20191022 TỬ CHIẾN HẠ LÀO 1971 17
*** Qua những tài liệu bạch hóa đã cho thấy
những trận bomb đánh lầm vào quân bạn VNCH không lầm chút nào mà nó
có chủ đích rất rõ ràng. Củng như những cái chết của càc tướng
Nguyễn Viết Thanh, Trần Văn Ân cùng phu nhân, tướng Đổ Cao Trí, tướng
Nguyễn Văn Hiếu đều có mục đích từ phía người đồng minh mà nhân vật
chủ trương chính là Kissinger. Mặt trận Tân Cảnh bị mất và việc xóa
sổ Sư Đoàn 22 BB của Đại Tá Lê Đức Đạt củng là chủ trương của người
đồng minh và người thi hành lệnh chính là John Paul Vann để bàn giao
miền Nam cho CSBV và rợ hán trước khi rút quân.
LAM SON 719: The “Moment of Truth” trang 1-17
TỬ CHIẾN HẠ LÀO 1971,
(17) TƯỚNG CREIGHTON ABRAMS
*(Trích sách “Gải Mã Những Bí Ẩn của Chiến Tranh Việt Nam của
Bùi Anh Trinh)
Tướng Creighton Abrams và quân đội VNCH
Nói tới chiến tranh Việt Nam người ta thường nói
đến Tướng Westmoreland trong thời kỳ 1965-1968 với uy quyền tuyệt đối của một
ông Tổng tư lệnh quân lực Đồng Minh tại chiến trường Việt Nam. Ít có ai
nhắc đến người bạn cùng khóa võ bị của Tướng Westmoreland là Tướng Abrams, người
thay thế Westmoreland từ 1968 đến 1972.
Sở dĩ người ta không nhắc đến Abrams bởi vì thời
gian ông thay thế Westmoreland cũng là thời gian quân đội Mỹ rút về nước…, cho
nên nhiệm vụ của ông chỉ là thay Westmoreland cai quản lính Mỹ tại các trại
lính ở thành phố để chờ ngày về nước, và phải giảm hết mức số thương vong của
quân đội Mỹ. Nhiệm vụ đó không có gì đáng kể đối với một ông Đại tướng
của quân đội Mỹ.
Tuy nhiên có một nhà nghiên cứu lịch sử chính
trị Việt Nam là Nguyễn Kỳ Phong đã chú ý nhiều tới tướng Abrams; không
phải chú ý tới chiến thuật chiến lược của ông, mà chú ý tới hoàn cảnh của một
ông tướng chỉ huy 500 ngàn quân Mỹ trong kế hoạch rút quân, hay nói thẳng ra là
chỉ huy 500 ngàn quân tháo chạy khỏi Việt Nam.
Dĩ nhiên chỉ huy một đội quân tháo chạy thì
không có gì đáng để nhắc lại trong lịch sử. Nhưng Nguyễn Kỳ Phong đã thấy
ngay sự bất công của dư luận đối với tài năng và đạo đức của Tướng
Abrams. Nhất là hồi ký của Kissinger và tài liệu mật của Tòa Bạch Ốc được
giải mật cho thấy Abrams có vẻ như là một tay nghiện rượu vô trách nhiệm.
Nguyễn Kỳ Phong đã quan sát tật uống rượu của
Abrams qua nhận xét của Tướng Bruce Palmer, Phó tư lệnh của Abrams:
“Những buổi chiều làm việc, Abrams trở về căn nhà tiền chế là một
Trailer, đặt bên cạnh Bộ tư lệnh MACV nằm trong phi trường Tân Sơn Nhất.
Ở đó ông nghe nhạc thật lớn và uống rượu cho tới khuya. Ông giải thích
cho một người bạn thân đến thăm là ông giải trí như vậy để làm dịu cơn nhức đầu
vì hàng ngày đọc những chỉ thị và quân lệnh ngược ngạo mà ông phải nhận từ Hoa
Thịnh Đốn về cuộc chiến mà ông phải chỉ huy” (Nguyễn Kỳ Phong trích từ Bruce Palmer, The 25 Year War,
trang 133, 135).
Trong trận Mùa hè đỏ lửa 1972, Nixon đã điều tất
cả phi cơ B.52 tập trung thả bom Bắc Việt nhưng Abrams đã ra lệnh cho một số
B.52 thả bom cứu nguy cho Sư đoàn 23 tại Kontum. Nixon bảo rằng ông ta
cần B.52 để bắt Hà Nội biết điều hơn trong cuộc đàm phán, nhưng Abrams trả lời
rằng cuộc đàm phán sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu như để mất Kontum. (Nguyễn Kỳ
Phong trích từ Sorley, Thunderbolt, trang 326).
Nguyễn Kỳ Phong cũng trích thuật những đoạn từ
trong băng ghi âm các cuộc họp của MACV được giải mã:
“Ngay từ buổi họp đầu tiên sau khi nhậm chức, Abrams quan tâm đến
những cơ cấu huận luyện và vũ khí của quân đội VNCH. Ông nói nếu chúng ta
(người Mỹ) muốn quân đội VNCH vững mạnh đề chống lại Cọng sản thì ít ra cũng
phải trang bị cho họ đúng mức” (Nghĩa là có hỏa lực tương đương như bộ binh Hoa
Kỳ).
“Trong những buổi họp Abrams thường xuyên nhắc đến tên những đơn vị
và sĩ quan của quân đội VNCH cho sĩ quan tham mưu của ông. Vì Abrams thăm
viếng các đơn vị ngoài mặt trận thường xuyên, ông có kiến thức tường tận về
chuyện xảy ra ngoài chiến trường.
Đôi khi ông tranh luận về sự giỏi dở của sĩ quan VNCH với các
thuộc tướng của ông mỗi khi những bình phẩm của họ ngược lại với nhận xét của
ông. Và khi nói về người dân Miền Nam Việt Nam, về sự hy sinh của họ,
Abrams đã không ngần ngại nói trước mặt các sĩ quan cao cấp là Chính phủ Hoa Kỳ
không bao giờ hiểu được những hy sinh và đau khổ mà người dân và chiến sĩ Miền
Nam đang chịu đựng trong cuộc chiến”
*(Nguyễn Kỳ Phong trích từ Abrams Tapes của
Lewis Sorley; đoạn băng ghi âm tướng Abrams ca ngợi trước mặt thuộc cấp
về tướng Nguyễn Viết Thanh, Tư lệnh Vùng 4 Chiến thuật và Tướng
Nguyễn Bá Liên, Tư lệnh Biệt khu 24 thuộc Quân khu 2) .
Một ghi nhận khác của Sorley về Tướng Abrams sau
trận Mùa Hè Đỏ Lửa 1972:
“Về sau nhiều người chỉ trích nói rằng Nam Quân đã đẩy lui được
Bắc Quân nhờ có không yểm của Mỹ. Tướng Abrams đã phản ứng mạnh mẽ và nói với
các cấp chỉ huy của ông rằng, “Tôi không tin là không có không trợ mọi việc đã
giữ vững được. Tuy nhiên phải có những người Việt Nam đứng thẳng chiến
đấu. Nếu họ không dũng cảm làm như vậy thì đến mười lần không quân cũng
không chận đứng được bọn cộng sản” (Bài tham luận “Reassessing ARVN”, Trần Đỗ Cung dịch)
Abrams chết năm 60 tuổi vì bệnh ung thư, ông có
3 người con trai nối nghiệp cha, một Chuẩn tướng, một Đại tướng và một Đại
tá. Có một lần có người nói: “Lẽ ra Đại tướng Abrams xứng đáng hơn cho
một cuộc chiến khác đàng hoàng hơn”. Người con cả của Abrams trả lời: “Ba tôi không nghĩ như vậy, ba tôi nghĩ rằng chính người dân Miền
Nam Việt Nam lẽ ra phải được xứng đáng hơn trong một cuộc chiến đàng hoàng hơn” (sic).
Tướng Abrams và trận Hạ Lào
Tướng Abrams là Tư lệnh quân đội Hoa Kỳ và Đồng
minh tại Miền Nam Việt Nam cho nên là người chỉ huy tổng quát cuộc hành quân Hạ
Lào. Dưới ông có có 2 vị tướng chỉ huy trực tiếp: Đó là Tướng Hoàng
Xuân Lãm, chỉ huy lực lượng hành quân của VNCH trên đất Lào. Và tướng
Sutherland, chỉ huy Không quân, Pháo binh Mỹ trên đất Lào và bộ binh Mỹ trên
đất VN.
Thế nhưng trong 1 tuần sau cùng của cuộc chiến,
nghĩa là những ngày chiến trận ác liệt nhất, thì ông Tổng chỉ huy Abrams lại đi
thăm gia đình tại Thái Lan, sau đó trở về lại uống rượu suốt ngày. Trong
khi mọi tài liệu quân sử của Mỹ lẫn VNCH đều ghi nhận Tướng Abrams không phải
là một con người bê bối. Trái lại lịch sử quân đội Mỹ cho thấy ông là một
vị tướng tài ba và nhân hậu, đặc biệt ông rất nhân hậu với quân đội và nhân dân
Việt Nam Cọng Hòa.
Cái gì khiến cho Tướng Abrams đã có hành động
không xứng đáng là một ông Tướng tư lệnh trong trận Hạ Lào?
Sau này hồi ký của Tướng Westmoreland, cấp chỉ
huy của Abrams tại Ngũ Giác Đài, bào chữa cho Abrams:
“Nhiều sĩ quan Việt Nam không đủ sức cáng đáng khiến cho Tổng
thống Thiệu phải can thiệp và tự mình ra lệnh cho các đơn vị, xuống đến cấp
Trung đoàn. Nhiều khi các lệnh này ban ra mà Abrams chẳng hề hay biết”?
Tuy nhiên đó chỉ là cái cách Abrams phủi trách
nhiệm trước Westmoreland * (Xếp trực tiếp của Abrams). Còn sự thực là
Abrams thực tình không muốn biết phía VNCH hành động ra sao, bởi vì ông không
muốn đích thân ra lệnh dùng bom B.52 hủy diệt quân VNCH. Cho nên ông
tìm cớ tránh sang Thái Lan và sau đó giả cớ say rượu để lơ đi những quyết định
quan trọng đã hẹn trước với Kissinger và Nixon.
Abrams có quyền làm như không biết bởi vì theo
đúng hệ thống tổ chức của quân đội thì Tướng Cao Văn Viên phải báo cáo cho
Tướng Abrams về kế hoạch hành quân của Tướng Lãm đã thay đổi, nhưng vì Tướng
Viên giận Tướng Thiệu đã làm việc trực tiếp với Tướng Lãm cho nên ông nín thinh
để đổ thừa cho Tướng Thiệu mà không chịu trách nhiệm trước tướng Abrams.
Các cuộn băng ghi âm tại tòa Bạch Ốc được giải
mật cho thấy đến ngày 24-3-1971 Kissinger mới phát hiện quân VNCH đã rút về
hết, và cũng phát hiện Abrams đã đi Băng Cốc 1 tuần nay…! So lại với tài liệu
của Đại sứ Bunker do Stephen Young phổ biến thì trước đó khoảng 1 tuần, vào
ngày 19-3-1971 Tổng thông Thiệu thông báo cho Abrams và Bunker hay rằng quân
VNCH đã hoàn tất nhiệm vụ và bắt đầu giai đoạn rút quân. *(Trong khi sự thực
quân VNCH đã rút từ ngày 8-3-1971).
Như vậy có nghĩa là sau khi nhận được thông báo
của Tướng Thiệu thì Abrams không thông báo lại cho Washington mà lại bay đi
Băng Cốc thăm vợ và sau đó trở về uống rượu say khướt ngày đêm. Vì vậy khi
Kissinger và Nixon phát hiện ra là quân VNCH đã thoát khỏi Tchepone thì cả hai
ông đều nổi điên và quyết định cách chức Abrams.
Hồi ký của Chuẩn tướng Haig cho biết khi Nixon
ra lệnh ông sang VN thay Đại tướng Abrams thì ông “lấy lời hợp lý khuyên giải
Nixon”. Nhưng sự thực nếu Abrams cũng nổi xung đưa vụ này ra ánh sáng
thì Haig ở tù mọt gông bởi vì chính ông ta là
người thảo ra cái lệnh hành quân giết người đó, một lệnh hành quân hoàn toàn
trái với sách vở quân sự.
*[Tuy Haig có viết rằng lệnh hành quân xuất phát
từ Ngũ Giác Đài, nhưng hồi ký của Kissinger cho thấy vào ngày 23-2-1971, khi
cuộc hành quân bị khựng lại vì pilot Mỹ không chịu bay hành quân thì Kissinger
mới “hỏi ý kiến” của Westmoreland, ông xếp của Ngũ Giác Đài, thì ông này đưa ra
một dự đoán đen tối bởi vì muốn chiếm và giữ Tchepone thì ít nhất phải có 4 sư
đoàn. (Kissinger, The White House Years, trang 1059)].
Cho tới nay, mặc dầu các cuộn băng ghi âm tại
MACV (Abrams Tapes) đã được đưa ra công chúng nhưng riêng những cuộng băng ghi
âm trong hai tuần 14 và 18 có liên quan đến cuộc hành quân sang Lào lại không
được đưa ra…? Có cái gì bí ẩn đằng sau các cuộng băng đó?
Ai cũng đoán ra là trong 2 cuộn băng đó có liên
quan tới những lệnh quân sự tối mật mà tính cách tàn nhẫn của nó có thể cáo buộc Nixon tội “diệt chủng, chống lại nhân loại” *(Mưu toan đưa quân của mình đi làm mồi nhử, rồi giết luôn cả quân
mình để đạt được ý đồ chiến thuật. Đây là một tội ác dã man mà từ ngàn
xưa không có quân đội nào chấp nhận)…!! Rốt cuộc tuy tức muốn
điên nhưng Nixon không thể làm gì được bởi vì Abrams có quyền đưa nội vụ ra ánh
sáng, cho nên Nixon không dại.
BÙI ANH TRINH
No comments:
Post a Comment