Saturday, December 29, 2018

20181229 Bản tin biển Đông

20181229 Bản tin biển Đông


BPSOS công bố bản tiếng Việt nhận xét kết luận của Uỷ Ban Chống Tra Tấn LHQ
Trung Quốc đang cạn dần cơ hội cứu vãn kinh tế trên đà tụt dốc
Bỏ bằng bác sĩ để theo đuổi đam mê, họa sĩ gốc Việt được phong Hiệp Sĩ
Tội ác mổ cướp nội tạng tại Trung Quốc bị phơi bày trước diễn đàn TED
VNTB - Mỹ đánh thuế thép Formosa từ Việt Nam 250%: Bài học và cái chết ngành thép Việt Nam.
The City That Had Too Much Money
Vancouver was the first place to experience the tidal wave of Chinese cash. Now the city is leading efforts to stop it.
How Chinese gangs are laundering drug money through Vancouver real estate
How Chinese gangs are laundering drug money through Vancouver real estate
New details on ‘The Vancouver Method’ of gangland money laundering
The "Vancouver Model" - Canada confronts a global money laundering threat
https://bc.ctvnews.ca/video?clipId=1501358
China’s autonomous regions
The 10 Best Chinatowns in the World


Rules Of Engagement

Tác Giả: Mark Berent - Phi công phản lực tham chiến tại Việt Nam 1965-1973
Chuyển Ngữ: Thái Dương
(Tựa đề bài chuyển ngữ do tác giả thêm cho rõ ý nghĩa của bài viết)
(Phi công Mark Berent cho rằng Mỹ và đồng minh Việt Nam có thể đã chiến thắng tại chiến trường Việt Nam vào những năm 67, 68. Nhưng qua những vụ ngưng ném thả bom trên đường mòn Hồ Chí Minh và miền Bắc Việt Nam, đã giúp cho Cộng Sản Bắc Việt mang quân và vũ khí vào miền Nam để đi đến chiến thắng cuối cùng vào tháng Tư 1975. Những phi công như ông đã bi trói tay và bịt mắt trước những cuộc di chuyển ồ ạt của cộng quân.
Hãy nghe Mark Berent tâm sự… Nguyên tác là bài viết với tựa đề Rules Of Engagement, được in trong tác phẩm “To Bear Any Burden của Al Santoli".
Lần đầu tiên tôi tham chiến tại Việt Nam là vào năm 1965. Ðơn vị của tôi đóng tại căn cứ Không Quân Biên Hòa. Tôi bay phản lực cơ F-100s, tổng cộng hơn 200 phi vụ. Lần thứ hai tôi tham chiến ở Việt Nam là vào năm 1968, lúc đó tôi bay phản lực cơ F-4s cất cánh từ căn cứ Ubon, Thái Lan. Tôi thuộc phi đoàn Cú Ðêm (Night Owls), có nhiệm vụ bay trên đường mòn Hồ Chí Minh trong vòng 7 tháng. Cuối cùng, 5 tháng chót tôi được chỉ định chỉ huy Woff FAC (Lực Lượng Không Kiểm Tiền Phương (Forward Air Control)). Lực lượng này bao vùng đường mòn Hồ Chí Minh từ Lào đến suốt Bắc Việt Nam. Ðó là thời điểm mà Tổng Thống Johnson ra lệnh ngưng ném thả bom.. Do đó, có lúc các phi vụ được chấp thuận ném thả bom, có lúc phi vụ không được chấp thuận.. Chẳng cần dấu diếm, nhiều lần một số anh em phi công chúng tôi tự thi hành nhiệm vụ thả bom đường mòn, mà không cho ai biết.
Tại Việt Nam, có vài điều rất đỗi ngạc nhiên. Thứ nhất là tôi được tưởng thưởng nhiều huy chương. Nhưng có một trường hợp tôi từ chối nhận một huy chương cao quý của Hoa Kỳ là Purple Heart, Lý do là vì một người bạn Lực Lượng Ðặc Biệt của tôi vừa mới trốn được Việt Cộng bằng cách đi bộ 26 cây số trong đêm tối, với viên đạn 51 ly còn nằm trong một cánh tay và tay kia dìu một người lính Việt Nam Cộng Hòa đang bị thương. Do đó, đối với tôi, cái huy chương cao quý Purple Heart không có một giá trị gì cả, tôi không xứng đáng để nhận!
Tôi hết nhiệm kỳ tại Việt Nam và được chỉ định về phục vụ tại một căn cứ không quân tại California. Không Quân Mỹ muốn xử dụng tôi hết mình và để tôi thăng tiến hơn, họ gửi tôi đi học để lấy bằng kỹ sư tại một đại học dân sự. Sau khi tốt nghiệp, tôi được bổ nhiệm một chức vụ khả quan về tiền bạc và tương đối nhàn hạ tại Phi Ðoàn 69 Chiến Thuật, sống cuộc đời thoải mái. Nhưng khốn nỗi, mỗi lần tôi cầm tờ báo thì lại được tin một người bạn thân của tôi bị bắn hạ và tử trận tại chiến trường.
Không chịu nổi nữa, tôi xin với thượng cấp để được bay F-4s, một phản lực cơ tân tiến hơn so với F-100s và tôi đã được chấp thuận để trở lại chiến trường Việt Nam.
Trong 7 tháng đầu khi bay F-4s cất cánh từ căn cứ Ubon, Thái Lan. Tôi vẫn thuộc Phi Ðoàn Cú Ðêm (Night Owls).. Lệnh ngưng thả bom của Johnson bắt đầu có hiệu lực một tháng trước khi tôi trở lại chiến trường. Do đó, phi công chúng tôi không có cơ hội thả bom miền Bắc Việt Nam. Chúng tôi chỉ còn biết bay ầm ì, rồi nhào lên lộn xuống trên đường mòn Hồ Chí Minh bên ranh giới nước Lào. Ðó là dọc theo vùng rừng núi cao Karst Mountains (Lào). Và nếu chúng tôi lợi dụng ngưng thả bom để bay xuống phía Nam thuộc lãnh thổ Việt Nam để phá hủy những đoàn xe tiếp liệu của Cộng Sản Bắc Việt dọc theo đường mòn, thì thực sự với F-4s không đủ khả năng này, vì chúng tôi phải bay trong bầu trời dầy đặc sương mù và mây thấp che kín tầm mắt quan sát. Nhiều lần chúng tôi cho một phản lực thả trái sáng và sau đó phản lực khác theo sau thả bom.
Nhưng khi trái hỏa châu vừa thả ra là mấy tên lái xe Việt Công đều chửi thề: “Mấy thằng phi công Mỹ ngu xuẩn đang sắp thả bom. Hãy ngừng xe lại và táp vào lề đường. Trước sau gì chúng cũng đâm vào dãy núi Karst…” Và đúng như thế, nhiều phi công của chúng tôi đã đâm máy bay vào dãy núi này mà chẳng thả trúng một xe tiếp liệu nào, chỉ vì tầm nhìn quá hạn chế do thời tiết.
Mãi đến khi Mỹ mang máy bay Spectre–AC130 có trang bị vũ khí và có trang bị cả dụng cụ quan sát ban đêm như màn hình TV và những dụng cụ điện tử có thể cảm giác được khói bay ra từ ống khói của xe vận tải, đồng thời máy bay này có khả năng nhìn qua đêm tối và mây mù.
Chúng tôi liên lạc chặt chẽ với Spectre-AC130 để thực hiện 2 nhiệm vụ: Một là áp lực những ổ súng phòng không của địch ngõ hầu chúng tôi có thể bắn hoặc thả bom trúng mục tiêu. Thứ hai là hướng dẫn chúng tôi tới mục tiêu cần tiêu diệt. Và kể từ đó, chúng tôi đã phá hủy rất nhiều xe vận tải tiếp liệu của địch. Tôi nhớ rõ, một lần, trong một đêm tôi bắn trúng 14 xe tiếp liệu của địch.
Mỗi khi máy bay Spectre-AC130 nhìn thấy đoàn xe, những phi công này sẽ đánh dấu cho chúng tôi bằng nhiều cách. Họ tác xạ vào mục tiêu bằng súng liên thanh 20 ly và cho chúng tôi biết đó là mục tiêu cần tiêu diệt. Hoặc giả họ ném hỏa châu để soi sáng cả đoàn xe phía dưới và chúng tôi cứ theo đó mà thả bom. Ngoài ra, họ còn có thể thả một khối hỏa châu nặng, có thể cháy sáng tới 20 phút. Họ ném một khối hỏa châu này trước đoàn xe và một khối khác phía cuối đoàn xe, và cho chúng tôi biết cứ thế mà thả bom trong đoạn đường giữa hai khối ánh sáng. Vì vậy, chúng tôi đã phá hủy được nhiều đoàn xe tiếp liệu của cộng sản. Ðường mòn Hồ Chí Minh đã bị cầy nát làm trở ngại cho việc cộng sản chở tiếp tế vào miền Nam Việt Nam. Thiển ý của phi công chúng tôi, chiến tranh đã có thể chấm dứt bằng quân sự!
Nhưng thật đau lòng, trong khi lệnh ngưng thả bom bắt đầu vào tháng 11 năm 1968, tất cả chúng tôi đau điếng! Anh em phi công chúng tôi đã trải qua bao nhiêu lần được lệnh ngưng thả bom và mỗi lần như thế chúng tôi cảm thấy như bị một quả đấm vào mặt, vì người ta đã phá tan đi những gì chúng tôi đang thắng thế.
Thi dụ, trong giai đoạn 1966-67, bạn bè chúng tôi, những phi công can trường, đang bay các phản lực cơ F-105s và F-4s trên lãnh thổ Bắc Việt, một nơi đầy nguy hiểm vì hỏa tiễn địa-không tối tân nhất SAM và màng lưới ra-đa của Nga đầy rẫy dưới đất. Nhưng vì Những Quy Tắc Giao Chiến (Rules Of Engagement), chúng tôi đã chiến đấu một cuộc chiến mà tay chúng tôi đã bị trói chặt, mắt chúng đã bị chọc thủng mù lòa và một nửa đạn dược trang bi đã bị cắt giảm.
Nhưng những viên chức chính phủ như Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara thì lại tuyên bố với công chúng rằng các phi cơ Mỹ không có bi cắt giảm bom đạn và bom đạn Mỹ không bao giờ thiếu?. Nhưng thực tế, chúng tôi đang chứng kiến bom đạn Mỹ ở Việt Nam đã bị cắt giảm nhiều, nhất là của không Lực Mỹ! Chúng tôi đã chứng kiến bạn chúng tôi bay ra Bắc với trang bị kém hơn thời Ðệ Nhị Thế Chiến, chỉ vỏn vẹn với 2 trái bom: 250 và 500 ký và 2 thùng bom lửa (Napalm) trong một phi vụ phá hủy đường rầy xe lửa. Ðiều hiển nhiên là chúng ta không thể cắt đường rầy xe lứa bằng bom lửa, mà thực ra bom này chỉ làm cháy cỏ và cây cối chung quanh đường rầy!. Chúng tôi cho rằng quyết đinh ngưng thả bom và cắt giảm đạn dược là MỘT TỘI PHẠM của những người có thẩm quyền. Nhiều khi chúng tôi đã đối đầu với một số hoa tiêu từ chối lệnh bay thả bom, dù họ có phải ra toà án quân sự!
Các quan chức này lại nói loanh quanh rằng không có thiếu bom tại Việt Nam. Nhưng tại Sài Gòn, những tầu thương mại chuyên chở bom đạn bị tắc nghẽn tại các hải cảng, vì hải cảng không đủ rộng để có thể đem xuống những bom và vũ khí lớn quá tầm trưc tiếp vào bờ. Trong khi đó, vũ khí nhỏ và dụng cụ y khoa thì được Việt Cộng hối lộ và chở về mật khu.
Vào thời điểm đó, tôi vẫn còn nghĩ rằng với sự giúp đỡ của Hoa Kỳ, chính phủ Sài Gòn biết phải làm gì để chiến thắng. Nhưng một thời gian sau đó, tôi nhận thức được rằng: “Hình như người ta (Mỹ) không muốn và không cho phép để thắng cuộc chiến tranh này!” chỉ vì Hoa Thịnh Ðốn đã áp đặt cái “Nguyên Tắc Giao Chiến “ oái oăm này!?
Chúng tôi đành phải bay lên phía bắc Lào để yểm trợ cho Vang Pao, người lãnh đạo của lực lượng H’mong, một bộ lạc sống trên đồi núi, đang chiến đấu với quân cộng sản Bắc Việt và cộng sản Lào (Pathet Lào). Nhưng tại đây, lại có lệnh không được thả bom gần các chùa chiền. Trong khi ai cũng biết cộng sản Lào đang đóng quân đầy trong các chùa chiền ở Lào với đầy đủ vũ khí. Nhiều lần chúng tôi đã bị bắn từ chính trong các chùa. Có lần chúng tôi không chịu được, đã bay qua chùa và thả một trái bom vào chỗ có súng bắn lên, và ầm ầm kho đạn của địch nổ vang và cháy suốt mấy tiếng đồng hồ.
Có một câu chuyện ai cũng biết là ở Trung Tâm Văn Hóa Trung Hoa (Chinese Cultural Center) tại Plaine des Jarres (Lào) như sau: Chúng tôi không được lệnh thả bom trong vòng 3 cây số chung quanh trung tâm này. Vào một đêm, một phi công tức khí lén thả một trái bom vào trung tâm này và kho đạn ở đây đã nổ trong suốt một tuần lễ!
Sau khi lệnh ngưng thả bom trên lãnh thổ Bắc Việt vào tháng 11 năm 1968, chúng tôi chỉ được phép thả bom khi xe tiếp tế của Việt Cộng ở đường mòn Hồ Chí Minh trên phần lãnh thổ nước Lào mà thôi, và chỉ được thả bom vào ban đêm. Như vậy là chúng tôi gần như tự tử rồi! Ban đêm không thấy đường, súng phòng không bắn như sao, chúng tôi chỉ còn cách đâm máy bay vào dãy núi Karst là xong! Có một ngày quang đãng, tôi đếm được 100 xe tiếp tế nối đuôi nhau tại Ðèo Mụ Giạ thuộc Bắc Việt Nam. Những chiếc xe này đậu sẵn để đợi đêm tối di chuyển vào đường mòn. Và dĩ nhiên chúng tôi được lệnh cấm chỉ thả bom đoàn xe.. Ðó là quy tắc giao chiến đấy!!
Chúng tôi cũng không thể thả bom đường xe lửa tiếp tế từ Trung Cộng vào Bắc Việt. Mỹ cũng không thể phong tỏa hải cảng Hải Phòng… Tất cả những gì Nixon làm năm 1972 là để Bắc Việt có cơ hội mang tiếp tế vào miền Nam. Ðáng lẽ chúng ta phải chặn đứng việc cộng sản Bắc Việt tiếp tế vũ khí cho chiến trường miềân Nam mới phải?
Vai trò ưu tiên của Không Lực Hoa Kỳ là chặn đứng khả năng tiếp tế vũ khí đạn dược vào chiến trường Miền Nam. Ðây là một sự “tuyệt đối phải ngăn chặn.” Ðó là mục tiêu duy nhất của Không Lực hầu yểm trợ lực lượng Mỹ và đồng minh tại Nam Việt Nam. Chúng ta phải thả bom các cơ sở chế tạo đạn dược và vũ khí, vì chính nơi này sản xuất phương tiện để giết những người lính Mỹ. Lý do nữa là Không Lực phải giúp lính tiêu diệt kẻ thù dưới đất. Tất cả Không Lực làm, từ chuyên chở, đến chiến đấu đều chung mục đích giúp cho toàn quân đội Mỹ ngoài chiến trường tại miền Nam Việt Nam.
Nhưng buồn thay, tại Việt Nam, chúng tôi đã không được phép thực thi những sự “tuyệt đối phải ngăn chặn” này. Thử nghĩ xem Tù Binh Chiến Tranh Mỹ (POW) do đâu mà có. 85% POW là hoa tiêu và phi hành đoàn. Họ bi bắn hạ chung quanh những vị trí có hỏa tiễn SAM và phi cơ MIG. Nơi mà những hoa tiêu này đã thấy từ khi cộng sản Bắc Việt và Nga Sô lúc còn dang xây cất. Còn tại chiến trường Miền Nam, lính Mỹ chết bởi những vũ khí, đạn dược và tiếp liệu do Bắc Việt chuyên chở vào Nam, mà chúng ta không ngăn chặn được hay chúng ta không muốn ngăn chặn?!.
Chúng tôi đã từng thấy từng đoàn xe vận tải nối đuôi nhau ngay ban ngày. Những xe này thuộc Lực Lượng Chuyên Chở 559 từ Hà Nội đổ vào.
Chúng tôi bay trên đầu đoàn xe và đôi khi chỉ cho chúng một chút sợ hãi bằng cách ném xuống vài thùng xăng phụ hay một vài trái hỏa tiễn gọi là. Vì chúng tôi không được phép mang cả phi đoàn phản lực đến đó để thả bom, chỉ vì lệnh cấm.
Tôi đã từng chứng kiến một làng người Thượng ở Nam Việt Nam bị Việt Cộng ném lửa đốt cháy cả làng. Chúng đốt sống cả trẻ thơ, phụ nữ và tất cả những gì còn sống, chỉ vì dân làng không chịu phục tùng lệnh của chúng.
Thật là đau lòng cho một cuộc chiến mà chúng ta không muốn thắng! 



Trung Quốc bức tử vựa lúa lớn nhất Việt Nam bằng thủy điện Hạ Sesan 2
December 22, 2018 

 01
Thủy điện Hạ Sesan 2 được khánh thành hôm 17 Tháng Mười Hai, 2018. (Hình: mekong-cuulong.blogspot)
MEKONG, Việt Nam (NV) – Đập thủy điện Hạ Sesan 2 ở Mekong được Thủ Tướng Cambodia Hun Sen phê chuẩn khánh thành, gây ra nguy cơ hàng chục triệu dân Việt Nam bị đe dọa mất nguồn lương thực, đe dọa an ninh khu vực đối với các khu vực hạ lưu sông Mekong.
Báo Hội Nhà Nông dẫn tin từ tờ Khmer Post của Cambodia hôm Thứ Sáu, 21 Tháng Mười Hai, 2018, tiết lộ Thủ Tướng Hun Sen có vẻ đã bị Trung Quốc lừa khi hậu thuẫn xâu dựng đập thủy điện Hạ Sesan 2.
Theo Khmer Post, Công Ty Lưới Điện Hoa Nam là đơn vị xây dựng và thiết kế đập Sesan 2, đã đưa ra những lợi ích hấp dẫn mà thủy điện này sẽ đem lại cho nền kinh tế Cambodia, nhưng tuyệt nhiên không đề cập đến tất cả những hậu quả nghiêm trọng mà một công trình đập thủy điện sẽ gây ra.
Không những thế, Trung Quốc còn hậu thuẫn toàn bộ kinh phí cũng như nhân lực để giúp Campuchia hoàn thành dự án trên. Do đó, Thủ Tướng Hun Sen và chính phủ của ông khó lòng từ chối lời đề nghị đem lại quá nhiều lợi ích cho đất nước Cambodia.
Hứa hẹn do Công Ty Lưới Điện Hoa Nam đưa ra là con đập này sẽ giải quyết được việc thiếu hụt nguồn năng lượng điện trầm trọng của Cambodia, đồng thời xuất cảng điện sang Việt Nam và Thái Lan. Đây lại là một lợi ích thứ hai về kinh tế cho Cambodia. Thủ Tướng Hun Sen bảo vệ mạnh mẽ dự án trị giá $816 triệu này, và cho rằng: ”Hầu hết mọi người ủng hộ phát triển dự án nhưng một số người dân đã gây khó khăn vì bị một số người nước ngoài kích động.”
Đập thủy điện Sesan 2 đã khánh thành vào ngày Thứ Hai, 17 Tháng Mười Hai, do chính Thủ Tướng Hun Sen chủ trì buổi lễ. Tờ Bangkok Post cho biết với kinh phí $816 triệu, Công Ty Năng Lượng Quốc Tế Hydrolancang của Trung Quốc nắm 51% cổ phần, Tập Đoàn Hoàng Gia Cambodia nắm 39% cổ phần và Tập Đoàn Điện Lực Việt Nam (EVN) nắm 10% cổ phần.
Năm 2014, khi đập thủy điện Hạ Sesan 2 đang chuẩn bị xây dựng, một nhóm 15 tổ chức xã hội dân sự và luật sư ở Cambodia và Đông Nam Á đã gửi thư tới chính phủ Trung Quốc và các nhà thầu có liên quan để cảnh báo về những tác động môi trường, xã hội của dự án, đặc biệt là những hậu quả xuyên biên giới đối với các khu vực ở hạ lưu sông Mekong.
Ame Trandem, giám đốc Chương Trình Đông Nam Á của tổ chức Sông Ngòi Quốc Tế, từng nhận định: “Tác động của thủy điện Hạ Sesan 2 đối với đa dạng sinh học, an ninh lương thực, sinh kế và nông nghiệp không chỉ diễn ra ở Cambodia mà còn gây ra với toàn bộ khu vực hạ lưu sông Mekong.”
Với Việt Nam, đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa lớn nhất của đất nước, chính là nơi chịu thiệt hại nặng nề nhất, tác động đến giao thông và hệ sinh thái tự nhiên nơi đây. Đập thủy điện Sesan 2 do Trung Quốc thực hiện khi đi vào hoạt động sẽ làm giảm lưu lượng nước và phù sa ở hạ nguồn. Hệ quả là ruộng đồng ở châu thổ sông Cửu Long không những sẽ thiếu phù sa màu mỡ bồi đắp mà còn bị nước mặn từ biển xâm thực thêm.
Vào giữa Tháng Năm năm nay, bà Claire Poelking, một chuyên gia của tổ chức phi chính phủ MacArthur thuộc Viện Di Sản Thiên Nhiên đã đưa ra cảnh báo về thủy điện Trung Quốc ở Cambodia. Bà Claire cho biết thủy điện đe dọa đến hệ sinh thái trên song Mekong, ngăn chặn dòng cá di cư và ảnh hưởng trực tiếp đến người dân sống bằng nghề đánh bắt cá.
“Trong khi các đập thủy điện là nguồn năng lượng có khả năng thay thế nhiệt điện than trong tương lai, chúng lại không thân thiện với môi trường. Các đập thủy điện có thể phá vỡ và thậm chí phá hủy toàn bộ hệ sinh thái trên sông bằng cách ngăn chặn dòng chảy của trầm tích và chất dinh dưỡng, cũng như ngăn chặn quần thể cá di cư,” bà Claire cho biết.
Đồng bằng sông Cửu Long rộng khoảng 30,000 cây số vuông, do sông Cửu Long, có tên quốc tế là Mekong, bồi đắp nên, và là vùng sản xuất lúa gạo lớn nhất Việt Nam. (Kalynh Ngô)



Thiên Điểu (VNTB) 

“Formosa có thể gặp khó ien sau lệnh áp thuế của Mỹ, nhưng sự khống chế ngành thép và uy lực của Formosa sẽ còn hiện hữu lâu dài ở Việt Nam. Chuyện ngành thép Việt Nam vốn đã yếu thế bị “vạ lây” bởi lệnh áp thuế của Mỹ là đương nhiên. Nhưng giải pháp để tháo gỡ cũng không thể có khi Formosa còn đó với hơn nửa thế kỷ trên giấy tờ và còn dài hơn nữa vì không có giải pháp với cái vòi bạch tuộc của nó đã hình thành.”

Vừa có thông tin chính quyền của Tổng thống Donald Trump sẽ đánh thuế tới 256% đối với thép Trung quốc sản xuất tại Việt Nam. Đây là ví dụ rõ nét trả lời cho câu hỏi “Cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung ảnh hưởng thế nào tới Việt Nam” mà bấy lâu nay nhiều người vẫn đưa ra những ý kiến mang tính cá nhân.

Riêng với ngành thép Việt Nam kể từ khi lập nên chế độ đi theo chủ nghĩa cộng sản năm 1945 đến nay. Khu công nghiệp gang thép Thái Nguyên từ vị trí đúng đầu ngành sản xuất thép ở khu vực với sự giúp đỡ của Liên-Xô, ngày nay trở thành 1 trong những dự án chục ngàn tỷ đắp chiếu vì thua lỗ triền ien bởi tham nhũng và gần đây là lý do có bàn tay của Trung quốc nhúng vào qua dự án nâng cấp thiết bị mở rộng sản xuất.

 Nhà máy Formosa (sản xuất nhựa) ở Illinois, phía đông Springfield, Mỹ
Nằm ở ngay vùng mỏ sắt có trữ lượng lớn nhất Đông Nam Á, Khu gang thép Thái Nguyên tưởng chừng như không có đối thủ nào khả dĩ cạnh tranh được bởi quá nhiều lợi thế. Trong vòng tay bảo hộ nhà nước mang tên “định hướng xã hội chủ nghĩa”. Khu gang thép Thái Nguyên cuối củng chỉ mang lại những tài sản kếch xù cho những lãnh đạo đã thay đổi nhau đục khoét đến thua lỗ như hôm nay. Những người công nhân của “con chim đầu đàn ngành công nghiệp nặng” ngày nào đến giờ vẫn loay hoay với sinh kế, nghèo khó như hệ lụy chung của tất cả những người công nhân trên đất nước này. Khoản tiền 20% lương bị giữ lại để “phát triển công ty”, những cổ phiếu trong tay công nhân viên khi bán ra với chiêu bài “làm chủ doanh nghiệp”, tất cả về không khi một số ít người dược mua lại với giá chỉ bằng 20%-30% nguyên giá mua, có người bỏ vì không biết tìm ai, mua bán thế nào.v.v.

Để dễ bề tham nhũng, tư túi, nhân cơ hội chuyển sang thời kỳ mở cửa; từ là đơn vị độc quyền khai thác, là chủ sở hữu các mỏ sắt trong khu vực, nhà máy Thép Thái Nguyên chuyển sang mua quặng từ doanh nghiệp ngoài. Hình thành vòng quay: Quặng khai thác từ mỏ, qua tay doanh nghiệp ngoài để trở lại cung cấp cho chính chủ để “kinh doanh”. Phía sau đó là gì thì ai cũng có thể hiểu và kết quả Khu gang thép Thái Nguyên mất dần thị trường ra sao thì đương nhiên và đã quá rõ ràng. Khoảng trống thị trường béo bở ngành thép là động cơ đầu tiên để Fomorsa Hà Tĩnh đẻ ra dự án tỷ đô, phía sau đó ẩn chứa ý đồ chiến lược lớn hơn, thâm độc chính là “thép Trung quốc từ Việt Nam” mà chính quyền Mỹ vừa quyết định áp thuế 250% để trừng phạt. Chính Formosa đã khiến cho cả xã hội rối loạn, bất ổn sau vụ xả thải đầu độc môi trường biển, giờ đây sẽ chính Formosa kết liễu số phận ngành thép Việt Nam khi cái vòi bạch tuộc của nó đã cắm sâu vào cả chính trị lẫn nền kinh tế đến mức không thể cắt bỏ. Nhiều khả năng kịch bản khoản nợ Trung quốc tại nhà máy thép Thái Nguyên sẽ qua vài bước vòng vèo để chuyển về Formosa khi nguồn vốn cho cả hai đều có chung nguồn xuất phát từ Trung quốc. Formosa có thể gặp khó khăn sau lệnh áp thuế của Mỹ, nhưng sự khống chế ngành thép và uy lực của Formosa sẽ còn hiện hữu lâu dài ở Việt Nam. Chuyện ngành thép Việt Nam vốn đã yếu thế bị “vạ lây” bởi lệnh áp thuế của Mỹ là đương nhiên. Nhưng giải pháp để tháo gỡ cũng không thể có khi Formosa còn đó với hơn nửa thế kỷ trên giấy tờ và còn dài hơn nữa vì không có giải pháp với cái vòi bạch tuộc của nó đã hình thành.
Lệnh áp thuế 250% thép Trung quốc từ Việt Nam chỉ là bắt đầu cho một ngành, tương lai gần là hầu hết các ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam sẽ phải trả giá bởi tác động tương tự. con đường phát triển Việt Nam sẽ tăm tối hơn nhiều những gì có thể tưởng tượng khi mà chính quyền vẫn được điều hành bởi bộ máy yếu kém năng lực kỹ trị và tham nhũng tràn lan như hiện nay.


Nuôi người lấy thận.  

Ở Việt Nam CS hiện nay có dịch vụ “Nuôi người lấy thận" giống như người ta nuôi heo lấy thịt vậy thôi.
Bài nầy được đăng trên báo Lao Động, ra ngày thứ tư 12-12-2018.
Mỗi cái thận được bán, cò bán thận kiếm được cả trăm triệu đồng, và người bán thận thì được khoảng 180 triệu đến 300 triệu đồng, tương đương US$ từ 8000 đến 13000.

Mối quan hệ cộng sinh giữa người bán thận và giới cò mồi khiến tất cả đều không muốn phá vỡ những giao ước ngầm này. 

Bên trong "trại" nuôi người lấy thận :

Một ngày đầu tháng 12. Căn nhà cao tầng nằm sâu trong một con ngõ thuộc phường Ngọc Lâm (Long Biên, Hà Nội), một bữa tối ấm cúng chuẩn bị diễn ra với 10 thành viên.
Họ là những người đã và đang chuẩn bị bán thận nằm dưới sự quản lý của “cò” Thắng (tức Nguyễn Đức Thắng, SN 1989, quê xã Trường Thịnh, huyện Ứng Hòa, Hà Nội CS).
Những căn phòng đầy đủ tiện nghi với điều hòa, tủ lạnh, khu vệ sinh hiện đại thậm chí có cả thú cưng, khiến nhóm PV Lao Động chứng kiến không khỏi bất ngờ. 

 15
Cảnh sinh hoạt tập trung của những người bán thận. 
Thành (29 tuổi, Nghệ An) một người trong nhóm bán thận kể, cả nhóm được “cò” Thắng chu cấp toàn bộ tiền ăn uống, sinh hoạt, cho đến khi giao dịch bán thận diễn ra trót lọt.
“Không đối xử tử tế, bọn em “đầu quân” cho “cò” khác, thiếu gì cò buôn thận, Thành nói rồi lấy máy tính vuốt màn hình điện thoại chỉ vào những Hội nhóm mua bán thận đang hoạt động nhan nhản trên Facebook.
Một giao dịch trót lọt, những “cò” thận như Thắng có thể đút túi cả trăm triệu đồng. 
Số tiền giao dịch lớn là vậy, nhưng theo lời kể của những người đã bán thận, Thắng rất sòng phẳng trả “không thiếu một xu” thậm chí còn cho ứng tiền trước khi lên bàn mổ nữa.  
“Không sòng phẳng thì bọn em báo công an CS thì chỉ có đi tù, làm cái này bắt buộc phải sòng phẳng thôi”, Thành cho biết thêm.
Một trong những thương vụ trót lọt gần đây của Thắng là Hoàng, quê Thanh Hóa. Hoàng kể: “Thận của em bán qua “cò” Thắng được 180 triệu đồng lúc đến tay người nhận là khoảng hơn 300 triệu đồng”..
Năm nay mới 27 tuổi nhưng sức khỏe của thanh niên này rất yếu. Cứ trái gió, trở trời là Hoàng mệt, không làm được việc nặng. Lý do được giải thích là, chỉ 1 tháng sau ngày bán thận, thì quả còn lại cũng đã bị suy cấp độ 1. 

 16
Vết mổ bán thận của Hoàng. 
Vậy nhưng, sau khi nghe chính Hoàng kể lại về biến chứng khủng khiếp của việc bán thận, những thành viên còn lại trong ngôi nhà cũng chẳng mấy quan tâm. Bởi theo họ, khi đã nghĩ đến việc bán thận thì nhu cầu lớn nhất, chỉ là tiền. Cùng với một niềm tin mơ hồ rằng: Ai cũng có thể mua lại thận, khi kinh tế khá khẩm hơn trong tương lai.
Chính mối quan hệ cộng sinh, đôi bên cùng có lợi khiến người bán thận và những cò môi giới bán thận không muốn phá vỡ những giao ước ngầm mà đôi bên đều đã quá hiểu.
* Tên nhân vật trong bài đã được thay đổi.
Theo nguồn tin của Phóng Viên Báo Lao Động: Công an CS quận Long Biên vừa khám phá chuyên án, bắt tạm giữ đối tượng Nguyễn Đức Thắng (SN 1989, HKTT: xã Trường Thịnh, huyện Ứng Hòa) về hành vi chiếm đoạt mô, hoặc bộ phận cơ thể người (thận); thu giữ 01 khẩu súng (loại bắn đạn bi), 03 thanh đao. Hiện, Công an CS quận Long Biên phối hợp với các lực lượng chức trách tổ chức điều tra mở rộng vụ án, làm sáng tỏ các đối tượng liên quan để xử lý theo quy định của pháp luật.


Người Tàu cộng thu gom đất ở Nha Trang 

17
Tờ rơi dán trên đường ở thành phố Nha Trang. Ảnh: NLD

Vietnam – Cali Today News – Trong vài năm trở lại đây, lượng du khách Tàu cộng ồ ạt đến Nha Trang đã giúp cho thành phố này khởi sắc nhờ vào việc phát triển du lịch. Tuy nhiên, đi theo đó là những rắc rối mà chính quyền không thể quản lý hết được, như việc du khách đến Việt Nam theo những tour khép kín do các công ty lữ hành của Tàu cộng mở ra. Từ hãng hàng không, khách sạn, ăn uống, mua sắm và đến cả hướng dẫn viên cũng là người Tàu cộng. Mặc dù lượng khách đến rất đông nhưng chính quyền tỉnh Khánh Hòa lại chẳng thu thuế được bao nhiêu từ du khách Tàu cộng. Theo những ước đoán của chính quyền, hàng năm tỉnh này mất hàng triệu Mỹ kim từ những đoàn tour khép kín. Mới đây, thêm một vấn nạn mới mà chính quyền Khánh Hòa phải đau đầu, đó là hiện tượng người Tàu cộng thu gom đất đai, nhà cửa ở Nha Trang không rõ với mục đích gì.

Vài tháng đổ lại đây, trên đường phố Nha Trang xuất hiện rất nhiều tờ rơi rao bán nhà cửa bằng tiếng Việt lẫn tiếng Tàu. Các tờ rơi này công khai dán trên những cây cột điện, nơi công cộng đông người qua lại. Thông qua số điện thoại, phóng viên Người Lao Động đã liên lạc với chủ nhân ngôi nhà sẽ bán, người này cho biết họ sẽ bán nhà, kể cả bán cho người Tàu.

Theo quy định pháp luật hiện nay của chính quyền CSVN, người nước ngoài được phép mua nhà, đất ở các dự án chung cư, khu đô thị nhưng phải mua trực tiếp từ chủ đầu tư dự án. Tất cả những giao dịch giữa người dân với người nước ngoài đều trái với quy định pháp luật.

Ông Nguyễn Văn Phúc, Giám đốc Văn phòng đăng ký đất đại tỉnh Khánh Hòa cho báo Người Lao Động biết:

“Văn phòng thực hiện đúng theo quy định pháp luật. Những hồ sơ liên quan đến người nước ngoài đều được xem xét cẩn thận và loại bỏ nếu sai quy định. Tại thành phố Nha Trang ghi nhận 20 trường hợp người nước ngoài mua nhà ở dự án chung cư Mường Thanh ở phường Vĩnh Hòa.”

Để có thể sở hữu những căn nhà, lô đất ở thành phố Nha Trang, người Tàu cộng thông qua các công ty môi giới bất động sản sẽ tìm người để đứng tên dùm, người này chỉ làm nhiệm vụ “bù nhìn” để hợp thức hóa cho người Tàu cộng sở hữu căn nhà hoặc lô đất nói trên. Bù lại, người Việt đứng tên dùm sẽ được hưởng một ít tiền cho việc làm của mình.

Chủ một công ty bất động sản ở Nha Trang cho biết, hiện tượng người Tàu cộng mua đất để đầu cơ rất nhiều, việc của ông chỉ làm môi giới, thủ tục pháp lý để hợp pháp hóa. Một người tên H. được báo Người Lao Động dẫn lời, nói chỉ cần đứng ra ký hợp đồng mua bán, mỗi tháng chị được trả thù lao số tiền lên đến 50 triệu đồng. Đây là số tiền rất lớn so với thu nhập của người dân Việt Nam, nhất là khi chị không làm gì nhưng lại được hưởng số tiền lớn khiến chị không yên tâm.

Theo con số thống kê từ chính quyền tỉnh Khánh Hòa, chỉ riêng năm 2017 đã đón hơn 1,1 triệu lượng khách đến từ Tàu cộng, chiếm 55% số lượng khách quốc tế đến thành phố Nha Trang. Đi trên đường Nha Trang đại đa phần là du khách Tàu cộng, số còn lại là du khách Nga và rất ít đến từ các nước Phương Tây. Với lượng du khách Tàu cộng ồ ạt đổ về Nha Trang, một số ông chủ người Tàu cộng đã bỏ tiền xây dựng các khu mua sắm, thông thường là trầm hương, đá quý và các loại đặc sản ở Nha Trang. Các cơ sở này được núp bóng do người Việt đứng tên. Không ít tại các cơ sở này còn thuê cả những lao động Tàu cộng sang làm “chui”. Trong năm 2017, công an tỉnh Khánh Hòa đã trục xuất 24 lao động chui về nước. 

 18
Người Tàu còn thu gom đất ở thành phố Đà Nẵng. Ảnh: Tuổi Trẻ

Hiện tượng người Tàu cộng thu gom đất không phải chỉ mới xuất hiện ở Nha Trang, mà trước đây đã xuất hiện tại Đà Nẵng, một thành phố biển cũng là điểm đến của du khách Tàu cộng. Các ông chủ Tàu cộng không chỉ thu gom đất tại những bãi biển đẹp, mà họ còn sở hữu những lô đất tại phi trường Nước Mặn. Đây là phi trường quân sự do người Mỹ xây dựng và sau này chính quyền CSVN tận dụng để phục vụ cho mục đích quân sự lẫn dân sự. Trước việc người Tàu cộng sở hữu những lô đất gần phi trường, một số đại biểu quốc hội đã lên tiếng để bày tỏ sự lo lắng của họ.

Người Tàu cộng không chỉ thu gom đất tại các thành phố biển, mà họ còn mở rộng ra thu gom đất tại các tỉnh thành khác. Như tại An Giang, Hà Nam, đã xảy ra việc người Tàu thu gom đất để canh tác. Một số đại biểu quốc hội CSVN cho rằng, việc người Tàu cộng thu gom đất nông nghiệp là cách mà họ đang muốn tận dụng chính sách miễn thuế nông nghiệp cho người dân Việt Nam, mua lại rồi canh tác để được hưởng ưu đãi này. Trong khi nếu là người Tàu cộng sẽ không được hưởng chính sách ưu đãi trên.

No comments:

Post a Comment