi, Hoàng-đế giá lâm.
Xa xa em thấy một đoàn người ngựa. Đi đầu có con voi trắng, hai cái ngà chéo
nhau.
Trưng-đế dùng đức cai trị
Lĩnh-Nam hơn năm qua. Dân chúng, nhà nhà đều cảm thấy thanh nhàn. Đêm ngủ không
cần đóng cửa. Của rơi không có người nhặt. Trẻ kính già. Già dạy trẻ. Liên tiếp
ba mùa đều trúng. Dân chúng ấm no, ca ngợi công đức ngày đêm. Họ nói với nhau:
Đến vua Hùng sống dậy cũng không làm họ sung sướng hơn.
Vì vậy các tướng nghe Trưng
hoàng-đế giá lâm, đều nhảy nhót vui mừng. Phật-Nguyệt truyền dàn giáp sĩ từ
trong thành ra đến ngoài mười dậm chào đón hoàng-đế.
Trần Quốc-Dũng can:
– Sư tỷ! Không nên biểu lộ quân
khí hùng mạnh. E hoàng-đế nghi ngờ chăng? Sư tỷ có nhớ xưa Hàn Tín cầm quân,
tranh thiên hạ cho Lưu Bang. Lưu Bang du Vân-mộng. Hàn Tín dàn giáp sĩ, biểu lộ
quân khí hùng mạnh. Lưu Bang nghi ngờ rồi truyền bắt giam Hàn Tín, giáng tước
từ Sở vương, xuống làm Hoài-âm hầu.
Phật-Nguyệt cười:
– Sư đệ biết một mà không biết
hai. Lưu Bang xuất thân từ một tên đình trưởng. Không tài không đức. May mà
được thiên hạ. Vì vậy y nghi ngờ tất cả mọi người. Còn Trưng-đế xuất thân hiệp
nghĩa. Tài trí thiên hạ không ai bằng. Vì vậy hoàng-đế không nghi ngờ ai. Hàn
Tín có tài dùng binh bậc nhất thời Tây-Hán. Cho nên Lưu Bang nghi ngờ. Còn ta,
tài dùng binh thua xa Trưng Nhị, Đào Kỳ, Phương-Dung, Vĩnh-Hoa, Thánh-Thiên,
Đinh Đại, Đô Dương. Làm sao Trưng-đế nghi ta được? Vả xưa, thời bình rồi, mà
Hàn Tín muốn tỏ cái tài, cố gắng luyện sĩ tốt, làm Lưu Bang nghi ngờ. Còn đây,
trong lúc chiến tranh, Trưng-đế lo sợ ta đương không nổi Hán, mới tới vi hành.
Ta cần tỏ ra mạnh, để người yên tâm.
Các tướng đều phục Phật-Nguyệt
minh mẫn. Bà lên ngựa, xuất thành, dẫn Chu Tái-Kênh, Đào vương-phi cùng các
tướng đi đón. Từ xa xa, thấy bầy voi, cùng người ngựa tiến đến. Phật-Nguyệt ra
lệnh cho mọi người xuống ngựa, đứng chờ ven đường. Chu Tái-Kênh chỉ đoàn người
ngựa:
– Hoàng-đế Lĩnh-Nam xuất chinh
chưa tới hai trăm người ngựa tháp tùng. Trong khi hoàng-đế Trung-nguyên đi đâu,
phải tiền hô hậu ủng hàng ngàn, hàng vạn giáp sĩ.
Cu Bò cười lớn:
– Hoàng-đế Lĩnh-Nam được dân
yêu, đâu sợ người ám sát, mà cần giáp sĩ? Hoàng-đế của mình có võ công cao, dễ
gì ai đến gần được?
Trưng hoàng-đế tới gần,
Phật-Nguyệt hô lớn:
– Các tướng sĩ Trường-sa, giáp
trụ trên người, không hành đại lễ. Mong hoàng-đế miễn tội.
Hoàng-đế nhảy vội xuống nói
lớn:
– Chúng ta là sư huynh, sư muội
một nhà. Không nên dùng đại lễ. Miễn lễ. Miễn lễ.
Ngài ra lệnh cho voi của
Phật-Nguyệt, Tái-Kênh cùng đi ngang với voi của ngài và Trưng Nhị. Dân chúng
trong thành, nhà nhà kéo nhau ra chào mừng hoàng-đế giá lâm.
Trưng hoàng-đế nói với
Phật-Nguyệt:
– Ta bất thần thăm mặt trận
Động-đình. Sư muội bắt dân chúng đón rước chi cho mệt mỏi?
Phật-Nguyệt chưa kip trả lời,
Cu Bò cỡi ngựa đi phía sau. Nó xen vào:
– Thưa “chị” hoàng-đế.
Chị Phật-Nguyệt đâu có bảo họ đón. Họ nghe hoàng-đế đến, tự bảo nhau, kết hoa,
đốt pháo mừng, kéo nhau đi đón đấy chứ.
Hoàng-đế nhìn Cu Bò. Người nó
dơ dáy kinh khiếp. Ngài liếc nhìn Hồ Đề ý muốn hỏi lý lịch. Hồ Đề vội đáp:
– Sư tỷ! Em có Tây-vu thiên ưng
lục tướng, Thập-ngưu. Nó là một trong mười thằng trâu. Cứng đầu như trâu. Tên
nó là Trâu Vàng. Vì không có Trâu Vàng, nên gọi là Cu Bò. Nó giữ chức sư trưởng
Thần-ưng đạo Giao-chỉ, dưới trướng sư muội Đào Phương-Dung.
Vua Trưng nhìn Cu Bò, Trâu
Xanh, Trâu Trắng mỉm cười nói:
– Cách đây năm, sáu năm, là
thời của Tây-vu thiên ưng lục tướng. Lục Sún lớn thì có mười cu trâu kế nghiệp.
Tre già, măng phải mọc.
Đào Ngũ-Gia, tức Sún Hô trình:
– Sư tỷ thứ lỗi. Thằng Cu Bò
cực thông minh, lanh lợi, chỉ phải cái tội tham ăn và ở dơ. Trận đánh vừa qua,
nó lập công đầu trong các tướng lĩnh Tây-vu, thứ đến Vi Lan, Trâu Đen. Không
may Trâu Đen tuẫn quốc.
Hoàng-đế cảm thán, nói với Hồ
Đề:
– Bàn tay của em là bàn tay
tiên, chứ không phải bàn tay người thường nữa. Dù ta, dù Đào vương-phi, dù bất
cứ người nào cũng không bằng em. Từ tiền cổ đến giờ, chỉ có Quốc-mẫu, sinh trăm
con, mới hơn được em. Trẻ mồ côi quá nhiều, em đi lượm về nuôi nấng, dạy dỗ
chúng trở thành anh hùng Lĩnh-Nam. Bề ngoài, ai cũng tưởng em đùa nghịch, phá
phách. Chỉ có thái thượng hoàng Tự-Sơn với ta biết em: Tính đùa nghịch đó, phát
xuất từ trong lòng hồn nhiên, vui vẻ. Chính tính vui vẻ của em, em đã đào tạo
được nhiều thiếu niên anh hùng.
Voi đã vào trong thành. Vua
Trưng thấy dân chúng đứng đón đông quá, ngài xuống voi, cùng tể tướng, tam
công, triều thần, đi khắp thành, ân cần hỏi thăm từng người một.
Lạ một điều, người già bu quanh
hoàng-đế, còn trẻ con bu quanh Hồ Đề, mỗi câu, mỗi lời bà nói. Dân chúng lại
cười ầm lên.
Chính lời khen ngợi Hồ Đề của
vua Trưng, mà sau này, tại các đền thờ, đều đắp tượng bà ngồi giữa, xung quanh
có bảy đứa trẻ, trong bảy tư thế khác nhau. Một đứa đấm lưng, một đứa bắt chí,
một đứa bóp vai, một đứa đấm chân, một đứa dâng trái cây, một đứa quạt nước, và
một đứa ngồi để “cò” ra ngoài, tay ôm trái dưa. Nhiều nơi còn vẽ
hình bà với bảy đứa trẻ, làm tranh tết. Tết đến đua nhau mua tranh treo ở nhà,
mong trẻ con hay ăn, chóng lớn. Có người không biết, gọi là tranh Hồ
tiên cô và bảy đồng tử, diễn tả tài nuôi dạy người của Hồ Đề thời
Lĩnh-Nam.
*** Trong miền Nam thập
niên 1950's-1960's, bắt đầu ngày 20 tháng chạp tại các chợ nhỏ ở địa
phương miền Tây thường có trưng bày các bức tranh vẽ tay của miền Bắc
lẩn miền Nam dùng để chưng trong nhà trong ba ngày Tết. Bắc có các
tranh vẽ Đông Hồ, như lợn, gà, cọp, mèo tuỳ theo tên của năm Tết sắp
tới. Tranh miền Nam có Lục Vân Tiên Kiều Nguyệt Nga của cụ đồ Nguyễn
Đình Chiễu hay Thạch Sanh Lý Thông, ngoài ra còn có tranh vẽ về cuộc
khởi nghĩa không thành của Nùng Trí Cao dưới triều Lý và quan trọng
nhất là "Tranh Vẽ Hồ Tiên Cô" với bầy trẽ vây quanh.
Lúc bấy giờ tôi còn
nhỏ vẩn chưa biết gì nhiều về bức tranh Hồ Tiên Cô, có biết về cuộc
khởi nghỉa của Nùng Trí Cao nhưng không thắc mắc hai hiểu nhiều về
bức tranh Hồ Tiên Cô cùng bầy trẽ. Mãi cho đến khi lớn lên mới hiểu
thấu chuyện Hồ Tiên Cô và sau nầy hình bóng Hồ Tiên Cô lại hiển hiện
qua hình bóng của Ca Sĩ Phi Nhung, người đã bị cộng sản Việt-nam
giết qua việc mượn cơn dịch cô-vịt để giết người bán nội tạng mà
không một ai hiểu biết hay đặt câu hỏi với đám thái thú ba đình. ***
Ủy lạo dân chúng đến chiều,
hoàng-đế lên ngựa đến bờ hồ Động-đình thăm thương binh đang điều trị tại đây.
Ngài đến từng dãy nhà của thương binh thăm hỏi, ban thưởng. Nhiều người cảm
động bật lên tiếng khóc.
Từ hồ Động-đình, ngài trở về Trường-sa, họp với các tướng sĩ, định
công, tưởng thưởng. Ngài truyền tất cả binh tướng dù lớn, dù nhỏ, công nhiều,
công ít, đều được thăng lên một cấp. Phàm những người có chiến công hiển hách,
công chúa Phật-Nguyệt đạt giấy về trang ấp. Lạc hầu, lạc tướng sẽ thay Trưng
hoàng-đế ban thưởng cho cha mẹ, sư phụ, có công dạy dỗ con em. Các tướng sĩ anh
dũng tử trận, trang ấp quê hương của họ được đổi tên. Dùng tên của họ thay cho
tên trang ấp cũ. Dùng tên đặt cho trang ấp, chỉ
Lĩnh-Nam mới có. Chứ người Trung-Hoa ngược
lại, kiêng, không được nhắc đến húy của danh nhân.
Trước 1945 khắp vùng Bắc
Việt-Nam, và các tỉnh Quảng-đông, Quảng-tây, Vân-nam bên Trung-hoa, có nhiều
trang ấp mang tên danh nhân như: Xóm Ả-Tắc, Ả-Dị, xóm ông Ba, chòm ông Mãnh v.v. đó là tên những chiến sĩ anh dũng tuẫn quốc được dùng đặt
tên trang ấp từ thời Lĩnh-Nam còn sót lại.
Sau khi tuyên thưởng tất cả
chiến sĩ. Ngài đứng dậy, ân cần nói với Chu Tái-Kênh:
– Thái sư thẩm lần đầu tiên
tham chiến, gặp trận giặc lớn. Nếu không có người ra tay, e Lưu Long, Tô Định,
Ngô Anh đánh tan đạo quân Tam-sơn
của Lĩnh-Nam. Đất Lĩnh-Nam còn
phải nhờ đến uy vũ của thái sư thẩm nhiều. Trẫm xin tôn dâng Thái-sư thẩm tước: Thiên-đạo hoàng thái hậu.
Tam công, tể tướng, cùng các
tướng sĩ đồng hành đại lễ với Chu Tái-Kênh. Bà vui vẻ, uống rượu, múa kiếm ca
hát bài ca chiến thắng hồ Động-đình do Phùng Vĩnh-Hoa sáng tác. Đám trẻ cũng hát theo. Vua Trưng bị cảm ứng, ngài cũng hát.
Từ sau trận hồ Động-đình. Chu
Tái-Kênh trổ thần oai giết giặc. Nhất là gặp đạo quân thiện chiến, liều mạng
Lưu Long, bà được xử dụng hết tài thao lược, thắng giặc. Cái uất hận từ bốn
mươi năm do đó mất đi. Bà trở lại với bản tính nhu nhã thuở nào.
Trưng hoàng-đế nói với Vi Lan:
– Nhờ mưu trí của em, mà chúng
ta cướp được kho lương thảo khổng lồ, đủ nuôi mười vạn quân trong vòng hơn một
năm. Công này không nhỏ. Ta quyết định phong cho em làm: Chí nhu Thiên tắc công chúa.
Chu Tái-Kênh tiến lên, ghé tai
Trưng hoàng-đế nói nhỏ mấy câu. Trưng hoàng-đế nhìn Trần Quốc-Dũng,
ngài mỉm cười phán:
– Trong trận này, em với Vi Lan
đều vào sinh ra tử. Ta thăng em lên làm Quân-sơn hầu, lĩnh ấn Đại tướng quân. Ta
truyền gả Vi Lan cho em, kể từ hôm nay, để cả hai thành vợ chồng, cùng lo gánh
vác sơn hà với chúng ta.
Hai người cùng lạy tạ. Cu Bò
thấy Vi Lan lấy chồng. Nó diễu:
– Ôi! Từ nay chúng mình phải
gọi là Chí nhu thiên tắc công chúa. Tên dài quá. Thôi mình
gọi là Ả Tắc cho nó gọn.
Từ đấy trong bạn hữu Tây-vu gọi
nàng là Ả Tắc.
Hoàng-đế truyền gọi Hắc Phong quận chúa, dạy:
– Trước em có công đánh thành Xuyên-khẩu, Bạch-đế, sau đánh thành Trường-an, lại có công trong trận Long-biên, Luy-lâu. Ta đã phong cho chức tước
cùng trang ấp cho các em rồi. Bây giờ em lại lập công lớn trong hồ Động-đình,
em mới hai mươi tuổi, xung phá vào hàng vạn mũi tên Hán. Em chỉ huy đội ong bầu
đánh với sáu vạn thủy quân Mã Viện, gặp cường địch không lùi, bị thương đến ba
lần vẫn tiến. Trong đời sống, nêu cao tài Lĩnh-Nam. Ta phong em làm: Chí nhu dị tài công chúa
Cu Bò nói nhỏ vào tai Trâu
Xanh:
– Tên dài quá. Bọn mình cứ gọi
bằng tên Ả Dị cho tiện.
Từ đấy, trong quân gọi Vi Lan bằng tước hiệu Thiên-tắc công chúa. Hắc Phong là Dị-tài công chúa. Song bạn bè gọi nàng là Ả-Dị. Hiện nay ở Mê-linh còn có miếu thờ Ả-Dị, Ả-Tắc.
Vua Trưng cùng cùng quần thần
nghe Cu Bò nói đều cười ồ lên. Ngài lại truyền phong cho Trâu Đen được mang họ Trưng, đặt cho tên
Trưng Dũng. Sắc phong làm:
Tam-sơn
trung dũng đại tướng quân
Ngài phong cho tất cả các sư
trưởng Tây-vu thuộc đạo Giao-chỉ, Hán-trung lĩnh ấn đại tướng quân, tước
Liệt-hầu.
Cu Bò lắc đầu, không chịu nhận
tước Liệt-hầu. Đào vương-phi hỏi:
– Con chê tước hầu nhỏ hay sao?
Con mới mười lăm tuổi, làm đại tướng, tước phong hầu là lớn lắm rồi.
Nó gãi đầu nói:
– Không phải vậy. Con gọi chị
Phật-Nguyệt bằng chị. Chị Phật-Nguyệt gọi hoàng-đế bằng chị, vì vậy con cũng
gọi chị hoàng-đế. Như vậy là con chỉ dưới chị hoàng-đế chút
xíu. Bây giờ phong con làm tước hầu, bé xíu xíu. Con không chịu đâu.
Bọn Trâu Xanh, Trâu Trắng nhao
nhao theo Cu Bò. Đào Phương-Dung làm chúa tướng của bọn phá trời đã quen. Bà
bảo chúng:
– Hoàng-đế phong hầu cho các
em, để các em có trang ấp. Có trang ấp, tha hồ mà ăn. Ăn gãy răng cũng không
hết. Còn nếu các em không muốn nhận tước hầu, thì thôi vậy, hết hành quân, đánh
giặc, trở về Tây-vu vẫn phải ăn cơm lính hoài. Ăn cho đến già.
Cu Bò nói lớn:
– Ê ! Bọn Trâu chúng mình cứ
nhận sắc phong, nhưng bổng lộc thì giữ lấy, đem cho người nghèo.
Cả bọn lạy tạ ơn.
Trưng hoàng-đế nghĩ một lúc rồi
quay lại nói với lạc vương Lương Hồng-Châu:
– Trận hồ Động-đình diễn
ra trên đất Quế-lâm. Cu Bò được phong hầu, không lẽ cứ dùng tên Cu Bò, Trâu xanh,
Trâu Trắng mãi coi không được. Vậy trẫm phiền Lạc-vương nhận ba cháu làm con
nuôi, cho chúng mang họ Lương.
Lương Hồng-Châu bái mệnh. Ngài
nói với Cu Bò:
– Cháu ngoan. Ta nhận các cháu
làm con. Ta đặt cho Cu Bò là Lương Tùng. Trâu Trắng là Lương Bạch. Trâu Xanh là Lương Thanh. Bò đã được thu làm đệ tử Cửu-chân rồi, thì thôi. Còn Trâu Trắng,
Trâu Xanh sẽ được thu làm đệ tử phái Quế-lâm.
Bọn Trâu mừng lắm, chúng đến
trước Lương Hồng-Châu lạy tám lạy, gọi ông là sư phụ.
Dong Dinh
Ho
29°17'57.86"N
112°56'13.82"E
Trường Sa
28°13'40.01"N
112°56'19.89"E
http://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng_Sa%2C_H%E1%BB%93_Nam
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%B4ng_T%C6%B0%C6%A1ng
Trường Sa
có 6 quận, 2 huyện, 1 thành phố cấp huyện
Quận: Phù
Dung, Thiên Tâm, Nhạc Lộc, Khai Phúc, Vũ Hoa, Vọng Thành
Huyện: Trường
Sa, Ninh Hương,
Thành phố cấp
huyện: Lưu Dương
Kinh Châu
30°20'5.24"N
112°14'26.49"E
Sa Thị •
Kinh Châu • Hồng Hồ • Thạch Thủ • Tùng Tư • Giam Lợi • Công An • Giang Lăng
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh_Ch%C3%A2u_(qu%E1%BA%ADn)
Lại Thế-Cường
chỉ huy đạo Nhật-nam đóng với quân Kinh-châu, đạo Kinh-châu mới có Trần Năng, Hồ
Đề và sư bá Lại Thế-Cường Phương-Dung với Vương Nguyên thay thế. Trưng Nhị, Phật-Nguyệt.
Xuyên Khẩu
31°20'46.09"N
111°30'57.76"E
Bạch Đế
31°
3'31.60"N 109°35'18.40"E
Quân Sơn
29°27'45.21"N
113° 0'47.05"E
Nhạc Dương:
Nhạc Dương Lâu • Quân Sơn • Vân Khê
• Mịch La • Lâm Tương • Nhạc Dương
• Hoa Dung • Tương Âm • Bình Giang
Đạo quân Nhật-nam
của sư bá Lại Thế-Cường đóng ở núi Quân-sơn, phụ trấn có Tây-vu Tam hổ tướng.
http://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%C3%A2n_S%C6%A1n
Trường-an
34°
9'27.90"N 108°54'24.77"E
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C6%B0%E1%BB%9Dng_An
http://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0_H%C3%A1n
Thăng Long, Long Biên Thành Cổ
21°
2'3.77"N 105°50'24.41"E
https://upload.wikimedia.org/wikipedia/vi/4/44/Thanh_Thang_Long_thoi_Le.JPG
Thành cổ
Luy Lâu
21° 2'22.35"N 106° 2'24.33"E
01
Trích đoạn:
Hai hôm sau hoàng-đế cùng quần
thần nghị sự. Chỉ các tướng cấp sư trở lên mới được dự. Bọn Cu Bò tuy ít tuổi,
song chúng lĩnh ấn đại tướng quân, tước phong hầu. Cũng được tham dự.
Công-chúa Bát-Nàn Vũ Trinh-Thục
trình bày tin tức:
– Về mặt trận Thục, Công-tôn Tư
đầu hàng Hán. Quang-Vũ truyền Ngô Hán đem quân đi sau yểm trợ cho Tư. Để Tư dẫn
bản bộ quân mã cùng đám Lê Đạo-Sinh đánh với Vương Nguyên. Vương Nguyên ít
quân, phải lui về cố thủ ở Hán-nguyên. Dân chúng Thục một phần theo Hán, phần còn lại một nửa theo
Công-tôn Thi, một nửa theo Vương Nguyên. Hiện Vương Nguyên vẫn cố thủ mười quận phía Nam Ích-châu. Vương Nguyên được đạo binh Tượng-quận của Đào Hiển-Hiệu trợ
giúp. Ngô Hán, Công-tôn Thi không sao đánh được. Song nam Ích-châu, dân chúng
nghèo khó, Vương Nguyên chỉ có thể cố thủ trong vòng một năm nữa là cùng.
Tể-tướng Phương-Dung hỏi Phùng Vĩnh-Hoa:
– Sư tỷ vốn có thâm tình với
Thục. Em vẫn lo cho sư-bá Vương Nguyên. Vậy sư-tỷ đừng quản ngại, hãy đi Tượng-quận, vào Ích-châu giúp
sư-bá Vương Nguyên với sư đệ Hiển-Hiệu.
Trưng hoàng-đế hỏi Đào Kỳ:
– Sư đệ Đào Quí-Minh bị
Liêu-đông tứ ma bắt đến hồ Động-đình, được Xích Hầu, Cu Bò cứu thoát, do vậy
được dự trận đánh lớn. Ta cho rằng đó là trời định. Vậy nên cử người khác làm
phó tướng cho Đào Hiển-Hiệu.
Đại tư mã, Bắc-bình vương Đào
Kỳ nói:
– Nếu hoàng thượng thuận cho
sư-tỷ Vĩnh-Hoa trợ chiến đất Thục, thì không cần để Hiển-Hiệu ở đó nữa. Thần
xin đề cử Đào Chiêu-Hiển thống lĩnh đạo Tượng-quận, Đào Đô-Thống làm phó tướng. Đào Tam-Lang trấn
thủ Độ-khẩu. Sư đệ Quách Lãng tuẫn quốc, thần xin để Hiển-Hiệu thế Quách Lãng thống lĩnh đạo Hán-trung. Đạo Hán-trung tổn thất mất một phần ba quân số trong trận vừa qua,
xin cho rút về Linh-lăng làm trừ bị, để bổ xung, huấn luyện lại. Đạo Giao-chỉ của Đào Phương-Dung tinh lực hùng mạnh, đưa lên trấn thủ hồ Động-đình thay thế đạo Hán-trung.
Công-chúa Bát-Nàn Vũ Trinh-Thục
lại tường trình về khu Nam-hải:
– Đối diện với Nam-hải có hai đạo quân. Đạo Hạ-khẩu của Phù-Lạc hầu Lưu Long. Đạo Thượng-ngô của Lâu-thuyền tướng quân Đoàn Chí. Đạo Lưu Long thống lĩnh binh
mã vùng Hạ-khẩu, uy hiếp Kinh-châu, Nam-hải, Quế-lâm. Giáp sĩ trên dưới ba mươi
vạn. Vừa rồi y đem quân vào hồ Động-đình. Bị Phật-Nguyệt đánh tan rã hoàn toàn
lực lượng Thủy quân. Tuy vậy y cũng còn trên mười lăm vạn binh. Đoàn Chí thống lĩnh binh mã Thượng-ngô, Uất-lâm. Mấy năm nay ra sức đóng chiến
thuyền, tập luyện thủy quân. Mục đích đánh xuống Nam-hải. Binh lực của y trên
hai mươi vạn giáp sĩ. Tuy vậy mặt Nam-hải chúng ta không lo sợ. Vì tài dùng
binh cả Lưu Long, Đoàn Chí không phải là đối thủ của Vương Phúc, Thánh-Thiên.
Về võ công, chúng càng không phải đối thủ của Khúc-Giang ngũ hùng. Về thủy
chiến, chúng chưa đáng bậc đệ tử của Trần Quốc. Nếu chúng đánh xuống, không
khác gì tự tử.
Trưng-đế hỏi Trưng vương:
– Em nghĩ sao?
Trưng vương đáp:
– Em nghĩ nên chọc cho
Đoàn Chí đánh xuống Nam-hải, để Thánh-Thiên, Vương Phúc, Trần Quốc tiêu diệt
khả năng thủy quân của chúng. Vừa rồi chúng bị trận hồ Động-đình, Trung-nguyên
rung động. Nếu xảy ra trận Nam-hải nữa thì Thủy quân chúng mất hết tiềm lực. Ít
ra phải ba năm mới phục hồi. Bấy giờ, chúng ta không còn sợ Hán nữa.
Trưng hoàng-đế hỏi Phương-Dung:
– Sư muội biết nhiều về triều
Hán, có thể nào, chúng ta chọc cho Đoàn Chí đánh xuống Nam-hải không?
Phương-Dung ngẫm nghĩ một lúc
rồi tâu:
– Em nghĩ: Quang-Vũ có tài đế
vương. Y biết nhận xét thời cuộc không thua gì Thái thượng hoàng Trần Tự-Sơn.
Chắc chắn sau trận hồ Động-đình y sẽ ra lệnh chiếm nốt các quận Kinh-châu, Ích-châu. Y không dại gì chọc tay vào
tổ ong bầu Nam-hải. Tuy vậy, Mã thái-hậu có thể dùng áp lực, bắt quần thần tâu
với Quang-Vũ cho Đoàn Chí đánh xuống Nam-hải.
Bà ngưng lại một lúc, tiếp:
– Muốn cho Mã thái-hậu làm như
vậy cũng dễ thôi. Mụ đang cần nhiều vàng bạc châu báu, mua chuộc quần thần. Bởi
vậy mụ mới sai vợ chồng Nghi-Gia cầm đầu một đội Thị vệ xuống hồ Động-đình tìm
kho tàng. Trong khi đó bản đồ kho tàng nằm trong tay chúng ta.
Phùng Vĩnh-Hoa, nổi tiếng nhiều
mưu lắm mẹo. Bà góp ý:
– Vậy thì thế này. Chúng ta đem
Ngọc-tỷ truyền quốc của Trung-nguyên, cùng bản đồ kho tàng giao cho Công-chúa
Vĩnh-Hòa. Công-chúa thượng biểu về triều trước rồi sau đó mang Ngọc-tỷ dâng cho
Quang-Vũ. Được Ngọc-tỷ nhất định Quang-Vũ sẽ hài lòng. Trong khi đó, chúng ta
phao ngôn khắp triều Hán rằng bí mật bản đồ kho tàng để ở đáy hộp Ngọc-tỷ. Mã
thái-hậu nghe vậy, ắt cạy đáy hộp ra lấy bản đồ. Chúng ta phải làm một bản đồ
giả, đặt trong đáy hộp Ngọc-tỷ sẵn. Mã thái-hậu được bản đồ đó, tất ép quần
thần tâu Quang-Vũ đánh Nam-hải, để mụ cho người theo quân đào kho tàng.
Phương-Dung đồng ý:
– Chúng ta chế tạo bản đồ cũng
phải bịa ra bài thơ, bài quyết bí mật. Để bọn Mã thái-hậu khó nhọc mới đoán ra.
Mặt khác, bản đồ chỉ chỗ dấu kho tàng, phải thuận tiện cho chúng ta dùng binh.
Nơi đó, làm mồ chôn quân Hán.
Trưng hoàng-đế giao việc này
cho Trưng Nhị, Vĩnh-Hoa, Phương-Dung nghiên cứu làm với nhau.
Vũ Trinh-Thục trình bày tiếp:
– Tại Kinh-châu, trong khi Mã
Viện đánh xuống Nam. Thì mặt Ích-châu, Công-tôn Thi đánh ra, mặt trước
Phong-châu song quái đánh lại. Công-tôn Thiệu, Vũ Chu binh cô, thế cùng, bị
đánh bại. Hai người bị bắt cầm tù. Kinh-châu thất thủ hoàn toàn.
Sún Hô tức Đào Ngũ-Gia nước mắt
đầm đìa. Chàng đến trước Trưng-đế phủ phục xuống khóc:
– Thần cả gan, dám xin
Hoàng-thượng ban cho một đặc ân.
Trưng-đế phất tay một cái, kình
lực nhu hòa đỡ chàng dậy. Ngài phán:
– Hiền đệ với ta tuy nghĩa vua
tôi. Song tình khác chi ruột thịt. Hiền đệ có mối thương tâm gì, cứ nói ra. Ta
sẵn sàng giúp hiền đệ.
Đào Ngũ-Gia tâu:
– Trước đây Tây-vu thiên ưng
lục tướng đánh nhau với Trường-sa vương Công-tôn Thiệu, rồi kết huynh đệ, thề
rằng có phúc cùng hưởng. Có họa cùng chịu. Từ sau vụ đó, đưa đến Thục, Việt hòa
hợp. Nay… Sún Cao tuẫn quốc. Ngũ Sún mỗi người trọng nhậm một nơi. Tiểu đệ trấn
thủ ngay cạnh Kinh-châu, đã qua sông giúp Công-tôn Thiệu đại ca tái chiếm ba
thành. Không ngờ quân ít, thế cô, đại ca bị giặc bắt. Lòng tiểu đệ đau như dao
cắt. Tiểu đệ dám cả gan xin Hoàng-thượng cho phép tiểu đệ vượt sông, đột nhập
nhà tù cứu Công-tôn đại ca.
Trưng-đế gật đầu:
– Đào Ngũ-Gia nghĩa khí thực
đáng khen. Song cần phải nghiên cứu kỹ. Lỡ ra hỏng việc, cứu người không được,
mà mình mất mạng vô ích.
Trưng hoàng-đế đưa mắt nhìn Đào
Kỳ hỏi ý kiến. Đào Kỳ lắc đầu:
– Sau khi Công-tôn Thiệu, Vũ
Chu bị bắt. Chúng đã giải cả gia quyến hai người về Lạc-dương. Đợi bắt được Vương Nguyên rồi
mới giết một thể. Việc đem người đến Lạc-dương cứu Công-tôn Thiệu, e rất khó.
Cu Bò dơ tay xin nói. Hoàng-đế
hỏi:
– Em có ý kiến gì muốn phát
biểu?
Cu Bò cười:
– Muốn cứu Công-tôn Thiệu, Vũ
Chu cùng các tướng Thục bị bắt, cũng dễ thôi. Nếu “chị” Hoàng-đế
giao cho em. Cam đoan em cứu được hết. Cứu rất dễ dàng. Em hứa đem họ về đây
không bị mất một sợi tóc.
Trưng-đế biết đệ tử Tây-vu có
nhiều sáng kiến. Ý nghĩ của họ không biết đâu mà lường. Bà hỏi:
– Em thử nói cho chị nghe xem
có hợp lý không?
Cu Bò cười:
– Các chị bàn giao Ngọc-tỷ cho
Quang-Vũ. Y vốn ích kỷ. Tự nhiên được Ngọc-tỷ, chắc chắn y sẽ nghi ngờ. Vậy
trước hết, có Công-chúa Vĩnh-Hòa của triều Hán đây. Để Công-chúa thượng biểu về
triều rằng Ngọc-tỷ hiện ở Lĩnh-Nam. Nếu Quang-Vũ thuận, Công-chúa đứng trung
gian, thuyết phục Lĩnh-Nam trả Ngọc-tỷ cho Quang-Vũ. Ngược lại Quang-Vũ phải
trao hết những tù binh của Thục. Tên tuổi do Lĩnh-Nam đưa ra.
Trưng hoàng-đế cùng quần thần
kinh ngạc không ít về đề nghị của Cu Bò.
Phùng Vĩnh-Hoa ngẫm nghĩ một
lúc rồi nói:
– Trước kia Ngô Hán phục kích
bắt được Quí-Minh với Công-chúa Vĩnh-Hòa. Chắc chắn y đã thượng biểu về triều
nói xấu Công-chúa. Vậy trước khi Công-chúa thượng biểu cho Quang-Vũ. Chúng ta
phải tạo cho Công-chúa nhiều uy tín đã. Hiện chúng ta bắt được gần mười vạn tù
binh Hán. Trong đó có ba vạn thương binh. Chúng ta phải nuôi thương binh tốn
lương, tốn thuốc. Chi bằng để Công-chúa vào nhà tù thăm họ. Người hứa xin ân xá
cho họ về quê. Tất họ hoan hô. Người bảo họ muốn viết thư về cho gia đình thì
viết. Thư đó, chúng ta phái người đưa cho Binh-bộ thượng-thư. Bộ binh chắc sẽ
mở ra đọc, trước khi chuyển về gia đình. Binh-bộ đương nhiên có sớ tâu trình
lên Quang-Vũ về việc làm của Công-chúa. Tự nhiên những lời tâu của Mã Viện
không còn hiệu lực nữa.
Trưng hoàng-đế hỏi:
– Ai có ý kiến gì khác không?
Bắc-bình vương Đào Kỳ tâu:
– Trước đây Đô-đốc Thủy quân hồ Động-đình là Đinh Bạch-Nương, Đinh Tĩnh-Nương. Nay hai sư muội đều tuẫn quốc cả rồi. Vậy xin cho Khâu-Ni Công-chúa Quách A thay thế.
Trưng-đế thuận, ngài phán:
– Vậy ngay hôm nay, sư muội Vĩnh-Hòa lên đường đi Ích-châu. Phương-Dung ở lại Phiên-ngung
cùng Bắc-bình vương điều khiển chiến trường. Trưng Nhị trở về Lĩnh-Nam, trấn
thủ Giao-chỉ. Tây-vu tiên tử ở lại thay thế Cu Bò. Để Cu Bò theo Đào vương-phi với
Hoàng thái-hậu Tái-Kênh đi Lạc-dương….
Đào vương-phi, Chu Tái-Kênh, Cu
Bò cùng lấy ngựa, vượt Trường-giang đi Lạc-dương. Ba người phải tránh né, để không bị quân Mã Viện nhận diện được.
Dọc đường qua Kinh-châu, họ bị kiểm soát gắt gao. Nhưng nhờ có binh phù của Mã
Vũ, tướng sĩ không dám kiểm soát. Vì bây giờ Đặng Vũ làm Đại tư mã, Mã Vũ đang
lĩnh Binh-bộ thượng-thư.
Ba người tới Lạc-dương. Chu
Tái-Kênh đã từng đến Lạc-dương tìm Khất đại phu để trả thù. Bà thông
thuộc đường lối. Bà dẫn ba người lên một tửu lầu thực lớn. Tửu bảo thấy ba
người trang phục sang trọng, nhan sắc diễm lệ, cho rằng đó là những mệnh phụ
phu nhân, từ xa về kinh triều kiến Thái-hậu, Hoàng-hậu.
Chợt Cu Bò lấy bàn tay khều Đào
vương-phi:
– Sư bá dừng quay lại. Phía sau
có người theo dõi mình. Dường như họ hiểu được tiếng Việt. Phải cẩn thận.
Đào vương-phi nói nhỏ:
– Những người hiểu được tiếng
Việt ở Lạc-dương có ba loại. Loại Tế tác của Bát-Nạn Công-chúa Vũ Trinh-Thục.
Loại này thường đeo khăn trắng trên cổ. Loại thứ nhì của Đào Kỳ, Phương-Dung
liên lạc với Hàn thái-hậu, Chu Tường-Qui, chân bao giờ cũng đi giày vải xanh.
Còn lại thuộc Tế tác của Hán hoặc của đám Lê Đạo-Sinh. Con giả vờ đứng dậy,
nhìn xem có thấy dấu hiệu gì khác không?
Cu Bò liếc mắt nhìn qua, rồi
khẽ lắc đầu. Đào vương-phi nói;
– Như vậy y không phải người
của Tế tác Hán, cũng là người của Lê Đạo-Sinh. Phải cẩn thận một chút.
Chu Tái-Kênh nói nhỏ:
– Chúng ta ăn xong, rồi xuống
lầu. Vờ như không biết. Nếu y theo chúng ta. Bấy giờ mình sẽ có cách.
Bà kêu tửu bảo, trả tiền, rồi
cả bốn người cùng xuống lầu. Quả nhiên bọn người vừa lên ngựa đi, đã thấy tên
đó xuống lầu, ẩn phía sau một hàng rong, nhìn theo. Cu Bò bàn:
– Bây giờ chúng ta kiếm chỗ
đồng quang đãng mà đi. Hễ y theo dõi. Cháu cho Thần-ưng nhận mặt. Đêm nay
Thần-ưng sẽ dẫn chúng ta đến chỗ ở của hắn.
Ba người đi về hướng cửa Đông
thành, qua một cánh đồng. Quả nhiên xa xa thấy ngựa của tên đó đang đi theo. Y
đã thay quần áo màu khác, lại dán lên bộ râu, nhưng Cu Bò vẫn nhận được mặt y.
Nó gọi Thần-ưng từ trên trời đáp xuống, huýt sáo ra lệnh. Thần-ưng hướng tên Tế
tác bay tới. Nó lượn trên đầu y. Y vẫn không biết gì. Đi vòng vo một lúc, ba
người tìm cách lẫn vào chỗ đông, băng qua chợ, ra roi cho ngựa chạy sang cửa
Nam. Tên Tế tác đã mất tăm.
Như đã ước hẹn. Đào vương-phi
viết một bức thư, sai Thần-ưng mang vào thành cho Chu Tường-Qui. Chỉ lát sau,
Thần-ưng đem thư ra. Chu Tường-Qui cho người ra cửa Nam đón. Ba người tới cửa
Nam, gặp một Thái-giám trẻ tuổi chào hỏi. Viên Thái-giám trao cho Cu Bò bộ quần
áo Thái-giám, và trao cho Đào vương-phi hai bộ quần áo cung nga. Ba người thay
quần áo, rồi ngang nhiên nhập Hoàng-thành. Qua cửa Thanh-tỏa, đến điện Gia-đức,
rồi tới Tây-cung. Tây-cung lớn không kém gì điện Gia-đức.
Nguyên từ khi Chu Tường-Qui
xuất lực dẹp tan cuộc phản loạn của đám ngoại thích họ Mã. Quang-Vũ rất sủng ái
nàng, truyền xây một ngôi lầu năm tầng lớn, đẹp không thua gì lầu Thúy-Hoa… để
tạ ơn về cuộc cứu giá.
Thái-giám ra hiệu cho ba người
ngừng lại, đến trước cửa nói vọng vào:
– Tâu Quí-phi, có cung nữ,
Thái-giám tân tuyển ở Lĩnh-Nam xin cầu kiến.
Tiếng Chu Tường-Qui đáp:
– Đỗ Lý đấy phải không? Ngươi
hãy về nghỉ. Còn tân cung nga với Thái-giám cho vào.
Trước mặt Cu Bò, thì Trưng
hoàng-đế lớn nhất thiên hạ, đẹp nhất thiên hạ, đạo đức, hiền hậu nhất thiên hạ.
Nó còn dám gọi chị Hoàng-đế. Vì vậy nó không coi Tây-cung
quí-phi triều Hán ra gì. Nó đẩy cửa bước vào. Chu Tái-Kênh vẫy Đào vương-phi,
vào theo.
Chu Tường-Qui vội đóng cửa.
Nàng trông thấy Đào vương-phi, lại nhớ ngày nào ra đảo, đã gặp bà. Cử chỉ từ ái
của bà làm nàng nhớ mãi. Tự nhiên nàng bật lên tiếng khóc.
Chu Tái-Kênh hỏi:
– Tên Thái-giám vừa qua có tin
được không?
Chu Tường-Qui gật đầu:
– Y là sư đệ của cháu. Hồi
trước thân mẫu cháu sang Lạc-dương có mang theo hai đệ tử nhỏ tuổi. Một tên Đỗ
Lý, một tên Chiêu Trung. Cả hai đều họ Chu. Cháu cho hai người giả làm
Thái-giám. Bây giờ chúng đã lớn. Cháu cho cải sang làm Thị vệ. Võ công hai sư
đệ cũng vào loại khá. Sáng nay Chiêu Trung theo dõi các vị ngoài phố. Sau bị
các vị đánh lạc mất.
Đào vương-phi giới thiệu Cu Bò
với Chu Tường-Qui. Sau đó bà chỉ Chu Tái-Kênh nói:
– Người này đối với cháu có
nhiều liên hệ. Thứ nhất người là phu nhân của Thái sư phụ Khất đại phu. Thứ
nhì, người là bà cô của cháu.
Đào vương-phi kể sơ lược truyện
Chu Tái-Kênh cho Chu Tường-Qui nghe. Cuối cùng bà tường thuật tỷ mỉ mọi biến
cố, kế hoạch Trưng hoàng-đế quyết định tại hồ Động-đình.
Chu Tường-Qui nghe xong, kính
cẩn nói:
– Thưa sư-bá, hiện Hoàng-thượng
vẫn sủng ái cháu hơn tất cả các phi tần khác. Trước, mẹ cháu qua đời. Kế tiếp
Tần vương, Hoài-nam vương bị hại. Hoàng tộc bị ngoại thích kiềm chế.
Hoàng-thượng cũng đang lo lắng. Hiện chỉ có ba người dám chống lại Mã thái-hậu
là Mã Vũ, Phùng Tuấn với Chu Hựu. Ba người này cùng liên kết với cháu. Nếu
chúng ta tìm cách tỉa vây cánh ngoại thích, ắt Hoàng-thượng còn vui lòng hơn
nữa. Còn Hàn thái-hậu, thì người ôn nhu văn nhã, không lý đến việc triều chính.
Hôm trước Hoàng sư-tỷ với Nghiêm đại-ca có ghé Lạc-dương vấn an người, rồi đi
ngao du sơn thủy. Không rõ hiện giờ ở đâu. Bây giờ cháu được Trưng sư-tỷ cử
Tổ-cô và sư-bá, thêm Cu Bò đến giúp cháu. Cháu dễ xoay sở hơn.
Ngưng một lúc nàng tiếp:
– Cháu sẽ nói với mọi người
rằng sư-bá là nhũ mẫu cháu hồi xưa. Bây giờ cháu mời sang báo hiếu, sớm hôm gần
nhau. Còn Tổ-cô, cháu vẫn nói thực. Cháu mời người sang dậy võ công cho cháu.
Cu Bò, mới mười lăm tuổi. Cháu bảo nó là Thái-giám tân tuyển. Hiện Hoàng-thượng
bí mật đi Kinh-châu xem xét tình hình. Có lẽ hơn tháng mới về.
Đinh Xuân-Hoa hỏi:
– Giữa Hàn thái-hậu với Mã
thái-hậu có đụng chạm nhau không?
Chu Tường-Qui đáp ngay:
– Hàn thái-hậu vốn tính ôn nhu.
Người không lý gì đến truyện triều chính, truyện ở trong cung. Một tháng hai
lần người tới cung Huệ-đức thăm Mã thái-hậu, ở lại ăn một bữa cơm với nhau. Mã
thái-hậu cũng biết điều lắm. Sau mỗi lần Hàn thái-hậu viếng thăm. Mụ lại tới
cung Tuyên-từ thăm Hàn thái-hậu. Còn hai Thái hậu đối với cháu thực trái ngược.
Chu Tái-Kênh cười khúc khích:
– Dĩ nhiên! Hàn thái-hậu vì cảm
tình với Lĩnh-Nam, với Trần Tự-Sơn, người thương cháu hơn con đẻ. Lại nữa cháu
có công cứu giá hồi bọn ngoại thích và Mao Đông-Các làm phản. Ngược lại, Mã
thái-hậu thù ghét cháu. Song mụ vẫn ớn cháu có phải thế không?
Chu Tường-Qui gật đầu:
– Tuy Hoài-nam vương, Tần vương
với mẹ cháu qua đời, mà Mã thái-hậu vẫn tưởng trong Tây-cung có nhiều cao thủ
lắm. Mụ sợ cháu quá sợ cọp. Tuy vậy một tháng hai lần, cháu vẫn tới cung
Huệ-đức chầu mụ. Mỗi dịp như vậy, mụ chiều đãi cháu lắm. Cháu càng tỏ ra mình
là gái Việt. Cháu thân vào điều khiển ngự trù, nấu các món ăn Lĩnh-Nam cho mụ
ăn. Mụ thích lắm. Tuy vậy bề trong mụ vẫn ngầm lo hại cháu.
– Nghĩa là???
– Mụ kết đảng với Quách
hoàng-hậu. Phe đảng Quách-hậu khá hơn. Ý mụ định cho cháu với Quách-hậu tranh
dành. Mụ đứng giữa hưởng lợi. Còn Quách-hậu, hồi xưa bị cháu ra oai một
lần, mụ mất vía. Sau này chính mụ được chứng kiến cháu đánh bại Trần Nghi-Gia.
Cho nên mụ chưa dám ra mặt. Vả lại Hoàng-thượng sủng ái cháu. Mụ cũng ngại.
Cu Bò xen vào:
– Phe đảng của Quách-hậu có lớn
lắm không? Nếu nhỏ thì thôi. Còn lớn, sẵn có hai vị tiền bối với em ở đây.
Chúng ta trừ phắt mụ đi cho rồi.
Chu Tường-Qui lắc đầu:
– Khổ lắm em ơi! Phe đảng mụ
không tầm thường đâu. Nguyên nàng tên là Quách Thanh-Thông, người đất
Chân-định. Niên hiệu Cảnh-Thủy thứ nhì (24 sau Tây lịch). Hoàng-thượng
cầm quân đánh Vương Mãng thu nạp thị. Niên hiệu Kiến-Vũ nguyên niên (25
sau Tây lịch) thị sinh Hoàng-tử Cương. Anh của mụ tên Quách Hương, có
văn tài, võ công cao, giỏi dụng binh. Tính tình của y cẩn trọng, khiêm cung.
Hoàng-thượng tin dùng, phong làm Hoàng môn thị lang. Niên hiệu Kiến-Vũ thứ nhì,
Quách-thị được phong làm Hoàng-hậu. Hoàng-tử Cương được phong Thái-tử. Quách
Hương được phong hầu. Hương khéo chiêu hiền nạp sĩ. Trong nhà có nhiều tân
khách giỏi, y tiến cử lên Hoàng-thượng. Vì vậy tại triều vây cánh y rất nhiều.
Sau khi xảy ra vụ đụng độ giữa cháu với Quách-hậu. Y tuyển mộ nhiều cao thủ.
Song cháu không rõ trong đám Thị vệ Hoàng-hậu có bao nhiêu người?
Chu Tường-Qui thở dài;
– Gần đây Mã thái-hậu thường triệu
Quách Hương vào triều kiến. Hai bên kết hợp với nhau. Mã hậu mưu đồ gì cháu
không rõ. Còn Quách Hương chỉ muốn giữ ngôi Hoàng-hậu của em. Cả hai phe đều
muốn tiêu diệt Lĩnh-Nam. Dường như Quách Hương mới chiêu mộ được sư thúc của
Sầm Bành, Phùng Dị, võ công cao không biết đâu mà kể được. Chúng định xuống
Lĩnh-Nam giết Đào tam ca phục thù.
Nàng ngưng lại, mỉm cười tiếp:
– Tuy cháu đã làm cho Mã
thái-hậu, Quách hoàng-hậu một phen nghiêng ngửa, mà họ không coi cháu là cái
đinh. Họ cho rằng cháu chỉ được Hoàng-thượng sủng ái. Họ đợi một mai nhan sắc
cháu tàn phai, sẽ tìm mỹ nhân khác đưa vào, cháu mất sủng ái ngay. Trước đây
giữa Hoàng-hậu với các phi tần tranh đấu quyết liệt vì muốn chiếm được lòng
quân vương. Bây giờ, họ đều lớn tuổi rồi. Cuộc tranh đấu xoay sang vấn đề khác.
Cu Bò ngạc nhiên:
– Còn vấn đề gì nữa?
Chu Tường-Qui mỉm cười:
– Vấn đề các bà tranh dành là
mong đưa con mình vào địa vị Thái-tử, để sau này Hoàng-thượng băng hà, con các
bà trở thành Thiên-tử. Cháu xuất thân từ Lĩnh-Nam, cha là ngươì Phản
Hán phục Việt không thuộc giòng dõi trung lương. Cho đến bây giờ cũng
chưa có con. Cháu lại có chồng trước khi vào cung. Bằng ấy vấn đề, khiến các bà
không muốn động chạm tới cháu. Vì cháu không phải đối thủ của các bà. Chính Hàn
thái-hậu, Hoàng-thượng đều nói: Giữa Hoàng-hậu, phi tần, người nào cũng
có ý tranh dành hết. Chỉ một mình Tây-cung là không. Tây-cung dù làm gì chăng
nữa, cũng chỉ để bảo vệ triều Hán.
Chu Tái-Kênh gật đầu:
– Ta nghe Công-chúa Bát-Nạn Vũ
Trinh-Thục nói: Hiện giữa Quách-hậu với Nam cung quí-phi Âm Lệ-Hoa tranh đấu
quyết liệt. Âm Lệ-Hoa xinh đẹp, nhu mì hơn. Mụ lại có đến ba con trai, một con
gái. Con trai mụ rất thông minh, mẫn tiệp. Mụ định lật Quách-hậu. Khi Quách-hậu
bị lật, tất Thái-tử Cương cũng mất vị. Quách-hậu bị lật, mụ sẽ được lên làm
Hoàng-hậu. Con mụ đương nhiên thành Thái-tử. Không biết mụ đối với Lĩnh-Nam như
thế nào?
Chu Tường-Qui đáp:
– Âm thị với cháu rất thân. Hồi
Hoàng-thượng đánh Tân-dã gặp Âm thị. Cảnh-Thủy nguyên niên (23 sau Tây
lịch), Hoàng-thượng nạp làm Quí-phi, bấy giờ Âm-thị đã 19 tuổi. Vì anh
em đều thuộc đại công thần, tính tình bà nhu thuận, nên triều thần rất nể. Năm
Kiến-Vũ nguyên niên (25 sau Tây lịch) sinh Hoàng-tử Trang.
Hoàng-tử Trang với Thái-tử Cương cùng tuổi. Cương sinh tháng hai lớn hơn Trang
chín tháng. Năm sau bà sinh công chúa Đoan-Nhu. Từ hôm xảy ra cuộc đụng độ giữa
Quách-hậu với cháu, Âm Quí-phi kết thân với cháu. Bà gửi Hoàng-tử Trang với
Công-chúa Đoan-Nhu nhờ cháu dạy võ công. Trên luật lệ, chúng coi cháu như mẹ.
Trên tình nghĩa chúng là đệ tử của cháu.
Đinh Xuân-Hoa cười:
– Giữa hai đứa trẻ con Âm thị
với cháu có tình sư mẫu, đệ tử. Chắc ý cháu cũng muốn giúp đệ tử mình tranh
đoạt ngôi Thái-tử.
Chu Tái-Kênh quyết định:
– Gặp dịp thuận tiện, chúng ta
giúp Âm thị. Nếu Âm thị được làm Hoàng-hậu, Thái-tử Trang trở thành Hoàng-đế,
sau này có lợi cho Lĩnh-Nam. Song phải thực khéo léo, tránh biến đám bà con nhà
Quách-hậu thành kẻ thù. Chúng ta phải tìm một mưu kế gì tuyệt hảo, hại
Quách-hậu, cho mụ mất ngôi Hoàng-hậu, chứ đừng làm mụ chết.
Cu Bò xen vào:
– A, cháu hiểu rồi! Ý bà muốn
rằng: Mình hại Quách-hậu mất ngôi Hoàng-hậu, là làm giảm vây cánh Mã thái-hậu.
Còn không làm Quách-hậu chết, cần Quách-hậu cho Âm Quí-phi có kẻ thù. Nếu
Quách-hậu chết, Âm Quí-phi sẽ quay ra đối phó với Chu sư-tỷ. Ngược lại
Quách-hậu còn sống, chỉ mất ngôi Hoàng-hậu, Âm Quí-phi lúc nào cũng phải lụy
Chu sư-tỷ, hầu có vây cánh.
Đinh Xuân-Hoa nhìn Cu Bò mỉm
cười, vì với tuổi của nó, đã kiến giải sự việc minh mẫn như vậy, thực hiếm có.
Tường-Qui gọi một cung nga thân
tín đến, truyền hướng dẫn hai bà Chu, Đinh với Cu Bò lễ nghĩa triều Hán.
Tính Cu Bò cũng như các đệ tử
Tây-vu khác, hiếu động, chạy nhảy suốt ngày. Bây giờ bị bó cẳng trong cung cấm,
nó khổ sở vô cùng. Chỉ một điều duy nhất, khiến nó bằng lòng, là tha hồ ăn
uống. Trong Tây-cung, có hẳn một đám ngự trù, biết nấu nướng đủ mọi thức ngon
vật lạ trong thiên hạ. Nó được Tường-Qui cưng chiều, muốn ăn cứ vào bếp lục,
không úy kỵ gì hết. Khi mặt trời lặn, thì Đào vương-phi luyện võ cho nó. Chu
Tái-Kênh luyện võ cho Tường-Qui, Chiêu Trung, Đỗ Lý.
Năm trước, khi rời Lạc-dương,
Sún Rỗ để lại cho Chu Tường-Qui một cặp Thần-ưng. Bây giờ Cu Bò mang theo hai
cặp nữa. Thành ra Tây-cung có tới ba cặp. Hàng ngày Đào vương-phi thu nhặt tin
tức, sai Cu Bò nhờ Thần-ưng mang thẳng về hồ Động-đình. Tại đây Tây-vu tiên tử
trình Phật-Nguyệt đọc qua, rồi dùng Thần-ưng chuyển từ hồ Động-đình về
Phiên-ngung. Tại Phiên-ngung Đào Kỳ đọc, xong nhờ Sún Lé, sai Thần-ưng chuyển
về Giao-chỉ hầu Vũ Trinh-Thục khai thác.
Một hôm Thái-giám tâu với Chu
Tường-Qui biết Quang-Vũ đi Kinh-châu đã về tới Lạc-dương. Quang-Vũ báo cho nàng
biết trước, đêm nay y sẽ tới ngự ở Tây-cung. Chu Tường-Qui truyền ngự trù chuẩn
bị yến tiệc. Gọi nhạc công, cung nữ sẵn sàng tấu nhạc.
Trời chập choạng tối, Quang-Vũ
đến Tây-cung. Chu Tường-Qui xuống lầu rước y lên. Sau khi tung hô vạn tuế. Nàng
hỏi:
– Hoàng-thượng vi hành
Kinh-châu, không biết tình hình ra sao?
Quang-Vũ lắc đầu:
– Trước đây trẫm rút Đặng Vũ
về, sai Mã Viện trấn thủ Nam-dương. Ý trẫm muốn mượn tay Thục, Lĩnh-Nam trừ bớt vây cánh họ Mã.
Không ngờ trời chiều chúng. Thục xảy ra biến cố. Ông ngoại khanh giúp Công-tôn
Thi giết Công-tôn Thuật, phá nát giang sơn Thục. Mã Viện nhân đó chiếm được
Kinh-châu. Y thừa thắng cùng Lưu Long đánh Lĩnh-Nam. Không ngờ bị Phật-Nguyệt
đánh một trận, tổn thất trên ba mươi vạn nhân mã. Trẫm vi hành qua Kinh-châu,
Mã Viện tâu rằng Công-chúa Vĩnh-Hòa phản trẫm, lấy chồng phản tặc Đào Quí-Minh.
Song y không có chứng cớ.
Quang-Vũ bật cười:
– Giữa lúc đó trẫm nhận được
biểu của Binh-bộ thượng-thư Mã Vũ tâu rằng hiện có khoảng ba vạn binh sĩ Hán bị
thương. Lĩnh-Nam định đem giết hết. Công-chúa Vĩnh-Hòa lợi dụng quen thân với
Lĩnh-Nam. Nàng vào nhà tù thăm thương binh. Thương binh viết thư, nhờ nàng gửi
về báo cho gia đình biết rằng họ còn sống. Nàng thuyết phục Trưng Trắc tha cho
ba vạn tù nhân. Trẫm được tin mừng quá. Sai sứ, cùng chiến thuyền đón về.
Công-chúa Vĩnh-Hòa nhân đó, xin yết kiến trẫm, báo cho trẫm biết một tin mừng.
Chu Tường-Qui đã biết tin mừng
đó liên quan tới Ngọc-tỷ. Nàng vờ không biết, nói thêm ít lời có lợi cho
Công-chúa Vĩnh-Hòa:
– Muôn đời, người ta ở đâu cũng
nghĩ đến huyết tộc. Mã thái-hậu chỉ biết Mã Viện. Còn Công-chúa Vĩnh-Hòa chỉ
biết có Bệ hạ, chỉ biết có triều Hán. Dù Công-chúa lấy chồng Lĩnh-Nam đi chăng
nữa, mà chỉ nói một lời, cứu hơn ba vạn người Hán. Đủ tỏ nàng nhất tâm, nhất dạ
với xã tắc. Hèn chi Mã Viện không ghét nàng.
Tiếng Chu Tường-Qui ngọt như
cam-thảo. Lần đầu tiên Đào Kỳ nghe tiếng nàng nói, đã ngây ngất, si mê, cho đến
nay Vương cũng chưa quên, huống hồ Quang-Vũ được nàng liếc mắt tống tình, lại
đem lý lẽ xác thực ra tâu. Y gật đầu liên tiếp, công nhận:
– Quí-phi nói đúng. Từ khi
Vương Mãng cướp ngôi, Ngọc-tỷ truyền quốc bị thất lạc. Bây giờ Công-chúa thấy
Ngọc-tỷ ở trong tay Trưng Trắc. Công-chúa thuyết Trưng Trắc rằng Ngọc-tỷ đó của
Trung-nguyên. Lĩnh-Nam giữ làm gì? Giữa Lĩnh-Nam với Thục có tình kết nghĩa.
Vậy sao không đem Ngọc-tỷ đổi lấy đám phản tặc Thục? Bọn Trưng Trắc tự cao mình
người nghĩa hiệp. Chúng nghe lời Công-chúa. Công-chúa xin đứng trung gian lo
việc này.
Tường-Qui gật đầu:
– Trung-nguyên lấy Ngọc-tỷ
truyền quốc làm bảo vật tượng trưng uy quyền Thiên-tử. Nếu Bệ hạ lấy lại được
Ngọc-tỷ thực đại phúc vậy. Không biết Bệ hạ định thưởng gì cho Công-chúa
Vĩnh-Hòa?
Quang-Vũ cười:
– Công-chúa vốn đức độ. Người
chẳng thích một thứ gì cả. Mấy hôm trước đây, trẫm truyền đem bảy mươi hai tên
phản tặc Thục cùng vợ con chúng đến Kinh-châu, giao cho Công-chúa. Công-chúa sẽ
đem Ngọc-tỷ về cho trẫm. Hừ! Công-chúa thực được việc. Từ khi nhà Đại-Hán lập
ra đến giờ, mới có một vị Công-chúa gánh vác việc xã tắc như thế.
Chu Tường-Qui lo lắng:
– Không biết có ai hộ tống
Ngọc-tỷ với Công-chúa không? Sợ bọn Mã Viện đón đường cướp thì sao?
Quang-Vũ cười:
– Trẫm đã liệu điều đó. Trẫm cử
ông ngoại khanh thân hộ tống. Bên Lĩnh-Nam cũng cử Trần Năng đi theo. Với bản
lĩnh hai người ấy, e trên thế gian này, không ai cướp nổi. Có lẽ nội đêm nay
Ngọc-tỷ về đến đây.
Chu Tường-Qui hỏi:
– Thiếp nghe nói. Dường như
trong hộp đựng Ngọc-tỷ còn cất dấu một bản đồ kho tàng lớn lắm thì phải.
Quang-Vũ gật đầu:
– Đúng thế. Để Ngọc-tỷ về đây,
chúng ta sẽ lấy ra xem có đúng thế không?
Quang-Vũ truyền bày yến. Y cùng
Tường-Qui vừa ăn yến, vừa nghe hát. Ăn vừa xong, Thái-giám tâu:
– Muôn tâu Bệ hạ. Có Tể-tướng
xin yết kiến Bệ hạ khẩn cấp.
Quang-Vũ gật đầu:
– Mời Tể-tướng vào.
Lát sau, Giao-đông hầu Giả Phục
bước vào tung hô vạn tuế. Giả Phục tâu:
– Thứ sử Giao-châu Lê Đạo-Sinh
hộ tống Ngọc-tỷ đã về tới. Thần cho thiết triều, bá quan văn võ được chiêm ngưỡng
Ngọc-tỷ.
Quang-Vũ gật đầu đồng ý. Các
quan thứ tự lên lầu. Lầu của Tây-cung lớn không thua điện Gia-đức. Các quan
chia nhau đứng làm hai hàng văn, võ.
Một lát, Thái-giám xướng:
– Thử sử Giao-châu Lê Đạo-Sinh,
và Y tiên Công-chúa Trần Năng, hộ tống Ngọc-tỷ truyền quốc đã về tới, đang đứng
ngoài chờ chỉ dụ.
Nguyên hồi Trần Năng cùng Khất
đại phu đến Lạc-dương trị Huyền-âm độc chưởng cho Quang-Vũ, Mã Vũ, Chu Hựu… Bà
dùng Lĩnh-nam chỉ điều trị. Mỗi chiêu phóng ra, thân pháp đẹp vô cùng. Quang-Vũ
buột miệng khen Đúng là tay tiên. Không ngờ đất Lĩnh-Nam có một Y tiên,
võ công cao như thế. Từ ngày ấy, triều Hán gọi bà là Y tiên.
Quang-Vũ truyền cho lên.
Lê Đạo-Sinh đi trước. Phía sau
Trần Năng. Bà ôm một cái hộp bọc ngoài bằng chiếc khăn gấm. Lê Đạo-Sinh, Trần
Năng cùng quì xuống. Lê Đạo-Sinh hô:
– Thần Lê Đạo-Sinh, và Trần
Năng bảo giá Ngọc-tỷ về dâng Thánh hoàng.
Quang-Vũ cầm lấy hộp Ngọc-tỷ,
phán:
– Cho các khanh bình thân.
Y cầm hộp mở ra: Ngọc-tỷ bằng
ngọc xanh biếc. Một góc bị bể, đã được nạm vàng lại. Thái-giám dâng hộp đựng
son. Quang-Vũ ấn Ngọc-tỷ vào hộp son, in thử xuống tập giấy. Trên tập giấy hiện
ra chữ:
Thụ Mệnh Vu Thiên,
Thọ Ký Vĩnh Xương
Quang-Vũ truyền cho quần thần
đều được xem qua. Y nói với Trần Năng:
– Y tiên Công-chúa. Trước đây
Công-chúa xuất mã giúp trẫm, trước chiếm Xuyên-khẩu, sau đánh Bạch-đế. Y tiên
là một trong các tướng đánh tới Bạch-đế. Lại nữa trong trận đồi Nghi-dương. Y tiên ra tay đánh bại bọn
Văn Thanh-Hoa, Tiêu Hồng-Hoa, giết chết bọn phản tặc Mao Đông-Các, Tạ Thanh-Minh,
Trần Lữ… ngoài ra còn đến Lạc-dương
trị bệnh cho trẫm và đại thần.
Trẫm không bao giờ quên ơn. Nay Y tiên lại thân hộ tống Ngọc-tỷ đến đây, công
ấy không nhỏ.
Trần Năng cũng như Hồ Đề, tính
tình vui nhộn, ngay thẳng như nam nhi. Trên đời bà chỉ nể có ba người: Trưng
Trắc, Trưng Nhị và sư phụ. Đối với sư phụ. Bà ỷ mình nhỏ tuổi, như cháu nội,
cháu ngoại của ngài, nên trêu cả sư phụ. Đối với Quang-Vũ, bà phục y ở điểm: Có
chí lớn, có hùng tài như Trưng Trắc. Song bà không sợ hãi y. Bà đáp:
– Đa tạ Bệ hạ quá khen tặng.
Song phàm làm người hiệp nghĩa, ân oán phải phân minh. Đánh Xuyên-khẩu, Bạch-đế, thần cũng như anh hùng
Lĩnh-Nam, chỉ vì muốn lập công, xin phục hồi Lĩnh-Nam. Còn trận đánh
Nghi-dương, thần xuất thân thầy thuốc, muốn trừ bọn Mao Đông-Các như trừ mấy
con trùng hại người, chứ không phải vì Bệ hạ. Duy có việc đến Lạc-dương trị
Huyền-âm độc hưởng cho Bệ hạ với các đại thần thì đúng. Song y đạo Lĩnh-Nam dạy
rằng: Dù kẻ thù, dù người nghèo khó bị bệnh hoạn, cũng phải cứu chữa. Còn hôm
nay, thần hộ giá Ngọc-tỷ, do chỉ dụ của Hoàng-đế Lĩnh-Nam.
Quang-Vũ than:
– Lĩnh-Nam thực là đất linh,
nảy sinh không biết bao nhiêu anh hùng. Khắp triều Hán, trẫm không có lấy một
anh hùng hào sảng, lỗi lạc như Y tiên. Y tiên sang đây, để trẫm nhờ Tây-cung
Quí-phi thù tiếp dùm.
Quang-Vũ sai cung nga dẫn Trần
Năng vào Tây-cung cùng Chu Tường-Qui đàm đạo. Y đâu ngờ, phía trong, Chu
Tái-Kênh, Đào vương-phi, Tường-Qui đang lắng nghe mọi diễn biến triều Hán.
Quang-Vũ nói với Lê Đạo-Sinh:
– Thứ sử Giao-châu thực tài
giỏi. Có công lớn. Trước đã giúp trẫm đánh Thục. Nay lại bảo giá Ngọc-tỷ về
đây. Trẫm phong cho khanh tước Lĩnh-nam công, ăn lộc sáu quận vùng Lĩnh-Nam. Từ nay mỗi năm khanh chỉ phải về triều chầu một lần mà thôi.
Lê Đạo-Sinh quì xuống tạ ơn.
Quang-Vũ phán:
– Lê quốc-công hãy gấp đi
Ích-châu, gặp Ngô Hán. Y sẽ giúp Quốc-công quân mã, đánh Lĩnh-Nam, dành lại đất
của bọn phỉ đồ Trưng Trắc. Thôi Quốc-công lui.
Trong màn, Trần Năng nhìn Chu
Tái-Kênh, Đinh Xuân-Hoa, Chu Tường-Qui. Bà thở dài:
– Trưng hoàng-đế đã chỉ dụ:
Người Hán ảnh hưởng bởi sách vở từ thời Xuân Thu, Chiến Quốc, tự cho mình ở
trung tâm thiên hạ. Dân tứ phương phải qui phục. Họ không muốn bất cứ dân tộc
nào đứng ngoài uy quyền họ. Muốn họ nể phục, chỉ có cách tạo cho mình sức mạnh,
khiến cho chồn tay mà thôi. Cứ xét như Quang-Vũ, dù y có chết đi, sẽ có muôn
ngàn Quang-Vũ khác. Y hứa với chúng ta tại điện Vị-ương rồi nuốt lời. Trên đồi
Nghi-dương. Y ban đại cáo thiên hạ. Sau đó lại dùng Lê Đạo-Sinh cùng Tô Định
chống Lĩnh-Nam. Tô, Lê bại. Mới đây sau trận hồ Động-đình, Hán mất ba mươi vạn
quân, mà y cũng không sờn. Bây giờ Lĩnh-Nam trao Ngọc-tỷ cho y, lại thả tù
binh, thế mà y vẫn chỉ dụ Lê Đạo-Sinh vào Thục với Ngô Hán, để đánh về
Lĩnh-Nam. Vì vậy, chúng ta có khuất phục, kết bạn với tất cả triều thần nhà Hán
cũng vô ích. Sư nương, cùng Chu Tường-Qui chẳng cần kết thân với quần thần Hán
chi cho mệt. Chúng ta thu lượm tin tức cũng đủ rồi.
Nhắc lại những hồi trước để độc
giả khỏi moi trí nhớ:
Trước
đây ngày đêm Lê Đạo-Sinh mơ màng chức Thái thú Giao-chỉ. Ước mơ cao sang, quyền
quí, đã làm y mờ mắt. Y bỏ địa vị đạo đức, bỏ danh hiệu Lục-trúc tiên sinh võ
lâm Lĩnh-Nam tặng cho y. Y lao đầu vào khống chế các phái võ. Đến độ bắt giam
cả hai người sư điệt, lúc nào cũng kính cẩn, cúi đầu tuân phục y là Nguyễn
Thành-Công, Đặng Thi-Kế. Y dùng tiền bạc mua chuộc, đe dọa bọn Lê Nghĩa-Nam,
Hoàng Đức-Tiết, Mai Huyền-Sương, hầu khống chế phái Long-biên. Được Trần Tự-Sơn
ủy nhiệm tổ chức đại hội hồ Tây, mục đích tuyển cao nhân sang Trung-nguyên cầu
phong, xin hủy bỏ Ngũ pháp. Y định biến đại hội thành dịp giết anh hùng
Lĩnh-Nam. Mưu kế của y bị Đào Kỳ, Trần Tự-Sơn phá vỡ. Y bỏ sang Trung-nguyên,
nhập Thục định phế trưởng, lập thứ, kiếm chức Thái thú, cũng thất bại. Y đến
Lạc-dương theo Mã thái-hậu, được phong chức tước giả. Khi biết rõ như vậy, y
phản Mã thái-hậu, theo Hàn Tú-Anh. Y được Quang-Vũ phong chức Thứ sử Giao-châu. Trong khi khắp vùng
Lĩnh-Nam không còn trong tay người Hán. Y cùng đệ tử trở về giúp Tô Định chống
Lĩnh-Nam bị thất bại. Y suýt mất mạng. Giữa lúc đó Tăng-Giả Nan-Đà xuất hiện. Y
vờ sám hối theo ngài. Được ngài truyền Thiền công. Y bỏ ngài, trở về Hán.
Quang-Vũ sai y nhập Thục, xúi Công-tôn Thi giết cha, giết sư thúc, làm Thục tan
nát. Thục, Kinh-châu thuộc về Hán. Quang-Vũ không phong cho y trấn thủ Ích-châu
hay Kinh-châu, mà lại phong cho y làm Lĩnh-nam công, như ông vua Lĩnh-Nam, với
chỉ dụ y tìm Ngô Hán. Ngô sẽ cho mượn quân về đánh Lĩnh-Nam. Quang-Vũ quả thực
có bản lĩnh. Y chỉ mất một tờ giấy, mà gây cho Lĩnh-Nam rối loạn. Lê Đạo-Sinh không
biết lẽ đó. Y nghĩ: Trước đây Nghiêm-Sơn võ công kém y. Thân cô, thế
cô, thế mà một người, một ngựa, kinh lược được Lĩnh-Nam. Huống hồ y có võ công
vô địch thiên hạ, bên cạnh thêm năm đệ tử bản lĩnh nghiêng trời… y cho rằng
đoạt lại Lĩnh-Nam không khó. Song y quên một điều, Nghiêm-Sơn được Lĩnh-Nam, vì
các Thái-thú đều là người Hán, lúc nào cũng sẵn sàng qui phục Quang-Vũ. Còn đây
Lĩnh-Nam đang độc lập. Từ Lạc công tới dân chúng, một lòng chống Hán.
Sau bức màn, ở trong trướng,
Chu Tái-Kênh, Đào vương-phi Chu Tường-Qui nhìn nhau ngán ngẩm. Chu Tường-Qui
nước mắt đầm đìa. Nàng nghĩ lại mà thương cho mẹ. Thủa bé, nàng kính trọng ông
ngoại biết bao nhiêu. Bây giờ, ông ngoại nàng như thế… hỏi nàng không đau đớn
sao được.
Đào vương-phi hiểu được tâm
trạng của Chu Tường-Qui. Bà an ủi:
– Lục-trúc tiên sinh suốt đời
theo đuổi công danh. Thành ra, những ai làm ngược với tiên sinh. Tiên sinh đều
coi họ như kẻ thù, như đạo tặc. Chúng ta chịu vậy. Chúng ta có khuyên tiên
sinh, cũng bị tiên sinh coi là kẻ thù.
Bên ngoài Tể-tướng Giả Phục cầm
Ngọc-tỷ trao cho các đại thần coi.
Thình lình binh một
tiếng. Hai người từ cửa sổ nhảy vào. Một người mặc quần áo xám phóng chưởng tấn
công Quang-Vũ. Mã Vũ quát lên một tiếng đỡ chưởng, cứu chúa. Trong khi đó một
người mặc áo xanh, chĩa hai ngón tay vào mặt Tể-tướng Giả Phục. Giả Phục không
viết võ. Ông lui lại. Người đó cướp chiếc hộp đựng Ngọc-tỷ cho vào túi. Y vung
tay đỡ chưởng của Chu Hựu đánh vào lưng. Bùng một tiếng. Chu
Hựu lui lại ba bước.
Quần thần náo loạn lên. Các văn
quan vội lui vào một góc.
Theo luật lệ nhà Hán,
Hoàng-hậu, Quí-phi không được để quần thần thấy mặt, ngoại trừ trường hợp đặc
biệt, gọi là Thất miễn tức bảy điều miễn:1. Khi thấy Hoàng-đế
thiết triều. 2. Khi đau yếu, phải triệu Thái y vào chữa. 3.Khi phải xuất bôn.
4. Khi phải chống giặc. 5. Khi ở trong căn nhà bị cháy. 6. Khi thuyền bị chìm.
7. Khi phải lễ ở Thái-miếu. Bây giờ giữa lúc quần thần chầu Hoàng-đế. Võ quan
chỉ có hai người, gặp thích khách vào tập kích. Chu Tường-Qui lạng người ra
đứng trước Quang-Vũ, vận khí vào đơn điền, sẵn sàng ra tay đối phó với thích
khách.
Nội giám thống lĩnh cấm quân An
Đức-Huy dẫn Thị vệ bao vây Tây-cung như thành đồng vách sắt. Đám Thị vệ riêng
của Chu Tường-Qui bao vây phía ngoài hành lang.
Đào vương-phi đứng trong rèm
nhìn ra. Bà thấy lưng Mã Vũ quen quen, song nhất thời không tìm ra đã gặp y ở
đâu.
Cách đây mấy năm, hồi Đào
Thế-Kiệt, Đặng Thi-Sách đi Trung-nguyên. Hai người đã gặp Mã Vũ trong trận đánh
đồi Nghi-dương. Với con mắt tinh đời, kinh nghiệm của hai người. Đào Thế-Kiệt
tìm thấy ở Mã Vũ như ẩn hiện một điều gì bí mật vô cùng. Ông cùng Đặng Thi-Sách
chỉ nhìn con mắt, cũng đoán được Mã Vũ có cảm tình với Lĩnh-Nam. Đào Thế-Kiệt
được Trưng Nhị thuật cho biết võ công Mã Vũ rất kỳ lạ. Thông minh như
Phương-Dung, Trưng Nhị mà không tìm ra được nguồn gốc. Tuy cùng chiến đấu ở đạo
Kinh-châu với nhau, mà không bao giờ Mã Vũ hiển lộ võ công trước hai người, nên
hai người không biết võ công y cao đến đâu.
Phương-Dung nhận thấy, hồi Đào
Kỳ, Khất đại phu, Đô Dương với nàng đại náo điện Vị-ương, Trường-an, Mã Vũ chỉ
đánh cầm chừng, bằng chiêu thức rời rạc, không chuyên dùng một thứ võ công nào
khác. Đào Thế-Kiệt đã kết luận: Thân thế Mã Vũ có điều gì rất bí mật, cho nên y
tránh không xử dụng võ công trước mặt anh hùng Lĩnh-Nam. Y là người có cảm tình
với Lĩnh-Nam giống như Hoài-nam vương.
Đào vương-phi dặn Trần Năng:
– Mã Vũ muốn che dấu võ công
trước anh hùng Lĩnh-Nam chỉ có hai điều xảy ra: Một là y muốn giữ kín môn hộ,
để sau này hại Lĩnh-Nam. Điều này không phải. Vì Mã Vũ cảm tình với Lĩnh-Nam.
Hai là Mã dấu môn hộ, vì võ công của Mã, có liên quan đến Lĩnh-Nam. Điều này có
thể xảy ra. Vậy ta nhất định không xuất hiện, để biết võ công của Mã.
Từ lúc Chu Tái-Kênh thấy Mã Vũ,
trong người bà nảy sinh ra một tình cảm khó hiểu: Thương cảm cũng không phải.
Buồn rầu cũng không phải. Bà thấy ở Mã có cái gì rất quen thuộc, rất thân ái
với bà. Mà bà tìm không ra.
Đào vương-phi kể hết những gì
liên quan đến Mã Vũ cho Chu Tái-Kênh nghe. Ngược lại Chu Tái-Kênh cũng diễn tả
tình cảm trong bà cho Đào vương-phi nghe.
Thích khách mặc áo xanh, quát
lên một tiếng, đánh ra ba chưởng rất thô kệch. Các võ quan có mặt đều la hoảng
lên. Vì đó là Chu-sa chưởng. Chu Hựu nghiến răng đỡ. Binh một
tiếng, y lui lại hai bước. Thích khách áo xanh hú lên, cùng thích khách áo xám
vọt khỏi lầu, đáp xuống dưới.
Quang-Vũ hô lớn:
– Phải bắt lấy chúng.
Thị vệ vây hai người kín như
thành đồng vách sắt. Mỗi lần hai người vung chưởng lên có hai, ba tên thị vệ bị
đánh ngã. An Đức-Huy đứng trên hòn giả sơn, cầm kiếm chỉ huy thị vệ bao vây
thích khách. Hai thích khách vẫn bình tĩnh, tả xung hữu đột.
Đèn đuốc thắp lên sáng rực như
ban ngày. Quang-Vũ cùng Tây-cung Quí-phi Chu Tường-Qui đã xuống dưới lầu. Đào
vương-phi, Chu Tái-Kênh trong bộ quần áo cung nữ, theo sát phía sau Chu
Tường-Qui. Cạnh đó, Cu Bò Lương Tùng đứng bên Trần Năng lược trận.
Bỗng từ xa, hai con ngựa phi
tới. Một đôi thiếu niên nam nữ, tuổi khoảng mười lăm, mười sáu nhảy xuống ngựa.
Lưng hai người đều đeo bảo kiếm. Cả hai người đến trước Quang-Vũ, Chu Tường-Qui
hành lễ. Nam nói:
– Chúng con nghe thích khách
phạm giá phụ hoàng với sư mẫu. Chúng con tới hộ giá.
Cu Bò đứng cạnh nghe vậy, nó
biết đây là Hoàng-tử Trang với Công-chúa Đoan-Nhu. Hai người đứng cạnh
Quang-Vũ, Tường-Qui, tay cầm chắc dốc kiếm, tỏ ra cương quyết bảo vệ. Cu Bò
nghĩ thầm:
– Thực là hai người con có
hiếu. Hai đứa này tuy con vua mặc lòng. Song ta là sư đệ của chị Hoàng-đế
Lĩnh-Nam. Ta có thể chơi ngang vai với bọn chúng. Dẫu gì chúng cũng là đệ tử
của Chị Chu Tường-Qui. Đúng ra, ta là vai sư thúc của chúng.
Công-chúa Đoan-Nhu thấy cạnh
mình còn một thiếu niên khỏe mạnh, mắt tinh anh, lưng đeo bảo kiếm. Tuy nàng
không biết là ai, nhưng cũng thấy vui vui, vì có người ngang tuổi mình.
Quang-Vũ vẫy tay gọi Mã Vũ, Chu
Hựu:
– Các người hãy mau ra sức bắt
thích khách cho ta.
Mã Vũ nhảy vào tấn công thích
khách áo xám. Chu Hựu tấn công thích khách áo xanh. Hai bên thi diễn cuộc đấu
được hơn năm mươi hiệp, thích khách áo xanh lại phát Chu sa chưởng. Mỗi chưởng
của y phát ra, đều có hơi nóng, khiến Chu Hựu cứ phải lùi dần.
Đào vương-phi nói nhỏ với Chu
Tái-Kênh:
– Bản lĩnh tên thích khách áo
xanh này có lẽ cao hơn Lê Đạo-Sinh một bậc. Chưởng lực y ngang với Chu Long,
tên đứng đầu Liêu-đông tứ ma chứ không ít. Chu Hựu thua đến nơi rồi.
Quả nhiên, Chu Hựu đỡ được đến
chưởng thứ mười, y thở hồng hộc. An Đức-Huy đứng ngoài nhảy vào, giúp Chu Hựu.
Thích khách áo xanh tỏ ra coi thường mọi sự. Y phải đấu với hai đại cao thủ, mà
vẫn bình tĩnh.
Thình lình thích khách áo xanh
đổi hẳn cách đánh. Chưởng của y một bên phát ra hơi nóng, một bên phát ra hơi
lạnh. Chỉ ba chưởng, đánh An Đức-Huy bay ra xa, y dồn hai chưởng, đánh Chu
Hựu. Bình một một tiếng. Chu Hựu bay vọt về sau. Chu oẹ một
tiếng, miệng phun máu tươi.
Thích khách áo xanh vọt người
về phía Quang-Vũ. Y tấn công một chưởng mạnh đến long trời lở đất. Quang-Vũ
cùng quần thần thét lên kinh hoàng. Chu Tường-Qui đứng cạnh, nàng hít hơi, phát
chiêu Ác ngưu nan độ trong Phục ngưu thần chưởng đỡ. Một tay
nàng cắp Quang-Vũ vào nách, nhảy lùi lại, để hóa giải kình lực của thích khách.
Thích khách áo xanh, đánh một
chưởng, tưởng kết liễu tính mệnh Quang-Vũ. Y tuyệt không ngờ một thiếu phụ,
trong quần áo phi tần, lại đỡ được chưởng của y. Y nhìn lại, bật lên tiếng kêu,
vì Tường-Qui đẹp như một thiên tiên.
Trong khi đó, cuộc giao chiến
giữa Mã Vũ với thích khách áo xám đã biến đổi. Mã Vũ bị thích khách dồn đến
chân hòn giả sơn. Thình lình y phát một chiêu chưởng mạnh đến long trời lở đất,
định kết liễu tính mệnh Mã Vũ. Ai cũng tưởng Mã sẽ bỏ mạng. Không ngờ Mã quát
lên, phát một chưởng hùng mạnh vô cùng, đỡ vào giữa chưởng của thích khách áo
xám. Binh một tiếng. Thích khách áo xám bật lùi lại đến bốn
bước. Người lảo đảo.
Chu Tái-Kênh, Đào vương-phi,
thích khách cùng bật lên tiếng kêu:
– Úi cha!
Tiếng úi cha của
thích khách, vì chưởng Mã Vũ khắc chế với chưởng của y. Tiếng úi cha của
Chu Tái-Kênh với Đào vương-phi vì, Mã Vũ xử dụng chưởng pháp Cửu-chân, đó là
chiêu Loa thành nguyệt chiếu.
Đào vương-phi, Chu Tái-Kênh,
mặt nhìn mặt ngẩn ngơ. Chu Tái-Kênh đã đoán ra nguồn gốc Mã Vũ. Còn Đào
vương-phi nhận cũng ra Mã Vũ.
Thích khách áo xám cười nhạt:
– Không ngờ Bô lỗ đại tướng
quân Mã Vũ lại là người Lĩnh-Nam. Người chẳng xử dụng võ công của phải Cửu-chân
đó ư?
Mã Vũ cười nhạt:
– Ta tuân chỉ đi sứ Lĩnh-Nam.
Do vậy ta học được một số tinh hoa võ học Cửu-chân, cũng chẳng có gì lạ.
Lời nói chỉ qua mặt được
Quang-Vũ. Chứ còn đối với Đào vương-phi, bà biết: Chưởng của Mã Vũ tinh diệu,
đến Đào Thế-Kiệt, Đinh Đại với bà cũng còn thua xa, đâu phải của người mới học?
Hình ảnh cũ hiện về với Đào
vương-phi:
Ngày
nọ Mã Vũ đột nhập bản doanh của Công-chúa Bát-Nạn Vũ-trinh-Thục, báo cho bà
biết nhiều tin tức của Hán. Sau Mã Vũ, lại xuất hiện ở cổng Bắc thành Luy-lâu,
giết bọn tướng Hán, đánh lui Lê Đạo-Sinh, giữa lúc bọn chúng vừa ám sát Đặng
Thi-Sách. Cũng chính Mã Vũ xuất hiện tại thành Phiên-ngung hiến kế cho
Trưng-đế, cùng đấu võ ngang tay với Đào Kỳ. Rồi trong trận hồ Động-đình, Mã Vũ
xuất hiện bắt sống Chu Long. Hôm ấy ông cho Phật-Nguyệt nhìn mặt ông.
Phật-Nguyệt kinh ngạc đến ngẩn người ra. Song bà giữ đúng lời hứa, không nói
với ai, ngay cả Đào vương-phi.
Hôm nay Mã Vũ ra chiêu Loa
thành nguyệt chiếu. Mối thắc mắc của Đào vương-phi đã được giải. Bà
gật đầu:
– Thì ra trong phái Cửu-chân có
một cao nhân, ẩn thân làm quan với người Hán, mưu phục hồi Lĩnh-Nam như Trần
Tự-Sơn, dưới tên Mã Vũ. Song ông kín đáo hơn Trần Tự-Sơn, cho đến hôm nay,
không ai biết rõ thân thế ông. Song ông là ai?
Còn Chu Tái-Kênh, nhìn Mã Vũ,
nước mắt bà chảy ròng ròng. Quá khứ bốn mươi năm cũ trở về: Bà cùng người anh
ruột tên Chu Kim-Hựu, phất cờ khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa bị Thái thú Tích
Quang dẹp tan. Trong trận đánh cuối cùng, bà mải ôm cháu là Chu Bá, bảo vệ chị
dâu chạy. Bà bị thương, mê man không biết gì. Sau khi được Khất đại phu cứu
thoát, chữa tỉnh. Bà dò hỏi tin tức, biết anh mình bị giết, đầu đem về Luy-lâu
bêu làm hiệu lệnh. Còn việc Chu Bá không chết, được người nhũ mẫu ôm đến
Thái-hà trang ẩn thân nuôi dưỡng, được Lê Đạo-Sinh dạy cho bản lĩnh vô địch. Bà
cũng không biết gì. Sau khi tìm được Chu Bá, trong lần đến Mê-linh, bà mừng vô
kể. Bà cứ tưởng anh mình chết rồi. Có ngờ đâu, ông thoát khỏi vòng vây. Sợ bị
truy lùng. Ông bỏ sang Trung-nguyên, đầu quân với Nghiêm Sơn. Dần dần trở thành
Bô lỗ đại tướng, tước phong Dương-hư hầu.
Khi thấy Lĩnh-Nam phục hồi, ông
xin Quang-Vũ cho đi sứ, sang Giao-chỉ. Giữa lúc ấy Lê Đạo-Sinh, Tô Định bày kế
giết Thi-Sách. Ông xuất hiện, đánh bại Lê. Trong chiến cuộc Kinh-châu, hồ
Động-đình, ông xin Quang-Vũ cho ông bí mật thanh sát mặt trận. Vì vậy ông mới có
dịp xuất hiện, nói rõ chủ tâm Quang-Vũ với Trưng-đế. Nhân tiện, ông muốn thử võ
công của hậu bối Đào Kỳ… Sau ông xuất hiện ở hồ Động-đình, bắt Chu Long.
Chu Tái-Kênh nói nhỏ vào tai
Đào vương-phi:
– Có một điều, ta dấu em từ
lâu. Anh ta tên thực là Chu Kim-Hựu, cùng với Trần Kim-Hồ là hai đại cao thủ
phải Cửu-chân. Khi hai người khởi nghĩa bị thất bại, Đào Thế-Kiệt, Đinh Đại với
em hãy còn nhỏ. Trong môn phái cũng cấm không được nhắc đến truyện này, vì bấy
giờ Nhâm Diên truy lùng hai ông rất gắt.
Đào vương-phi gật đầu:
– Sư tỷ nói, em mới dám thố lộ.
Hồi chồng em còn sống, đã có lần đề cập đến hai đại sư huynh. Hai người bỏ
Cửu-chân ra Giao-chỉ khởi nghĩa, bị thất bại, tuẫn quốc. Vì vậy cho nên hôm
trước đây, người xuất hiện đấu với Lê Đạo-Sinh em đã nghi… Không ngờ người vẫn
còn sống trên thế gian này. Có điều em không hiểu, sao Chu đại sư huynh thuộc
phái Cửu-chân, mà sư-tỷ lại thuộc phái Long-biên?
Chu Tái-Kênh nói:
– Có gì không hiểu. Song thân
chúng ta bị người Hán giết chết. Ta được sư phụ nhận làm đệ tử. Ta là sư muội
của Nguyễn Phan. Còn anh ta trốn vào Cửu-chân được thu nhận vào phái này.
Giữa lúc đó, thích khách áo
xanh, đã đấu với Chu Tường-Qui đến chiêu thứ tư. Nàng không đỡ nổi chưởng của y
nữa.
Hoàng-tử Trang, Công-chúa
Đoan-Nhu thấy phụ hoàng và sư mẫu bị uy hiếp. Hai người rút kiếm nhảy vào đâm
thích khách. Thích khách quơ tay, bắt kiếm hai người, thuận thể búng một cái.
Hai thanh kiếm gãy đôi. Y phóng một chưởng vào Công-chúa Đoan-Nhu. Mọi người
kêu thét lên. Nếu chưởng đó đánh xuống, ắt Công-chúa nát thây chết tại chỗ.
Cu Bò kinh hoàng. Nó quát lên
một tiếng tay ôm lấy Công-chúa Đoan-Nhu, lăn tròn hai vòng. Chưởng của thích
khách đánh hụt, trúng xuống đất sâu năm tấc. Y quát lên một tiếng, phóng chưởng
thứ nhì nhanh như chớp, định kết liễu tính mệnh Cu Bò, Đoan-Nhu, thì choac,
choac… Sáu Thần-ưng đậu trên nóc điện, thấy chúa tướng lâm nguy, đồng lao
xuống tấn công thích khách áo xanh. Thích khách áo xanh vội thu chưởng về chống
với Thần-ưng.
Thình lình Chu Tái-Kênh hú lên
một hồi dài liên miên bất tuyệt. Tiếng hú làm mọi người điếc tai. Bà nhảy véo
đến tấn công thích khách áo xanh. Chưởng của bà là Phục ngưu thần chưởng. Binh,
binh, binh, bà đánh ba chưởng, đẩy lui thích khách áo xanh.
Quang-Vũ cùng quần thần kinh
ngạc đến ngẩn người ra. Quang-Vũ đã được Chu Tường-Qui tâu rằng Chu Tái-Kênh
là bà cô của nàng, từ Lĩnh-Nam đến Lạc-dương dậy võ cho nàng.
Y không ngờ chưởng lực của bà mạnh đến kinh người. Chu Hựu tự cho rằng bản lĩnh
của y chỉ thua có Sầm Bành, Phùng Dị. Nay hai người đó chết rồi, y thành anh
hùng vô địch. Hôm nay cả y lẫn An Đức-Huy, đều bị thích khách đánh cho đến
trọng thương. Rồi giữa lúc nguy cơ, một cung nữ già của Tây-cung xuất thủ,
chưởng lực mạnh kinh người. Chu Hựu đã từng đấu với Lê Đạo-Sinh. Y thấy Chu
Tái-Kênh xử dụng. Phục ngưu thần chưởng, công lực mạnh hơn Lê Đạo-Sinh nhiều. Y
kinh ngạc đến đờ người ra.
Chu Tái-Kênh với thích khách áo
xám đều xử dụng chưởng pháp dương cương. Mỗi khi chưởng chạm nhau, phát ra
tiếng kêu lớn. Áp lực của chưởng phong, khiến đám thị vệ bị đẩy ra xa. Quang-Vũ
được Chu Tường-Qui bảo vệ đứng lui lại, giữa đám thị vệ gươm đao tuốt trần.
Cu Bò ôm Công-chúa Đoan-Nhu
nhảy ra xa. Hai người trông thực thảm thiết. Công-chúa vừa thoát khỏi nguy
hiểm, đã quan tâm đến phụ hoàng và sư mẫu. Nàng sợ quá, miệng lắp bắp:
– Phụ hoàng! Sư mẫu!
Chu Tường-Qui an ủi nàng:
– Phụ hoàng với sư mẫu bình an.
Con có sao không? Con mau đa tạ sư huynh Lương Tùng đi.
Công-chúa Đoan-Nhu hướng Cu Bò
gật đầu nói mấy câu cảm tạ. Nàng thấy Cu Bò to lớn, ngang tuổi với mình. Mà vừa
rồi nó ôm nàng lăn đi mấy vòng. Tự nhiên trong lòng nàng thấy có một cảm giác
kỳ lạ.
Mã Vũ đấu với thích khách áo
xám, thắng thế rõ ràng. Bỗng ông quát lên một tiếng, râu tóc dựng đứng, phát
chiêu Hải triều lãng lãng lớp thứ nhất. Binh một
tiếng. Cả hai người cùng lui lại. Ông phát lớp thứ ba. Thích khách biết không
chống được. Y nhảy vọt lên cao, tay cầm hộp Ngọc-tỷ đưa ra đỡ chưởng Mã Vũ. Mã
Vũ sợ vỡ Ngọc-tỷ. Ông hướng chưởng vào hòn núi non bộ. Binh một
tiếng, hòn núi to như vậy, vỡ tan tành. Nước bắn tung toé.
Thích khách áo xám cười gằn:
– Hãy ngừng tay. Nếu không, ta
bóp vỡ Ngọc-tỷ tức khắc.
Mã Vũ quát hỏi:
– Cứ như thân pháp của ngươi,
trong thế gian, hiếm ai thắng nổi. Tại sao ngươi lại phải bịt mặt? Võ công
ngươi đến dường này… dù ngươi có dấu tên, che mặt, song tìm đâu có khó.
Trong khi bên cạnh, Chu
Tái-Kênh vận khí một tay cương, một tay nhu phát Phục ngưu thần chưởng đấu với
thích khách áo xanh. Sau mười chiêu, thích khách áo xanh thở hồng hộc. Y ngẫm
ra, thấy chiêu Dương cương, y có thể thắng nổi. Còn chiêu Âm nhu, thì gia số,
nội lực đều khắc chế với y. Cứ mỗi khi hai chiêu đụng nhau. Công lực y yếu dần.
Y lui lại hỏi:
– Lão bà! Ta chịu thua ngươi.
Ngươi có thể cho ta biết tên được không? Trọn đời, ta chưa từng thấy ai có võ
công kỳ lạ như của lão bà.
Chu Tái-Kênh tự hào là cao nhân
đương thời. Trưng hoàng-đế đối với bà cũng phải bằng một thái độ đặc biệt. Bà
muốn tỏ cho y biết võ đạo của mình. Bà vỗ hai tay vào nhau, nói:
– Ngươi xử dụng hai chưởng pháp
khác nhau, một bên Chu sa chưởng của Trung-nguyên. Một bên Hàn băng chưởng của
Cao-ly. Trên đời này, ta e rằng không quá ba người thắng được ngươi. Trong ba
người đó, ta là một.
Thích khách áo xanh giọng buồn
thảm:
– Những ba người sao? Còn hai
người nữa là ai?
Chu Tái-Kênh đáp:
– Người thứ nhất chính thị
trượng phu ta. Họ Trần tên Đại-Sinh.
Khất đại phu Trần-đại-Sinh danh
vang thiên hạ. Cả triều Hán đều không ít thì nhiều được ông chữa trị cho. Nay
nghe Chu Tái-Kênh bảo ông là chồng của bà, thì họ không ngạc nhiên, khi thấy võ
công bà cao.
Mã Vũ nghe Chu Tái-Kênh nói.
Mặt ông nhăn lại, mắt mở lớn nhìn bà. Chu Tái-Kênh tiếp:
– Người thứ ba chính là
Bắc-bình vương, lĩnh chức Đại tư mã Lĩnh-Nam. Họ Đào tên Kỳ.
Thích khách áo xanh nghe bà
nói, thở dài:
– Ta thua ngươi, không phải võ
công ta kém. Mà vì tổ tiên ta thua tổ tiên ngươi. Võ công của ngươi khắc chế võ
công của ta. Thôi, ta thua ngươi rồi. Ngươi muốn giết, muốn băm vằm ta thế nào
cũng được. Ta không oán than gì cả.
Trong khi đó thích khách áo xám
đưa Ngọc-tỷ ra nói với Quang-Vũ:
– Bệ hạ hãy ra lệnh mở vòng vây
cho chúng tôi rời khỏi đây. Tôi sẽ trả Ngọc-tỷ cho Bệ hạ. Bằng không, chúng tôi
chết, Ngọc-tỷ cũng không còn nữa.
Quang-Vũ nói với Mã Vũ, Chu
Tái-Kênh:
– Các ngươi hãy tha cho chúng
đi, đưa chúng ra khỏi Hoàng-thành, rồi lấy lại Ngọc-tỷ cho trẫm.
Hai thích khách đưa mắt lườm
lườm nhìn Quang-Vũ, rồi cất bước. Thình lình mấy sợi dây từ trên trời rơi xuống
đầu hai thích khách. Hai người đưa tay lên gạt. Thì hai sợi dây đã cuộn lấy
người, và hai tay. Rồi ba, bốn, năm, sáu sợi nữa. Hai người kinh hoàng, vì các
sợi dây tanh hôi đến không thể tưởng tượng được, đó là những con trăn. Hai
người vội hít hơi, vận hết sức, giật ra. Thì một bóng nhỏ bé, xẹt ngang, bàn
tay cầm Ngọc-tỷ của thích khách áo xám bị đau nhói. Y phải buông Ngọc-tỷ ra.
Bóng nhỏ đó cướp lấy, nhảy vọt lại, ẩn sau lưng Đào vương-phi. Bóng đó là Cu Bò
Lương Tùng.
Thích khách áo xám biết mất
Ngọc-tỷ, tính mệnh khó an toàn. Y giật tay thực mạnh. Ba con trăn cuốn y bật
tung ra. Y phóng đến chụp Cu Bò. Đào vương-phi phát chiêu Thiết kình phi chưởng
tấn công y. Bình một tiếng. Cả hai người đều lui lại.
Đào vương-phi cảm thấy khí
huyết nhộn nhạo. Song bà cũng kinh ngạc, vì công lực mình tiến mau đến trình độ
đó. Ngay hồi Đào Thế-Kiệt còn sống, chưa chắc đã đấu ngang tay với tên thích
khách áo xám. Thế mà không ngờ, bà với y đấu một chưởng ngang tay.
Thích khách áo xám nói với
Quang-Vũ:
– Bệ hạ là chúa tể thế gian.
Một lời hứa cho chúng tôi ra đi, sao còn sai người ám toán?
Cu Bò chửi:
– Ám toán cái gì? Ta đường
đường chính chính đánh mi. Mi bị thua rõ ràng. Sao gọi là ám toán. Mi
thực vô liêm sĩ.
Nó nói tiếng Hán vùng Trường-sa, hơi khác với
vùng Lạc-dương. Giọng rất khó nghe.
Thích khách thấy người tung trăn tấn công
mình, đoạt Ngọc-tỷ chỉ là một thiếu niên. Y muốn ăn tươi nuốt sống Cu Bò. Song
Cu Bò đứng phía sau Đào vương-phi. Nó méo miệng, thè lưỡi ngạo thích khách.
Quang-Vũ thấy đoạt lại được Ngọc-tỷ, y mừng
lắm, nói với Mã Vũ:
– Dương-hư hầu! Ngươi để cho chúng đi.
Hai thích khách hú lên một tiếng, biến mình
vào đêm tối. Quang-Vũ truyền quần thần giải tán. Y quay lại hỏi Chu Tường-Qui:
– Quí-phi mộ ở đâu được những phụ nữ võ công
vô địch thiên hạ như vậy?
Chu Tường-Qui đáp:
– Thiếp đã tâu với Bệ hạ. Vị lớn tuổi này họ
Chu tên Tái-Kênh, Tổ-cô của thiếp. Người là phu nhân Khất đại
phu. Còn vị này họ Đinh tên Xuân-Hoa, dưỡng mẫu của thiếp hồi nhỏ.
Quang-Vũ vẫy tay gọi Cu Bò:
– Giỏi lắm. Ngươi tên gì? Làm Thái-giám ở đây
lâu chưa? Không có ngươi, e Ngọc-tỷ lại bị mất.
Chu Tường-Qui nhắc Cu Bò:
– Ngươi quì xuống ra mắt Hoàng-thượng đi.
Cu Bò tuy đã ở trong Tây-cung lâu, được dậy
lễ nghĩa. Song nó quên mất. Nghe Tường-Qui nhắc, nó đến trước mặt Quang-Vũ quì
xuống:
– Ông có phải là vua Trung-nguyên tên
Quang-Vũ đó không? Sao ông tử tế quá vậy? Tôi không có họ, cũng chẳng có tên.
Người ta quen gọi tôi là Cu Bò. Gần đây một vị họ Lương nhận tôi làm con nuôi,
đặt tên tôi là Lương Tùng.
Tường-Qui sợ lộ truyện. Nàng tâu với
Quang-Vũ:
– Nó không phải Thái-giám. Nó là đệ tử của
nhũ mẫu thiếp. Nhân nhũ mẫu sang thăm thiếp. Thiếp cho nó vào cung chơi. Vì
thích khách làm lộng. Nó ra tay cứu giá. Nó không biết nói tiếng Hán. Mong Bệ
hạ đại xá.
Đối với Lĩnh-Nam, Quang-Vũ là đại cừu nhân.
Còn đối với Trung-nguyên y là một đại anh hùng. Dù Tường-Qui đã tấu như vậy. Y
cũng biết Tường-Qui đưa người vào Tây-cung gây thế lực. Y tâm miệm: Tường-Qui
gây thế lực chỉ để chống bọn ngoại thích giúp ta. Vậy ta phải trọng đãi chúng.
Y nói với Cu Bò:
– Cháu bé! Cháu đoạt lại được Ngọc-tỷ, lại
cứu Công-chúa thoát chết. Công ấy của cháu không nhỏ. Cháu muốn gì, ta sẽ
thưởng cho.
Cu Bò ngẫm nghĩ một lúc, nhớ lại cách xưng hô
đã học. Nó nói:
– Nếu Bệ hạ thưởng cho thần, xin cho phép
thần được tự do chạy chơi trong Hoàng-thành. Hoàng-thành đẹp thế này, mà thần
bị cấm cản, đi đến đâu, cũng bị thị vệ, cung nga, thái giám đuổi đến đó. Vì vậy
thần buồn quá.
Quang-Vũ cười:
– Được! Kể từ hôm nay, ta phong ngươi làm Vũ
vệ hiệu úy, chỉ huy thị vệ ở Tây-cung. Sau này có công, ta sẽ phong thưởng nữa
cho.
Cu Bò bị giam trong Hoàng-thành mấy tháng
nay. Nó khổ sở vô cùng. Bây giờ gặp dịp, nó hỏi:
– Tôi có được ra ngoài thành chơi không?
Quang-Vũ gật đầu:
– Ngươi đã làm Vũ-vệ hiệu úy, được tự do đi
lại. Ngươi còn trẻ, lễ nghĩa chưa biết, tất bị người ta bắt lỗi. Để trẫm cho
ngươi một cái thẻ bài không ai dám bắt tội ngươi nữa.
Quang-Vũ móc túi đưa tấm thẻ bài cho Cu Bò.
Nó quì xuống tạ ơn. Quang-Vũ phán rằng:
– Với tấm thẻ bài này, khi ngươi phạm bất cứ
tội gì, dù Tể-tướng, dù Tam công cũng không được bắt tội. Lỡ ngươi phạm tội
nặng quá, họ chỉ có thể đưa ngươi về cho trẫm trừng phạt mà thôi.
Quang-Vũ có tài biết người, có con mắt tinh
đời, biết nhận xét giá trị từng loại người một. Y nói với Chu Tái-Kênh, Đào
vương-phi:
– Các vị là đấng anh hùng trên thế gian không
có hai. Xin các vị ở đây giúp Quí-phi, bảo vệ Hoàng-thành. Nếu các vị cần gì,
trẫm sẵn sàng chu toàn.
Hai vị tạ ơn.
Mã Vũ liếc nhìn Chu Tái-Kênh, rồi tạ từ
Quang-Vũ.
Trở về phòng ngủ. Chu Tái-Kênh với Đào
vương-phi trao đổi với nhau những nhận xét về Mã Vũ. Hai bà ngạc nhiên, không
thấy Trần Năng đâu.
Đào vương-phi nói:
– Chu đại ca không ngờ bọn mình ẩn ở
Tây-cung, nên người mới xử dụng võ công Cửu-chân. Người biết chúng ta ở đây,
chắc thế nào cũng tìm cách liên lạc với chúng ta.
Chu Tái-Kênh lắc đầu:
– Ta không tin. Tính anh ta kín đáo lắm. Người
biết chúng ta nhận ra chân tướng người. Người càng ẩn thân kín hơn. Ta phải đi
gặp người mới được. Ta sẽ nói cho người biết con người là Chu Bá vẫn còn sống.
Chu Tường-Qui là cháu nội người, để người đỡ tịch mịch.
Cu Bò góp ý kiến:
– Hai thích khách vừa rồi, cháu có cảm tưởng
như do Mã thái-hậu sai đến. Vậy hai sư-bá thử đi thám thính điện Huệ-đức xem sự
thể ra sao? Biết đâu chẳng tìm ra manh mối thích khách.
Chu Tái-Kênh gật đầu:
– Hôm nay thích khách đột nhập Hoàng cung,
tất cả các nơi đều báo động. Vậy hãy đợi mười ngày sau đã.
Lạc
Dương
34°36'49.87"N
112°27'14.47"E
Quận: Giản
Tây (涧西区), Tây Công (西工区), Lão
Thành (老城区), Triền Hà (瀍河区), Lạc Long
(洛龙区), Yển Sư (偃师区), Mạnh Tân (孟津区)
Huyện: Tân
An (新安县), Lạc Ninh (洛宁县), Nghi Dương (宜阳县), Y Xuyên
(伊川县) Tung (嵩县), Loan Xuyên (栾川县), Nhữ
Dương (汝阳县)
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BA%A1c_D%C6%B0%C6%A1ng
Nghi-dương
34°30'52.82"N
112°10'45.08"E
Tây
Công • Lão Thành • Triền Hà
• Giản Tây • Cát Lợi • Lạc Long
• Yển Sư • Mạnh Tân • Tân An
• Loan Xuyên • Tung • Nhữ Dương
• Nghi Dương • Lạc Ninh • Y Xuyên
http://vi.wikipedia.org/wiki/Nghi_D%C6%B0%C6%A1ng
Nam Dương
32°59'26.63"N
112°31'42.64"E
Ngọa
Long • Uyển Thành • Đặng Châu
• Nam Triệu • Phương Thành • Tây Hạp
• Trấn Bình • Nội Hương • Tích Xuyên
• Xã Kỳ • Đường Hà • Tân Dã
• Đồng Bách
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nam_D%C6%B0%C6%A1ng,_H%C3%A0_Nam_(Trung_Qu%E1%BB%91c)
Bạch Đế
31°
3'31.60"N 109°35'18.40"E
Xuyên Khẩu
31°20'46.09"N
111°30'57.76"E
Phiên Ngung
Thành
22°56'15.79"Bắc 113°23'3.26"Đông
Thủ Phủ
Mê Linh dưới thời Lĩnh Nam của Vua Trưng
20°57'16.49"N 105°33'19.38"E
02
No comments:
Post a Comment