20200522 Ban tin bien Dong
Vietnam-China Conflict in The South China Sea:
Unrealistic And Dangerous Suggestions For Vietnam – Analysis
Điện Đàm Trump- Phuk. Bàn Giao cái gọi là má Nấm
China Shocked: US Navy sends submarine forces to South
China Sea
South China Sea: China’s expanding nine dashed line
Navy sends subs to sea as
message to China
·
By William Cole wcole@staradvertiser.com
·
Today
·
Updated
12:16 am
Wed, May 20 at 2:22 PM
Con Mén
Đọc
chuyện Con Mén mà tôi liên tục rơi nước mắt
Hình
ảnh Con Mén, cuộc đời Con Mén, tâm tư tình cảm Con Mén
Chính
là hình ảnh Quê Hương Dân Tộc Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử hơn 10,000
năm của Tộc Việt
Họ
đã phải dứt bỏ Quê Hương VN sau năm 1975 để lưu vong trên toàn cõi địa cầu khi
chạy trốn VC
Họ
đã phải xé nát tâm can khi lìa bỏ Quê Cha Đất Mẹ miền Bắc năm 1954 khi chạy
trốn Việt Minh
Họ
đã phải dời bỏ thủ đô Phiên Ngung của Đại Việt ở Quảng Đông, Đại
Lý ở Quảng Tây sau thời Trưng Nữ Vương thế kỷ thứ I AD
Họ
đã phải dời bỏ kinh đô núi non sông nước hữu tình tại Đồng Đình Hồ (Hồ Bắc
- Hồ Nam – Vũ Hán) khi Hán Vũ Đế xâm lược Bách Việt thời hậu các Vua Hùng thế
kỷ thứ I BC
Họ
đã phải dời địa bàn núi Thái Sơn (phía trên Bắc Kinh giáp sông Hoàng Hà) để bôn
ba xuôi Nam ngược Bắc vì rợ Khuyển Nhung xâm lược (khoảng trước -3000BC)
Để
rồi cho đến tận ngày hôm nay, sau hơn 10,000 năm, câu ru bên tai lũ trẻ
như một điệp khúc vĩnh cửu của Ký Úc Quê Hương
Công Cha như núi Thái Sơn
(địa
bàn núi Thái Sơn)
Nghĩa Mẹ như nước trong nguồn chảy ra
(địa
bàn Hồ Đồng Đình - Động Đình Hồ)
Lac Viet
..............................
Chuyện ngắn: CON MÉN
(Tiểu Tử)
Trong khai sanh nó tên
là Loan. Ở nhà gọi nó là con Mén, vì hồi sanh nó ra nó chỉ cân được có hai kí
lô tư. Bà nội nó bồng nó trên tay, nhỏ xíu như một con mèo. Bà cười văng cốt
trầu: "Đu họ nó! Thứ gì mà như con chí mén!" Từ đó, gọi nó là con Mén
luôn.
Nó bú sữa mẹ, nhưng vì
nhà nghèo nên má nó không đủ sữa, dặm thêm cho nó bằng nước cháo, cho nên nó
không mụ mẫm như phần đông các trẻ nít khác. Nó cứ đèo đèo, lớn chậm và ốm tong
ốm teo.
Bà nội nó cưng nó lắm.
Bởi vì ba má nó chỉ sanh có con trai, một dọc ba đứa, phá phách đánh lộn tối
ngày. Bà nội nó thèm có một đứa cháu gái, nhẹ nhàng dễ sai dễ bảo hơn. Bà
thường nói: "Có đứa cháu gái để tao có đi đâu nó theo nó xách giỏ
trầu". Một ước mơ rất tầm thường nói lên nét bình dị mộc mạc của tâm hồn
các bà mẹ quê. Giống như mái nhà tranh chỉ cần có bụi chuối sau hè, có ao bèo
trước ngõ … Giống như con rạch nhỏ, chỉ cần đều đặn có nước lớn nước ròng …
Con Mén có thân hình
ốm o xấu xí, nhưng lại có đôi mắt sáng, linh động, với cái miệng nhỏ chu chu
cũng dễ thương. Bà nội nó nói: "Cái ngữ này lớn lên rồi phải biết. Nó hỗn
dàng trời!". Nói như vậy chớ bà ưa nhìn nó ngủ sau khi bú, nhả vú ra rồi
mà miệng vẫn còn nút nút.
Quê con Mén ở miệt Hậu
giang một làng nhỏ nằm xa tỉnh lị, xẻ đôi bởi một con kinh đào. Vùng này chưa
có đường xe chạy, nhưng có nhiều sông rạch nên thiên hạ đi lại bằng ghe to
xuồng nhỏ. Hoặc đi bộ dọc theo bờ nước hay băng ngang đồng vào mùa ruộng khô.
Xa xa, có những chiếc cầu gỗ bắc ngang kinh rạch, nối xóm này qua xóm nọ. Cầu
gỗ cao lêu-nghêu, chân dài cắm sâu vào lòng nước như sợ nước lên làm ướt thân
cầu. Người ta qua lại không cần lan can.
Xóm con Mén tên là xóm
Cầu Ngang, một cái tên nghe rất thật thà, làm như trên đời này còn có những cái
cầu dọc vậy! Xóm nhỏ đó cũng có chợ nhà lồng lợp tôn đơn sơ. Vây quanh chợ là
quán cà phê, tiệm chạp phô, tạp hóa, hàng vải … và một tiệm sách, gọi là tiệm
sách nhưng chỉ chuyên cho thuê tiểu thuyết, truyện tàu.
Con Mén sanh ra ở đó.
Khi nó biết đi biết chạy, bà nội nó lúc nào cũng kè một bên, sợ nó té sông. Vậy
mà chẳng mấy lâu sau, nó biết lội hồi nào bà nó cũng không hay, nó học lội với
ai bà nó cũng không biết. Mãi đến một hôm, trời nóng bức, con Mén nhảy ùm xuống
kinh làm bà nội nó la làng chói lói. Đến khi nhìn lại thấy nó lội như rái, bà
mừng chảy nước mắt. Lòng bà vui lắm nhưng bà cũng chưởi đổng: "Mồ tổ cha
mày!". Từ đó, con Mén đi đâu một mình bà cũng yên tâm. Bà nói: "Nó
giống hệt thằng cha nó hồi nhỏ".
Lớn lên một chút, con
Mén lúc nào cũng ở trần, đi chân đất, chỉ mặc có cái quần xà lỏn ka ki. Nó vẫn
ốm tong ốm teo, nhưng không thấy nó bịnh bao giờ. Nó chơi với lũ trẻ hàng xóm,
chơi trò con trai như con trai. Vậy mà bà nội nó vẫn ưa nó hơn là ba thằng anh
của nó, bởi vì đêm nào nó cũng chui vào ngủ với bà. Bà thích vuốt tóc cho nó
ngủ và thích nghe mùi thơm hơi thở của con Mén, như ngày xưa, hồi còn trẻ, bà
thích nghe mùi thơm của lúa chín, gió ruộng đưa thoang thoảng vào nhà về đêm …
Má con Mén mua đầu chợ
bán cuối chợ. Kiếm đủ nuôi mấy miệng ăn. Nghèo nhưng không đói. Ba nó trốn lính
một dạo, nhưng rồi cũng bị bắt. Đi quân dịch, làm binh nhì, rồi đi luôn không
biết chừng nào giải ngũ.
Ba nó đóng ở đâu miệt Sài
Gòn. Lâu lâu về phép, ở nhà được vài hôm. Những hôm đó, con Mén khoái lắm, bởi
vì ba nó cũng cưng nó như bà nội nó vậy. Sáng nào, ba nó cũng cõng nó ra tiệm
cà phê. Nó ngồi trên ghế đẩu cạnh ba nó, đôi mắt chỉ cao hơn mặt bàn một chút.
Người lớn hay vò đầu nó, làm rối bồng mái tóc bum bê. Lúc nào nó cũng được ba
nó gọi riêng cho một tách sữa nhỏ. Sợ sữa nóng, ba nó thường sớt ra dĩa cho mau
nguội. Nó kê miệng vào thành dĩa, hớp từng hớp nhỏ. Hai bên mép, sữa đóng thành
hai đường trắng hếu, nhưng mắt nó ngời lên sung sướng. Những lúc đó, con Mén
đong đưa hai chân như người ta đuổi ruồi …
Rồi một hôm, Việt Cộng
về xóm Cầu Ngang, bắn phá tơi bời suốt một đêm, sáng bữa sau rút đi mất. Thiên
hạ bắt đầu bàn tán. Trời vừa sụp tối đã đóng cửa cài then. Đêm đêm nằm ngủ phập
phồng. Sáng ra nhìn nhau lơ láo. Nét thanh bình xóm nhỏ làng quê mất dạng lần
lần. Người ta bắt đầu tản cư …
Ba nó về, đưa mẹ con
nó lên Sài Gòn. Bà nội nó ở lại. Bà nói: "Tao già rồi, đi đâu chi? Tụi bây
lo cho sắp nhỏ đi, đừng lo cho tao". Bà nói cứng như vậy chớ lòng bà đau
như dao cắt. Bà biết : bầy vịt nhỏ và mấy gốc mận gốc xoài không giúp được bà
thường xuyên lên thăm bầy cháu. Nhứt là con Mén, rứt nó đi y như là cắt đi một
núm ruột của bà. Hôm đó, bà nội con Mén ăn trầu nhiều hơn mọi ngày, hết miếng
này là têm ngay miếng nọ, mắt nhìn mãi bờ kinh, không nói. Đến khi đưa bầy cháu
xuống ghe, bà ôm con Mén vào lòng, hôn nó mà bà khóc ngất. Bà dúi vào tay nó tờ
giấy năm chục đồng xếp nhỏ, nói trong nước mắt: "Nội cho con lên trển mua
bánh ăn". Nó nghe nồng lên mùi cốt trầu, mùi bà nội nó, cái mùi mà nó đã
quen thở đêm đêm khi gối đầu lên tay bà để đi vào giấc ngủ. Nó ôm bà mà khóc
như mưa …
Ghe đã đi xa, ghe máy
nên đi nhanh hơn ghe chèo. Bà nội con Mén còn đứng ở bờ kinh, mắt rõi theo ghe
mà nghe như người bà bị tê dại. Kinh đào dài tun hút. Ghe đã mất dạng từ lâu mà
bà vẫn nhìn mãi về phía đầu kinh. Tuốt ở đầu kinh .. xa lắm .. có một lằn dài
gạch ngang, người ta gọi là chân trời …
--oOo--
Ba con Mén hốt hụi vay
nợ mua một căn nhà nhỏ vách ván lợp tôn ở xóm Bộng, bên kia sông Khánh Hội. Gọi
là xóm Bộng bởi vì ở đó có cái ống cống thật to để nước ruộng vào ra khi nước
lớn nước ròng. Dân nghèo tứ xứ tản cư về đây, ngày một nhiều, nhà nho nhỏ cất
dọc cất ngang, mọc lên như nấm. Cứ có chỗ trống là cất chen vào. Ngoài mặt lộ
hết đất, họ cất tràn ra ruộng. Nhà này tựa vào nhà kia như sợ ngã, sát nhau đến
độ không còn chỗ để làm đường đi! Muốn vào xóm, có đoạn đi trên bờ đê, gọi là
đê nhưng là bờ ruộng cũ bây giờ người ta bồi rộng ra thêm một chút, có đoạn đi
trên mấy tấm ván gập gềnh bắc ngang đường nước, có đoạn phải bước hẳn vào nhà
người ta để đi qua. Nhà lụp xụp thấp lè tè nên cứ phải cúi lom khom, có khi
bước cạnh vợ chồng người ta đang nằm ngủ trong nhà, dưới đất!
Mái nhà con Mén thuộc
vào hạng cũng khá cao trong xóm. Ba nó phải đưa tay thẳng lên mới đụng. Nhà nó
được lót gạch bông phần nền đất, còn nửa phần sau là đóng cừ lót ván. Ông chủ
cũ nói với ba con Mén: "Làm tới đó tôi hết tiền. Thôi thì tạm một khúc nhà
sàn, chừng nào cậu muốn, cậu đắp nền thêm". Rồi ông đứng trên sàn
nhún-nhún: "Ván còn tốt, còn chịu được năm ba mùa lận". Năm ba mùa
đây có nghĩa là năm ba mùa nước ngập. Những hôm mưa nhiều, nước không chảy kịp
ra sông, nước lên lé đé mặt sàn. Có nơi nước tràn vào nhà, ngập mấy hôm mới
rút. Những hôm đó, người ta treo hết đồ lên nóc, treo vài cái võng để ngủ tòn
ten giữa vời …
Nhà con Mén không có
đồ đạc gì nhiều: một vài cái rương chất trong một góc, một cái tủ nhỏ kê sát
vào vách, quần áo máng trên mấy cây đinh đóng trên vách đối diện, bếp dầu hôi
sóng chén dồn vào một góc phía sau. Cái gì cũng tấn vào vách vào góc để chừa
khoảng trống giữa nhà dùng làm chỗ ăn chỗ ngủ. Phía sau nhà là sàn nước lộ
thiên. Nước chứa trong hai thùng phi nhà binh màu cứt ngựa mà ba con Mén xin từ
đơn vị đem về. Tắm rửa giặt giũ ở đó, và về đêm, phóng uế cũng ở đó luôn.
Khu này không có điện
nước. Cho nên nhà nào cũng có vài cây đèn dầu hôi và đôi ba thùng phi. Mỗi
ngày, có xe xi tẹt đến bán nước, người ta gọi là "đổi nước". Họ kéo
ống cao su nhỏ bằng cườm tay, chắp nối thật nhiều khúc mới đủ dài để vào sâu
trong xóm. Tiếng máy bơm của họ kêu thật lớn, xành xạch xành xạch điếc tai.
Nhưng cũng nhờ nó mà người trong xóm biết là xi tẹt nước đến rồi! Xi tẹt nước
chỉ "làm ăn" trong mùa nắng thôi …
Về đây, con Mén ngủ với
ba nó, ngủ trên võng. Má nó và ba thằng con trai ngủ dưới gạch. Đêm đầu, con
Mén không chịu ngủ, cứ đòi về bà nội. Nó ngồi bẹp dưới đất, khóc ư ử. Lâu lâu
gọi một cách thảm não: "Bà nội ơi!" Tiếng "ơi" của nó kéo
dài ra, làm má nó cũng nhớ nhà nhớ đất, nước mắt chảy quanh. Ba nó thổi tắt
đèn, vói tay ôm nó vào lòng, nằm trên võng đong đưa dỗ: "Nín đi con, nín.
Ngủ với ba cũng giống như ngủ với bà nội chớ gì. Rồi mai mốt bà nội con lên ở
với con nghen". Tiếng "nghen" bỗng nghẹn ngang nơi cổ, ba nó kềm
lắm mới khỏi phải nấc lên. Tuy nhiên, trong bóng đêm, nước mắt cũng âm thầm
chảy dài trên má …
--oOo--
Mỗi ngày, ba con Mén
đi làm trong đơn vị, sáng đi chiều về, đi bằng xe buýt. Má nó chưa quen nước
quen cái nên ở nhà vá áo nấu cơm. Anh em tụi nó lân la làm quen lũ nhỏ trong
xóm. Dù ở giữa lòng thành phố, trò chơi của tụi nó vẫn mộc mạc thô sơ như thuở
còn dưới ruộng: bắn bi, búng dây thun, lấy nút khoén làm mề đai hay in cát giả
làm bánh.
Ít lâu sau, má con Mén
được người hàng xóm giới thiệu vào làm phu trong nhà máy ve chai bên kia sông.
Mới đầu còn bỡ ngỡ, làm sai làm trật. Chiều nào về, má nó cũng buồn thiu, ra
ngồi trên sàn nước, nhìn khoảng trời mở ngỏ trên cao, lâu lâu thở dài. Nhưng
lần hồi má nó cũng quen tay, thêm tánh siêng-năng cần cù, nên mấy thầy giám thị
cũng thương tình nâng đỡ. Nhờ vậy má nó mới vững lòng tin ở ngày mai. Ngày mai,
đối với ba má con Mén, thật là giản dị: "Chừng yên, mình về dưới bà nội
tụi nhỏ, lảnh mấy công ruộng mà làm cũng dư sống". Cái hình ảnh của ngày
mai đó, người tản cư nào cũng nghĩ giống như nhau: yên rồi về quê làm lại cuộc
đời. Họ đã rời làng bỏ xóm ra đi, đi để còn sống mà trở về, nhưng họ vẫn mang
theo trong lòng gốc dừa cây cau chậu kiểng. Họ không bám được đất, nhưng họ
không để mất được gốc. Chính tình cảm quê hương sâu đậm đó đã giúp họ can đảm
nhận chịu cuộc sống tạm bợ ngày hôm nay. Ngày qua ngày, họ mớm niềm tin bằng hy
vọng. Và ngày qua ngày họ nuôi hy vọng bằng niềm tin! Cứ lẩn quẩn loanh quanh
như vậy cho đến một ngày nào đó, chưa phải là cái ngày mai chờ đợi, người già
tắt thở với niềm tin và trẻ con lớn lên không biết phải hy vọng ở cái gì … Chỉ
còn thế hệ của ba má con Mén là lây lất sống trong lòng đô thị, ví mình như cây
chùm gởi, còn biết thế nào là niềm đau quê hương nhưng vẫn mỏi mòn chờ đợi:
"Ngày mai … Ngày mai, rồi trời sẽ lại sáng!".
--oOo--
Mấy anh con Mén đều
được đi học, chỉ có nó là chưa. Có lẽ tại vì nó gầy còm nhỏ thó nên ba má nó
quên tuổi thật của nó đi, cứ nghĩ: "Sang năm là đến phiên con Mén".
Nhưng rồi nó vẫn còi còi như vậy hoài, có lẽ còn lâu mới đi học!
Buổi sáng, ăn cháo
xong là cả nhà đi hết. Con Mén ở lại coi nhà. Tiếng là coi nhà chớ lúc nào cũng
thấy nó la cà ở hàng xóm, làm bánh giả, búng dây thun. Nó búng dây thun giỏi
nhứt xóm. Đã khéo tay lại biết tính toán nên ngày nào nó cũng ăn của trẻ con
cùng lứa rất nhiều dây thun. Về nhà, nó cho vào túi ni-long cất kỹ, bởi vì vòng
dây thun là "tiền" của tụi nhỏ. Năm vòng thun "mua" được
cái nút khoén lô-canh (la-ve, nước ngọt) mười vòng thun một nút khoén ngoại
quốc (các loại chai nhập cảng) và phải tới hai chục vòng thun mới có được lon
cô ca không, thật hấp dẫn với nền đỏ tươi in chữ trắng … Vòng thun có giá trị
như vậy cho nên đứa nào cũng ráng kiếm cho thật nhiều. Rồi cũng giấu kỹ. Rồi
cũng đếm tới đếm lui, y như người lớn đếm tiền thật.
Một buổi mai, con Mén
mang bọc dây thun ra đầu ngõ tìm bạn. Ở đây, có một quán cà phê hủ tiếu và vài
hàng quà bánh điểm tâm. Một bà già bán xôi thấy bọc ni long dây thun con Mén
nhét tòn ten ở lưng quần, bèn hỏi:"Dây thun đâu nhiều vậy cháu?". Nó
trả lời là dây thun của nó. Bà ta cười hiền hòa: "Vậy hà. Chớ cháu có bán
dây thun hôn, bà mua cho. Để cột mấy bọc xôi ý mà". Ở đây, mấy người đi
làm sớm không có thì giờ ăn sáng, ghé qua mua gói xôi mang theo để lúc nào tiện
thì mở ra ăn. Xôi vẫn được gói bằng lá chuối, nhưng sau đó được cho vào bọc ni
lông có sợi thun thắt lại. Vừa sạch vừa gọn.
Nghe hỏi, con Mén phân
vân. Tới tuổi này, nó chưa biết đi mua một cái gì bằng tiền thiệt hết. Huống
chi nói đến chuyện bán! Nó chỉ biết giả mua giả bán nút khoén, hộp lon, trong
thế giới trẻ con nhiều tưởng tượng của nó thôi. Tiền thiệt thì nó chỉ biết có
tờ giấy năm chục đồng mà bà nội nó cho nó hồi đó. Nó đưa má nó cất rồi nó quên
luôn tới giờ. Thật ra, nó chỉ biết tờ giấy đó là tiền nhưng chẳng biết giá trị
là bao nhiêu và cũng không biết dùng tiền đó để làm gì. Bởi vì, trong xã hội trẻ
con của nó, chỉ có dây thun là có giá!
Thấy nó đứng ngớ ra mà
miệng cười mỉm mỉm, bà bán xôi hiểu ngay, nên đề nghị: "Như vầy nghen,
cháu cho bà túi dây thun, bà cho cháu cục xôi bự này nè". Nó nhìn theo tay
bà chỉ: mèng ơi! cục xôi bằng "bắp đùi" nằm trong lá chuối xanh láng
mướt, ló ra hai đầu vàng hực có mấy miếng dừa lòi ra trắng hếu. Nó nuốt nước
miếng, gật đầu. Vậy là lần đầu tiên con Mén biết thế nào là buôn bán trong xã
hội của người lớn.
Từ đó, nó thường đem
túi ni lông dây thun ra ngõ "mua" xôi. Bà bán xôi thương nó lắm, bởi
vì lần nào nó mở hàng bà cũng đều bán đắt. Nhiều hôm vắng nó bà cũng nhớ. Những
hôm đó, con Mén "hết tiền". Nhưng thèm xôi, có khi nó cũng mò ra đầu
ngõ, đứng xa xa nhìn thau xôi của bà lão. Thau xôi được phủ kín lá chuối, nhưng
trong tưởng tượng nó cũng thấy được màu xôi vàng hực! Thấy tội nghiệp, một hôm
bà bán xôi gọi nó lại, đưa nó tờ giấy bạc: "Nè! Lấy tiền này mua xôi mở
hàng cho bà đi cháu". Nó làm theo như cái máy. Bà bán xôi cảm động, kéo nó
ngồi xuống cạnh bà. Nó ăn xôi, mắt ngời lên sung sướng. Nó ốm nhom nhưng gương
mặt nó thật kháu khỉnh. Mái tóc bum bê cắt ngắn làm cho cổ nó dài ra. Bà vuốt
tóc nó, nghĩ: "Con nhà ai mà dễ thương quá!". Được bàn tay khẳng khiu
của bà già vuốt tóc, bỗng nhiên con Mén nghe nhơ nhớ một cái gì. Một cái gì
không rõ lắm nhưng là một cái gì thật quen thuộc. Hình như là một cảm giác êm
êm, khoái khoái, một cảm giác mà từ lâu, rất lâu nó không nghe thấy nữa. Nó
mang máng nhớ một cái gì xa thật xa, một hình ảnh, một cái tên, một người … Nó
ngừng nhai, miếng xôi trong miệng đội phồng một bên má. Nó nhìn lên mặt bà bán
xôi: má hóp, trán nhăn, tóc lưa thưa bạc. Đúng lúc đó, từ tiềm thức của nó bật
lên hình ảnh của bà nội nó. Chỉ trong có một giây mà nó nhớ lại hết, từ bàn tay
vuốt tóc, từ cánh tay gối đầu, từ mùi cốt trầu hăng hăng mà nó ghiền thở đêm
đêm để ngủ. Nó nghe nghẹn ở ngực. Nó nghe như muốn khóc. Môi dưới nó trề ra.
Miệng nó méo xệch. Nó buông cục xôi, đứng lên chạy ù vào ngõ. Vừa chạy, vừa kêu
từng tiếng thật rã-rời: "Bà …nội … ơi …!" Tiếng "ơi " của
nó kéo dài ra trong xóm, nức nở như một đường cày trên mặt ruộng …
--oOo--
Việt Cộng về chiếm hết
mấy làng, trong đó có xóm Cầu Ngang của con Mén. Ít lâu sau, có tin bà nội nó
chết. Ba má nó không dám về chịu tang, chôn cất, phần vì không có tiền, phần vì
sợ Việt Cộng. Ba nó lấy một cái rương kê vào giữa vách, đặt lên đó một chén gạo
và hai cây đèn cầy. Đốt đèn, đốt nhang cắm vào chén gạo, xong, ba má nó vừa lạy
vừa khóc. Lần đầu tiên con Mén thấy ba nó khóc. Không biết gì, nhưng sao nó
cũng muốn khóc theo. Mấy thằng anh nó ngồi xếp bằng một hàng, im thin thít. Sau
đó, ba nó ôm nó vào lòng, ngồi nhìn khói nhan và hoa đèn lâu thật lâu. Nó hết
nhìn cái rương lại nhìn mặt ba nó.Tự nhiên nó thấy thương ba nó vô cùng.
Mãi sau này con Mén
mới biết cái rương đó là bàn thờ bà nội nó.
--oOo--
Bây giờ, con Mén cũng
được đi học. Bây giờ, ba nó cũng sắm được chiếc xe đạp để đi làm. Má nó thì vẫn
đi đò ngang để qua nhà máy ve chai. Mấy anh nó, vì trường cũ hết lớp phải qua
trường khác xa hơn, vẫn đi bộ.
Má nó đã lên cấp thợ,
nhờ vậy mà trong nhà thấy dễ thở hơn, sắm thêm một số đồ đạc và má nó có đeo
một sợi dây chuyền … Chớ ba nó thì vẫn còn lẹt đẹt ở cấp binh nhì, loại binh
nhì dùng sai vặt trong văn phòng, đơn vị.
Nhờ đi học, con Mén
mới biết nó tên thật là Loan. Hôm đưa nó vào trường, ba nó dặn: "Khi nào
cô giáo điểm danh, kêu Lê Thị Loan thì con hô lớn lên có mặt. Nghe con!".
Nó ngạc nhiên: "Ủa? Con tên là Mén mà!" Ba nó phải giải nghĩa rằng
Loan là tên trong còn Mén là tên ngoài, ra đường mình lấy tên ngoài chớ vào
trường là phải lấy tên trong vân vân … Đối với nó, ngoài trong gì lộn xộn quá.
Nó chỉ biết rằng tên Loan nghe thật dễ thương nhưng lạ hoắc, còn Mén thì thật
là quen tai. Tuy nhiên, có cái tên dễ thương, nó cũng nghe lòng phơi phới.
Nhờ đi học, con Mén
hết ở trần, hết đi chân đất, nhưng tóc vẫn hớt bum bê cao. Nó đội nón vải có bo
như tai bèo, mặc áo trắng tay phùng quần dài đen, chân mang dép Nhựt. Bây giờ,
thật sự nó mới có nét con gái! Ba nó nhìn nó trìu mến: "Mẹ họ! Con gái của
ba coi cũng đặng ớn!" Rồi ba nó hôn nó đầy mặt. Nó rút cổ lại vì nhột,
cười khúc khích. Tình thương đâu đó bỗng trào dâng miên man. Giống như nước
triều lên ôm xóm Bộng, âm thầm nhưng thật là chan chứa.
Con Mén càng lớn, ba
nó càng cưng nó nhiều. Bởi vì nó thông minh, học giỏi. Và bởi vì nó mang nhiều
nét của bà nội nó. Ba nó thường nhìn nó, nói: "Thứ gì mà giống bà nội như
in!" Điều mà ba nó không để ý là con Mén còn giống bà nội nó ở chỗ hay
chửi đổng "Mồ tổ cha nó!" mỗi khi nó bực mình chuyện gì. Có lẽ tại vì
nó chửi lầm bầm nên ba nó không nghe.
Mấy anh con Mén đi học
buổi sáng, nó đi học buổi chiều. Thành ra lúc nào trong nhà cũng có đứa học ê
a, đứa nằm sấp xuống gạch nắn nót làm bài. Hầu hết tụi nhỏ trong xóm đều học
chung một trường, nên đi và về cùng một lúc, đứa trước đứa sau đi thành một
hàng dài. Đến khi tụi nó học bài cũng nghe uềnh oang như tiếng ễnh ương vào mùa
nước nổi.
Trưa, con Mén cuốc bộ
đi học. Chiều ba nó đi làm về, đạp xe ghé ngang trường rước nó. Những lúc đó nó
thấy hãnh diện vô cùng. Ngồi trên bọt ba ga, cặp táp đeo lủng lẳng ở cổ, hai
bàn tay nhỏ nắm lấy dây nịt của ba nó để giữ thăng bằng, nó nói chuyện huyên thuyên,
hỏi ba nó đủ thứ. Ba nó lúc nào cũng có câu trả lời, cũng góp vào câu chuyện
rất hào hứng chớ không phải ậm à ậm ừ. Cho nên, đối với nó, trên đời này chỉ có
ba nó là nhứt!
Vậy mà thời gian sau
này, ba nó bị cấm trại liên miên. Nó đành đi học một mình và về một mình. Tối,
nó ngủ một mình ên trên võng. Bây giờ nó lớn, nên không gào khóc như thuở nó
mới xa bà nội nó. Nó biết xấu hổ, nên úp mặt vào chiếc áo nhà binh của ba nó âm
thầm khóc rấm rứt. Rồi một lúc nó cũng ngủ thiếp đi, ôm chiếc áo như ôm lưng ba
nó vậy.
--oOo--
Việt Cộng tràn về chiếm
hết miền Nam. Mấy ngày cuối cùng của tháng tư 75 thật là kinh hoàng. Thiên hạ
rần rần, nhốn nha nhốn nháo. Ba con Mén chạy bộ về đến nhà, mồ hôi mồ kê, mặt
xanh như tàu lá, chỉ mặc có cái quần đùi. Ba nó hổn hển nói với má nó: "Mẹ
họ! Trong lúc lộn xộn, thằng nào nó đớp cha nó chiếc xe đạp của anh, làm anh
chạy bộ về muốn tắt thở ". Má nó lo lắng: "Còn quần áo của anh
đâu?" Ba nó nhăn nhó: "Cởi liệng cha nó rồi. Mặc để Việt Cộng nó bắn
thấy tiên tổ à!". Rồi ba nó phun nước miếng cái phụt như phun một cái gì
thật đắng. Má nó vội đưa cho ly nước, ba nó cầm lấy, uống ừng ực như người bị
mắc xương, mắt lồi ra căm phẫn. Không biết Việt Cộng ra sao, nhưng thấy ba nó
tả tơi như vậy con Mén cũng phát tức. Nó lầm bầm chưởi đổng: "Mồ tổ cha
nó!"
--oOo--
Ít lâu sau, con Mén đã
biết Việt Cộng là gì. Nó cũng bắt chước người lớn, gọi trổng là "họ",
chớ không hiểu rằng tiếng "họ" mà người lớn dùng có ý nghĩa mỉa mai
cay đắng, bởi vì bây giờ mới thấy giữa "họ" và "mình" có
quá nhiều dị biệt.
"Họ" bây giờ
tên là "cách mạng". Ba con Mén bây giờ bị "họ" gọi là
"ngụy quân". Má con Mén bây giờ lúc nào cũng tự xưng là "vợ
ngụy" mặc dù thuộc thành phần công nhân lao động.
Xóm Bộng bây giờ cũng
đổi thay bề mặt. Vựa gạo của chú Chành người Tàu bị tịch thu để biến thành trụ
sở "Ủy ban nhân dân". Người lạ ở đâu về đó làm chủ tịch, thơ ký. Chú
Năm hớt tóc đầu ngõ bỗng thành ông "tổ trưởng", còn bác Bảy thợ hồ
được thiên hạ gọi bằng "tổ phó an ninh". Chỉ có dân trong xóm vẫn còn
là dân trong xóm! Thiên hạ "nhong nhóng" đợi một thời gian coi tình
hình ra sao, nhưng rồi ít lâu sau cũng chẳng thấy ai rục rịch dọn về quê về
làng. Mong ước bình dị "yên rồi, về quê sanh sống", một mong ước được
chắt chiu nuôi dưỡng từ bao nhiêu năm, bây giờ giống như bọt nước bờ sông từ từ
tan rã. Cái "Ngày mai trời lại sáng" bây giờ thật sự chỉ là một giấc
mộng! Thiên hạ thường chép miệng: "Ở dưới quê họ cũng tịch thâu hết rồi.
Về làm cái khỉ gì? Ở đâu cũng vậy thôi!". Dân tản cư bỗng thấy mình như bị
mồ côi, vĩnh viễn bị cắt đứt với gốc dừa cây cau chậu kiểng. Từ thân chùm gởi
họ đã trở thành đám lục bình. Xóm Bộng mặc nhiên thành điểm tựa để đám lục bình
bám vào đó làm một quê hương, đất đứng.
Người trong xóm bây
giờ thấy gần gũi nhau hơn. Làm như là không phải dân tứ xứ đến đây, mà như là
tất cả đều sanh trưởng ở xóm Bộng. Bây giờ họ mới nhận thấy rằng họ giống nhau
từ suy tư đến nếp sống, từ cách ăn mặc đến lời lẽ nói năng. Họ không biết rằng
biến thiên của thời cuộc đã cho họ có một đối tượng, thế giới cộng sản và con
người cộng sản để nhận xét và so sánh. Đối tượng đó bây giờ thật rõ nét, không
còn được ngụy trang bởi những mỹ từ. Cho nên họ nhìn thấy không điểm nào giống
họ hết, từ con người đến phong tục tập quán. Tự nhiên, họ cùng đứng về một phía
và họ còn thấy cần tựa vào nhau để sinh tồn. Cũng giống như nhà của họ ở: phải
xây cất bám vào nhau, kèo cột câu vào nhau, phên vách nối vào nhau để đứng
vững. Xóm Bộng chưa bao giờ biết bão lụt, nhưng trong nội tâm người xóm Bộng
bây giờ đang bão lụt tơi bời …
--oOo--
Ba con Mén đi học tập
ba hôm rồi về nằm nhà gác tay lên trán. Má nó vẫn đi làm. Anh em nó vẫn đi học.
Thời gian sau, ba nó
cũng kiếm được việc làm ở bến tàu Khánh Hội, sáng đi chiều về. Đêm đêm, ba má
nó thay phiên nhau đi họp phường hoặc họp tổ. Lâu lâu, thằng anh lớn của nó đại
diện ba má ra phòng họp ngồi cho có mặt. Những lúc đó, thấy nó mang theo hoặc
quyển sách hoặc cuốn tập để thừa dịp có đèn sáng mà học bài cho ngày hôm sau …
Bỗng một đêm, công an
khu vực cầm đèn bấm đưa bộ đội đến bắt ba con Mén dẫn đi. Cả xóm nhốn nháo
trong bóng tối. Má nó chạy theo kêu khóc, trợt bờ đê té lên té xuống. Đến đầu
ngõ có đèn sáng, ba nó nói với má nó: "Chắc họ bắt lầm, chớ anh không có
làm gì hết. Em yên tâm!"
Ở nhà, mấy anh em nó
thắp đèn rồi ngồi nhìn nhau mếu máo. Hàng xóm thay nhau đến ngồi với tụi nó cho
đến khi má nó trở về, đầu cổ bơ phờ quần áo lấm lem bùn đất. Họ an ủi má nó, xì
xầm bàn tán cho tới khuya mới ra về.
Đóng cửa tắt đèn từ
lâu mà con Mén nằm trên võng còn nghe má nó khóc thút thít. Nó cảm thấy thương
má nó, thương ba nó. Rồi nó đâm tức giận mấy thằng công an bộ đội. Kềm không được,
nó buột miệng chửi lớn:"Mồ tổ cha nó!". Tiếng của nó lanh lảnh, sắc
bén, rạch bóng đêm như một lưỡi dao lam. Má nó giật mình, ngừng khóc, vói tay
mò mẫm rờ đầu nó. Nó nắm lấy bàn tay áp vào một bên má như muốn chia sớt niềm
đau. Má nó bỗng nghe bàn tay mình ươn ướt.
Mấy hôm sau, vẫn không
thấy ba nó về. Trái lại, công an khu vực đến thăm má nó thường hơn. Và lần nào
cũng khuyên: "Chị cứ yên tâm. Nếu nhà nước xét thấy anh ấy không có nợ máu
với nhân dân, anh ấy sẽ được thả về thôi. Ta sáng suốt chớ không ác ôn như ngụy
đâu, chị ạ!"
Ít lâu sau, có tin ba
con Mén bị đưa đi học tập cải tạo ở đâu ngoài Trung. Má nó khóc hết nước mắt.
Tên công an khu vực lại đến nhà khuyên: "Đi học tập chớ đi tù đâu mà chị
sợ. Cứ học tập tốt là được về ngay thôi. Yên chí!" Thoáng nghe như vậy,
con Mén tức cành hông. Nó nhìn tên công an chỉ có nửa con mắt!
--oOo--
Má con Mén bị
"họ" cho nghỉ việc. Gọn như liệng một món đồ vô dụng vào sọt rát! Tên
thủ trưởng gọi má nó vào văn phòng, nói bằng một giọng trắng nhách như vôi:
"Tập thể đã nhất trí cho chị nghỉ việc ngay từ bây giờ, bởi vì chị không
còn đủ điều kiện để phục vụ nhân dân nữa. Chị lấy hết đồ đạc của chị rồi đi về
đi.". Đồ đạc là cái áo, cái khăn lông, cái nón lá và đôi dép cao su đúc.
Một tên an ninh đi theo đến cổng, dặn: "Chị đừng trở lại đây làm gì nữa.
Không tốt đâu!". Má nó lầm lủi đi, chẳng nói chẳng rằng. Cũng chẳng nhỏ
một giọt nước mắt. Bởi vì má nó đã chuẩn bị tinh thần từ ngày biết tin ba nó đi
học tập cải tạo. Dưới chế độ cộng sản, đã là vợ con của "ngụy " là
phải biết dọn mình chịu đựng sự kỳ thị của kẻ cầm quyền …
Khi má con Mén về đến
nhà thì tụi nhỏ đã đi hết, đứa đi học, đứa đi lao động trong trường. Má nó bèn
dọn dẹp đồ đạc rồi nấu cơm một cách thản nhiên như chẳng có gì xảy ra hết. Bình
thường, má nó không về giờ này, nên hàng xóm để ý. Vài người chạy sang hỏi han
như trong gia đình: "Bộ có chuyện gì sao mà má con Mén về nhà giờ này
vậy?". Hỏi, nhưng trong lòng họ đã đoán ra câu trả lời hết chín phần mười.
Má nó cũng nghe an ủi: "Dạ thì họ đuổi chớ sao! Ngụy mà! Kể số gì?"
Rồi má nó cười thật mỉa mai. Một bà già phát tức, phun cốt trầu cái phẹt:
"Hứ! Cái giống gì mà thiệt vô nhân đạo. Người ta đã nghèo, một thân một
mình làm nuôi bầy con mà cũng đuổi cho đành!". Một bà khác thêm vào:
"Thôi đi! Nói gì cái thứ đó! Mồ ông mả cha của tụi nó mà tụi nó còn coi
không ra gì thì nói chi tới bà con mình". Nghe mấy tiếng "bà con
mình" bỗng nhiên má con Mén mủi lòng, chảy nước mắt. Từ ngày bỏ xóm Cầu
Ngang tạm cư ở xóm Bộng này, mặc dù có chồng con ở một bên, má nó vẫn nghe bơ
vơ lạ lùng. Má nó thấy thiếu con kinh đào bờ đê thẳng tấp, thiếu chiếc cầu gỗ
nhón cao chân dài, thiếu màu vàng ruộng lúa, thiếu mùi thơm bông cau, thiếu họ
hàng ruột thịt … Những thứ mà má nó đã thở từ những hơi thở đầu đời. Những thứ
mà má nó đã nhìn từ khi nụ nhìn biết phân biệt. Tất cả, tất cả đã trở thành
nhịp sống của chính bản thân của má con Mén. Mất đi những thứ đó, má nó cảm
thấy như bị tách biệt ra khỏi cuộc đời này … Xóm Bộng tuy hiền, nhưng trước đây
người cùng xóm đối xử với nhau còn nhiều dè dặt, ít qua lại với nhau, gặp nhau
chào hỏi xã giao lấy lệ. Do đó, mặc dù sống trong xóm nhỏ đông người, má con
Mén vẫn thấy như mình sống lẻ loi giữa đồng giữa ruộng. Niềm đau đó má nó dìm
sâu trong nội tâm từ bao lâu nay, bây giờ mấy tiếng "bà con mình"
thật chất phác nhưng thật gần gũi, thật đậm đà tình lân lý, đã mở ngỏ khơi
nguồn. Má nó khóc mà nghe lòng thật ấm cúng và cũng thật là thênh thang trải
rộng. Giống như ruộng lúa xóm Cầu Ngang được ươm vàng dưới nắng, cuối mùa mưa …
--oOo--
Biết thân phận mình
không làm sao tìm được việc làm ổn định, dù làm phu quét đường đổ phẩn, má con
Mén cầm thế một mớ nữ trang quần áo rồi đi buôn đầu chợ bán cuối chợ. Tưởng
giống như ngày xưa ở dưới quê, té ra thật là chật vật. Ở đây và bây giờ, có một
trăm người bán nhưng không có một vạn người mua. Quá nhiều người bán bởi vì
những người này một số không chịu đi làm cho chế độ, một số bị chế độ sa thải
đành buôn bán lắt nhắt để kiếm sống. Quá ít người mua bởi vì thiên hạ không còn
tiền …
Anh em con Mén cũng đã
nghỉ học, ở nhà giúp má tụi nó bằng cách đi bươi đống rác lượm ve chai, giấy
vụn, bao ni lông … Má con Mén cắt bao bố tời may lại thành túi nhỏ cỡ bằng ba
giỏ đi chợ, có hai quai để tụi nó mang vào vai vào cổ. Mấy đứa lớn mang ba túi
mỗi đứa, mấy đứa nhỏ tùy bữa mà đeo khi một khi hai. Đứa nào cũng cầm một que
sắt đầu uốn cong như cái móc. Thằng lớn hay đùa: "Tụi mình bây giờ thành
Cái Bang hết. Tao là trưởng lão ba túi, còn tụi bây là đệ tử. Mỗi ngày tủa ra
đi hành hiệp trên mấy đống rác thành phố Hồ Chí Minh quang vinh!" Rồi tụi
nó cười vui như chẳng biết phiền lụy là gì.
Má con Mén thì khác.
Ưu tư nằm ngay trong ánh mắt nụ cười. Những đêm trằn trọc đã đào sâu đôi má.
Càng ngày, con người càng héo hon. Tuy nhiên, chẳng bao giờ nghe má nó mở miệng
than một lời. Thấy tội nghiệp, hàng xóm thừơng qua thăm mẹ con con Mén để phụ
tụi nhỏ lựa ra và xếp riêng thành đống miểng chai theo miểng chai, ni long theo
ni long, giấy theo giấy v.v… Lâu lâu họ cũng mang cho vài khúc mía, trái dừa
hoặc mấy nhúm tôm khô. Có gì cho nấy, không còn nề hà dở ngon hay nhiều ít. Má
con Mén đều nhận hết, không bao giờ từ chối đẩy đưa. Bây giờ, làm như là người
ta sống thật tình với nhau hơn hồi trước. Làm như là thiên hạ cần có nhau như
hơi thở cần cho cuộc đời. Có lẽ bởi vì họ đã mất tất cả những gì họ đã có, bây
giờ họ chỉ còn lại có nhau thôi …
Lần hồi rồi má con Mén
cũng phải bán đi chút đỉnh đồ đạc trong nhà để đủ có miếng ăn cho lũ nhỏ. Lúc
này tụi nó lớn thấy rõ, mặc dù ăn uống kham khổ. Mấy bà hàng xóm thường nói:
"Trời sanh, trời nuôi". Mà thật, tới con Mén cũng cao lên, tuy vẫn
còn gầy. Tay chân hơi ghẻ lở nhưng gương mặt vẫn kháu khỉnh nhờ mái tóc vẫn hớt
bum bê cao. Nó không chịu để tóc dài. Mỗi lần má nó đề nghị "Để tóc dài đi
con cho nó thành con gái" nó lắc đầu nguầy nguậy, tóc bum bê xòe ra như rẻ
quạt: "Nực thấy mồ …" Mấy hôm đầu đi bươi rác, nó còn mang dép Nhựt.
Sau đó, nó lượm một mớ giày Ba ta rách mũi, chọn được hai chiếc vừa chân thì
một xanh một vàng. Nó mang vào, hí hửng: "Kệ nó! Khác màu như vậy khỏi sợ
chúng nó ăn cắp". Rồi nó đem đôi dép Nhựt rửa sạch, cất kỹ. Không ai hỏi,
nhưng nó vẫn giải thích: "Để giành mai mốt có đi học lại, có mà
mang". Nghe nó nói, thằng anh hai nó nhìn nó rất lâu, bồi hồi xúc động.
Anh nó nhận thấy con Mén không còn là con nít nữa.
--oOo--
Má con Mén có một
người chị ruột tên Ánh, Nguyễn Thị Ánh, hồi đó nấu bếp cho vợ chồng một ông
Tây. Khi gia đình ông này dọn về xứ, chị Ánh cũng đi theo họ rồi ở luôn bên đó.
Ít lâu sau, có tin chỉ lấy chồng người Pháp rồi hai vợ chồng đưa nhau qua làm
ăn ở Phi Châu. Chỉ cũng đã vào quốc tịch Pháp và đổi tên là Anne, bà Anne Brioude.
Khi má con Mén bắt đầu
cạy gạch bông nền nhà lên bán để độ nhật, thằng anh con Mén nói "hết ăn tủ
tới ăn rương, bây giờ tụi mình ăn tới gạch!" thì chị Ánh ở bên tây về kiếm
thăm. Ông chồng khuyên không nên về sợ gặp khó khăn, nhưng chỉ vẩn quyết định:
"Tôi phải về kiếm tụi nó coi ra sao. Nghe nói bây giờ bên Việt Nam dân
chúng đói khổ lắm". Rồi chị mua thật nhiều hàng vải quà cáp làm như gia
đình chị bên nhà còn rất đông. Thật ra, chị Ánh chỉ còn có má con Mén là ruột
thịt, nhưng mười mấy năm xa cách đã làm cho tình thương trong lòng chị thật
mênh mông, không bờ không bến, đến độ chị không đo lường được nữa không phân
biệt được nữa đâu là tình thương em đâu là tình thương quê hương …
Về Sài Gòn, chị Ánh
vẫn gọi là Sài Gòn vì thói quen, chị ở khách sạn Hữu Nghị. Ngày ngày chị đi dò
hỏi tin tức má con Mén, từ những người quen xa xa chỉ qua những người cùng gốc
ở Cầu Ngang nhưng đã lên làm ăn ở thành thị từ trước … Cứ phăn lần phăn lần rồi
chị Ánh cũng tìm ra xóm Bộng. Đến đây, chị gặp một trở ngại lớn: người trong
xóm không biết ai tên là Nguyễn thị Hoa hết. Chị giải thích dài dài: "Nó
nhỏ nhỏ con, người tròn trịa trắng trẻo, năm nay chừng băm mấy chớ chưa già
lắm". Chị tả hình dáng của người em gái cách đây đã mười mấy năm, cái thời
mà hai chị em còn ở dưới quê, trưa trưa hay ra ngồi trên cây dừa bắt ngang
đường nước, thọc chân trong nước mát, đong đưa kể chuyện tâm tình … Hình ảnh
đó, chị đã mang đi và giữ vẹn cho đến bây giờ, quên mất là thời gian đã đi qua
và nét đời đã bị bôi đi vẽ lại! Không ngã lòng, chị tìm cách nói với mấy bà già
trong xóm: "Cháu tên là Nguyễn thị Ánh, con em cháu tên Nguyễn thị Hoa. Tụi
cháu dân ở Cầu Ngang, miệt dưới …". Địa danh Cầu Ngang đã giúp mấy bà nghĩ
ra má con Mén. Một bà hỏi: "Có phải cô đó có bốn đứa con không?" Chị
Ánh mừng rỡ: "Đúng rồi! Người ta nói nó có bốn đứa con, ba trai một
gái!". Bà già gật đầu: "Vậy là má con Mén rồi!". Trước khi chỉ
đường, bà trách nhẹ: "Kiếm má con Mén thì nói kiếm má con Mén! Cô cứ nói
Nguyễn thị Hoa hoài, ai mà biết ai!"
Vậy là hai chị em gặp
nhau. Gặp nhau thật là ngỡ ngàng. Quá nhiều thay đổi để nhìn ra nhau ngay và xa
cách đã quá lâu nên tình cảm bị chìm sâu trong tìm thức. Phải một vài giây im
lặng để tìm lại những nét cũ trên gương mặt bây giờ và để những tình cảm bị bỏ
quên từ ngày xưa được trả về với hiện tại. Sau phút ngỡ ngàng hai chị em ôm
chầm lấy nhau, khóc nức nở.
--oOo--
Chị Ánh đã quyết định:
gia đình con Mén phải qua Phi Châu ở với chỉ. Nhìn tay chân ghẻ lở của bầy
cháu, nhìn gương mặt già trước tuổi của đứa em, chị nghe bất nhẫn vô cùng. Chị
nói: "Không được! Ở lại đây tụi bây cùi luôn, ngu luôn. Qua bển tao lo cho
hết. Còn ba tụi bây, từ từ rồi tính sau”. Rồi chị sắp đặt: “Chị để lại một mớ
tiền, em lo liệu cho mấy đứa nhỏ và đi thăm nuôi chồng em. Chừng chị về bên đó,
chị sẽ gởi tiếp thêm để em chạy lo giấy tờ. Tốn bao nhiêu thì tốn, nhưng phải
đi khỏi xứ này gấp!”. Má con Mén như người không biết lội vừa chìm xuống nước
ngoi lên ôm được cái phao, nhìn trời cao lồng lộng bên trên mà cảm nhận cuộc
sống này vẫn còn có lối thoát.
Chị Ánh trở về Pháp.
Tụi nhỏ vẫn tiếp tục bươi đống rác ngày ngày để đừng ai để ý. Má con Mén chạy
chọt dò dẫm rồi cũng tìm ra trại học tập của chồng.
Lần đi thăm nuôi đầu
tiên, con Mén có đi theo. Thấy ba nó gầy nhom, nó rớt nước mắt. Má nó kể chuyện
dì Ánh cho ba nó nghe, ba nó vừa ngạc nhiên vừa mừng rỡ. Nhưng khi nghe hỏi ý
kiến về vụ cho mấy đứa nhỏ sang Phi Châu, ba nó bỗng im lặng nhìn ra bìa rừng
làm như câu trả lời nằm ở đâu ngoài đó. Một lúc sau, ba nó nói, thật trầm tĩnh:
“Ờ … tính như vậy cũng được. Cho mấy đứa nhỏ nó có tương lai …”. Rồi ba nó cầm
lấy hai bàn tay nhỏ của nó, vừa bóp nhẹ vừa nhìn nó thật lâu. Nó cũng nhìn ba
nó: chưa đầy một năm mà ba nó già đi nhiều, mắt sâu xuống, gò má nhô lên, râu
tóc rối bời … Ba nó đã làm tội tình gì mà “tụi nó” đày đọa ba nó ra như vậy?
Rồi nó nhìn ra mấy thằng bộ đội đứng lớ ngớ ngoài kia, môi nó mím lại, mắt nó
lồi ra: nó muốn lấy que sắt cào bươi "tụi nó” tả tơi như nó nó đã cào bươi
mấy đống rác! Từ đó, con Mén biết thế nào là hận thù …
--oOo--
Dì Ánh đã gởi về đầy
đủ giấy tờ, má con Mén cũng đã nạp hồ sơ xin xuất cảnh qua Côte d’Ivoire (Phi
Châu). Nhờ có tiền gởi về, má nó chạy chọt đút lót nên cũng không gặp nhiều khó
khăn. Cho đến ba con Mén bây giờ cũng được các cán bộ dành nhiều dễ dãi.
Thời gian qua mau, mới
đó mà đã hai năm mấy. Khi ba con Mén được thả về thì mẹ con tụi nó chỉ còn chờ
ngày lên máy bay. Ba nó về mà có cảm tưởng như được đặc cách cho về để đưa vợ
con đi vậy. Bởi vì, sau đó, ba nó vẫn sẽ phải sống chật vật một mình trong một
vùng kinh tế mới nào đó, và tuy không còn ở trong trại nhưng vẫn ở lại trong xứ
thì cũng giống như bị giam trong một trại tập trung khổng lồ.
Ngày ba nó trở về, căn
nhà nhỏ bỗng trở nên quá nhỏ để tiếp những người hàng xóm. Ai cũng mừng cho gia
đình con Mén, mừng thật sự, bởi vì đối với họ, ba con Mén là người của đại gia
đình xóm Bộng. Vậy mà cái đại gia đình đó vẫn chưa ai hay rằng tụi con Mén sẽ
bay đi tìm sống tự do ở một chân trời khác. Bởi vì má con nó luôn luôn giữ kín
chuyện này, cũng như mọi người đang lo xuất cảnh hay toan tính vượt biên, chẳng
một ai dám hé răng.
Bây giờ con Mén lớn rồi,
nên nó để cái võng cho ba nó nằm. Nó săn sóc ba nó từng chút, lấy khăn lông
nhúng nước cho ba nó lau mặt, nấu trà cho ba nó uống, bới cơm cho ba nó ăn. Mẹ
con nó ngồi dưới đất vây quanh võng để nghe ba nó kể chuyện cải tạo đầy khổ
nhục. Ba nó bây giờ hút thuốc rê như ống khói. Ba nó thấy bầy nhỏ nhìn mình
chăm chú, nên mỉm cười phân trần như tự bào chữa: “Hồi đó ba đâu biết hút
thuốc. Rồi trong trại, phần vì lạnh, phần vì buồn, bạn tù chia nhau điếu thuốc
rê. Riết rồi ghiền luôn, bỏ không được”. Con Mén nghe thương ba nó vô cùng. Nó
muốn nhào lại ôm ba nó để chia sớt ngần đó tháng năm chồng chất bằng đói lạnh
buồn đau. Nó muốn nhào lại cầm tay ba nó đặt lên một bên má của nó, rồi an ủi
ba nó bằng những lời lẽ thật là dịu thật là ngọt. Nó muốn … nó muốn … Nhưng,
không hiểu sao nó vẫn ngồi yên nhìn ba nó mà nghẹn ngào chảy nước mắt. Có lẽ nó
tự nhận thấy bây giờ nó không còn là con nít nữa.
--oOo--
Bữa đi phi trường thật
là tội nghiệp. Cả nhà len lén đi, không dám chào ai hết. Gọi là đi chính thức
nhưng giống như là đi trốn, đi chui. Má con Mén dặn dò mấy đứa nhỏ thật kỹ
lưỡng, rồi kết luận: “Sợ bà con biết rồi ba con buồn, hiểu chưa?”
Nếu bà con biết thì có
lẽ bà con sẽ buồn thật. Không phải chỉ buồn vì xa tụi con Mén, mà còn buồn vì
số phận hẩm hiu của mình, bởi vì không phải ai cũng được may mắn như gia đình
con Mén. Điều mà má nó không nói ra là trong thâm tâm má nó rất ái nái khi phải
bỏ xóm Bộng ra đi. Má nó thấy mình giống như lính đào ngủ trong khi bạn đồng
đội đang gan lỳ chịu đựng. Ngồi trên xe đi phi trường mà má con Mén cứ lâu lâu
lại thở dài …
Phi trường đông thật
đông, Người đi không có bao nhiêu mà người tiễn đưa thì thật là nhiều. Kẻ đi
người tiễn nào mắt cũng mọng đỏ. Họ đã khóc đâu từ hồi còn ở nhà hay từ hồi còn
trên xe, đến đây còn thấy có người khóc tiếp. Dĩ nhiên buổi tiễn đưa nào cũng
buồn, nhưng tiễn đưa mà biết rằng vĩnh viễn không gặp lại nhau nữa thì buổi
tiễn đưa đó mới thật là đau đớn. Nó cũng giống như đi chôn người thân, cho nên
có nhiều người ôm nhau khóc thật thảm thiết. Người đi cũng như kẻ ở đều chết
điếng trong lòng. Lời nói chỉ còn là nước mắt.
Mấy anh em con Mén lần
lượt ôm ba tụi nó, khóc như mưa bấc. Con Mén được ba nó ôm sau cùng, ôm thật
lâu … Ba nó siết chặt nó vào lòng mà nghe như có cái gì trạo trực từ lồng ngực
đưa lên cổ. Ba nó nhắm nghiền mắt lại, nuốt xuống như nuốt liều thuốc đắng.
Đến khi ba nó hôn nó
lần cuối thì nước mắt ở đâu bỗng trào ra như suối. Trong một khoảnh khắc, người
đàn ông quê mùa cục mịch đó bỗng nghe thân xác của mình tan ra thành nước, bỗng
thấy tất cả đều nhòe nhoẹt tối đen mà mình thì đã chết đi, chết hẳn. Thời gian
như ngừng lại rất lâu …
Rồi cũng phải buông
rời nhau ra để thực sự nhìn nhau lần cuối. Những người tiễn đứng thành hàng
dài, còn rán chồm qua hàng rào ngăn cách để núm níu người đi. Chỉ trong vài
giây ngắn ngủi đó, tất cả đau thương cô đọng lại thành tiếng nấc, rồi người ta
khóc to lên không còn cần giữ ý tứ gì nữa. Giống như lúc liệng nắm đất lên mặt
quan tài nằm sâu dưới huyệt. Ở đây, đúng là “người đi” đi vào một thế giới
khác.
Ba con Mén nhìn theo
vợ con bước vào bên trong, khoảng cách không có bao nhiêu nhưng sao thấy xa mút
như đầu con kinh đào ở xóm Cầu Ngang. Con kinh đào mà thuở ấu thơ ba nó đã từng
nô đùa tắm mát bây giờ cũng xa lắm nhưng còn có ngày ba nó nhìn thấy lại, chớ
vợ con thì … Ba nó ngừng suy tư ở đó để vẫy tay lần cuối trước khi vợ con bước
qua khuôn cửa kiếng. Cánh cửa đóng lại khô khan như gương mặt mấy thằng công an
đứng gần quanh đó, dửng dưng như chẳng có chuyện gì xảy ra ! Trong phòng đợi,
con Mén lẩm nhẩm đánh vần khẫu hiệu được vẽ to trên tường bằng sơn đỏ: “Không
có gì quý hơn độc lập tự do”.
--oOo--
Tôi quen con Mén ở
Abidjan, thủ đô xứ Côte d’Ivoire. Má nó đưa anh em nó lại để học Pháp văn với
tôi, cùng với những đứa con của mấy gia đình tỵ nạn khác.
Con Mén bây giờ không
còn “mén” nữa. Nó tròn trịa ra, đôi má phinh phính hồng. Tóc bây giờ đã để dài
chấm vai, đuôi tóc quớt quớt.
Khi đã quen thân, con
Mén tỉ tê kể cho tôi nghe từng mẫu chuyện nhỏ trong cuộc đời của nó, nhớ đâu kể
đó, không thứ tự lớp lang. Nhưng phần lớn, chính má nó kể lại, tỉ mỉ hơn, nhứt
là đoạn nó còn nhỏ.
Những lúc con Mén kể
chuyện, mặt nó tươi ra, rạng rỡ, mắt nó ngời lên tinh anh. Và khi nó nói về ba
nó, nó không thiếu một chi tiết. Lâu lâu nó ngừng lại để chêm vào: “Cũng tại
tụi Việt Cộng hết!”. Đến những đoạn bi thảm của ba nó, có khi nó ngừng kể, mắt
nó đầy căm thù, tiếng nó bị nghiến lại trong răng. Tôi đoán nó đang chửi thầm:
“Mồ tổ cha nó!”
Một hôm, nó nói với
tôi: "Bác Hai nè! Bác đừng nói với ai hết nghen. Con muốn nhờ bác dạy con
chữ quốc ngữ nữa. Hồi đó con mới học hết lớp một rồi nghỉ học luôn tới giờ nên con
còn dốt lắm!".
Rồi nó chớp chớp mắt,
giọng nói bỗng trở nên trìu mến: "Con muốn học quốc ngữ để con viết thơ
cho ba con ..".
Câu nói đó đã làm tôi
xúc động đến ứa nước mắt!
Từ bao lâu nay, người
tị nạn chỉ nhờ tôi dạy Anh văn hay Pháp văn. Đây là lần đầu tiên trong đời lưu
vong, tôi được người nhờ dạy quốc ngữ. Lại là một cô gái nhỏ. Và cô học chỉ để
viết thơ về cho cha cô ở Việt Nam! Giản dị như vậy. Vậy mà sao tôi có cảm tưởng
như tôi vừa được nhắc đến quê hương, nhắc bằng chữ i, chữ tờ … Và được thấy lại
một nét quê hương qua hình ảnh người con muốn viết thơ về cho cha vì vẫn không
muốn cắt lìa cuống rún!
Tôi nhìn con Mén mà
thấy thương thấy quí nó vô cùng. Nó không hiểu cái nhìn của tôi nên gật gật
đầu, lập lại: "Con muốn viết thơ cho ba con!".
Tôi cầm hai bàn tay nó
bóp nhẹ: "Ừ, … bác sẽ dạy con … bác sẽ dạy con …".
Trên gương mặt phinh
phính của con Mén, nở ra một nụ cười rạng rỡ. Chắc nó đang nghĩ đến ba nó, đến
cái ngày mà nó có đủ chữ đủ câu để nắn nót viết cho ba nó những bức thơ dài …
Ở Abidjan không có
sách giáo khoa Việt Nam. Tôi phải nhờ một người bạn ở Paris mua gởi sang. Từ
đó, ngày ngày tôi dạy riêng con Mén mà có cảm tưởng như chính tôi đang đi học
lại.
Bây giờ, tôi thấy quí
vô cùng những chữ la tinh mang móc câu, để trở thành chữ ư chữ ơ, đội nón úp
nón ngửa để trở thành chữ â chữ ă, kéo theo mấy dấu lăn quăn nằm dưới nằm trên
… Bởi vì nhờ có chúng nó mà cha con con Mén vẫn thấy được gần nhau mặc dầu ở xa
nhau cách nửa địa cầu. Bởi vì nhờ có chúng nó mà tôi đã khám phá ra con Mén,
một đứa gái nhỏ tuy tị nạn bao năm ở xứ người mà trong lòng vẫn còn giữ nguyên
hình ảnh của xóm Bộng, của Sài Gòn, của Việt Nam …
Truyện ngắn: Con Mén-Tiểu Tử
FWD from:
Tat Thang Vu' via
PSXH,
Tinh Tran tinhtranthanh@yahoo.com,
myngoc nguyen <berna54@yahoo.com
Thu, May 21 at 11:12 AM
Chuyện vui và tình
cảm!
“Thằng bố vợ tôi”
hoànglonghải
Gọi bố vợ bằng thằng
là điều không ai chấp nhận được. “Tứ thân phụ mẫu”, cha mẹ vợ hay cha mẹ chồng
đều phải được kính trọng, thương yêu như nhau.
Cha vợ hay cha chồng
đều gọi bằng cha, bằng bố. Mẹ vợ hay mẹ chồng đều được gọi bằng mẹ hay má, v.v…
Trong luân lý nầy, người Mỹ khác với người Việt.. Không phải là cha mẹ sinh ra
mình, mà cha mẹ của vợ hay chồng, họ thêm vào chữ “in law”. Tại sao phải phân
biệt cha mẹ vợ hay cha mẹ chồng?
Thế mà tôi gọi bố vợ
bằng “thằng”.
Nếu người ta chưởi
cho, mắng là đồ mất dạy, hổn láo, vô văn hóa cũng là chuyện thường.
Bố vợ tôi không phải
là người mất tư cách hay vô lương tâm, hay làm điều chi vô luân bại lý mà để
tôi khinh thị gọi bằng “thằng”. “Ông” là người rất hiền lành!
Thế mà một buổi sáng,
bọn tôi ba “đứa”, những “đứa” còn sót lại trong cuộc chiến tranh tàn khốc vừa
qua, nay “lưu lạc” ở xứ “Mỹ cờ hoa” nầy, ngồi uống cà-phê trong một cái quán ăn
sáng ở Orange County, quán tuy không đẹp nhưng thanh lịch, cây cỏ chung quanh
tươi mát đẹp đẽ, vậy mà Quang mắng tôi một câu nghe thật buồn cười:
-“Mày dẹp cái trò “bố
bố con con” của mày lại đi. Mày, tao với nó là bạn, bạn từ hồi còn mặc quần
xà-lỏn, gọi nhau “mày mày tao tao” quen đã mấy chục năm. Bây giờ nghe mày xưng
“bố con” với nó, tao không thấy buồn cười mà thấy bực mình, mất vui.”
Quang gọi là “nó”. Nó
là bố vợ tôi đấy, là một đứa bạn trong bọn tôi đấy.
Sao gọi là “bọn tôi”?
&
Trước Hiệp Định Genève
1954 thành phố Saigon chỉ “rộng” tới cầu Trương Minh Giảng. Bên kia cầu, còn là
vùng đất hoang, lầy lội, lau sậy mọc um tùm. Vùng đất ấy, xưa, chỉ có một xóm
nhà nhỏ, của dân mò cua bắt ốc và trộm cắp. Người ta gọi đó là “Xóm Vẹc”.
Hồi ấy, dân chúng tập
trung sống ở trung tâm Saigon, còn như ai ở “Xóm Vẹc”, là vùng ngoại ô, mất an
ninh. Dân nhậu Saigon, nhà ở Xóm Vẹc, một là nhậu cho “tới chỉ” thì ngủ lại nhà
bạn. Còn như ai muốn về thì lo về sớm. Về khuya trên đường Xóm Vẹc, không chừng
bị du đảng đánh cho, bị cướp tiền bạc, bị lấy xe đạp.
Lỡ như ai đó nhậu chưa
tới, nửa muốn ở, nửa muốn về, bạn bè sẽ có người bảo: “Thôi để cho ông ấy về,
đường khuya nguy hiểm”.
&
Thế rồi cả triệu người
di cư năm 1954. Ai gốc nông dân, người ta định cư ở vùng nông thôn, dinh điền,
khu trù mật… tiếp nối cái nghề tổ tiên để lại. Ai dân Hà Nội hay thành phố ở
ngoài Bắc, không quen làm ruộng thì tập trung ở Saigon hay các thành phố khác
phía nam vĩ tuyến.
Không còn đủ đất ở
trung tâm Saigon, nên thủ đô miền Nam phình rộng ra.
Ngay xứ tôi ở, Xóm Vẹc ngày xưa, nay dân di cư tập trung
đông đúc. Từ phía đầu cầu Trương Minh Giảng, lên tới “Lăng Cha Cả” là chỗ người
Bắc định cư.. Những khu vực được nhiều người nhắc tên mới là “Xóm Bùi Phát”. Có
phải họ gốc Bùi Chu/ Phát Diệm? Nhà Thờ Ba Chuông, Cư Xá Đô Thành.
Nhà Thờ, Chùa và Chợ
theo dân mà mọc lên.
Lăng Cha Cả ở cuối
đường Trương Mình Ký, ngày xưa vắng vẻ, quạnh hiu, nay thành nơi đô hội. “Cái
nhà lăng” kiểu xưa, ngói âm dương, cột kèo cũ kỷ nằm chơ vơ, xa lạ trước những
ngôi nhà lầu cao vài ba tầng, kiểu mới, hiện đại.
Bọn tôi, cũng gốc “rân ri-cư”, – như chúng tôi thường gọi
đùa chính mình -, từ năm lên năm, lên mười, lớn lên ở cái “Xóm Vẹc” thời xa xưa
ấy. Tên đường Alfred Eyriaud Des Vergnes đổi thành đường Trương Minh Giảng, nối
dài tới cuối đường, chỗ gần tới cổng Bộ tổng Tham Mưu Quân Đội VNCH là đường
Trương Minh Ký.
Chúng tôi bỏ không gọi Xóm Vẹc mà gọi theo những cái tên
mới, xuất hiện cùng thời với dân di cư đến định cư ở đây. Tên “Xóm Vẹc” biến
mất hồi nào mà không ai hay! Tội nghiệp hay không tội nghiệp cho một ông Tây
tên Vẹc, một ông “thực dân”?
Bọn tôi không dưới năm đứa, không quá mười tên, học tiểu
học với nhau, đầu tiên ở cái trường tư trong xóm, do một ông giáo già người Bắc
di cư, nay đã nghỉ hưu, mở lớp dạy tư tại nhà. Một phần là vì chính phủ chưa
kịp mở trường cho dân di cư, một phần, học ở đây thay vì phải vào thành phố.
Học ở “Trường Xóm”,
chúng tôi khỏi phải đi xa, xe cộ bất tiện, tai nạn nguy hiểm. Học gần nhà, bố
mẹ dễ “kiểm soát”, lại có ông thầy già nghiêm khắc, bọn chúng tôi bớt hoang
nghịch.
“Trường Xóm” của chúng tôi nó tương tự như trường của mấy
ông đồ ngày xưa ở làng quê: Học trò đủ hạng tuổi, đủ hạng lớp… Kể theo cách
ngày trước, thấp nhất là lớp Năm. Lớp nầy đông nhất, trên hai chục “đứa”. “Đứa”
là học sinh nhỏ đấy. Rồi đến lớp Tư, học sinh ít hơn. Lớp Nhất là ít nhất, chỉ
có mấy “anh”. “Anh” cũng là học sinh, nhưng lớn tuổi hơn bọn tôi, nên phải gọi
bằng “anh” cho “phải phép”. Lớp nầy thầy dạy kỹ lắm vì năm tới phải thi vô
trường công, khỏi học trường tư. Trường tư phải đóng học phí. Không kịp đóng
học phí, học sinh sẽ bị đuổi học, về nhà xin tiền đóng tiếp để được học tiếp.
“Tiên “học phí”, hậu học văn”. “Trường tư” thường bị mang tiếng kinh doanh hơn
giáo dục. Nhưng không đóng học phí, tiền đâu trả lương cho thầy?!
Được mấy năm, ông thầy già qua đời. Nghề làm thầy giáo mà:
“Tổn lắm”. Bố tôi thường nói vậy. Mẹ tôi bảo làm thầy giáo “dễ bị ho lao”.
Người đời thì bảo là nghề “bán cháo phổi”. Ông thầy già, sức yếu, lại nhiều năm
gian khổ, dù không bị bệnh lao, ông vẫn qui tiên sớm là chuyện thường.
Ổng chết rồi, bọn chúng tôi vẫn nhớ ông, và thương ông
nữa, bởi ông có một điều đáng quí: Tận tâm với bọn trẻ chúng tôi, mặc dù chúng
tôi vẫn ngán cây roi mây của ông, một là để thầy nhịp nhiều lần trên mặt bàn,
nhắc chúng tôi im, không được nói chuyện, phải học bài làm bài chăm chỉ, và
cũng “phết vào đít” thằng nào đó, cái tội nghịch trong giờ học hay đánh lộn
ngoài giờ.
Ông thầy già qua đời rồi, trường “Xóm Vẹc” của tôi đóng
cửa. Không ai nối nghiệp ông ở cái xóm mới định cư nầy.
Chúng tôi xuống học
lớp Nhất ở một cái trường tư khác, trên đường Kỳ Đồng, của “ông cha nhà thờ”.
Trường có lớp nầy lớp kia đàng hoàng, nhưng bọn học trò chúng tôi thì không
đàng hoàng. Sau giờ học, có khi bỏ cả giờ học, chúng tôi leo “Xe Buýt Đỏ”, loại
nầy vừa thay cho “Xe Buýt Vàng”, để chui vào Sở Thú chơi.
Ông tuyệt vời! Những buổi lang thang trong Sở Thú. “Làm
học trò nhưng không sách cầm tay! Có tâm sự đi nói cùng cây cỏ” Ông nhà thơ Đinh
Hùng nói chỉ đúng có một nửa, vì chúng tôi “Có tâm sự” gì đâu!?
Tới giờ, lo tìm về cho
đúng giờ để “ông bô bà via” của chúng tôi vẫn nghĩ chúng tôi là những đứa học
trò ngoan.
Lên Trung Học, mỗi đứa chúng tôi xa nhau hơn. Đứa vào
trường công, đứa vào trường tư. Gần thì Huỳnh Thị Ngà ở Xóm Chùa, vào Huỳnh
Khương Ninh ở Đa-Kao, đứa xa hơn, Hưng Đạo, gần đường Trần Hưng Đạo.
Bấy giờ thì tình hình Saigon “vui lắm”. Biểu tình, đá đảo,
hoan hô, tuyệt thực, tự thiêu, đảo chánh, “biểu dương lực lượng”… xảy ra đều
đều, tháng nào cũng có hay mỗi năm, năm bảy bận. Cũng có khi chúng tôi đi biểu
tình “cho vui”, cho đời thêm “màu sắc”
Đậu tú tài, được vô đại học; nhưng chiến tranh đã gần kề.
Súng không còn nổ ở Bình Giả, Đắk-Tô, Ban-Hét… “xa tít mù khơi” nữa mà gần kề
hơn, có khi ngay tại Saigon. Việt Cộng gài lựu đạn, mìn, khủng bố. Thế rồi chúng
tôi lần lượt vô quân trường lúc nào mà ngay chính mình cũng không nhớ tới nữa.
Tới tuổi rồi, không đi
sao được. Với lại, mấy ông thầy đứng trên bục giảng làm chúng tôi “hứng chí”
không ít: “Áo chàng đỏ tựa ráng pha, ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in”.
Chúng tôi bỗng thấy
“gần gũi” với màu áo lính trận, màu xanh cây rừng, màu hoa dù, màu rong biển…
Vài bữa đi học về, nghe bố mẹ hay ai đó trong gia đình
nói: “Thằng X. đi Võ Bị rồi!” Rồi lại: “Thằng Y. vô Không Quân”, rồi lại “Thằng
Z. đi Nhảy Dù”, “Thằng T. đi Biệt Động Quân”. Biệt Động Quân là cọp “Ba Đầu
Rằn” đấy.
Một hôm, gặp “Thằng bố vợ tôi”, sau nầy. Nó bảo: “Tao đi
Quân Cụ”. Tôi ừ, nghĩ “Lớ ngớ như mày, ra đơn vị tác chiến, “bỏ mạng sa tràng
sớm.” Nói thì nói vậy, chứ đời chưa hẳn vậy.... “Đơn vị không tác chiến, có khi
bỏ mạng sớm, còn như ai đánh giặc ngày nầy qua tháng khác, lại sống nhăn.
Thế rồi có đứa hy sinh, có đứa bị thương, thành thương
binh, có đứa bị Việt Cộng bắt..
Trong bọn tôi, tôi là người bị bắt sớm nhất, tù Việt Cộng
sớm nhất. Năm 1971, tôi bị chúng nó bắt ở Hạ Lào. Những đứa còn lại, đều thua
tuổi tù tôi những 4 năm. Sau Ba mươi tháng Tư, chúng nó mới lục tục kéo nhau
“trình diện”, “đóng tiền đi ở tù”. Xem ra, tôi là “tù trưởng” của bọn chúng.
Từ Hạ Lào, Việt Cộng đưa “bọn tù binh chúng tôi” ra Bắc. Năm
ký Hiệp Định Paris, tưởng chúng tha về, như các tù binh khác, nhưng không thấy
động tĩnh gì cả. Sau nầy mới biết, khi Chính Phủ VNCH yêu cầu thả chúng tôi ra,
bọn Việt Cộng nói chúng tôi bị bắt ở Lào là do Pathet Lào giam giữ, chúng nó
không có trách nhiệm.
Miệng lưỡi Cộng Sản,
ghê gớm thật!
Mãi tới 16 năm sau,
tôi mới “được tha ra khỏi trại cải tạo”. Đó là câu ghi trong cái gọi là “Lệnh
Tha”.
Sau 16 năm tù, về lại
xóm cũ thấy quạnh hiu. Quạnh hiu là ở lòng người! Nhà cửa thì vẫn thế, không
thay đổi gì nhiều. Người tuy đông mà vắng vẻ. Thế hệ cha ông chúng tôi, hầu như
“qui tiên” hết cả rồi. Thế hệ tôi thì cũng tan tác. Mười phương tám hướng chúng
nó đi hết: Vượt biên, kinh tế mới, về quê làm ruộng, đi làm ăn xa. Bọn trẻ lớn
lên, nhiều đứa nhìn tôi xa lạ. Tôi xa nhà đã hơn hai mươi năm. Những đứa ngày
tôi ra đi, nay hơn hai chục tuổi, làm sao chúng biết tôi là ai?
&
Khi tôi đạp chiếc
xích-lô ngang cổng nhà người bạn cũ thì một cô gái khoảng hai mươi tuổi, tất tả
từ trong nhà chạy ra, tay xách, tay mang, gọi ơi ới:
-“Chú Đức, chú Đức,
chở cháu đi với.
Tôi dừng xe lại chờ.
Ra tới nơi, cô gái
hỏi:
-“Chú đưa cháu qua chợ
Hòa Hưng được không? Cháu đi gấp, sợ trễ.”
Tôi hỏi:
-“Cô muốn đi đường
nào? Qua ngã Tân Sa Châu hay lên Thoại Ngọc Hầu. Đi ngã Tân Sa Châu ngắn hơn.”
-“Đường Tân Sa Châu
xấu lắm. Lên Thoại Ngọc Hầu dễ đạp hơn.”
Cô gái ngồi lên xe
xong, tôi nghiêng mình lấy đà đạp xe đi.
Một chốc, cô gái hỏi:
-“Chú ăn gì chưa?”
-“Dân Saigon không ăn
sáng, chỉ uống càphê thôi. Trưa mới ăn.”
-“Buổi trưa chú ăn ở
đâu?”
-“Không chắc ở đâu,
ngang đâu tấp đấy, miễn no với rẻ thì thôi.”
-“Khổ nhỉ? Chốc nữa
chú uống càphê với cháu. Có chỗ nầy càphê ngon lắm.” Cô gái nói.
-“Cô sợ trễ mà?” Tôi
hỏi.
-“Một chút không sao!”
Cô ta trả lời.
Một lúc cô ta hỏi:
-“Chú đạp xe từ hồi
nào?”
-“Cải tạo về tới giờ!”
Tôi trả lời.
-“Sao gọi là cải tạo?
Tù chớ.” Cô gái cải chính....
-“Với ai quen mới gọi
tù.. Lỡ gặp cán bộ, gọi tù nó phê bình đấy!” Tôi nói.
-“Ối giời! Bây giờ ai
còn ngại gì nữa. Cán bô, Công An cũng như mình thôi, kiếm ăn cả. Cứ theo “Chính
sách đường lối” thì lấy gì sống!” Cô gái trả lời.
Lại một lúc, cô ta
nói:
-“Bố cháu cũng tù về
đấy! Chú biết không?”
-“Biết sao không? Ông
ấy là bạn với tôi từ hồi còn nhỏ đấy! Bố cháu cũng đỡ vất vả. Mẹ cháu và chị em
cháu đảm đang. Ông ấy chỉ giúp vợ việc lặt vặt.”
Tôi nhớ tới Hiền. Có
lẽ là bố cô gái. Nó hiền đúng như tên nó. Dù có lính lác như tôi, nhưng nó ít
gian khổ hơn nhiều. Nghĩ thế, tôi nói:
-“Ai có gia đình cũng
đỡ. Tôi tù về thì không còn ai!”
-“Cháu biết, hàng xóm
mà! Người trong nhà chú lần hồi đi cả. Mấy anh lớn chị lớn vượt biên. Ông cụ
qua đời, ít lâu bà cụ cũng đi theo. May họ chưa lấy nhà, nhờ bà cô già.”
Quả thật khi tôi tù về
thì nhà không còn ai, chỉ còn bà cô già, chị của bố tôi. Bà ở góa từ khi còn
trẻ, không chồng con gì cả. Trước 1975, bà vô chùa. Sau đó, thấy bố mẹ tôi cô
quạnh, cô bỏ chùa về săn sóc, cơm nước cho bố mẹ tôi. Bố mẹ tôi mất rồi, Việt
Cộng tính lấy nhà vì bà là chị bố tôi, chúng nại cớ bà không có quyền thừa kế,
thì tôi về. Cũng may, còn được căn nhà che mưa nắng, không thì ngủ gầm cầu.
Trong khi uống càphê,
cô gái hỏi:
-“Hồi còn trẻ sao chú
không lấy vợ như ba cháu?”
-“Lấy vợ sao được? Ba
cháu ở “đơn vị không tác chiến”, có “chữ thọ”, lấy vợ không lo gì, chớ như bọn
tôi, hành quân “mút mùa Lệ Thủy”, có ở nhà đâu. Với lại: “Lỡ khi mình không về
thì thương người vợ chờ…”
-“Chú cũng thơ thẩn dữ!”
Cô gái cười nói.
-“Thơ người ta! Với
lại, hồi đó chương trình Việt Văn thơ văn nhiều lắm. Bọn tôi phải học Chinh Phụ
Ngâm.”
-“Cháu học sau “giải
phóng”, chẳng biết gì hết! Cháu có nghe nói Chinh Phụ Ngâm, nhưng có biết gì
đâu!”
-“Đó là bản dịch của
bà Đoàn Thị Điểm. Hay lắm. Tôi nghe ông thầy giảng mấy lần câu “Cổ lai chinh
chiến địa, kỷ kiến hữu nhân hồi”, nên khi đi lính rồi, ngại tính việc lấy vợ.”
Tôi giải thích.
-“Câu chú đọc nghĩa
như thế nào?” Cô gái hỏi.
-“Những người đi chinh
chiến, ít thấy trở về!” Tôi nói lại theo lời thầy giảng ngày trước.
-“Đang đánh nhau với
ngoài kia, mà lại dạy cho học trò như thế, cháu thấy có mâu thuẫn đấy!” Cô ta
nhận xét.
-“Dĩ nhiên! Nhưng mà
đất nước tự do, không cấm được. Đi lính là bổn phận, không lý không cần tới văn
chương!” Tôi nói.
Cuối cùng, trước khi
đi tiếp tới chợ, cô ta nói:
-“Nói chuyện với chú
vui đấy! Hay cứ mỗi sáng, chú đưa cháu sang chợ. Cháu khỏi lo trễ chợ, chú cháu
mình lại uống càphê. Tiền xe cháu tính đủ cho chú.”
-“Được thôi! Tôi chạy
một ngày sao cho đủ mua gạo với rau muống là đủ, về nghỉ. Thành ra cũng thoải
mái.”
Vậy rồi, mỗi ngày, tôi
đưa cô ra ra chợ. Quen dần, chiều lại thêm một “cuốc”, đón cô ta về.
Công việc cứ thế diễn
ra gần nửa năm. Trong khoảng thời gian đó, vì cùng xóm, có lần cô ta vào nhà
thăm tôi, xem tôi ăn ở như thế nào, và bày tỏ vài ý kiến về cảnh sống của tôi:
Đàn ông không vợ, sống với bà cô già. Bà cô đã già, nấu cơm bằng củi, khi chín
khi khê, áo quần tôi lâu ngày không giặt, treo trên vách, thúi hoắc mồ hôi…
Vì vậy, một lần cô ta
hỏi tôi:
-“Chú Đức! Sao chú
không lấy vợ đi?”
Tôi thành thật nói:
-“Ai chịu làm vợ tôi
bây giờ? Cô thử nghĩ đi!”
Một lúc tôi lại nói:
-“Nửa đời nửa đoạn,
trẻ không còn trẻ, già cũng chưa già hẳn.” Rồi tôi đọc nhại câu ca dao “Lấy ai
ai lấy bây giờ lấy ai!” Trẻ thì họ không thể lấy tôi, ít ra tôi cũng lớn hơn
vài chục tuổi. “Nửa đời hương phấn” thì “có đũa có đôi.” Còn lại thì có ai đó góa
chồng mà tay dắt tay bồng: “Em tay bế tay bồng”, đâu phải “người yêu năm cũ” để
mà “thương thiếu phụ bên sông!”
-“Hồi ấy chú không có
người yêu?” Cô ta hỏi.
-“Vâng! Tôi nói rồi!
Sợ người ta “Góa phụ ngây thơ!”
-“Hồi ấy tại sao chú
đi lính?” Cô ta lại hỏi.
-“Ai cũng đi thì mình
đi. Tôi có anh bạn cùng ở Dù.... Anh nó quá ba mươi, đang dạy học, bỗng tình
nguyện đi lính?” Tôi nói.
-“Không được miễn lính
à?”
-“Có đâu! Mậu Thân ở
Huế, ông người Huế – thấy học trò mang khăn tang nhiều quá nên ông bỏ dạy đăng
lính. Có vợ con rồi đấy.”
-“Bây giờ mà chú không
lấy vợ, cháu cũng không lấy chồng!”
-“Sao kỳ thế?” Tôi
ngạc nhiên hỏi.
Cô ta chưa kịp trả lời
thì xe đã tới chợ. Cô ta xuống xe, quày quả vào chợ!”
&
Thế rồi ngày ngày qua
đi…
Một hôm, tôi gợi
chuyện:
-“Mấy bữa nay, tôi cứ
suy nghĩ hoài! Tại sao cô nói cô không lấy chồng.”
-“Chú nghĩ coi! Đời
bây giờ có anh thanh niên nào vừa mắt mình để lấy làm chồng! Con gái phải có
“thần tượng” chứ! Cháu lớn lên, thế hệ chú và ba cháu qua rồi, vô tù hết cả
rồi. Nhưng hình ảnh những người lính thời đó, vẫn còn lại trong lòng cháu. Cháu
thấy thích và ngưỡng mộ khi nghĩ đến họ. Còn như đời bây giờ…” Cô ta bỏ lửng
câu nói.
-“Bây giờ thì sao?”
Tôi giả bộ hỏi.
-“Bây giờ, thời bình,
cái hào hùng của người lính không còn nữa. Giữa cái hổn độn xã hội bây giờ,
cháu biết tìm ai?” Cô ta tâm sự.
-“Cũng có người cho cô
vậy!” Tôi an ủi.
-“Khó lắm chú à! Thanh
niên bây giờ, muốn kiếm sống, phải lo chạy mánh.”
-“Cô cho chạy “mánh”
là không đứng đắn sao?” Tôi hỏi.
-“Mánh là mánh mung.
Mánh mung thì làm người đứng đắn thế nào được?” Cháu lấy một anh chạy mánh làm
chồng sao?” Cô gái than thở.
-“Gắng tìm một người
không chạy mánh mà chọn làm chồng.” Tôi nói.
-“Khó lắm chú à! Ai
cũng phải chạy mánh hết, ai cũng phải mánh mung để kiếm sống! Muốn sống, buôn
bán như cháu cũng mánh. Lấy một công nhân, viên chức, muốn sống cũng chạy mánh.
Mánh với mọi người, riết rồi vợ mánh với chồng, chồng mánh với vợ. Vợ chồng coi
như xong.”
-“Đó là cách “quản lý
xã hội” của họ đấy. Ai cũng phải có một cái gì đấy, để chính quyền coi như cái
án treo, khi cần thì cho vào tù cho dễ.”
-“Kinh thật chú nhỉ?
Thành ra cháu không thể lấy chồng, đành chịu vậy!”
Lại đến chợ! Cô ta
quày quả vào chợ.
Thế rồi ngày ngày qua
đi…
Một hôm cô ta hỏi tôi
một câu, tôi cho là “động trời!”
-“Cháu muốn chú cưới
cháu làm vợ!”
Tôi lặng người đi, vừa
kinh ngạc, vừa lạ lùng. Tôi hỏi:
-“Tại sao cháu nói
thế?”
-“Không phải cháu muốn
đi HO với chú. Gia đình cháu cũng chuẩn bị đi HO như chú. Không lấy chú, không
đi HO với chú, cháu đi với ba mẹ cháu. Cháu muốn chú cưới cháu vì suy đi tính
lại, cháu chẳng thấy ai hợn.”
-“Tại sao cháu nghĩ
thế? Tuổi tác xa nhau quá mà!”
-“Hai chục tuổi mà xa
gì. Đàn bà mau già lắm. Mẹ cháu nói vậy. Cháu sinh vài đứa con, coi như cháu…
già bằng chú.. Vả lại tình yêu chú à! Cháu nghĩ cháu cũng có thể yêu chú vậy.
Cháu có đọc sách Chu Tử. Tình yêu không cần tuổi tác.”
-“Chú nghĩ cháu không
yêu chú! Cháu chỉ thương hại!”
-“Ba cháu nói người
Việt giàu tình thương. Cha mẹ, vợ chồng, anh em, bà con, tất cả đều bắt đầu
bằng tình thương. Ngày xưa, không yêu nhau mà lấy nhau, người ta thương nhau,
rồi yêu nhau. Sau nầy người ta đổi chữ đấy chú à!” Cô gái nói.
-“Đổi chữ là sao?” Chú
chưa hiểu.
-“Ba cháu nói hồi xưa
ít dùng chữ “yêu” mà thường nói chữ thương. “Thương nhau cởi áo cho nhau…” Chớ
đâu phải “Yêu nhau…” Yêu nhau là nói theo cách bây giờ. Xưa là “Thương nhau…”
Ba cháu nói bản “Nắng chiều”, chú nhớ không? In đầu tiên, ông nhạc sĩ viết
“Lạnh lùng nhìn anh, em nói “mến” anh.” Mà không viết “yêu anh”. Sau nầy người
ta hát “yêu anh” là sai đấy! Phải không?” Thành ra, cháu có “thương hại” chú,
rồi có… “yêu chú” cũng không có gì lạ cả. Con người ta, căn bản là tình thương,
không phải tình yêu. Ba cháu giải thích “thương” là cho mà không đòi lại. Yêu
là cho mà đòi lại. “Yêu rất nhiều song chẳng nhận bao nhiêu.”
-“Cô sâu sắc đấy!” Tôi
nói.
-“Không phải đâu! Ba
cháu giải thích cả đấy!”
-“Cóc mở miệng,”
(Thằng) đó mà nói là như “Cóc mở miệng”. Nói xong, tôi thấy ngại. Tôi lỡ lời,
gọi bố cô ta bằng “thằng”.
Một chốc, tôi nói:
-“Nhưng chú thấy ngại
quá! Làm sao chú có thể mở miệng xin cưới cháu với bố mẹ cháu được?”
-“Chú đừng lo! Cháu sẽ
nói. Cháu mở đường xong thì chú tiếp tục… rán mà đạp xe xích lô.” Cô ta nói nửa
đùa nửa thật.
&
Thế rồi “thằng” ấy trở
thành bố vợ tôi.
Tôi rất thương vợ, và
kính trọng bố vợ như cô ta kính trọng cha mẹ cô ta vậy. Ở địa vị người rể, tôi
gọi thằng bạn thân ấy là “bố” và xưng “con” như vợ tôi vậy!
Rắc rối là từ khi qua
Mỹ rồi, cùng ở Orange County, lại cũng đã già, “đất khách quê người”, tình bạn
cũ càng thêm khăng khít nên ít nhất, mỗi tuần, sáng Chủ Nhật, cả bọn năm bảy
đứa, họp nhau uống cà-phê ở một quán quen, để kể chuyện cũ, vui đùa, chọc quê nhau,
một phần vì bạn với nhau từ khi thơ ấu, một phần, cũng “quen đời lính” “lúc nào
cũng vui đùa” để quên bớt… súng đạn. Đúng là thói cũ khó chừa.
Cũng rắc rối là cái
thằng Quang. Ngồi chung một bàn, quen như ở nhà, – vợ chồng tôi ở chung với bố
mẹ vợ – nên cứ quen miệng “bố bố, con con” khiến thằng Quang chưởi tôi không ít
bận, cho là gai tai nó. Tôi bỏ “họp mặt” mấy lần, khiến bọn nó nhắc hoài.
Hôm qua, Lộc gọi cho
tôi:
-“Ê! Đức, mai chủ
nhật, mày vắng mặt là tụi nó chưởi cho đấy!”
-“Nhưng tao…” rồi tôi
ngập ngừng.
Lộc nói:
-“Mày sợ thằng Quang
chớ gì. Thằng đó “đập chó không ngó đằng sau”. Tù về, nó mới lấy vợ. Vợ
nó trước kia góa chồng, tử trận, để lại hai con, lớn hơn nó ba tuổi. “Trai tân
lấy gái nạ dòng”, có ai nói gì đâu!”
Thế là tôi thủ sẵn “vũ
khí”.
Ngày hôm sau, đang
ngồi cười đùa vui vẻ, thấy tôi “bố bố, con con” với bố vợ, Quang nói:
-“Mày dẹp cái “trò bố
con” của mày lại đi. Tao gai quá!”
Tôi phản pháo ngay:
-“Nói thật với mày.
Tao thương vợ nên gọi “nó” bằng bố. Mày có thương vợ mày không? Nếu mày thương
vợ thì mày gọi vợ mày bằng “Chị” hay bằng “Em? Mày nói “Em yêu chị” hay “Anh
yêu em”. Trả lời đi!”
Cả bọn cười ồ.
Vậy là coi như xong
một màn “Hài kịch thời đại”!
Bà Tô Thùy Yên: Trăm năm đã chẳng nề
hà...
21/05/2020
Orchid Lâm Quỳnh
20200522 BTBD 01
Nhà
thơ Tô Thùy Yên 1938- 21/5/2019. (Hình: Người Việt)
Như vậy là đã 2 tháng trôi qua, kể từ ngày phải cách ly xã
hội. Mẹ tôi đã làm hết các việc trong nhà, ngoài ngõ. Lau sàn bằng tay
mỗi tuần 2 lần (vì lau bằng cây thì không sạch... và nhanh quá). Lau cửa
kính, cả trong lẫn ngoài (vì lau một mặt thì mặt kia ai lau, và xong sớm quá).
Dọn sách cho Ông Ngoại, dời tủ này sang tủ khác (vì từ khi ông ngoại thành
chim, không bừa bãi tủ sách nữa, nên sách rất ngay ngắn, đâu cần dọn dẹp, thế
là chỉ có thể chuyển từ tủ này sang tủ khác mới có việc thôi). Sáng ra
vườn để chăm sóc cây, vì dù cách ly xã hội, ta cũng phải: “Cảm ơn hoa
đã vì ta nở.”
Vậy mà sáng nay, khi trời chưa kịp sáng, khi tôi đang lục đục
làm cafe, mẹ tôi đã ào ra và hỏi: “Bưu điện có mở cửa không con?” Tôi trả lời:
“Dạ chắc có. Nhưng thời buổi này mẹ chạy ra bưu điện làm gì?” Mẹ tôi nói ngay:
“Mẹ cần gởi cây cho bác Bích, mẹ sẽ đi sáng nay.” Tôi biết sẽ không có gì thay
đổi được quyết định này của mẹ tôi. Mặc dù cả 2 tháng nay, ngoài mỗi buổi sáng
ra thăm mộ bố vào lúc 6 giờ, mẹ tôi không hề bước chân ra đường làm bất cứ một
việc nào khác. Mẹ tôi sợ cô Vi răm rắp, thế nhưng nỗi sợ cô Vi đã không
vượt qua tình yêu dành cho bác Bích.
Tôi không hề biết nguyên tên họ của bác Bích, vì từ lâu lắm rồi,
bác là: Bà Tô Thùy Yên. Tôi lâu lắm mới gặp Bác Bích, ôm Bác được vài
lần, nhưng tôi cảm nhận được hơi ấm rất gần gũi, thân quen, vì đó là hơi ấm của
mẹ tôi, của một người đi trọn con đường chông gai, nhọc nhằn bên cạnh một tên
tuổi lớn, của thi ca Việt Nam.
Trong văn chương, người phụ nữ luôn được mô tả bằng mắt biếc,
bằng môi thơm, bằng suối tóc, bằng dáng mỏng. Tôi luôn lầm tưởng nàng thơ
của thi sĩ này lại là nàng tranh của họa sĩ kia. Họ luôn dùng những từ
ngữ “diễm lệ” để diễn tả về người phụ nữ. Đôi khi tôi cũng không rõ do họ yêu
cùng một người, hay trong trí tưởng tượng, nàng thơ của họ toàn là nàng tiên bị
đọa xuống trần, “dáng mỏng mưa vời”, mong manh, dễ vỡ. Những nàng
thơ luôn cần sự nâng đỡ, chở che... Và khi tất cả các nàng tiên bay về trời,
thì bên cạnh chàng thi sĩ còm cỏi, có khi đang bệnh nặng, già yếu... sẽ chỉ còn
duy nhất một người phụ nữ, “trăm năm đã chẳng nề hà...”
Một mai nàng ra bãi vô định
Nhìn sông đổi lòng, nhìn núi chuyển chân
Mây bay bay như những vẫy biệt...
Nàng đứng cho tàn như một nén nhang.
TTY
20200522 BTBD 02TTY
Nhà
thơ Tô Thùy Yên và phu nhân. (Hình: FB HietDinh)
Vậy là Bác Bích đã đi với thi sĩ Tô Thùy Yên trọn một kiếp
người. Tuy vậy, tôi tin rằng đối với bà, thi sĩ Tô Thùy Yên không hề:
Đi như đi lạc trong trời đất,
thủy tận sơn cùng, xí xóa ta.
Cách đây mấy hôm, khi mẹ tôi gọi phone hỏi thăm Bác. Bác
nói:
“Còn đúng hai tuần nữa là ngày giỗ đầu của anh đó em. Chị đếm
từng ngày.” Mẹ tôi kể giọng Bác run run, bác khóc. Tuy nhiên, ngay sau
đó, 2 người đàn bà tỉnh lại ngay. Hình như đã từ lâu, họ tập cho mình một
thói quen chặng đứng nước mắt. Họ không cho mình được quyền yếu đuối, vì
họ không phải là nàng thơ. Họ là người nuôi dưỡng thơ, để thơ được tự do,
sống mãi. Thế là họ chuyển sang chuyện cây, cỏ, đời sống, chuyện kiếp
sau: có chàng thi sĩ.
Bác Bích chỉ muốn làm một bông sen ở kiếp sau, nhưng bác khẳng
định, nếu chẳng may lại làm người thì bác Bích vẫn chọn Bác Tô Thùy Yên làm
chồng, để lại “được” khổ thêm kiếp nữa.
Phần tôi, tôi không tin là Bác Bích chọn thi sĩ Tô Thùy Yên, mà
chính thi sĩ đã chọn người phụ nữ ấy để “Sáng nay, ta còn đi bên
nhau.” Thật vậy, dù bao nhiêu thăng trầm, bao lần bạo bệnh, bao
nhiêu năm tù đày, bao nhiêu nàng thơ, bao nhiêu mối tình vớ vẩn, ông vẫn luôn
trở về nhà, để “sáng nay ta còn đi bên nhau” cho đến ngày ông
thật sự “dỗ cho ta giấc ngủ bình yên”.
Người phụ nữ kiên cường đó đã đi với ông suốt một chặng đường
dài. Ngay từng những ngày đầu khi bà còn là một thiếu nữ ngoài đôi mươi.
Bà đã tuân thủ tuyệt đối theo lời của thân phụ: Khi con đã lấy chồng thì dù có
bất cứ lý do gì đi nữa, không bao giờ con được li dị. -Nhưng nếu người ta bỏ
con thì sao? -Người đàn bà mà để chồng bỏ thì bỏ đi cho rồi.
Bác Bích đã không có dịp để thử nghiệm lời của Bố, chàng thi sĩ
ấy, sau hơn chục năm tù đày, sau mấy năm loanh quanh lẩn quẩn, tưởng bỏ đi, rồi
ông vẫn lừng lững “Ta về”
Ta gọi thời gian sau cánh cửa.
Nỗi mừng ràn rụa mắt ai sâu.
Ta nghe như máu ân tình chảy
Từ kiếp xưa nào tưởng lạc nhau.
TTY
Tôi tin rằng bà chưa bao giờ để lạc mất ông. Qua những lần
kể chuyện, tôi hiểu được tại sao hai bà mẹ (mẹ tôi và bác Bích) lại thân và yêu
nhau đến thế. Họ không yêu thơ, nhưng họ yêu con người của 2 chàng thi sĩ, vô
cùng. Qua những câu chuyện, tôi hiểu được rằng, đối với thi sĩ Tô Thùy
Yên, bác Bích không chỉ là vợ, mà còn là bạn, là người tình, là con gái và cả
là mẹ nữa. Bác yêu sự ngây ngô của thi sĩ Tô Thùy Yên. Dù là một thiên
tài văn học, khi ở nhà, ông chỉ là một đứa trẻ. Ông để bác Bích quyết định hết
mọi vấn đề. Ông không màn đến tiền bạc. Ông không ngại làm sai. Ông
nói với bác Bích: “Em làm sai, thì em làm lại. Em đi lạc, thì mình đi lại.” Qua
những lời kể của bác Bích, tôi bỗng thấy yêu ông quá đỗi. Hai ông thi sĩ
thật giống nhau.
Nghìn năm nữa, tôi vẫn là đứa trẻ
Cần bàn tay của mẹ thuở lên năm
DTL
DTL
Điểm giống nhất của hai ông thi sĩ lớn, là đem hết tất cả chuyện
ngoài ngõ, về thuật lại cho vợ. Kể luôn chuyện của kẻ thứ 3 mới hay chứ!
Hình như đối với ông, những người phụ nữ đó cũng chẳng phải là kẻ thứ 3.
Sau khi kể rõ đầu đuôi chuyện tình của mình, ông còn ngây thơ hỏi vợ: “Em thấy
như vậy là người ta yêu anh chưa?” Điều hay là Bác Bích cũng trả lời: “như vậy
là có tình ý rồi đó”.
Và cứ thế, bác Bích luôn dang tay, để che chở ông. Lúc ông
nằm nhà thương cũng là lúc bác Bích bệnh. Vậy mà ngày nào bác cũng vô nhà
thương với ông. Dù tôi không bên cạnh bác, nhưng khi bác kể, tôi hình dung được
ngay hình ảnh bác tất tả, ngược xuôi, ra vào bệnh viện. Hình ảnh đó không quen
thuộc sao được khi đó cũng là hình ảnh của mẹ tôi, trong những ngày bố bệnh. Mẹ
tôi đã ở suốt bên bố hai tháng trời trong nhà thương và không biết về nhà là
gì. Hai bà mẹ hiểu rất rõ trong những giây phút ấy, hai ông bố không
còn là chàng thi sĩ của bao nhiêu thế hệ, mà hai ông đã trở về nguyên trạng,
đứa trẻ của riêng bà.
20200522 BTBD 03
Từ
trái: Nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, ông bà Du Tử Lê, ông bà Tô Thùy Yên. (Hình
dutule.com)
Trong những giây phút đối mặt với tử thần, bố tôi luôn có mẹ tôi bên cạnh. Dù không được phép, Bà vẫn ngủ lại trong bệnh viện với ông. Tôi nhớ cô y tá thương quá, nên đã cho mẹ tôi, thêm 2 chiếc ghế đểo mẹ tôi xếp lại làm giường ngủ qua đêm. Bác Bích, thì cũng đã áp lực với bệnh viện, để có được cho mình cái code, vào ra lúc khuya khoắc, khi mà các cửa bệnh viện đã đóng kín bưng.
Bác Bích kể với mẹ tôi. Khi bên giường bệnh Bác đã khuyên
ông: “Thôi anh đi đi, bạn bè ở trên đó nhiều, anh đi cho vui. Không cần ở lại
với em.” Rồi thì, bà thấy hai giọt nước mắt lăn dài trên má ông.
Cõi chiều đứng lại khóc như liễu,
có thật là ta đã đi xa
TTY
Tôi tin rằng, tin một cách mãnh liệt rằng, dù trên giường bệnh,
trong nhà thương, giữa lúc phải chọn cho mình cuộc chơi riêng, cả hai ông đều
không muốn người phụ nữ, người mà hai ông đã chọn sống cùng suốt một chặn đường
dài, phải đau thêm một giây nào nữa.
Phút đó, bên giường bác Yên, chỉ còn anh Đinh Hiệt. Bên
giường bố tôi, chỉ còn tôi, phải chứng kiến cảnh ông trút hơi thở cuối
cùng!
Tôi tin chắc anh Hiệt sẽ không bao giờ xóa được hình ảnh đó trong
trí của mình. Tôi tin rằng, mỗi ngày, hay là ngay cả mỗi phút mỗi giây,
anh phải sống với nỗi đau của ngày 21 Tháng Năm năm ấy, cũng như tôi.
Nhưng Tôi cũng tin rằng, bác Yên sẽ trở về, sẽ thủy chung với
bác Bích.
Ta về cúi mái đầu sương điểm,
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời.
Cám ơn hoa đã vì ta nở.
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi.
TTY
Còn đúng một tuần nữa là giỗ đầu của bác Tô Thuỳ Yên, và 5 tháng
nữa là giỗ đầu của bố tôi. Sáng nay, giữa mùa cách ly, trên đường ra thăm
mộ Bố, tôi bật khóc khi nhìn thấy tiệm bánh mì Tip Top trên đường Brookhurst.
Nơi mà bao giờ trước khi rời Cali, bác Bích cũng ghé ngang mua vài ổ đem về,
chỉ vì “anh Tiên thích bánh mì tiệm này lắm.”
Tôi ước ao, trong giây phút này, giữa mùa cách ly, tôi được ôm
bác Bích thật chặt. Tôi sẽ nói với bác là:
Rồi thì tất cả sẽ nguôi ngoai.
TTY
TTY
OrchidLamQuynh
May 15, 2020
May 15, 2020
Thu, May 21 at 11:11 AM
Bài viết vui. Mời đọc!
Tử
Vi Ông Trump 2020-2021
Tháng nầy, bốn năm trước (5/2016), xã hội Mỹ xôn xao, bận rộn, bàn tán, chọn lựa người Tổng Thống kế tiếp để lãnh đạo Nước Mỹ, sau 8 năm Obama cầm quyền, đã đưa Hoa-Kỳ xuống hố cả Nước.
Chính trị lơ mơ, kinh tế không tăng, thêm chính sách cúi đầu "xin lỗi" bốn phương (không ai biết lỗi gì?); lại bị Tầu cọng chơi xỏ, cho chui từ cửa hậu ra, khiến danh dự và niềm kiêu hảnh truyền thống của Dân Mỹ bị tổn hại trầm trọng...
Do vậy, Đảng Cộng Hòa có tới 16 vị ra tranh cử tổng thống.
Ai cũng hay, ai cũng giỏi, biết tin ai?
vã lại, với "thân phận chùm gởi", tỵ nạn chưa bao lâu ở Nước nầy, làm sao biết thấu chiều sâu của xã hội văn minh phức tạp nầy, mà có ý kiến.
Thôi đành dùng lối xưa, nhờ vào Tử Vi coi cuộc thế thành bại ra sao?.
Coi qua 7, 8 vị có tên tuổi, như: Nghị Sĩ Ted Cruz, Jeb Bush (gia đình 2 đời làm tổng thống), v.v...; chợt thấy trong danh sách nầy có một vị "doanh nhân" cũng ra tranh cử.
Ông nầy cả ba nghành: Lập Pháp, Tư Pháp, Hành Pháp, chưa hề làm qua.
Chưa hề là Dân Biểu, Nghị Sĩ; cũng không hề làm Thống Đốc hay Thẩm Phán; cho đến cái chức Lý Trưởng (Mayor) cũng chưa làm...
Vậy mà dám ra tranh cử tổng thống?, thật lạ...
Nhân vật nầy: Donald Trump, một doanh nhân chưa hề tham chính, nên tôi cũng coi luôn tử vi, coi ra sao?.
Lạ thay, số của Ông trội hơn hết trong đám Cộng Hòa nầy.
Nên tôi chắc Đảng Cộng Hòa sẽ chọn Ông này mặc dầu lúc đó nhiều thành phần NO Trump, phá phách, chống đối; nhưng căn cứ vào tử vi:
người có MỆNH tốt, việc gì cũng qua khỏi, nên tôi quyết đoán:
Đảng Cộng Hòa sẽ chọn Ông, tranh Tổng Thống nhiệm kỳ 2017-2020 sắp tới.
Bên phía Đảng Dân chủ, tôi chỉ coi lá số của Bà Hillary thôi, vì cụ già lụm cụm xã nghĩa lải nhải thuyết Xã Hội Chủ Nghĩa, xưa hơn trái đất, thất bại khắp nơi, chỉ có đám liberals, là khoái chí reo hò ủng hộ.
Bà Hillary có thừa điều kiện để thắng cử:
- Là người Phụ Nữ đầu tiên tranh chức tổng thống Hoa Kỳ, hấp dẫn lắm...
- Rất quen thuộc với giới Hành Pháp (Phu nhân của cựu T T Clinton),
- Tổng Trưởng Ngoại Giao,
- Nghị Sĩ Quốc Hội,
Vậy là ăn chắc rồi..... nhưng khi so hai lá số, thì một trời, một vực.
Đại hạn của Bà Hillary có Thiên không/kiếp sát; tiểu hạn năm 2017, lại có địa không/địa kiếp. Trong lúc Ông Trump, đại hạn có Thái Âm/Thái Dương sáng rực, tiểu hạn có Hóa Quyền/ Hóa Lộc, Tướng, Phụ, cáo, binh; nắm quyền sinh sát, trội hẳn Bà Hillary, nên mặc dầu truyền thông, polls ...đều tiên đoán bà Hillary chắc chắn đắc cử, tôi vần quyết, bà sẽ thảm bại. (xem bài mạn đàm bầu cử, att.) .
100% không sai, Ông Trump thắng cử như đã đoán.
Đã qua mấy trăm năm, Tử Vi đẩu số vẫn đoán đúng sự việc, nhiều khi rất kỳ lạ.
(xem Tử Vi Ông Trump 2016-2017, theo att. bên dưới).
Năm nay 2020, lại bầu cử nữa....giữa lúc lao sao Dịch Vũ Hán, nhiều bàn cải cũng không kém phần sôi nổi về nhân vật Biden của Đảng DC; tuy nhiên tôi chưa vội xem số tử vi của Ông này; vì chưa chắc Đảng DC đề cử Ông; mặc dầu Ông là người được chọn để tiếp nối sách lược từ Câu Lạc Bộ Bilderberg với giấc mộng thống trị toàn cầu, bằng cách tạo ra Chính Quyền Thế Giới, trong ‘Trật tự Thế giới mới’ .
"Chính Phủ Thế Giới mới" mà Obama được ủy thác và đã dự định Hillary tiếp tục hoàn tất, ... nhưng bất thành, vì bị Ông Trump bất ngờ xuất hiện, thắng cử, khiến cho Hillary thảm bại tơi bời. Đó chính là nguyên nhân vì sao Đảng DC, truyền thông thiên tả, phe Obama liên tục đánh phá TT Trump 24/24 trong suốt 3 năm qua
(đọc bài " Obama, sứ mạng chưa hoàn tất", att. bên dưới.)
Tháng nầy, bốn năm trước (5/2016), xã hội Mỹ xôn xao, bận rộn, bàn tán, chọn lựa người Tổng Thống kế tiếp để lãnh đạo Nước Mỹ, sau 8 năm Obama cầm quyền, đã đưa Hoa-Kỳ xuống hố cả Nước.
Chính trị lơ mơ, kinh tế không tăng, thêm chính sách cúi đầu "xin lỗi" bốn phương (không ai biết lỗi gì?); lại bị Tầu cọng chơi xỏ, cho chui từ cửa hậu ra, khiến danh dự và niềm kiêu hảnh truyền thống của Dân Mỹ bị tổn hại trầm trọng...
Do vậy, Đảng Cộng Hòa có tới 16 vị ra tranh cử tổng thống.
Ai cũng hay, ai cũng giỏi, biết tin ai?
vã lại, với "thân phận chùm gởi", tỵ nạn chưa bao lâu ở Nước nầy, làm sao biết thấu chiều sâu của xã hội văn minh phức tạp nầy, mà có ý kiến.
Thôi đành dùng lối xưa, nhờ vào Tử Vi coi cuộc thế thành bại ra sao?.
Coi qua 7, 8 vị có tên tuổi, như: Nghị Sĩ Ted Cruz, Jeb Bush (gia đình 2 đời làm tổng thống), v.v...; chợt thấy trong danh sách nầy có một vị "doanh nhân" cũng ra tranh cử.
Ông nầy cả ba nghành: Lập Pháp, Tư Pháp, Hành Pháp, chưa hề làm qua.
Chưa hề là Dân Biểu, Nghị Sĩ; cũng không hề làm Thống Đốc hay Thẩm Phán; cho đến cái chức Lý Trưởng (Mayor) cũng chưa làm...
Vậy mà dám ra tranh cử tổng thống?, thật lạ...
Nhân vật nầy: Donald Trump, một doanh nhân chưa hề tham chính, nên tôi cũng coi luôn tử vi, coi ra sao?.
Lạ thay, số của Ông trội hơn hết trong đám Cộng Hòa nầy.
Nên tôi chắc Đảng Cộng Hòa sẽ chọn Ông này mặc dầu lúc đó nhiều thành phần NO Trump, phá phách, chống đối; nhưng căn cứ vào tử vi:
người có MỆNH tốt, việc gì cũng qua khỏi, nên tôi quyết đoán:
Đảng Cộng Hòa sẽ chọn Ông, tranh Tổng Thống nhiệm kỳ 2017-2020 sắp tới.
Bên phía Đảng Dân chủ, tôi chỉ coi lá số của Bà Hillary thôi, vì cụ già lụm cụm xã nghĩa lải nhải thuyết Xã Hội Chủ Nghĩa, xưa hơn trái đất, thất bại khắp nơi, chỉ có đám liberals, là khoái chí reo hò ủng hộ.
Bà Hillary có thừa điều kiện để thắng cử:
- Là người Phụ Nữ đầu tiên tranh chức tổng thống Hoa Kỳ, hấp dẫn lắm...
- Rất quen thuộc với giới Hành Pháp (Phu nhân của cựu T T Clinton),
- Tổng Trưởng Ngoại Giao,
- Nghị Sĩ Quốc Hội,
Vậy là ăn chắc rồi..... nhưng khi so hai lá số, thì một trời, một vực.
Đại hạn của Bà Hillary có Thiên không/kiếp sát; tiểu hạn năm 2017, lại có địa không/địa kiếp. Trong lúc Ông Trump, đại hạn có Thái Âm/Thái Dương sáng rực, tiểu hạn có Hóa Quyền/ Hóa Lộc, Tướng, Phụ, cáo, binh; nắm quyền sinh sát, trội hẳn Bà Hillary, nên mặc dầu truyền thông, polls ...đều tiên đoán bà Hillary chắc chắn đắc cử, tôi vần quyết, bà sẽ thảm bại. (xem bài mạn đàm bầu cử, att.) .
100% không sai, Ông Trump thắng cử như đã đoán.
Đã qua mấy trăm năm, Tử Vi đẩu số vẫn đoán đúng sự việc, nhiều khi rất kỳ lạ.
(xem Tử Vi Ông Trump 2016-2017, theo att. bên dưới).
Năm nay 2020, lại bầu cử nữa....giữa lúc lao sao Dịch Vũ Hán, nhiều bàn cải cũng không kém phần sôi nổi về nhân vật Biden của Đảng DC; tuy nhiên tôi chưa vội xem số tử vi của Ông này; vì chưa chắc Đảng DC đề cử Ông; mặc dầu Ông là người được chọn để tiếp nối sách lược từ Câu Lạc Bộ Bilderberg với giấc mộng thống trị toàn cầu, bằng cách tạo ra Chính Quyền Thế Giới, trong ‘Trật tự Thế giới mới’ .
"Chính Phủ Thế Giới mới" mà Obama được ủy thác và đã dự định Hillary tiếp tục hoàn tất, ... nhưng bất thành, vì bị Ông Trump bất ngờ xuất hiện, thắng cử, khiến cho Hillary thảm bại tơi bời. Đó chính là nguyên nhân vì sao Đảng DC, truyền thông thiên tả, phe Obama liên tục đánh phá TT Trump 24/24 trong suốt 3 năm qua
(đọc bài " Obama, sứ mạng chưa hoàn tất", att. bên dưới.)
Biden
thất thế vì Dịch Vũ Hán đánh thức dân Mỹ, khiến họ thấy rõ:
- Trung Cộng chơi không vô, theo thăm dò của Pew Research ngày 29/3/2020 cho biết 66% dân Mỹ có nhận xét không tốt về Trung cộng; trong khi trước đây, con trai Biden, tháp tùng theo cha, qua Tầu, liền được Tầu hỗ trợ mở Công Ty, một tỷ mỹ kim. Nếu Biden mà được làm tổng thống Mỹ, chắc dân Mỹ phải học kinh nghiệm vượt biên của người tị nạn VN sau 75.
Dân Mỹ chẳng những giựt mình tỉnh dậy, mà còn nhận thấy ĐCSTQ đã xâm nhập quá sâu vào MỸ, hoạt động theo kế hoạch bao gồm sử dụng gián điệp, tống tiền, kiện cáo, thâm nhập kinh tế, trộm cắp tài sản trí tuệ, tuyên truyền và phá hoại để làm suy yếu nước Mỹ và củng cố sức mạnh của Tàu cộng.
Hơn nữa, Dân Mỹ đã thấy qua mấy đời Tổng Thống, vì lý do thầm kín nào (?), hay vì bất tài, bất lực (?), đã để cho ĐCSTQ chèn ép Mỹ trên mọi lãnh vực; mà giờ đây, chỉ có mỗi một TT Trump là đương đầu nỗi, phục hồi vinh quang cho MỸ Quốc; có thể đập tan mộng của Tập-Cẩn-Bình dùng chiến lược " Vành đai/Con dường " mong làm bá chủ Thế Giới, nhưng đã chết yểu, một số nước theo Tàu đã mang nợ! MAKE AMERICA GREAT AGAIN.
- Trung Cộng chơi không vô, theo thăm dò của Pew Research ngày 29/3/2020 cho biết 66% dân Mỹ có nhận xét không tốt về Trung cộng; trong khi trước đây, con trai Biden, tháp tùng theo cha, qua Tầu, liền được Tầu hỗ trợ mở Công Ty, một tỷ mỹ kim. Nếu Biden mà được làm tổng thống Mỹ, chắc dân Mỹ phải học kinh nghiệm vượt biên của người tị nạn VN sau 75.
Dân Mỹ chẳng những giựt mình tỉnh dậy, mà còn nhận thấy ĐCSTQ đã xâm nhập quá sâu vào MỸ, hoạt động theo kế hoạch bao gồm sử dụng gián điệp, tống tiền, kiện cáo, thâm nhập kinh tế, trộm cắp tài sản trí tuệ, tuyên truyền và phá hoại để làm suy yếu nước Mỹ và củng cố sức mạnh của Tàu cộng.
Hơn nữa, Dân Mỹ đã thấy qua mấy đời Tổng Thống, vì lý do thầm kín nào (?), hay vì bất tài, bất lực (?), đã để cho ĐCSTQ chèn ép Mỹ trên mọi lãnh vực; mà giờ đây, chỉ có mỗi một TT Trump là đương đầu nỗi, phục hồi vinh quang cho MỸ Quốc; có thể đập tan mộng của Tập-Cẩn-Bình dùng chiến lược " Vành đai/Con dường " mong làm bá chủ Thế Giới, nhưng đã chết yểu, một số nước theo Tàu đã mang nợ! MAKE AMERICA GREAT AGAIN.
Trong nhiều thập kỷ,
các nhà lãnh đạo Mỹ đã chấp nhận một phiên bản giả tưởng, tin rằng Tàu cộng
muốn tham gia vào các thị trường toàn cầu để cuối cùng trở nên tự do và cởi mở
hơn, để có thể sống hòa thuận và cùng có lợi.
Nhiều người trong chính phủ, giới truyền thông và giới học thuật không nhận ra - hoặc từ chối chấp nhận rằng: - Sự THẬT phũ phàng đã làm suy yếu Nước Mỹ và phải kết thúc.
Bây giờ, với Dich Vũ Hán, Nước Mỹ phải đối mặt với một đối thủ cạnh tranh nghiêm trọng không muốn chia sẻ giai đoạn thế giới, mà muốn thống trị và kiểm soát nó.
May mắn thay, lần đầu tiên sau nhiều thập kỷ, Hoa Kỳ có một tổng thống, hiểu được sự nguy hiểm nầy và đang nỗ lực để đập tan nó.
(Xem T T Trump đập tan mộng bá chủ TCB. trong att. bên dưới).
Đảng DC đang ở thế lưỡng nan:
- chọn Biden thì tự đào huyệt chôn mình,
(Riêng đối với người VNCH tị nạn, chắc khó quên lời của TNS Joe Biden tuyên bố vào tháng 4/ 75: “Tôi sẵn sàng biểu quyết bất cứ số tiền cần thiết nào để mang lính Mỹ và dân Mỹ ra khỏi Nam VN về Mỹ, nhưng sẽ không cho một xu nào cho việc di tản và tái định cư bất cứ một người Việt nào! Nước Mỹ không có trách nhiệm phải cứu 1 người hay 100.001 người Việt nào hết! Nước Mỹ không có trách nhiệm gì với họ!
.
- còn chọn người khác, biết họ có theo đúng chỉ thị của mình không?
Trong những ngày tháng tới, sẽ thấy Đảng DC có còn sáng suốt, hay chỉ vì tiền, theo chỉ thị của nhóm Chính Quyền Thế Giới, của các tài phiệt, muốn điều hành Nước Mỹ theo ý riêng của phe nhóm.
Chờ xem...
Trở lại với Tử Vi của Ông Trump...
Năm nay 2020, Ông vào đại hạn Tử Phủ Vũ Tướng, sáng rực.
tiểu hạn có tứ linh: Cái, Hổ, Phượng, Long, công danh quyền quý phỉ nguyền một khi,
rất tốt; nhưng lại bị Kình Dương phùng Lực Sĩ, nên bao công việc Ông làm ích Quốc lợi Dân, bị DC, truyền thông, phe Obama, liberals, che khuất, tạo fakes news, cắt đầu cắt đuôi, khiến người Dân không biết đến những công trình tốt đẹp của Ông.
Có khi vì quá THÙ Ông, hay ăn tiền TC mà còn dùng thông tin của TC đánh phá ông, như ký giả Mỹ Joe Concha, phóng viên của “The Hill”- trang web tin tức của Mỹ có trụ sở tại Washington, D.C., Hoa Kỳ, đã mạnh mẽ lên án các hãng thông tấn chính thống của Hoa Kỳ vào thứ Tư (ngày 6 tháng 5), ông cho rằng họ đã quá tin tưởng vào những tuyên bố về thành tích chống dịch của chính quyền Trung Quốc, lựa chọn thông tin sai lệch cho khán thính giả Mỹ, đó là hành vi lỗ mãng và vô trách nhiệm, không hề nghĩ đến quyền lợi Quốc Gia Dân Tộc .
Dân Mỹ, giờ đây đặt câu hỏi cho đám này như Washington Post, The New York Times, CNN, MSNBC, v.v.. :
Aren't you ashamed of yourself? Or do you not have a conscience?
Truyền thông Mỹ ngày nay, không còn là truyền thông thông tin nữa, mà là cơ quan tuyên truyền của đảng phái. Họ chỉ loan tin nào có lợi cho đảng của họ mà thôi. Nếu lỡ có tin không hay cho họ, thì họ méo mó, che dấu, xoay thế nào cho có lợi.
Như 2 ngày trước đây (13/5) CNN tự Poll, Biden vs Trump, hy vọng có dịp nâng cao Biden. Nhưng Poll cho thấy:
Trong 15 Tiểu Ban chiến lược, Trump cao hơn Biden, 52/45.
CNN gỡ gạt, "tuy nhiên trên toàn quốc Biden vẫn cao".
Đó không còn là thông tin, mà là tuyên truyền.
Đau đớn thay, đệ tứ quyền đã bị méo mó hết thuốc chữa!
(cho nên nhìn thấy truyền thông thiên tả Mỹ như vậy, tôi tự an ủi:
Nước của họ mà họ còn như vậy, thì chuyện ăn tiền Tầu, hùa nhau với phe DC, đánh hội đồng VNCH, đối với bọn lỗ mãng và vô trách nhiệm nầy, là dĩ nhiên! .
Than ôi, VNCH chết cũng vì không có tiền... chi như TC, cho lũ truyền thông lỗ mãng và vô trách nhiệm ...không đói, ...chỉ tham!.)
Tài tình của tử vi là thấy được việc xảy ra như vậy, làm cho thêm thích thú khi nghiên cứu khoa này.
Tuy nhiên, sau tháng 7 âm lịch, lối Aug.- Sept. 2020 thì vào các tháng tốt, không gì làm khó cho Ông TRUMP được và coi như NOV. thắng cử là lẽ đương nhiên.
Vì năm sau 2021, tiểu hạn của Ông có: Thai phụ, Cáo, Ấn, Binh, Hình, thêm Thiên khôi, Quyền, Lộc, đứng đầu thiên hạ là số đã định, theo tử vi.
Nếu cao hứng một chút, không bị Korean Drama cám dỗ, tôi sẽ đoán và so sánh hai số tử vi của Ông Trump và TC Bình.
Rất thú vị, vì cả hai Ông đều vào Đại Hạn Tử Phủ Vũ Tướng, miếu, vượng địa, đứng đầu thiên hạ, chỉ hơn thua ở vào tiểu hạn năm Tân Sửu, 2021, và ngũ hành thuận lợi cho Mệnh, Thân của người nào, cho thấy người nào trên chân người nào.
Tôi thuờng áp dụng lối so sánh này để đoán các tay đánh Boxe quôc tế, chưa hề sai, chỉ là đoán cho vui với các con, anh em trong gia đình, vì gia đình tôi không có số hoạnh tài, nên không ai cá cuộc gì hết.
Lưu-Vĩnh-Lữ
Nhiều người trong chính phủ, giới truyền thông và giới học thuật không nhận ra - hoặc từ chối chấp nhận rằng: - Sự THẬT phũ phàng đã làm suy yếu Nước Mỹ và phải kết thúc.
Bây giờ, với Dich Vũ Hán, Nước Mỹ phải đối mặt với một đối thủ cạnh tranh nghiêm trọng không muốn chia sẻ giai đoạn thế giới, mà muốn thống trị và kiểm soát nó.
May mắn thay, lần đầu tiên sau nhiều thập kỷ, Hoa Kỳ có một tổng thống, hiểu được sự nguy hiểm nầy và đang nỗ lực để đập tan nó.
(Xem T T Trump đập tan mộng bá chủ TCB. trong att. bên dưới).
Đảng DC đang ở thế lưỡng nan:
- chọn Biden thì tự đào huyệt chôn mình,
(Riêng đối với người VNCH tị nạn, chắc khó quên lời của TNS Joe Biden tuyên bố vào tháng 4/ 75: “Tôi sẵn sàng biểu quyết bất cứ số tiền cần thiết nào để mang lính Mỹ và dân Mỹ ra khỏi Nam VN về Mỹ, nhưng sẽ không cho một xu nào cho việc di tản và tái định cư bất cứ một người Việt nào! Nước Mỹ không có trách nhiệm phải cứu 1 người hay 100.001 người Việt nào hết! Nước Mỹ không có trách nhiệm gì với họ!
.
- còn chọn người khác, biết họ có theo đúng chỉ thị của mình không?
Trong những ngày tháng tới, sẽ thấy Đảng DC có còn sáng suốt, hay chỉ vì tiền, theo chỉ thị của nhóm Chính Quyền Thế Giới, của các tài phiệt, muốn điều hành Nước Mỹ theo ý riêng của phe nhóm.
Chờ xem...
Trở lại với Tử Vi của Ông Trump...
Năm nay 2020, Ông vào đại hạn Tử Phủ Vũ Tướng, sáng rực.
tiểu hạn có tứ linh: Cái, Hổ, Phượng, Long, công danh quyền quý phỉ nguyền một khi,
rất tốt; nhưng lại bị Kình Dương phùng Lực Sĩ, nên bao công việc Ông làm ích Quốc lợi Dân, bị DC, truyền thông, phe Obama, liberals, che khuất, tạo fakes news, cắt đầu cắt đuôi, khiến người Dân không biết đến những công trình tốt đẹp của Ông.
Có khi vì quá THÙ Ông, hay ăn tiền TC mà còn dùng thông tin của TC đánh phá ông, như ký giả Mỹ Joe Concha, phóng viên của “The Hill”- trang web tin tức của Mỹ có trụ sở tại Washington, D.C., Hoa Kỳ, đã mạnh mẽ lên án các hãng thông tấn chính thống của Hoa Kỳ vào thứ Tư (ngày 6 tháng 5), ông cho rằng họ đã quá tin tưởng vào những tuyên bố về thành tích chống dịch của chính quyền Trung Quốc, lựa chọn thông tin sai lệch cho khán thính giả Mỹ, đó là hành vi lỗ mãng và vô trách nhiệm, không hề nghĩ đến quyền lợi Quốc Gia Dân Tộc .
Dân Mỹ, giờ đây đặt câu hỏi cho đám này như Washington Post, The New York Times, CNN, MSNBC, v.v.. :
Aren't you ashamed of yourself? Or do you not have a conscience?
Truyền thông Mỹ ngày nay, không còn là truyền thông thông tin nữa, mà là cơ quan tuyên truyền của đảng phái. Họ chỉ loan tin nào có lợi cho đảng của họ mà thôi. Nếu lỡ có tin không hay cho họ, thì họ méo mó, che dấu, xoay thế nào cho có lợi.
Như 2 ngày trước đây (13/5) CNN tự Poll, Biden vs Trump, hy vọng có dịp nâng cao Biden. Nhưng Poll cho thấy:
Trong 15 Tiểu Ban chiến lược, Trump cao hơn Biden, 52/45.
CNN gỡ gạt, "tuy nhiên trên toàn quốc Biden vẫn cao".
Đó không còn là thông tin, mà là tuyên truyền.
Đau đớn thay, đệ tứ quyền đã bị méo mó hết thuốc chữa!
(cho nên nhìn thấy truyền thông thiên tả Mỹ như vậy, tôi tự an ủi:
Nước của họ mà họ còn như vậy, thì chuyện ăn tiền Tầu, hùa nhau với phe DC, đánh hội đồng VNCH, đối với bọn lỗ mãng và vô trách nhiệm nầy, là dĩ nhiên! .
Than ôi, VNCH chết cũng vì không có tiền... chi như TC, cho lũ truyền thông lỗ mãng và vô trách nhiệm ...không đói, ...chỉ tham!.)
Tài tình của tử vi là thấy được việc xảy ra như vậy, làm cho thêm thích thú khi nghiên cứu khoa này.
Tuy nhiên, sau tháng 7 âm lịch, lối Aug.- Sept. 2020 thì vào các tháng tốt, không gì làm khó cho Ông TRUMP được và coi như NOV. thắng cử là lẽ đương nhiên.
Vì năm sau 2021, tiểu hạn của Ông có: Thai phụ, Cáo, Ấn, Binh, Hình, thêm Thiên khôi, Quyền, Lộc, đứng đầu thiên hạ là số đã định, theo tử vi.
Nếu cao hứng một chút, không bị Korean Drama cám dỗ, tôi sẽ đoán và so sánh hai số tử vi của Ông Trump và TC Bình.
Rất thú vị, vì cả hai Ông đều vào Đại Hạn Tử Phủ Vũ Tướng, miếu, vượng địa, đứng đầu thiên hạ, chỉ hơn thua ở vào tiểu hạn năm Tân Sửu, 2021, và ngũ hành thuận lợi cho Mệnh, Thân của người nào, cho thấy người nào trên chân người nào.
Tôi thuờng áp dụng lối so sánh này để đoán các tay đánh Boxe quôc tế, chưa hề sai, chỉ là đoán cho vui với các con, anh em trong gia đình, vì gia đình tôi không có số hoạnh tài, nên không ai cá cuộc gì hết.
Lưu-Vĩnh-Lữ
No comments:
Post a Comment