20220801 Nguon goc luat va lich Linh Nam
Nguồn gốc luật và lịch Lĩnh Nam
CẨM-KHÊ DI-HẬN (Q.II: Hồi 78-85)
HỒI THỨ TÁM MƯƠI BỐN
Ba thu gánh vác sơn hà
(Đại-Nam quốc sử diễn ca)
https://trandaisy.wordpress.com/2012/11/15/cam-khe-di-hanq-ii-hoi-78-85/7/
Trích đoạn:
Trưng Đế hỏi Tư-không Nguyễn Tam-Trinh, Tể-tướng Phương-Dung:
– Hiện các lạc vương cai trị dân bằng võ đạo. Ta chưa có luật. Vì
vậy trẫm muốn cùng sư thúc và các sư muội thăm khắp nơi, để hiểu biết dân tình.
Sau đó trở về phiền sư muội soạn ra bộ luật cho Lĩnh-Nam.
Phùng Vĩnh-Hoa tâu:
– Hán có gì hay, ta phải học. Hán có gì dở, ta phải tránh. Hán có
luật, có điển chế triều đình, có lịch nêu rõ chính thống. Ta cũng phải soạn
lịch. Chẳng nên dùng lịch Trung-nguyên.
Phương-Dung biết Phùng Vĩnh-Hoa xuất thân phái Sài-sơn, uyên thâm
văn minh Lĩnh-Nam. Bà hỏi:
– Vấn đề Lịch-số, em có biết qua. Song chưa tường tận. Xin sư tỷ
đừng tiếc công chỉ dạy.
Phùng Vĩnh-Hoa lấy trong bọc ra hai cuốn sách nhỏ, đưa cho
Phương-Dung:
– Đây, hai cuốn sách, dạy cách làm lịch, tính thiên văn của
Lĩnh-Nam từ hơn ngàn năm trước.
Trưng đế ngạc nhiên:
– Ta chưa từng biết qua lịch Lĩnh-Nam. Xin lắng tai nghe sư muội
nói.
Phùng Vĩnh-Hoa tâu:
– Đời Hồng-Bàng, Lĩnh-Nam lập quốc từ năm Nhâm Tuất (2879 trước
Tây lịch). Quốc tổ ra lệnh làm lịch. Ngài tuyên chiếu chỉ: Lịch là kỷ cương của
âm, dương, liên hệ giữa người với trời đất. Mỗi đời vua đều có quan
Thái-sử-lệnh coi việc chép sử. Thiên-văn-lệnh coi xét về mưa nắng, mùa màng.
Lịch-quan-lệnh coi về làm lịch.
Phương-Dung tỏ ý hiểu biết:
– Lịch quan làm lịch. Văn-Lang có lịch riêng từ hồi đó. Đến khi
Triệu Đà đánh dân Âu-Lạc, dân Việt dùng lịch Trung-nguyên. Không biết lịch
Trung-nguyên với lịch Hồng-Bàng có khác nhau không?
– Đại thể giống nhau. Chi tiết khác nhau. Giống nhau vì cùng đặt
trên học thuyết Âm-dương, Ngũ-hành. Khác nhau vì ở vào hai vùng khí hậu nóng,
lạnh.
GHI CHÚ CỦA TÁC GIẢ
Trở lại nguồn gốc, sử sách Trung-nguyên, Lĩnh-Nam đều ghi. Đời Hồng-Bàng,
năm thứ 527 bên Trung-nguyên, niên hiệu vua Nghiêu thứ năm (2353 trước
Tây-lịch). Vua Hùng muốn Trung-nguyên biết về văn minh Văn-Lang, truyền sai
chép cách làm lịch vào lưng một con rùa cực lớn, đem cống. Lưng con rùa lớn tới
ba thước (0,96 mét). Vua Nghiêu sai chép lấy, gọi là Qui-lịch.
Điều mà bà Phùng Vĩnh-Hoa tâu lên Trưng-đế là đúng. Sử Việt đã
ghi. Trong bộ “Khâm-định Việt-sử thông giám cương mục” của Quốc-sử quán triều
Nguyễn, phần Tiền-biên có ghi chép sự kiện này. Sử Trung-quốc chép tương tự.
Sách Thống-chí của Trịnh Tiều (1104-1162) chép đầy đủ. Trịnh Tiều còn nhấn mạnh
rằng: Đó là nguồn gốc lịch Trung-quốc sau này. Như vậy điều Tư-đồ Lĩnh-Nam
Phùng Vĩnh-Hoa tâu lên Trưng đế không phải truyền thuyết nữa, mà là sự kiện
lịch sử.
Phùng Vĩnh-Hoa tiếp:
– Lịch Hồng-Bàng chia ngày làm một trăm khắc. Khắc chia làm một
trăm phân. Phân chia làm một trăm giây. Năm dài 365,2425 ngày. Độ dài của mỗi
tuần trăng bằng 29,53059 ngày. Khi Phò-mã An Tiêm, bị tội, đày ra đảo Hải-nam.
Ngài ngồi ngắm nhật, nguyệt chuyển vận, sửa chữa lịch Hồng-Bàng. Hết hạn lưu
đày, ngài dâng lịch lên vua Hùng. Được vua khen ngợi, truyền sao phát cho các
lạc hầu, dân chúng dùng. Lịch Hồng-Bàng có cơ sở vững chắc tự đó.
GHI CHÚ CỦA TÁC GIẢ
Con số một năm dài 365,2425 ngày, so với con số ngày nay chỉ sai
có hai mươi sáu giây. Tuần trăng dài 29,53059 so với ngày nay chỉ sai có 2%
giây. Đây là lý thuyết. Chứ trên thực tế, ngày nay người ta cũng dùng con số
29,53059.
An Tiêm là Phò-mã của vua Hùng-Vương. Được vua thương yêu, ngài thường
nói:
– Ta sở dĩ được thế này do phúc đức tổ tiên để lại. Do trời thương
ta.
Vua Hùng nổi giận phán:
– Đã vậy ta đày Phò-mã An Tiêm cùng vợ con, tôi tớ ra đảo Hải-nam.
Đảo Hải-nam hồi đó còn hoang dã chưa có người ở. Vợ, con, tôi tớ
đều lo sợ không biết sẽ sống ra sao.
Phò mã phán:
– Trời sinh voi, ắt sinh cỏ.
Bỗng đàn quạ từ một bãi xa bay lên kêu quang quác, đánh rơi xuống
mấy hạt dưa. Ngài cầm lên coi phán rằng:
– Dưa này quạ ăn được. Tất người ăn được.
Phò mã cùng tôi tớ tới bãi đất phía tây đảo coi, quả có nhiều dưa
mọc đầy trái, truyền cắt dưa ăn, mùi vị ngon ngọt. Từ đấy, cùng vợ con, tộc
thuộc trồng trọt sống rất sung túc. Ít lâu sau vua Hùng hối hận. Cho người ra
đảo thăm Phò-mã An Tiêm. Thấy Phò-mã sống sung túc. Sứ về tâu lại, vua truyền
cho ngài trở về lục địa. An-Tiêm coi như tổ sư dân vùng đảo Hải-nam. Dưa ngài
trồng hồi đó, đặt tên Tây-qua. Kỷ niệm con quạ bay từ phương tây lại. Tên Việt
gọi dưa hấu.
Phùng Vĩnh-Hoa tâu tiếp:
– An Tiêm đặt ra dụng cụ tên Trắc thời đồ phân chia giờ, quan sát thiên
hà. Còn bên Trung-nguyên, thời Nghiêu dùng Quy-lịch. Họ cũng sáng chế, thêm
thắt vào. Đến đời Xuân-Thu (770-476 trước Tây-lịch) và Chiến-Quốc (476-255
trước Tây-lịch) mỗi nước dùng một thứ lịch khác nhau. Song căn bản vẫn rút từ
Qui-lịch. Nhà Tần (255-207 trước Tây-lịch) dùng lịch Chuyên Húc. Đến đời Hán.
Niên hiệu Thái-sơ (104 trước Tây-lịch) ban hành lịch Thái Sơ. Lịch Thái Sơ được
dùng một trăm tám mươi tám năm. Đến cuối đời Tây-Hán, Lưu Hâm sửa đổi lại một
lần nữa. Lịch Quang-Vũ hiện dùng do Lưu Hâm làm.
Trưng Đế mừng lắm hỏi:
– Không ngờ Phùng sư muội lại bác học đến thế. Bây giờ sư muội
định dùng lại lịch Hồng-Bàng hay làm lịch mới?
Phùng Vĩnh-Hoa tâu:
– Thời gian bị Hán cai trị. Liệt tổ phái Sài-sơn vẫn tiếp tục
nghiên cứu lịch số, chiêm nghiệm Thiên-văn, chia một năm làm hai mươi bốn tiết
khác nhau. Bởi mỗi tiết có loại khí khác nhau. Căn cứ vào đó mà đặt tên để dân
chúng biết thời tiết, mà làm ruộng, trồng cấy.
Phương-Dung không biết về Lịch-số. Nhưng bà thông minh quán thế.
Hỏi:
– Như vậy các tổ Lĩnh-Nam mình căn cứ vào sự chuyển động của mặt
trời, đặt ra hai mươi bốn tiết khí. Mỗi tiết khí ứng với một phần hai mươi bốn
(1/24) năm. Cứ đến môt khí, khí hậu thay đổi. Người dân biết đó mà lo trồng
cấy, chăn nuôi. Thầy thuốc biết mà ước tính bệnh.
Phùng Vĩnh-Hoa gật đầu:
– Đúng thế! Mùa Xuân có các tiết:
Lập-xuân, Vũ-thủy, Kinh-trập,
Xuân-phân, Thanh-minh, Cốc-vũ.
Mùa hạ có các tiết:
Lập-hạ, Tiểu-mãn, Mang-chủng ,
Hạ-chí, Tiểu-thử, Đại-thử.
Mùa thu có các tiết:
Lập-thu, Xử-thử, Bạch-lộ,
Thu-phân, Hàn-lộ, Sương-giáng.
Mùa đông có các tiết:
Lập-đông, Tiểu-tuyết,
Đại-tuyết,
Đông-chí, Tiểu-hàn, Đại-hàn.
Mỗi tiết dài hơn mười lăm ngày. Hai tiết dài hơn một tháng.
Trưng Đế suy nghĩ một lúc. Ngài hỏi:
– Ta có một thắc mắc: Lịch Hồng-Bàng, lịch An Tiêm đều căn cứ vào
tuần trăng. Mỗi tuần trăng dài 29,53059. Không lẽ mỗi tháng dài hai mươi chín
ngày rưỡi?
Phùng Vĩnh-Hoa vỗ tay vào vai ngài. Tay mới đưa đến nửa chừng vội
giựt lại. Bà chợt nhớ rằng bây giờ ngài không còn là sư tỷ Trưng-Trắc nữa. Mà trở
thành một vị hoàng đế kính yêu của hơn mười triệu người. Trưng Đế thấy vậy,
càng vui hơn. Ngài phán:
– Sư muội! Chúng ta vẫn giữ tình chị em như xưa mà.
Phùng Vĩnh-Hoa chắp tay:
– Đôi khi em quên mất. Đúng như bệ hạ nghĩ. Liệt tổ đặt ra một
tháng ba mươi ngày gọi là tháng đủ. Một tháng hai mươi chín ngày, gọi là tháng
thiếu. Lịch An Tiêm còn gọi ngày không trăng tức mồng 1 là ngày Sóc. Ngày trăng
tròn là ngày Vọng.
Phương-Dung xuất thần, tính toán một lúc. Hỏi:
– Như thế một năm ta có sáu tháng đủ. Sáu tháng thiếu. Cộng ba
trăm năm mươi bốn ngày. Trong khi đó một năm dài 365,2425 ngày. Vậy một năm dư
tới 11,2425 ngày. Thì những ngày đó đi đâu?
Phùng Vĩnh-Hoa gật đầu:
– Có, lịch Hồng-Bàng đã định điều đó. An Tiêm tìm ra rằng cứ mười
chín năm, mặt trăng, mặt trời, lại giao hội nhau tại đúng thời điểm cũ. Khoảng
cách mười chín năm đó, An Tiêm gọi là một Chương. Một chương có hai trăm ba
mươi lăm tháng (235), gồm một trăm mười (110) thiếu, trăm hai mươi lăm (125)
tháng đủ. Cộng sáu ngàn chín trăm bốn chục ngày (6940). Những năm thứ ba, thứ
sáu, thứ chín, thứ mười một, thứ mười bốn, thứ mười bảy, và thứ mười chín là
năm nhuận tức có mười ba tháng.
Trưng Đế hiểu rõ. Ngài phán:
– Phiền sư muội làm một cuốn lịch, đặt tên Lĩnh-Nam đại lịch, khởi
từ năm tới. Vì bây giờ đã gần hết năm rồi, cố hoàn tất trước tháng chín, cho
sao làm nhiều bản. Ta sẽ làm lễ Tiến-lịch trước bàn thờ Quốc-tổ, rồi gửi tới
các Lạc hầu.
Phùng Vĩnh-Hoa hỏi:
– Theo phương pháp chép sử Khổng-Tử, năm tới, mới được kể là niên
hiệu thứ nhất của sư tỷ. Năm vừa qua dù sư tỷ đã lên ngôi vua từ tháng bảy, vẫn
chưa được gọi là năm thứ nhất. Chẳng hay sư tỷ có sửa đổi không, hay vẫn theo
Khổng-Tử.
Trưng Đế phán:
– Khổng-Tử có lý. Ta lên làm vua từ tháng bảy, năm nay, là năm
Kỷ-Hợi (39). Có nghĩa là bảy tháng đầu chưa phải của ta. Năm tới là năm Canh-Tý
(40), mới được kể. Sư muội cứ ghi trên các văn kiện năm nay vẫn thuộc Âu-Lạc.
Từ ngày 1 tháng giêng năm tới hãy ghi niên hiệu ta: Trưng Đế nguyên niên.
Phùng Vĩnh-Hoa tuân chỉ. Bà cho lập tòa Thiên-văn-giám. Truyền cứ
đầu mỗi giờ đánh ba tiếng trống, ba tiếng chiêng, đổi cờ một lần. Giờ tý cờ
đen. Giờ sửu cờ vàng. Giờ dần cờ xanh. Giờ mão cờ tím. Giờ thìn cờ vàng. Giờ tỵ
cờ đỏ. Giờ ngọ cờ hồng. Giờ mùi cờ vàng. Giờ thân cờ ngà. Giờ tuất cờ vàng.
Truyền mỗi huyện mỗi trang đều làm theo.
Vua tôi thời Lĩnh-Nam thường không câu nệ gọi nhau bằng chức tước
khách sáo, mà sống như chị em. Trưng Đế theo đề nghị của Phương-Dung ban chiếu
chỉ xuống các lạc hầu. Ai có ý kiến gì phục hưng đất nước, được gửi biểu tấu về
triều đình. Dân chúng có ý kiến, được đạo đạt lên lạc hầu, lạc công, lạc vương
hoặc triều đình.
Tìm lại nền nội trị, cứ theo các cuốn phổ ghi chú tiểu truyện của
các anh hùng Lĩnh-Nam thời đó. Dân Việt được hưởng cảnh yên vui chưa từng có,
hơn cả thời Hồng-Bàng, Âu-Lạc. Vụ lúa mùa tháng mười năm Kỷ Hợi (39 sau Tây
lịch). Khắp Lĩnh-Nam trúng mùa.
Phải hơn một tháng phủ Đại-tư-đồ mới soạn xong lịch. Công chúa
Nguyệt-đức Phùng Vĩnh-Hoa ra lệnh khắc bản in, rồi trình lên vua Trưng. Ngài
truyền triệu tập tất cả các vị lạc vương, đại tướng quân các đạo, cùng tam
công, tể tướng, lục vị thượng thư, thiết đại triều duyệt xét, trước khi tế
Quốc-tổ, Quốc-mẫu, ban hành vào đầu năm. Phải mất hơn tuần trăng, anh hùng các
nơi mới tề tựu đầy đủ về thủ đô Mê-Linh.
Buổi họp khai mạc tại điện Kinh-dương. Cử tọa theo thứ bậc ngồi
trước bán thờ Quốc-tổ, Quốc-mẫu. Vua Trưng đứng dậy tóm lược ý nghĩa việc ban
hành lịch để nêu rõ chính thống dân tộc. Lịch để cho nhà nông biết thời tiết mà
trồng trọt. Thầy thuốc biết các khí thay đổi, hầu trị bệnh. Ngài nhấn mạnh:
– Ngoài việc ban hành lịch, buổi hội cần có ý kiến các vùng để
soạn thảo bộ luật Lĩnh-Nam. Chúng ta, nhân vì cái nhục vong quốc, cùng nhau
đứng dậy, đòi lại đất tổ. Đòi lại được rồi, chúng ta phải giữ gìn. Giữ gìn
không đủ. Chúng ta cần có bộ luật, là cơ chế tổ chức nền nội trị sao đem lại ấm
no, hạnh phúc cho dân. Chứ dành lại được đất, mà khiến cho trăm họ đói khổ,
điêu linh, thì chúng ta chẳng khác gì bọn Hán cướp nước. Cuộc khởi binh vừa
qua, là một sự lấy bạo tàn thay bạo tàn.
Đầu tiên nói về việc ban hành lịch.
Công chúa Phùng Vĩnh-Hoa thuyết giảng về diễn tiến khoa lịch số từ
thời Hồng-Bàng đến bây giờ, cùng chi tiết việc soạn lịch. Lục Mạnh-Tân được
phong chức Thượng-tân khanh sĩ. Thượng nghĩa là ở trên hết. Tân là khách.
Thượng-tân khanh sĩ tức vị khách quý, cố vấn triều đình. Ông hỏi:
– Bên Trung-quốc, mỗi vua đều đặt niên hiệu riêng. Không biết
Hoàng đế bệ hạ có đặt niên hiệu không?
Vua Trưng phán:
– Không! Trẫm không dùng niên hiệu riêng.
Đại tư-không Nguyễn Tam-Trinh giải thích:
– Hoàng đế bệ hạ đã cùng triều đình bàn định kỹ lưỡng về việc này.
Vua Lĩnh-Nam do quần hùng suy cử chứ không phải như Trung-quốc gọi vua là thiên
tử tức con của trời.
Ông nhấn mạnh về vua ở Trung-quốc:
– Vua được trời ủy nhiệm cai trị dân gian. Dân chúng phải tôn
phục. Tuy vậy không phải cái ý đó lúc nào cũng tồn tại. Như cách đây hơn hai
trăm năm năm. Tần Thủy-Hoàng vô đạo. Anh hùng các nơi nổi dậy như ong. Nhân sĩ
Trung-quốc coi đất nước, dân chúng như con hươu. Tần Thủy-Hoàng đánh mất. Anh
hùng tranh nhau ngôi vua, ví như đuổi hươu. Bởi vậy mới có câu: Tần thất kỳ
chính, quần hùng trùng lộc nghĩa rằng: nhà Tần mất chính trị. Anh hùng thi nhau
đuổi hươu. Cuối cùng các anh hùng đều bại, chỉ có Lưu Bang với Hạng Vũ. Lưu
Bang thắng, tức bắt được hươu, chứ chẳng phải con trời, con đất gì cả.
Vua Trưng phán với các anh hùng:
– Thời vua Hùng, quốc hiệu là Văn-Lang. Đến vua An-Dương, quốc
hiệu là Âu-Lạc. Nay chúng ta đã dùng quốc hiệu Lĩnh-Nam. Vì vậy khi làm lịch,
công chúa Nguyệt-Đức mới gọi năm tới là Lĩnh-Nam nguyên niên. Còn trẫm thì cứ
gọi hoàng đế Lĩnh-Nam đệ nhất. Sáu năm sau quần hùng suy cử người kế tiếp. Vị
đó sẽ là hoàng đế Lĩnh-Nam đệ nhị.
Ngài quay lại nói với đại tư không Nguyễn Tam-Trinh:
– Trong các vị đây, chú là người nghe nhiều, hiểu rộng. Văn tài
lại lỗi lạc. Đúng là đức bác thánh văn. Vậy xin chú đừng tiếc công nói cho trẫm
với các vị hiện diện hôm nay về nguồn gốc tư tưởng con trời của Trung-quốc.
Nguyễn Tam-Trinh cảm động nhìn vua Trưng, muốn rơi nước mắt.
Nguyên từ khi lên ngôi vua. Đối với người không thân thiết, ngài thường gọi
bằng chức tước. Thân hơn chút nữa, ngài dùng lối xưng hô trong võ đạo. Còn đối
với người quá thân thiết, ngài thường dùng những danh từ bình dân, như trong
gia đình. Hôm nay, trước mặt quần thần. Ngài gọi ông là chú, hỏi sao ông không
cảm động.
Ông đứng dậy, nói lớn:
– Trung-quốc có Tứ thư và Ngũ kinh. Ngũ kinh gồm Thi, Thư, Lễ,
Nhạc và Xuân-Thu. Quan niệm của họ thì kinh là những khuôn vàng thước ngọc,
không thể sửa đổi. Trong Kinh-thư có thiên Vũ-cống, bày tỏ đầy đủ quan niệm về
đất nước, vua chúa.
Ông móc trong túi ra bộ Kinh-Thư rồi tiếp:
– Kinh-thư thiên Vũ-cống gọi thế giới là phía dưới của trời, tức
thiên hạ. Thời cổ, lãnh thổ Trung-quốc không bằng một phần trăm ngày nay. Nhưng
vì các văn nhân không đi ra ngoài, tưởng đâu thế giới chỉ có một mình
Trung-quốc. Vì vậy Trung-quốc là thiên hạ. Thiên hạ là Trung-quốc. Thiên hạ ở
giữa, bốn phía là biển. Cho nên Trung-quốc còn gọi là hải nội. Nước khác là hải
ngoại.
Bình-ngô đại tướng quân, công chúa Thánh-Thiên, hiện thống lĩnh
binh mã vùng Nam-hải xen vào:
– Lúc đầu, người Hoa họ dùng danh xưng hải nội, hải ngoại để phân
biệt Trung-quốc với nước khác. Danh xưng đó ngày nay người Việt mình cũng dùng.
Trong nước Lĩnh-Nam mình thì gọi là hải nội khi sang Trung-quốc thì gọi là ra
hải ngoại.
Nguyễn Tam-Trinh tiếp:
– Vẫn bộ Kinh-Thư, thiên Vũ-Cống chia thiên hạ làm chín châu.
Người Trung-quốc dùng khoảng cách chia xã hội thành năm cõi gọi là Ngũ phục.
Mỗi cõi rộng năm trăm dặm. Đông, tây, nam, bắc, cách nhau năm trăm dặm. Năm cõi
có tên gọi là Điện-phục, Hầu-phục, Tuy-phục, Yêu-phục, Hoang-phục.
Trấn-viễn đại tướng quân, Tây-vu công chúa Hồ Đề ngắt lời Nguyễn
Tam-Trinh:
– Thưa bác, như vậy người Hoa họ tự coi mình là trung tâm thiên
hạ. Cho nên nước họ mới xưng là Trung-quốc tức nước ở chính giữa. Còn bốn bên
đông, tây, nam, bắc, đều có Điện-phục. Nghĩa là có tới bốn cõi Điện-phục. Cõi
Điện-phục ở ngoài kinh thành nhà vua năm trăm dặm.
– Đúng thế! Ngoài Điện-phục là Hầu-phục. Cõi Hầu ở ngoài cõi Điện
năm trăm dặm. Trong năm trăm dặm cõi Hầu, thì khoảng cách trăm dặm gần phong
thái ấp cho quan khanh đại phu. Tiếp theo hai trăm dặm nữa phong cho các vương
có tước Nam. Còn lại hai trăm dặm phong cho chư hầu.
Hổ-oai đại tướng quân, thống lĩnh đạo binh Nhật-nam Trần Quế-Hoa
bật cười:
– Với lối phân chia lẩm cẩm của một văn gia thời thượng cổ bên
Trung-quốc, không ngờ ngày nay lại thành kinh. Người Hán triệu bộ óc như một,
đều coi là không thể sửa đổi.
Nguyễn Tam-Trinh tiếp:
– Công chúa Nghi-Hòa nói thực phải. Tất cả những gì là thiên hạ,
thiên tử… đều do mấy văn gia nghĩ, rồi đặt ra cả… Tôi xin tiếp: kế đó là cõi
Tuy. Cõi Tuy ở ngoài cõi Hầu năm trăm dặm. Trong ba trăm dặm gần là nơi truyền
bá văn chương, giáo hóa quần chúng. Còn hai trăm dặm, để hưng thịnh võ bị bảo
vệ quốc gia.
Uy-viễn đại tướng quân Vũ Trinh-Thục hỏi:
– Thưa sư bá, nguồn gốc trọng văn khinh võ của Nho gia phát xuất
từ sự phân chia này, có phải không?
Nguyễn Tam-Trinh đưa mắt nhìn Thượng-tân khanh sĩ Lục Mạnh-Tân. Ý
muốn để ông trả lời. Lục Mạnh-Tân hướng vào Vũ Trinh-Thục:
– Thưa công-chúa Bát-Nàn, đúng thế. Các vua thời Đông-chu,
Chiến-quốc vì nhu cầu chiến tranh, đều trọng võ hơn văn. Đến đời Hán. Sau khi
thắng Hạng Vũ, vua Cao-Tổ trở lại trọng văn. Vì võ chỉ để dẹp giặc, khi giặc
yên, cần dùng văn, hầu tổ chức cai trị.
Nguyễn Tam-Trinh mỉm cười tỏ ý cám ơn Lục Mạnh-Tân rồi tiếp:
– Tiếp đến là cõi Yêu. Cõi Yêu ngoài cõi Tuy năm trăm dặm. Trong
ba trăm dặm gần cho dân mọi rợ phương đông ở. Còn hai trăm dặm kế tiếp cho
người có tội bị đầy.
Đại đô-đốc Lĩnh-nam Trần Quốc bật cười:
– Thưa sư bá! Như vậy thì từ kinh đô của Hoàng-đế đến quê hương
của đức thánh Khổng cách nhau gần hai nghìn dặm. Vậy Khổng-Tử cũng là mọi rợ
sao?
Nguyễn Tam-Trinh lại liếc nhìn Lục Mạnh-Tân. Lục Mạnh-Tân cười:
– Thưa công-chúa Gia-Hưng đây là Kinh-thư nói. Kinh-thư đâu có
hoàn toàn đúng. Vả lại chính Khổng-Tử còn tự xưng mình ở đất Đông-di. Tức mọi
rợ phương đông.
Nguyễn Tam-Trinh cũng mỉm cười:
– Cõi cuối cùng là cõi Hoang. Cõi Hoang ngoài cõi Yêu năm trăm
dặm. Trong ba trăm dặm gần cho mọi rợ phương nam ở. Còn hai trăm dặm cạnh đấy
dùng để đầy những người mắc tội nặng. Đấy, tất cả năm cõi theo lối phân chia
bệnh hoạn của văn gia thời khởi thủy. Kinh-Thư được coi là kinh, xâm nhập sâu
xa vào tư tưởng người Hán. Cũng ví như chúng ta, Quốc-tổ có tên là
Lạc-Long-Quân. Phải hiểu chữ long ở đây có ý nghĩa tượng trưng. Chứ đâu có phải
Quốc-tổ là loài rồng?
Thuần-Chính hoàng thái-hậu Hoàng Thiều-Hoa liếc nhìn Bắc-bình
vương Đào Kỳ rồi hỏi Nguyễn Tam-Trinh:
– Thưa bác. Cách đây hơn mười năm. Khi Đào trang bị đánh tan nát.
Cháu cùng tiểu sư đệ theo sư bá Phạm Bách đi từ Cửu-chân ra Hoa-lư. Dọc đường
sư bá dẫn cháu vào hang Địch-lộng, cùng viếng đền thờ Quốc-tổ. Cháu thấy tượng
Quốc-tổ, đầu giống đầu rồng. Còn Quốc-mẫu thì giống chim âu. Lối tượng trưng
tiên, rồng này như thế nào?
Nguyễn Tam-Trinh chỉ công chúa Vĩnh-Huy, lĩnh chức Lại-bộ thượng
thư nói:
– Tâu thái-hậu. Trong phái Sài-sơn của chúng tôi có tám anh chị
em. Được người Việt gọi là Tám vị thái bảo. Mỗi người một sở trường. Đại sư tỷ
Nam-hải nữ hiệp chuyên về đạo đức. Trong cuộc chiến vừa qua tuẫn quốc tại
Phiên-ngung. Nam-thành vương chuyên về chính trị đã tuẫn quốc tại Ký-hợp. Còn
sư muội Vĩnh-Huy chuyên về triết lý, lịch sử. Xin sư muội trả lời dùm:
Công-chúa Vĩnh-Huy nghiêm trang nói:
– Tâu Thái-hậu. Nói về nguồn gốc dân Việt mình, cần phải trở về
thời vua Hùng. Thế giới chúng ta ở được gọi là vũ trụ. Vũ trụ phân âm dương. Âm
dương là đạo tự nhiên của trời đất. Có ngày ắt có đêm. Có nước ắt có lửa. Có
nam ắt có nữ. Mỗi dân tộc tìm lấy một biểu tượng. Dân Lào lấy biểu tượng là con
voi. Dân Chiêm lấy biểu tượng là con cọp. Dân Hán lấy biểu tượng là con rồng.
Tất cả chỉ có một. Còn dân Việt mình lại có hai, rồng tượng trưng cho cha, cho
trời, cho nam, cho dương. Tiên Âu-Cơ tượng trưng cho mẹ, cho đất, cho nữ, cho
âm. Âm-dương là lẽ biến hóa của trời đất. Cũng như truyện bánh chưng, bánh dầy
vậy.
Vua Trưng hỏi Đại tư-đồ Phùng Vĩnh-Hoa:
– Này Vĩnh-Hoa! Thế nguồn gốc tư tưởng nói về vua là con trời,
chép ở sách nào bên Trung-quốc?
Công chúa Nguyệt-Đức tâu:
– Tâu bệ hạ, nguồn gốc tư tưởng đó cũng phát xuất từ Kinh-thư,
thiên Thái-thệ nói rằng:
Trời sinh ra dân,
Đặt ra vua, ra thầy,
Đều để giúp thượng đế,
Vỗ về dân bốn phương.
Trong sách Tả-truyện. Tả Khâu-Minh cũng viết Trời làm chủ thiên
hạ. Vua nối trời mà cai trị. Kẻ chịu mệnh trời thống trị thiên hạ là Thiên tử.
Sách Mạnh-tử thiên Ly-lâu nói: Thiên hạ là quốc gia. Gốc của thiên hạ ở quốc.
Gốc của quốc ở gia.
Lục Mạnh-Tân tiếp lời công chúa Nguyệt-Đức:
– Đến thời Chiến-quốc, thì người Hán không còn tin vào Kinh-thư mà
cho rằng thiên hạ là Trung-Quốc nữa. Trong bộ Sử-ký của Tư-mã Thiên, quyển thứ
bảy mươi bốn Mạnh-tử, Tuân-Khanh liệt truyện, chép Trâu Diên đã nhận xét rằng
Cái mà người ta gọi là Trung-quốc chỉ chiếm một phần tám mươi mốt của thiên hạ.
Tuy vậy bọn vua chúa vẫn cứ ôm lấy Kinh-thư để bảo vệ ngôi vua cho giòng họ
mình. Như thời Tây-Hán, các đời Tuyên-đế, Thành-đế, Bình-đế thực là con chồn,
con cáo ngồi trên đầu trăm họ. Vì vậy, hôm nay các vị anh hùng Lĩnh-Nam tề tựu.
Cần soạn lấy bộ luật sao đem lại hạnh phúc cho dân.
Vua Trưng hướng Lục Mạnh-Tân xá một xá:
– Đa tạ Lục tiên sinh. Trẫm cũng đang nghĩ thế. Vua không phải để
ngồi trên đầu trên cổ trăm họ. Vua phải là người vì trăm họ, đứng ra mưu tạo hạnh
phúc. Ý nghĩ, việc làm của vua không phải lúc nào cũng hay, cũng đúng. Dường
như Mạnh-Tử có nói Dân mới quý, sau đến xã tắc. Vua thì coi nhẹ thôi.
Lục Mạnh-Tân nhắc lại nguyên câu văn:
– Dân vi quý, xã tắc thứ chi. Quân vi khinh.
Bắc-bình vương Đào Kỳ bàn:
– Dĩ nhiên luật Lĩnh-Nam phải lấy căn bản từ luật vua Hùng vua
An-Dương. Song nếu thấy Trung-nguyên có gì hay, ta cũng nên thu thái. Họ có gì
dở, ta cũng phải tránh. Bây giờ hãy bàn thêm về những gì dở của Trung-quốc đã.
Nói đến đó Vương liếc nhìn thầy là Lục Mạnh-Tân. Hai thầy trò cùng
mỉm cười, tỏ ý tương thông. Nguyễn Tam-Trinh đứng lên thuyết trình tiếp:
– Tôi xin trở lại với Cửu châu và ngũ phục. Trong năm cõi trên,
thì cõi Điện là vùng bao quanh trung tâm Thiên hạ. Phía trong cõi Điện là Giao.
Trong Giao một trăm dặm là Quốc. Trong Quốc có thành gọi là Đô. Đó là nơi vua
ở. Vì vậy họ mới xưng là Trung-quốc. Tức nước ở giữa thiên hạ. Ngày nay chúng
ta có danh từ Trung-quốc, Trung-nguyên, Trung-hoa. Còn danh từ Hoa hạ có nghĩa
là Trung tâm của thiên hạ, đẹp đẽ nhất. Tức chỉ văn minh Trung-quốc. Những
người Hán chịu ảnh hưởng sách vở cổ, nêu ra lý thuyết Nội Hoa-hạ ngoại Di-địch
nghĩa rằng trong là Trung-quốc. Ngoài Trung-quốc đều là Man-di, mọi rợ.
Ông nhìn Lục Mạnh-Tân:
– Xin Lục tiên sinh giải thích rõ hơn về danh xưng Hoa-hạ. Chữ Hoa
ở đâu mà ra?
Lục Mạnh-Tân đứng dậy đáp:
– Thời cổ tộc của Trung-quốc cư ngụ ở vùng lưu vực sông Hoàng-hà.
Xung quanh là các sắc dân kém văn minh. Vì họ tự hào có lễ, nghĩa, văn minh hơn
các tộc khác. Họ xưng nước là Hoa-hạ. Họ nói rằng:
Miện phục thái chương viết hoa,
Đại quốc viết hạ.
Nghĩa là: Áo mũ đẹp đẽ viết Hoa. Nước lớn viết Hạ.
Khổng-Tử nói Di bất loạn Hoa Nghĩa là các dân tộc Man-di tức những người ở cõi
Yêu nói trên, không được xâm phạm đất văn minh tức Hoa-hạ. Bọn người hủ lậu
nhân đó gọi các tộc xung quanh bằng danh từ xấu như Di, Địch, Khuyển, Nhung,
Man, Mạch v.v. Cứ như chữ viết, Man là loại sâu bọ. Địch là loại chó. Ngay
trong bộ Kinh-lễ đã định hẵn danh xưng cho từng vùng. Ở giữa là Hoa-hạ. Xung
quanh đều là Di-Địch cả. Thiên Vương chế nói:
– Đông phương viết Di. Nghĩa rằng: Đông phương gọi là Di.
– Tây phương viết Nhung. Nghĩa rằng: Tây phương gọi là Nhung.
– Nam phương viết Man. Nghĩa rằng: Nam phương gọi là Man.
– Bắc phương viết Địch . Nghĩa rằng: Bắc phương gọi là Địch.
Giòng giống Bách-Việt ở phương Nam, bị họ gọi là Nam-man. Sự thực
Trung-quốc khởi từ châu Ung, Lương, đông-nam là Hoa-âm, đông-bắc là Hoa-dương,
tới Hoa-sơn là giới hạn. Vì vậy tên nước lấy chữ Hoa. Sau vì có văn minh, họ
chiếm dần các đất xung quanh, rồi mới có danh từ chín châu như trong Kinh-thư.
Hoa là tên nước, không phải tên chủng tộc. Tên Hạ thực do vì sông Hạ-thủy mà
có, vốn gốc ở Ung-lương. Do tên nước Hạ-thủy lấy làm tên tộc. Không phải danh
hiệu quốc gia. Đến đời Lưu Bang dựng nghiệp nhà Hán ở đất Hán-trung. Đối với
Hạ-thủy thì cùng đất đối với Hoa-dương thì đồng châu. Vì vậy mới có tên là
Hoa-hạ.
Triều đình Lĩnh-Nam gồm những người văn mô vũ lược. Dù văn minh
Trung-quốc, Lĩnh-Nam, họ đều thông hiểu. Song vì mỗi người xuất thân một phái,
có cái học khác nhau. Vì vậy họ chỉ đồng tâm về việc phục quốc, mà không đồng
kiến thức về Trung-quốc, Lĩnh-Nam. Trước đây, vì Nhâm Diên, Tích Quang chủ tâm
đồng hóa đất Lĩnh-Nam với Trung-quốc bằng văn hóa. Vì vậy các anh hùng thấy văn
hóa Trung-quốc sinh thù hận. Bây giờ họ mới hiểu, tư tưởng Trung-quốc phát xuất
từ những văn gia cổ thời. Vì không đi xa quá vùng cư trụ, nên các văn gia mới
viết những điều hủ lậu. Rồi bọn vua quan, muốn duy trì quyền hành, đã ôm lấy
những điều đó, coi là kinh.
Vua Trưng hướng vào Đại tư đồ Phùng Vĩnh-Hoa:
– Công-chúa Nguyệt-Đức. Bây giờ em hãy trình bày về luật pháp dưới
đời vua Hùng như thế nào?
Phùng Vĩnh-Hoa kính cẩn tâu:
– Trước hết nguồn gốc của người Việt chúng ta. Đầu tiên triều đại
Phục-Hy rồi tới Thần-Nông. Hai vị đều là Quốc-tổ của Trung-quốc lẫn Lĩnh-Nam.
Đến đời vua Đế-Minh, cháu ba đời vua Thần-Nông, đi tuần thú phương nam, đến núi
Ngũ-lĩnh, kết hôn với một nàng tiên, sinh hạ Thái tử Lộc-Tục. Ngài lập đàn tế
cáo trời đất, rồi phong con trưởng làm vua phương Bắc tức vua Đế-Nghi (2889
trước Tây-lịch), Lộc-Tục làm vua phương nam tức vua Kinh-Dương (2879 trước
Tây-lịch). Vậy vua Kinh-Dương lên làm vua lúc mười tuổi. Sau này đổi hiệu là
Lục-Dương vương. Vua Kinh-Dương, kết hôn với con gái vua Động-Đình, sinh ra
thái tử Sùng-Lãm. Thái tử Sùng-Lãm lấy công chúa Âu-Cơ, con vua Đế-Lai sinh ra
trăm con.
Trấn-viễn đại tướng quân Hồ Đề hỏi:
– Này Nguyệt-Đức. Chị nghĩ dầu là thời cổ đi chăng nữa, làm sao
Quốc-mẫu sinh ra được trăm con? Không lẽ mỗi năm sinh mười người? Không lẽ
Quốc-mẫu đẻ như gà?
Câu hỏi của Hồ Đề làm mọi người cười ồ lên.
Phùng Vĩnh-Hoa mỉm cười:
– Chị hỏi vậy thực phải. Theo luật Lĩnh-Nam hồi đó thì, một người
đàn ông có quyền lấy nhiều vợ. Con cái sinh ra đều gọi người vợ cả là mẹ, còn
gọi mẹ đẻ ra mình là dì, cô, đôi khi bằng chị. Quốc-tổ có chính cung hoàng hậu
Âu-Cơ, nhiều phi tần. Ngài có trăm con. Sử không ghi rõ Quốc-mẫu Âu-Cơ sinh ra
bao nhiêu người.
Giao-chỉ vương Trưng Nhị hỏi:
– Sử Lĩnh-Nam khởi chép từ Quốc-tổ Lạc-Long-Quân, Quốc-mẫu Âu-Cơ.
Tại sao không chép từ thời Phục-Hy. Hay từ khi lập quốc là vua Kinh-Dương là
Quốc-tổ? Em cần giải thích rõ ràng hơn.
Công chúa Phùng Vĩnh-Hoa trịnh trọng bưng ra chiếc hộp bọc gấm. Bà
để xuống, mở nắp. Trong hộp có một trăm cái thẻ bằng vàng. Trên các thẻ khắc
chữ chằng chịt. Bà nói:
– Sử Lĩnh-Nam chép thời kỳ lập quốc khởi từ Quốc-tổ Lạc-Long-Quân,
Quốc-mẫu Âu-Cơ. Vì dù vua Kinh-Dương lên làm vua, tuyên bố quốc hiệu. Song điển
chế, luật pháp vẫn giữ y nguyên của triều đại Thần-Nông phương Bắc. Khi Quốc-tổ
Lạc-Long-Quân còn là thái tử Sùng-Lãm. Ngài chu du khắp đất nước. Bắc tới hồ
Động-đình, qua Nam-hải, đến Nhật-nam, sưu tầm phong hóa, tục lệ của từng vùng.
Sau khi lên ngôi vua, ngài mới nhân đó ban hành bộ luật mang tên Nam-Thiên bách
tộc đại luật. Thường gọi tắt là Nam-luật. Tại sao lại một trăm tộc? Vì kể từ
bắc xuống nam. Từ đông sang tây, đất Lĩnh-Nam có trăm bộ tộc. Mỗi bộ tộc có
luật lệ, phong tục khác nhau. Ngài lại có trăm con, phong mỗi con làm vua một
bộ tộc. Cho nên chúng ta có danh xưng Bách-Việt. Mỗi bộ tộc có tên khác nhau.
Dân chúng trong vùng đó, dùng tên bộ tộc làm họ. Nên chúng ta có trăm họ. Như
tôi họ Phùng, vì tổ tiên ở đất Phùng.
Bà ngưng một lát cho cử tọa theo kịp rồi tiếp:
– Sử gia Lĩnh-Nam cho rằng thời Kinh-Dương chưa có luật lệ, điển
chế. Vì vậy chưa thể coi là một quốc gia hoàn toàn. Đến Lạc-Long-Quân, có luật
lệ, điển chế, triều nghi, mới coi là một nước. Vì vậy sử gia Lĩnh-Nam coi
Lạc-Long-Quân, Âu-Cơ là hai vị tổ dựng nước.
Lục Mạnh-Tân cầm một thẻ vàng trong bộ Nam-luật lên coi, rồi lắc
đầu:
– A! Chữ Khoa-đẩu của Lĩnh-Nam. Tôi không học, thành ra không đọc
được. Không biết chữ Khoa-đẩu có tự bao giờ?
Nguyễn Tam-Trinh nói:
– Có từ thời Lạc-Long-Quân. Chính ngài chế ra chữ Khoa-đẩu. Tất cả
người Việt đều học chữ này. Thời gian Triệu Đà cai trị, cho đến Nhâm Diên, Tích
Quang đều cấm không cho học. Nhưng các gia, các phái vẫn dạy con em. Vì nếu
người Việt không biết chữ Khoa-đẩu coi như văn minh gần ba nghìn năm của
Lĩnh-Nam mất hết. Kinh điển, thư tịch, luật lệ, điển chế cùng tư tưởng, văn học
không ai đọc được nữa, đất nước sẽ trở thành man mọi.
Lục Mạnh-Tân hỏi:
– Chữ Khoa-đẩu với chữ Hán khác nhau thế nào?
Nguyễn Tam-Trinh đáp:
– Chữ Hán viết theo lối tượng hình. Như chữ mộc thì giống như một
cây, có cành, có rễ v.v. thành ra học rất khó khăn. Phải mất từ ba tới năm năm
mới đọc được sách. Còn chữ Khoa-đẩu tượng thanh. Chỉ cần học ba tháng là đọc
thông thạo ngay.
GHI CHÚ CỦA TÁC GIẢ:
Văn tự Khoa-đẩu mà Nguyễn Tam-Trinh nói, đối với chúng ta hoàn
toàn xa lạ. Song thời Lĩnh-Nam, vẫn còn thịnh hành. Triệu Đà đánh Âu-Lạc, muốn
đồng hóa dân Việt thành dân Hán. Y đã cấm học chữ Khoa-đẩu, cưỡng bách dùng
Hán-văn trong công văn, thư tín.
Song phép vua, thua lệ làng. Người Việt vẫn lén lút dạy con cháu.
Xét các cuộc khai quật từ Quảng-nam, Thanh-hóa, đến Hòa-bình, Vân-nam,
Trường-sa, thì văn minh Bách-Việt rực rỡ như Trung-nguyên. Nào kinh, nào triết,
nào văn, nào sử, như trăm hoa đua nở vào thời các vua Hùng. Đến đời vua
An-Dương càng rực rỡ thêm.
Thế nhưng Triệu Đà đã thu tất cả thư tịch cổ đốt đi, cùng với lệnh
cấm học văn tự Khoa-đẩu. Triệu Đà bị Hán diệt. Các thái-thú đời Hán càng tiếp
tục đàn áp bằng văn hóa. Một mặt đem văn minh Trung-quốc bắt dân Việt học theo.
Đem chữ Hán, sách Hán cưỡng bách học.
Sau khi vua Trưng tuẫn quốc. Các quan lại người Hán bắt dân chúng
lập đền thờ Nhâm Diên, Tích Quang. Mồng một, ngày rằm bắt đến đền thờ lễ bái.
Lại còn viết sách nói rằng trước đó dân Việt vốn mọi rợ, chỉ biết lễ nghĩa từ
khi có Nhâm Diên, Tích Quang sang. Các sử gia vô trách nhiệm sau này, cứ theo
đó thuật lại. Chỉ độc giả Anh hùng Lĩnh-Nam,Cẩm-Khê di hận mới biết rõ mà thôi.
Hơn một thế kỷ trước, học giả Trương Vĩnh-Ký đã viết như sau:
Những chữ dân ta dùng thời đó là những loại chữ ghi âm, mà hiện
nay còn di tích trên nhiều bản ghi khác. Trong số đó có một tấm bia đá dựng
trên núi Đá-bia. Sau khi chiếm nước ta. Một trong những công việc đầu tiên của
viên tướng Trung-quốc là bắt buộc dùng chữ Hán trong công văn chính thức, cũng
áp dụng những biện pháp nghiêm khắc để ngăn cấm thứ chữ ghi âm mà dân ta vẫn
dùng trong thời kỳ ấy. Do đó chữ Hán hiện nay dùng trong nước vốn từ người Hán
dùng sức mạnh cưỡng bắt dân ta phải theo.
(P.J.B Trương-vĩnh-Ký, trong bộ Abrégé de grammaire annamite do
Saigon imprimerie Impériale in năm 1867 trang 7-8).
Vĩnh-Hoa tiếp:
– Bộ Nam-thiên bách tộc đại luật áp dụng trong suốt từ năm
Nhâm-Tuất (2879 trước Tây lịch) đến năm Quý-Mão (258 trước Tây lịch), trải hai
ngàn sáu trăm hai mươi hai năm. Khi vua An-Dương đánh vua Hùng lập nước Âu-Lạc,
ngài vẫn cho dùng bộ Nam-luật. Bộ Nam-luật áp dụng đến năm Quý-Tỵ (208 trước
Tây-lịch) tức thêm năm mươi năm nữa. Cộng lại hai ngàn sáu trăm bẩy mươi hai
năm (2672). Khi Triệu Đà đánh Âu-Lạc. Y xuất thân là chức quan của Tần
Thủy-Hoàng, vì vậy y cho áp dụng luật đời Tần bên Trung-quốc. Luật Trung-quốc
thì tôi không rành cho lắm.
Triều đình cùng đưa mắt nhìn Lục Mạnh-Tân. Ông cũng lắc đầu. Chỉ
có Hoàng Thiều-Hoa mỉm cười:
– Mấy năm nay, tôi từng đến Lạc-dương vấn an Hàn thái-hậu. Nhân
nhàn rỗi, tôi có nghiên cứu về luật Trung-quốc. Có thể nói tất cả luật lệ, điển
chương Trung-quốc đều để ở điện Gia-đức. Chỉ có hoàng đế, thái tử, công chúa
cùng tam công, tể tướng, thượng thư được đọc mà thôi. Tôi phải nhờ Hàn thái-hậu
với Chu Tường-Qui mượn cho đọc. Nhân đó tôi cho sao chép đầy đủ.
Bà lấy trong bọc ra mấy bộ sách, để trước mặt:
– Trung-quốc có luật cùng thời với Lĩnh-Nam. Tức luật Thần-Nông.
Đến đời Hoàng Đế (2550 trước Tây-lịch) cũng từng ban hành luật. Đời Hạ
(2140-1711 trước Tây-lịch), Thương (1711-1066 trước Tây-lịch), Chu (1066-255
trước Tây-lịch) đều có luật lệ. Đến nay các bộ luật trên không còn nữa.
Bà đưa ra tập sách mỏng tiếp:
– Đây là bộ luật nước Trịnh, do Tử Sản soạn (536 trước Tây-lịch).
Bộ luật nước Tần do Triệu Dương-Hoán soạn, khắc vào đỉnh (513 trước Tây-lịch).
Bộ luật Trúc-hình do Đặng Tích soạn cho nước Trịnh (501 trước Tây-lịch) khắc
vào thẻ trúc.
Bà đưa ra tập sách thứ nhì:
– Đến đời Chiến-Quốc (403-232 trước Tây-lịch) Lý Khôi soạn ra bộ
Pháp-kinh. Bộ Pháp-kinh chia làm sáu thiên:
1. Đạo pháp (tội trộm).
2. Tặc pháp (tội cướp).
3. Tư pháp (hình phạt tù).
4. Bộ pháp (thủ tục).
5. Tập pháp (luật linh tinh).
6. Cư pháp (định nghĩa).
Khi soạn ra bộ Pháp-kinh, Lý Khôi đã tham khảo các bộ luật đương
thời của nước Ngụy, Trịnh về hình luật, nước Tần về thủ tục. Nước Chu về trộm
cướp, định nghĩa. Bộ Pháp-kinh Lý Khôi soạn cho Ngụy Văn-Công (424-387 trước
Tây-lịch). Song các pháp gia đời Thủy-Hoàng, đời Tây-Hán cho đến nay đời
Đông-Hán đều lấy đó làm căn bản.
Nói về luật lệ là vấn đề khô khan, tẻ lạnh. Song một là Hoàng
Thiều-Hoa đẹp như tiên. Hai là tiếng của bà trong, ngọt như cam thảo. Nên dù
người ít đọc sách như Trấn-viễn đại tướng quân Hồ Đề, mà cũng theo dõi kịp.
Thiều-Hoa tiếp:
– Đến đời Cao-tổ nhà Hán (206-194 trước Tây-lịch). Thừa-tướng Tiêu
Hà sửa đổi luật Lý Khôi, thêm vào ba chương nữa là:
1. Hộ luật, nói về kiểm tra dân số, giá thú, gia tộc.
2. Hưng luật, nói về thuế khoa, triều cống.
3. Khái luật, nói về quân đội, chuyên chở, chuồng voi, chuồng ngựa
v.v.
Bộ Pháp-kinh có sáu thiên. Nay thêm ba thiên nữa thành chín thiên.
Vì vậy người ta gọi luật thời Hán Cao-tổ là luật Tiêu Hà hay Cửu chương luật.
Bà đưa ra tập sách nữa:
– Kịp khi vua Quang-Vũ trung hưng nhà Hán. Giữa lúc đại ca Tự-Sơn
đem quân đánh Kinh-châu. Quang-Vũ thấy đại nghiệp sắp thành, mới sai sứ đến
Kinh-châu hỏi về việc canh cải luật. Đại ca Tự-Sơn đề nghị sửa chữa, thêm bớt
một số điều. Nhất là định rõ quyền hạn, tổ chức hậu cung, hầu tránh nạn Vương
Mãng. Song bản chất vẫn giữ nguyên như bộ Cửu-chương luật.
Tổng trấn Luy-lâu Quách A hỏi:
– Không biết nội dung bộ Nam-luật như thế nào?
Nguyễn Tam-Trinh đáp:
– Khác nhiều lắm. Thứ nhất về nguyên tắc, thứ nhì về tổ chức. Về
nguyên tắc thì bộ Nam-luật đặt trên căn bản tục lệ và nhân trị. Bộ Pháp-kinh
đặt căn bản trên uy quyền và pháp trị. Tục lệ là gì? Khi một số người sống
chung với nhau, lâu ngày tự nó có những giao ước không thành văn, dần dà biến
thành tục lệ. Quốc-tổ đã chu du thăm trăm khu vực khác nhau. Sưu tầm phong tục,
luật lệ của họ, về thu lại thành bộ luật chung. Còn bộ Pháp-kinh đặt trên uy
quyền. Vua muốn thế nào, thì cứ ban luật, dân chúng phải tuân theo.
Bắc-bình vương Đào Kỳ hỏi:
– Điều này cháu đã nghe biết qua. Khi vua chúa ngồi trên, đặt ra
luật, trái với tập tục, bắt dân tuân. Dĩ nhiên họ không tuân, thế là họ bị bắt
tội. Do vậy bên Trung-quốc hay xảy ra cảnh dân làm loạn. Thưa bác thế còn nhân
trị, pháp trị là gì?
Nguyễn Tam-Trinh tiếp:
– Luật đặt căn bản nhân trị, mục đích giáo hóa dân chúng hơn là
dùng hình pháp bắt tuân theo. Vua phải biết tu thân, làm gương cho người trong
nhà theo. Đó là đạo tề gia. Gia đình mình làm gương cho lân bang, cho cả nước
bắt chước. Đó là đạo trị quốc. Nước mình thanh bình, vua tôi đạo đức, khiến
thiên hạ hướng về. Đó là đạo bình thiên hạ. Những điều này chép đầy đủ trong
sách Đại-học.
Bắc-bình vương Đào Kỳ nhìn Lục Mạnh-Tân. Vương chập chờn sống lại
thời thơ ấu, phải phiêu bạt làm tôi tớ tại Thái-hà trang. Được Lục Mạnh-Tân yêu
thương, tận tâm dạy dỗ. Lục còn dặn Vương:
– Với chí khí của con, sau này con sẽ thành đại nghiệp. Đại nghiệp
thành, con nên dùng nhân đức trị dân. Chứ đừng dùng hình pháp như nhà Tần, nhà
Hán bên Trung-nguyên.
Vì vậy Vương đỡ lời Nguyễn Tam-Trinh:
– Phò-mã An Tiêm đã từng nói: Người ta sinh ra vốn chưa biết gì
cả. Khi lớn lên, tiêm nhiễm thói xấu, thành ra phạm tội. Cần phải giáo hóa. Bên
Trung-quốc, sau đó gần hai nghìn năm, Mạnh-Tử nói Nhân chi sơ tính bản thiện.
Cũng như nước chảy chỗ trũng. Từ đời Chu (1066-770 trước Tây-lịch) cũng dùng
nhân trị. Cho đến thời Chiến-quốc, các pháp gia như Hàn-Phi, Thương Ưởng, Lý Tư
mới đưa ra pháp trị. Bộ Pháp-kinh soạn theo nguyên tắc pháp trị.
Nguyễn Tam-Trinh cầm bộ Nam-luật đưa ra:
– Bộ Nam-luật có mười thiên. Khác xa với luật Trung-nguyên. Luật
Lĩnh-Nam hoàn toàn đặt trên nguyên tắc nhân trị. Nội dung có mười chương như
sau:
1. Quốc-cương, nói về tổ chức triều đình, quan chế, hậu cung, sự
truyền ngôi.
2. Bách-hầu, định rõ tổ chức, ranh giới, quyền hạn của các lạc
hầu, lạc tướng.
3. Điển-lệ, định ra lễ nghi triều đình, cách tế lễ của vua cho tới
thứ dân. Phương cách cúng giỗ tổ tiên.
4. Giá-thú, định việc cưới hỏi, tổ chức gia tộc. Bổn phận mỗi
người trong gia tộc, cùng tang chế.
5. Hình-pháp, hình luật áp dụng trên toàn quốc. Tuy nhiên trong
chương này còn dự trù, mỗi địa phương có thể tăng hay giảm tùy theo tục lệ.
6. Khái-khố, tổ chức thuế khóa, công khố, ấn định giá cả.
7. Binh-luật, tổ chức binh bị. Phương cách thăng chức, tước. Hình
phạt trong quân.
8. Hình-chế, định rõ thủ tục bắt giam, xử án, cùng các hình phạt
đặt ra.
9. Tranh-tụng, thủ tục kiện thưa, bồi thường.
10. Phong-thần, định rõ thể lệ thờ cúng các thần. Những công lao
được phong thần. Tài sản các đình chùa để cúng tế thần.
Công chúa Thánh-Thiên bàn:
– Như vậy bộ Nam-luật chi tiết hơn Cửu-chương luật nhiều. Có điều
một số khoản không hợp với tình thế Lĩnh-Nam hiện tại. Như chương thứ bảy về
Binh-luật. Thời vua Hùng, quân trừ bị quốc gia rất ít. Lại nữa chỉ có nam
tướng, nam binh. Hồi hội binh ở Phiên-ngung bàn về tổ chức binh bị, Bắc-bình
vương đã có kế hoạch đầy đủ. Kế hoạch đó hiện đang thi hành. Tôi thấy tổ chức
binh bị như vậy kiện toàn nhất. Chúng ta cần tu bổ bộ Nam-Luật, chứ không nên
sửa đổi binh chế của Bắc-bình vương. Bởi chúng ta tiến hơn nhiều. Nam cũng như
nữ, đều có trách vụ với đất nước. Trong các trang, lạc hầu đều cưỡng bách nam,
nữ từ mười ba tuổi phải tập võ, học binh sự. Từ mười tám, nam nữ đều được xung
vào quân của lạc vương hoặc quân quốc gia. Hiện các nữ tướng đông hơn nam
tướng.
Công chúa Phùng Vĩnh-Hoa tiếp:
– Tôi đồng ý với công chúa Thánh-Thiên. Về binh luật, phải sửa
hoàn toàn. Những gì Bắc-bình vương cho tổ chức, coi như thành luật rồi. Không
cần phải thêm bớt nữa.
Triều đình thông qua mọi khoản. Cuối cùng quyết định cử một ủy ban
tu bổ. Ủy ban do Đại tư-không Nguyễn Tam-Trinh cầm đầu. Trong ủy ban có Phùng
Vĩnh-Hoa, Nguyễn Phương-Dung, Đào Hiển-Hiệu, Nguyễn Thành-Công, Phan Đông-Bảng,
Vũ Công-Chất, Lê Chân, Hồ Đề, Lục Mạnh-Tân, và Nguyễn Quý-Lan.
Vua Trưng ban chỉ dụ:
– Xét như các bộ luật Trung-quốc. Từ bộ Hình-thư của Tử Sản, đến
bộ Cửu-chương luật. Trẫm thấy các luật gia Trung-quốc quá câu nệ cổ nhân. Những
gì của Hình-thư, nay không hợp thời, thế mà vẫn giữ nguyên. Vậy các vị tu bổ
Nam-luật, thành bộ luật Lĩnh-Nam cần nhằm vào bằng này điều:
* Một là những gì thành truyền thống, tục lệ của tổ tiên. Tuyệt
đối không được sửa đổi.
* Hai là trọng quyền địa phương, tức tục lệ. Khoản nào thấy có sự
trái ngược với phong tục địa phương, cần phải có một điều châm chước. Như
Nam-luật bắt con gái phải kín cổng cao tường. Trong khi đó các sắc dân Mường,
Mán, Thái v.v. đêm đêm thiếu nữ thường ra suối cùng tắm với nhau. Phong tục sắc
dân đó như vậy. Cần phải có một điều khoản dự trù, sao cho không xáo trộn.
* Ba là tránh tập trung tài sản vào một số nhà giàu. Ấn định rõ,
nhà giàu nhất chỉ được ba mươi mẫu ruộng. Còn lại xung công. Cũng tránh không
nên để một người dân nào không có ruộng đất.
* Bốn là kể từ nay. Người nào có tài, có đức thì giữ quyền cai
trị. Bỏ hẳn lối cha truyền con nối.
* Năm là duy trì chế độ một vợ, một chồng. Chế độ đa thê, đa phu
bãi bỏ hẳn. Luật cũng nên dự trù điều khoản đã rồi cho những người đa thê, đa
phu.
* Sáu là cưỡng bách học tập. Văn tự chính thức là Khoa-đẩu. Các
khóa thi được tổ chức cả văn lẫn võ.
GHI CHÚ CỦA TÁC GIẢ:
Trong bộ Hậu Hán-thư của Phạm Việp, quyển hai mươi bốn (từ trang
727 đến 854) và quyển bảy mươi sáu (từ trang 2457 đến 2464) do Trung-hoa thư
cục hương cảng xuất bản 1978 có nhắc tới việc sau khi Mã Viện đánh chiếm được
đất Giao-chỉ. Viện làm bản trần tấu về triều rằng sự khác biệt của luật
Lĩnh-Nam với luật Trung-quốc đến mười điểm. Sự thực là gần như khác hoàn toàn.
Tiếc rằng hiện nay, không còn tìm ra được bộ luật đó nữa. Buồn quá! Mà dù có
tìm ra được, thì với loại chữ Khoa-đẩu, cũng chỉ để ngắm nhìn tiếc thương mà
thôi.
https://trandaisy.wordpress.com/2012/11/15/cam-khe-di-hanq-ii-hoi-78-85/7/
No comments:
Post a Comment