20191019 TỬ CHIẾN HẠ LÀO 1971 15
Nhân cách của một tướng VNCH:
"Trong 2 ngày cuối của cuộc hành quân Tướng Lê Nguyên
Khang có mặt tại Quảng Trị, có một cuộc cải vã to tiếng giữa Tướng Khang và Đại
tá cố vấn Mỹ ngay sau vụ B.52 thả bom vào Tiểu đoàn 4 TQLC/VNCH.
Các sĩ quan trong trung tâm hành quân nghe
được câu nói của Tướng Khang:
“50 ngàn quân của họ là người Việt Nam, 15
ngàn quân của chúng tôi cũng là người Việt Nam, tôi là người Việt Nam, tôi
không thể làm như vậy được” (Theo lời kể của Thiếu úy Tô Đình Hiền, sĩ quan trực
Trung tâm hành quân của TQLC tại Căn cứ Khe Sanh)."
Xem trang 27/540-33/540
Xem trang 31/540
“What has dramatically demoralized many of the South
Vietnamese troops is the large number of their own wounded who were left
behind, begging for their friends to shoot them or to leave hand grenades so
they could commit suicide before the North Vietnamese or the B–52s killed them.-
"Điều đã làm mất tinh thần rất nhiều trong quân đội miền Nam
Việt Nam là số lượng lớn chiến hửu bị thương của họ bị bỏ lại, cầu xin bạn bè
của họ bắn họ hoặc để lại lựu đạn để họ có thể tự sát trước khi Bắc Việt hoặc
B-52 giết họ.”
Xem trang 33/540
“..they should have moved a leader like General Tri
with military experience in multi-division cross-border operations up to
Military Region 1 to conduct it.” Họ vẩn chưa biết
tướng Đổ Cao Trí (aggressive Lieutenant General) đã bị thủ tiêu trước
khi nhận nhiệm vụ mới tại vùng I?
Xem trang 27/540
“As to the Chup operation, where Lieutenant General
Nguyen Van Minh had taken command after the aggressive
Lieutenant General Do Cao Tri died in a helicopter crash”
TỬ CHIẾN HẠ LÀO 1971, (15) CHÌA KHÒA GIẢI MÃ: B.52 HỦY
DIỆT TOÀN BỘ
TỬ CHIẾN HẠ LÀO 1971, (15) CHÌA KHÒA GIẢI
MÃ: B.52 HỦY DIỆT TOÀN BỘ
*(Trích sách “Gải Mã Những Bí Ẩn của Chiến Tranh Việt Nam của
Bùi Anh Trinh)
Chìa khóa để giải mã những điều tưởng chừng như vô lý đã xuất hiện
trong ngày 22-3, ngày gần cuối của cuộc chiến, khi mà một phi vụ B.52 đã thả
bom vào một vị trí có cả địch lẫn ta khiến cho Tiểu đoàn 4 TQLC/VNCH có 85
chết, 238 bị thương và 100 súng cá nhân bị hủy hoại. Sự kiện này để lộ ra
công thức: Một khi có bằng chứng quân địch tập trung áp đảo quân ta
thì dùng B.52 hủy diệt cả địch lẫn ta để giải quyết chiến trường.
Tự nhiên những khó hiểu đã trở thành dễ hiểu:
(1) Không cần kiểm chứng tin tình báo:
Thảo một lệnh hành quân mà không kiểm chứng tin
tình báo, bởi vì chỉ cốt nhữ cho Hà Nội đưa thêm quân vào cho B.52 tiêu diệt
chứ không cần biết lực lượng địch tại chỗ nhiều hay ít.
Ý đồ của Nixon và Kissinger là dùng quân VNCH
tái dựng một Điện Biên Phủ thứ hai tại Tchepone. Và một khi quân CSVN tập
trung bao vậy Tchepnone thì Mỹ sẽ giải quyết chiến trường giống hệt như kế
hoạch giải cứu Điện Biên Phủ mà Ngũ Giác Đài đã dự trù thực hiện vào năm 1954:
“Ngày 20-3-1954, Tổng Tham mưu
trưởng quân đội Pháp là Thống tướng Ely đã bay sang Hoa Thịnh Đốn cầu viện đồng
minh. … các sĩ quan trong Ngũ Giác Đài soạn thảo cụ thể một kế hoạch tiếp
viện cho Điện Biên Phủ, đặt tên là “Kế hoạch Vulture”.
Theo kế hoạch này thì sẽ cứu nguy Điện Biên Phủ theo công thức
“Không quân Hoa Kỳ với quân Nhảy dù Pháp”. Con số phi cơ Mỹ sẽ tham chiến
tại Điện Biên Phủ sẽ là 98 oanh tạc cơ và 450 chiến đấu cơ từ Nhật và Phi Luật
Tân”. (Trích sách “Bối Cảnh Lịch Sử Chính Trị Việt Nam” của Bùi Anh Trinh, do
Làng Văn phát hành, tập thượng, trang 755).
Thời đó Mỹ chưa có oanh tạc cơ B.52 nhưng có
oanh tạc cơ B.29 là loại phóng pháo cơ khổng lồ, tiền thân của B.52. Với
lực lượng 548 máy bay của Mỹ thì Điện Biên Phủ sẽ bị san thành bình địa, và 5
sư đoàn quân CSVN sẽ không còn một người nào sống sót.
Giờ đây nếu kịch bản Điện Biên Phủ tái diễn thì B.52 sẽ san
Tchepnone thành bình địa. Lúc đó 60.000 quân CSVN lẫn 20.000 quân VNCH
đều không còn ai sống sót. Và một khi cái bẫy B.52 đã sập xuống thì đương
nhiên chiến tranh Việt Nam kết thúc vì Hà Nội không còn khả năng theo đuổi
chiến tranh.
Hơn nữa, đến lúc đó thì Mỹ có quyền tấn công Hà
Nội mà thế giới không thể phản đối bởi vì Hà Nội đã đặt ống dẫn dầu trên đất
Lào, công khai xua quân và xe tăng sang sang Lào…! Lâu nay Hà Nội luôn
luôn chối bỏ cáo buộc rằng họ có đưa quân vào Nam Việt, hay Lào, hay Cam Bốt
cho nên thế giới phản đối mỗi khi Mỹ cho ném bom Bắc Việt. Giờ đây Nixon
đã có lý do để tấn công Bắc Việt nhằm bảo vệ an ninh cho Miền Nam, Cam Bốt và
Lào.
Và một khi chiến tranh Việt Nam kết thúc theo
kiểu đó thì Nixon trở thành người hùng của nước Mỹ vì đã chuyển bên thua cuộc
từ thời Johnson trở thành bên thắng cuộc. Cả thế giới sẽ nể phục sức mạnh
vô địch của Mỹ cũng như nể phục Nixon.
(2). Không nghĩ tới lực lượng địch
là cấp quân đoàn:
Bởi vì kịch bản là tái dựng Điện Biên Phủ thứ
hai cho nên địch kéo tới càng đông càng tốt, vấn đề là làm sao cho địch chịu
kéo tới, chỉ lo địch không còn khả năng kéo tới. Nhưng nếu như Hà Nội
không còn khả năng thì Nixon có quyền cho đóng chốt tại Tchepone, tuyên bố
chiến thắng, và an tâm rút hết quân Mỹ về.
(3). Không dự trù trường hợp địch
tăng quân:
Nếu địch tăng quân thì Nixon tăng thêm B.52, dĩ
nhiên một khi cái bẫy B.52 sập xuống thì miếng mồi nhữ là 2 sư đoàn quân VNCH
tại Tchepone cũng không còn. Bởi vậy Nixon không cần có thêm một lực
lượng trừ bị nào, chỉ cần 2 sư đoàn làm mồi nhữ là đủ rồi.
(4) Không có mũi tấn công thứ hai
để chia quân địch
Một khi đã tính dụ cho quân CSVN kéo tới
Tchepone càng đông càng tốt mà lại đánh vào Bắc vĩ tuyến 17 thì chắc chắn quân
CSVN sẽ không kéo tới Hạ Lào đã đành; mà trái lại, có thể quân CSVN từ Hạ Lào
kéo về phòng thủ Bắc vĩ tuyến 17. Lúc đó thì cái bẫy B.52 coi như thất
bại.
(5). Không nghĩ tới trường hợp trực
thăng tê liệt do súng cao xạ
Theo kịch bản thì miếng mồi nhữ là quân VNCH tại
Tchepone mới là đối tượng chính của quân CSVN, còn trực thăng không cho tham
gia chiến đấu, chỉ chở quân và tiếp tế cho nên tác giả kịch bản không tính tới
chuyện bảo vệ an toàn cho trực thăng. Tác giả cho rằng trực thăng bay
trên cao và ở xa thì súng phòng không không đụng tới. (Chứng tỏ tác giả
không phải là giới quân sự).
(6), (7). Không dự trù trường hợp địch có
xe tăng và pháo binh cấp sư đoàn
Không cần biết tới lực lượng xe tăng và pháo
binh của địch vì đã có B.52 đối phó; trái lại, nếu CSVN đem tăng, kéo pháo chui
vào bẫy càng nhiều thì càng hay.
(8). Không bảo mật ý đồ hành
quân:
Cố tình tiết lộ kế hoạch hành quân sớm 1 tháng
rưỡi để Hà Nội có đủ thì giờ điều thêm quân càng nhiều càng tốt. Thời gian 2
tháng lưu lại Tchepone là thời gian đủ để cho Hà Nội dốc hết lực lượng vào Hạ
Lào. Và khi cái bẫy B.52 sập xuống thì Hà Nội không còn người và súng đạn
để theo đuổi chiến tranh.
(9) Không cho cố vấn Mỹ hành quân:
Không cho cố vấn Mỹ hành quân bởi vì B.52 sẽ hủy
diệt toàn trận địa, chỉ có người Việt chết với nhau.
(10). Hành động khó hiểu của Đại
Tướng Abrams:
Tướng Abrams không muốn đích thân ra lệnh dùng
bom B.52 hủy diệt cho nên ông tìm cớ tránh sang Thái Lan và sau đó giả cớ say
rượu để lơ đi những quyết định quan trọng đã hẹn trước với Kissinger và Nixon.
Đặc biệt là ông không báo cáo cho Nixon và
Kissinger về kế hoạch rút quân của Tướng Thiệu, chỉ báo cáo sau khi quân VNCH đã
về hết tới biên giới ( ngày 23-3 ). Trong khi Kissinger và Nixon đinh
ninh quân VNCH sẽ lưu lại Tchepone trong 2 tháng để làm mồi nhữ cho quân CSVN
tập trung lại như đã từng tập trung tại Điện Biên Phủ năm 1954.
(11) Câu nói khó hiểu của Tướng Cao
Văn Viên:
Tướng Viên nói rằng quân của Tướng Phú về được 1
người thì có nghĩa là đoàn quân không bị B.52 hủy diệt. Mà nếu không bị
B.52 hủy diệt thì sẽ về được nhiều người, như vậy tướng Phú trở thành người
hùng chiến thắng cho dù quân Sư đoàn 1 BB trở về không được bao nhiêu.
May mắn là quân của Tướng Phú chẳng những đã có
người trở về mà còn trở về nguyên vẹn sư đoàn, chỉ mất Tiểu đoàn 4/1 BB.
Không phải tướng Phú tài giỏi, mà là nhờ cái lệnh “đái một bãi” của Tướng
Thiệu, ông ta đã ra lệnh cho Trung đoàn 2 BB tạt qua Tcheopne, chụp một tấm
hình với báo chí, xong rồi nhanh chân rút về trước khi cái bẫy với 8 sư đoàn
quân CSVN sập xuống.
Nếu quân VNCH trụ lại Tchepone trong thời gian
khoảng 2 tháng theo như kế hoạch của Ngũ Giác Đài thì chắc chắn quân CSVN đã
khóa chặt đường về và đương nhiên Tchepone trở thành Điện Biên Phủ thứ hai, lúc
đó người ta chỉ còn có một cách hay nhất là thả bom nguyên tử như người ta đã
từng dự trù thả xuống Điện Biên Phủ năm 1954 hay dự trù thả xuống Khe Sanh năm
1968; hoặc tốt hơn hết là dùng bom rải thảm B.52 hủy diệt toàn trận địa.
Cuối cùng còn có một câu nói của Tướng Lê Nguyên
Khang: Trong 2 ngày cuối của cuộc hành quân Tướng Lê Nguyên Khang có mặt
tại Quảng Trị, có một cuộc cải vã to tiếng giữa Tướng Khang và Đại tá cố vấn Mỹ
ngay sau vụ B.52 thả bom vào Tiểu đoàn 4 TQLC/VNCH. Các sĩ quan trong
trung tâm hành quân nghe được câu nói của Tướng Khang:
“50 ngàn quân của họ là người
Việt Nam, 15 ngàn quân của chúng tôi cũng là người Việt Nam, tôi là người
Việt Nam, tôi không thể làm như vậy được” (Theo
lời kể của Thiếu úy Tô Đình Hiền, sĩ quan trực Trung tâm hành quân của TQLC tại
Căn cứ Khe Sanh).
(12) Báo chí Mỹ mạt sát quân đội VNCH hèn nhát
Nếu vì không có máy bay tiếp tế mà tướng Thiệu
quyết định rút quân về thì mọi chuyện hỏng cả. Cho nên CIA (USID) cho tung
tin quân VNCH hèn nhát để Tướng Thiệu không thể rút lui, và cũng để kích quân
VNCH vì danh dự mà phải tử chiến với quân CSVN tại Tchepone.
BÙI ANH TRINH
No comments:
Post a Comment