Wednesday, March 1, 2023

20230301 Cong Dong Tham Luan Chuong Trinh Tu Nhan Bao Lanh

20230301 Cong Dong Tham Luan Chuong Trinh Tu Nhan Bao Lanh

 

Chương trình định cư tị nạn theo diện tư nhân bảo lãnh của Hoa Kỳ

Cập nhật của BPSOS ngày 26/02/2023

http://machsongmedia.org

Ngày 17 tháng 2, BPSOS công bố mục tiêu hình thành 120 nhóm bảo lãnh tư nhân trước cuối tháng 6. Đến nay có 45 nhóm bảo lãnh đã hoặc đang được hình hành với sự phân bổ theo tiểu bang như sau: Alabama (1), California (3), Florida (2), Georgia (1), Hawaii (1), Minnesota (9), Mississippi (4), North Carolina (4), Pennsylvania (2), Rhode Island (2), Texas (7), Virginia (1), Washington (8).

 

Mục tiêu của BPSOS là hình thành 120 nhóm bảo lãnh nhằm định cư khoảng 1/3 của tổng số 1000 người Việt đã có quy chế tị nạn ở Thái Lan theo chương trình bảo lãnh tư nhân mới được chính phủ Hoa Kỳ công bố. Số 2/3 còn lại, chúng tôi vận động định cư qua các chương trình có sẵn của các chính phủ như Hoa Kỳ, Canada, Úc, Pháp, Tân Tây Lan, v.v.

 

Để đạt mục tiêu 120 nhóm bảo lãnh, BPSOS đã huy động sự tiếp tay đồng loạt của hệ thống các văn phòng chi nhánh cũng như các nhóm thân hữu của BPSOS ở nhiều tiểu bang Hoa Kỳ. 

1

https://ecp.yusercontent.com/mail?url=https%3A%2F%2Ffiles.constantcontact.com%2F13e8e48c001%2Fc0f02a2f-0ec3-4c4e-b66e-452c8699fbbe.jpg%3Frdr%3Dtrue&t=1677645400&ymreqid=24c3a556-5b4c-4ea9-1c78-47002201bf00&sig=tFfKTvcg9TSNeVNJBuYINA--~D

Giám đốc và nhân viên điều hành của các văn phòng chi nhánh của BPSOS tại 6 tiểu bang tại buổi họp ở Orange County, California, ngày 21 tháng 2, 2023

 

Hỗ trợ cho các nhóm bảo lãnh đã và đang hình thành

 

Trong số 45 nhóm bão lãnh đã hoặc đang hình thành, 25 nhóm biết trước những người họ muốn giúp định cư. Chẳng hạn, một hội thánh Tin Lành muốn bảo lãnh cho 5 gia đình là thân nhân của một tín hữu trong hội thánh. Số 20 nhóm còn lại yêu cầu chúng tôi giới thiệu hồ sơ tị nạn chiếu theo một số tiêu chí mà họ đề ra.

 

Để hỗ trợ cho cả hai thành phần này, toán thiện nguyện viên của BPSOS ở Hoa Kỳ, do Ts. Phan Quang Trọng, điều phối đang:

 

1.      Hướng dẫn từng nhóm bảo lãnh đã được hình thành hoàn tất thủ tục ghi danh để sẵn sàng xúc tiến việc nhận định cư ngay khi chương trình bảo lãnh tư nhân được áp dụng cho đồng bào tị nạn ở Thái Lan.

 

2.      Kết nối các nhóm bảo lãnh ở Hoa Kỳ với các gia đình tị nạn thích hợp ở Thái Lan để 2 bên giữ liên lạc trực tuyến.

 

3.      Nới rộng chương trình dạy Anh văn cho các gia đình muốn chuẩn bị cho việc định cư trong tương lai.

Toán thiện nguyện viên của BPSOS ở Thái Lan, do Mục Sư Jordan Smith điều phối, tiếp tục:

 

1.      Phối hợp với toán luật sư của BPSOS để lọc ra các trường hợp đã có quy chế tị nạn và đáp ứng các tiêu chí do nhóm bảo lãnh đề ra.

 

2.      Thông báo với Cao Uỷ Tị Nạn LHQ về các hộ gia đình có triển vọng được tư nhân bảo lãnh để sớm phỏng vấn định cư và chuyển hồ sơ cho chính phủ Hoa Kỳ.

 

3.      Cung cấp thông tin chính xác đến cộng đồng người Việt tị nạn ở Thái Lan để họ tự đề phòng các tin sai và tin giả.

 

Tiếp tục vận động hình thành thêm nhóm bảo lãnh

Tuy đã đạt 37.5% mục tiêu trong vòng 10 ngày, chúng tôi tiếp tục vận động các nhóm người VIệt ở khắp Hoa Kỳ tiếp tay định cư 330 đồng bào tị nạn còn kẹt ở Thái Lan, trong đó có không ít người với trên 20 năm lưu lạc tìm tự do. Để đạt mục tiêu này, chúng tôi sẽ:

 

1.      Giúp đồng hương ở Hoa Kỳ thấu hiểu tình cảnh của đồng bào ở Thái Lan qua lời kể của một số người tị nạn đồng ý lên tiếng.

 

2.      Phổ biến lời kêu gọi của những người có uy tín trong cộng đồng hoặc có công cán đặc biệt trong lĩnh vực bảo vệ người Việt tị nạn.

 

3.      Huy động các hội thánh Tin lành Hoa Kỳ tham gia việc bảo lãnh người tị nạn hoặc tiếp sức với các nhóm bảo lãnh của người Việt.

 

4.      Nhắc nhở người tị nạn nào có thân nhân, người quen ở Hoa Kỳ sẵn sàng lập thủ tục bảo lãnh thì hãy thông báo cho Mục Sư Jordan Smith ở Thái Lan.

Một số điều cẩn trọng

 

Chương trình bảo lãnh tư nhân mở ra triển vọng định cư cho thêm một số đồing bào tị nạn ở Thái Lan, nhưng thông tin về chương trình này vẫn còn nhiều khoản mù mờ và, quan trọng nhất, chương trình này hiện nay chưa ứng dụng cho đồng bào của chúng ta ở Thái Lan.

 

Theo thông báo chính thức của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, khoảng tháng 6 năm nay thì các nhóm bảo lãnh mới bắt đầu được chọn người tị nạn mình muốn giúp định cư. Tuy nhiên, đây chỉ là mốc điểm dự kiến. Còn thời điểm thực sự thì khó đoán trước. Chẳng hạn, ngày 4 tháng 2 năm 2021, tân Tổng Thống Joe Biden đã công bố chương trình bảo lãnh tư nhân, dự trù sẽ triển khai vào cuối năm 2021 nhưng mãi cho đến đầu năm nay mới được mở ra bước đầu.

Do đó, chúng tôi có những lời cảnh giác sau đây:

 

1.      Chúng tôi khuyến khích các nhóm bảo lãnh nhanh chóng hoàn tất thủ tục ghi danh với chính phủ Hoa Kỳ, đồng thời nhắc nhở mọi người là hiện nay chưa thể xúc tiến việc bảo lãnh cho đến khi có thông báo chính thức từ chính phủ Hoa Kỳ.

 

2.      Khi chúng tôi kết nối một hồ sơ tị nạn với một nhóm bảo lãnh, mục đích là để 2 bên quen biết và tìm hiểu nhau chứ không phải là nhóm ở Hoa Kỳ đã chính thức chọn bảo lãnh định cư hồ sơ ấy.

 

3.      Những hồ sơ tị nạn nào chưa được kết nối thì xin an tâm là quý vị không bỏ quên và tuyệt nhiên không phải điền đơn ghi danh hoặc cung cấp thông tin cho bất kỳ ai. BPSOS đã có sẵn hồ sơ của khoảng 85%-90% những người có quy chế tị nạn.

 

Trong bản cập nhật sau, chúng tôi sẽ nói về những điều kiện tối thiểu để người tị nạn được định cư theo chương trình bảo lãnh tư nhân của Hoa Kỳ.

Thông tin liên lạc:

 

Ở Hoa Kỳ: Ts. Phan Quang Trọng, email: trong.phan@gmail.com

Ở Thái Lan: Mục Sư Jordan Smith, email: Jordan.Smith@pspfoundation.org

 

Thông tin liên quan:

 

Cập nhật về nỗ lực định cư người tị nạn ở Thái Lan – ngày 17 tháng 2, 2023

https://machsongmedia.org/vietnam/bao-ve-nguoi-ti-nan/1904-cap-nhat-ve-no-luc-dinh-cu-nguoi-ti-nan-o-thai-lan-ngay-17-thang-2-2023.html

 

Cập Nhật Về Nỗ Lực Thúc Đẩy Định Cư Người Tị Nạn Ở Thái Lan – ngày 12 tháng 2, 2023

https://machsongmedia.org/vietnam/bao-ve-nguoi-ti-nan/1902-cap-nhat-ve-no-luc-thuc-day-dinh-cu-nguoi-ti-nan-o-thai-lan.html


Phiet Pham thephiet_2002@yahoo.com

Tue, Feb 28 at 11:09 AM

NGƯỜI LÍNH VNCH VÀ VÀNH KHĂN TANG TỔ QUỐC!!!     


Bài viết có hai mục đích:

1.- Cho các thế hệ trẻ ở trong nước (Việt Nam) biết tính nhân bản và nhiệm vụ chính của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, không phục đảng như cái gọi là quân đội nhân dân của CSVN.

2.- Nhắc nhở "quý vị" cựu quân nhân QLVNCH ở nước ngoài đang được sống đầy đủ vật chất và tự do về mọi mặt đừng quên nỗi nhục mất nước mà cứ thản nhiên về VN du hí! 

2

https://apis.mail.yahoo.com/ws/v3/mailboxes/@.id==VjN-V-oQzD9VZbhUwcIlQUrLlH5xUV_lJ3rck_hOeHbPRVdrqZvcbUa1wMsZuo4dH54esaB2QSVsrC52-L_HzQ4JosqrbHbfo5KPritJKPChzq8/messages/@.id==AG3FIc11tbjZY_4nNgRB2Cfp2YQ/content/parts/@.id==2/thumbnail?appid=YMailNorrin&downloadWhenThumbnailFails=true&pid=2

Người Lính VNCH & Vành Khăn Tang Tổ Quốc

 

Cuộc chiến Việt Nam trên mặt trận quân sự thật sự chấm dứt lúc 1:15 trưa ngày 1-5-1975 sau khi Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn, tỉnh trưởng, kiêm Tiểu Khu Trưởng Chương Thiện cùng các chiến sĩ dưới quyền bị sa vào tay giặc. 

Trước đó một ngày, tức là vào lúc 10:30 sáng ngày 30-4-1975, TT Dương Văn Minh kêu gọi các đơn vị, các cấp thuộc QLVNCH buông súng, sau này cũng có người gọi ông Dương Văn Minh là Tổng Thống “vi hiến.” 

Trong phạm vi bài viết này, tôi không bàn về hai chữ “vi hiến” hay hợp hiến, mà tôi chỉ nhắc lại giờ phút lịch sử sang trang máu, để cùng chia sẻ niềm đau thương dân tộc và “Vinh Danh-Tưởng Niệm-Tri Ân” những Người Lính VNCH. 

Sau lời kêu gọi buông súng của ông Dương Văn Minh, một số Đơn Vị Trưởng và cấp Chỉ Huy vì không muốn người dân và thuộc cấp phải đổ máu trong giờ thứ 25, nên đã ra lệnh kéo mảnh vải trắng lên ngọn cờ tại đơn vị, chấp nhận chấm dứt chiến tranh. 

 

Từ ngày đau thương đó đến nay đã 47 năm, mảnh vải trắng đó bị xem là lá cờ đầu hàng. 

Không, VNCH bị bán đứng chớ Người Lính VNCH không thua; Miền Nam Việt Nam bị cộng sản cưỡng chiếm, nhưng Người Lính VNCH không đầu hàng. 

Người Lính VNCH chẳng những can trường để chiến thắng mà còn can trường ngay cả trong chiến bại. 

Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, Chuẩn Tướng Trần Văn Hai, Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, Đại Tá Hồ Ngọc Cẩn đã hãnh diện và hiên ngang thay mặt cho toàn thể QL/VNCH chứng minh điều đó. 

Người Lính VNCH không bao giờ thua hoặc đầu hàng cộng sản. Mảnh vải trắng được Người Lính VNCH trân trọng, nghiêm trang từ từ kéo lên đỉnh ngọn cờ, kèm theo hai dòng lệ nhạt nhòa trong ngày tang thương đó là “Vành Khăn Tang Tổ Quốc”!

 

Mùa Xuân đến rồi qua đi, để lại trong lòng người Việt tha hương một nỗi buồn man mác trên con đường viễn xứ... 

Tháng Tư lại đến, gợi nhớ trong chúng ta một Tháng Tư của 47 năm về trước... 

Một Tháng Tư mà cả một quân đội hùng mạnh, thiện chiến nhất Đông Nam Á phải tan hàng vì sự phản bội của đồng minh, một quân đội bách chiến, bách thắng bị trói tay trên bàn cờ chính trị thế giới; Một Tháng Tư mà cả quê hương Việt Nam bị cộng sản nhuộm đỏ bằng máu của Quân Dân Cán Chính VNCH; 

Một Tháng Tư mà cả một dãy giang san Việt Nam hoa gấm bị bọn cộng sản phá tan nát, nhận chìm trong máu và nước mắt của 90 triệu dân Việt trong suốt 47 năm qua. “Tháng Tư Đen 1975”...!

 

Ngược dòng lịch sử... Trong suốt chiều dài của cuộc chiến trên quê hương Việt Nam, Người Lính VNCH đã dâng hiến cả cuộc đời cho quê hương, Tổ Quốc, đem sinh mạng của mình đặt trên đường bay của đạn để hoàn thành danh dự, trách nhiệm mà Tổ Quốc đã giao phó: “Bảo Quốc-An Dân.”

Chúng ta không thể nào quên được hình ảnh Người Lính VNCH bước trên những đống gạch vụn đổ nát trộn lẫn xác đồng đội và giặc thù dưới từng cơn mưa đạn của địch quân giăng kín cả đất trời để cắm ngọn cờ chiến thắng trên Cổ Thành Quảng Trị vào ngày 16-9-1972; 

Hình ảnh của những Người Lính VNCH tiến lên trong lửa khói mịt mờ, những trận mưa pháo kinh hoàng của quân thù, máu chảy theo mỗi bước đi để chiếm lại từng tấc đất của quê hương, từng căn nhà góc phố cho người dân nơi thị trấn An Lộc vào Mùa Hè Đỏ Lửa 1972 ...

Người Lính VNCH gục ngã trên khắp các mặt trận lớn nhỏ, thân xác của họ nát tan trong đạn pháo của quân thù để cho đất Mẹ được an vui; 

Máu của họ tuôn chảy khắp nẻo đường đất nước thấm vào lòng đất Mẹ cho ruộng lúa xanh tươi hoặc một phần thân thể gởi lại trên chiến trường mục rã theo thời gian.  Tất cả sự hy sinh đó là để bảo vệ hai chữ Tự Do cho Miền Nam Việt Nam.

Nhưng... đớn đau thay!  Người Lính VNCH đã bị người bạn đồng minh phản bội, bức tử phải buông tay súng ngày 30-4-1975, để rồi bao nhiêu người đã tuẫn tiết chết theo vận nước, hằng ngàn người đã bị bọn cộng sản hành quyết ngay sau khi chúng cưỡng chiếm Miền Nam Việt Nam, hằng trăm ngàn Quân Cán Chính bị đưa vào 200 trại tù khổ sai, khắc nghiệt trên hai miền Nam Bắc, nhận lãnh sự trả thù đê tiện, hèn hạ bằng những cực hình tra tấn dã man, độc ác của bọn cộng sản vô thần khát máu, khoảng 165,000 đã chết trong các trại tù khổ sai, 65,000. Quân Cán Chính VNCH chết mất xác vì bị thủ tiêu.

 

Dòng đời lặng lẽ trôi thoáng qua đó đã 47 năm.

 Dù cát bụi thời gian có chôn vùi tất cả và mọi việc sẽ đi vào lãng quên, nhưng có những sự việc, hình ảnh sẽ mãi mãi trường tồn với thời gian, trơ gan cùng tuế nguyệt... đó là hình ảnh, sức chiến đấu phi thường và sự hy sinh cao cả của Người Lính VNCH.

Chúng tôi, những Người Lính VNCH nhắc lại dĩ vãng không phải để tiếc nuối một thời quá khứ vàng son, danh vọng. 

Đời Lính VNCH đầu đội trời quê cha, chân bước đi trên mảnh đất mẹ, đôi vai gầy bé nhỏ gánh vác cả giang san, lưng mang balô trĩu nặng tình yêu quê hương dân tộc, đối diện với cái chết từng giây, từng phút; 

Đường hành quân trong rừng sâu, núi thẳm cả tháng không thấy ánh nắng mặt trời, đôi giày trận chưa hề được tháo ra một lần, nuốt vội vã những buổi cơm gạo sấy dưới cơn mưa tầm tã rồi tiếp bước quân hành.

Cuộc đời của Người Lính như thế thì đâu có gì là vàng son, danh vọng... Nếu có danh vọng chăng là chúng tôi hãnh diện và tự hào được khoác vào mình bộ quân phục của QLVNCH; 

Vàng son của Người Lính là đem máu xương để đổi lấy sự thanh bình cho quê hương đất mẹ.

Chúng tôi nhắc lại dĩ vãng để cho những thế hệ trẻ sau này hiểu rõ về một quá khứ bi hùng, sự hy sinh của Người Lính VNCH. 

Nhờ những sự hy sinh đó mà chúng ta còn được hít thở bầu không khí tự do hôm nay; 

Chúng tôi cũng muốn cho thế hệ trẻ đang sống trong nước hiểu rõ về tánh nhân bản và chính nghĩa của Người Lính VNCH.

 Người Lính VNCH không phục vụ cho bất cứ đảng phái, tổ chức hay cá nhân nào, Người Lính VNCH đi chiến đấu với một trách nhiệm và lý tưởng duy nhất “Bảo Quốc-An Dân”.  Hy sinh vì dân tộc.

Có một số người thiển cận đã đổ hết trách nhiệm lên Người Lính VNCH về quốc nạn 30-4-1975, cũng có nhiều cấp chỉ huy, lãnh đạo đã đứng ra nhận lãnh trách nhiệm này. 

Nếu nói như thế thì tội cho Người Lính VNCH quá!  Người Lính VNCH đã làm hết sức của mình.

Người Lính VNCH dù không còn đầy đủ vũ khí, đạn dược và đã bị người bạn đồng minh bỏ rơi, nhưng họ vẫn tiếp tục chiến đấu trong đơn độc với tỷ lệ một (1) chọi sáu (6) tới giờ thứ 25 của cuộc chiến. 

 

Cuối cùng vì quân lệnh, vì kỷ luật của quân đội mà Người Lính đành nghẹn ngào buông tay súng! 

Người Lính đã làm tròn trách nhiệm mà Tổ Quốc giao phó. 

Một bằng chứng hùng hồn và cụ thể là không có một mảnh đất nào của Miền Nam Việt Nam bị cộng sản chiếm mà Người Lính VNCH không lấy lại được trong 20 năm chinh chiến.

Nếu Miền Nam Việt Nam chế tạo được vũ khí, đạn dược, chiến đấu cơ, chiến hạm và các phương tiện thiết bị chiến tranh, thì đừng nói chi là bọn cộng sản Việt Nam, mà trên thế giới này khó tìm ra được một quân đội nào được xem là đối thủ của QLVNCH.

Trong thời chiến, Người Lính VNCH là người chịu nhiều gian nan, cực khổ và hiểm nguy nhất, nhưng họ lại là những người bất hạnh, tang thương nhất sau cuộc chiến.

Những Người Lính VNCH may mắn đến được bến bờ tự do từ những ngày hỗn loạn cuối Tháng Tư Đen cho đến những chuyến vượt biển kinh hoàng, những chuyến bay ra đi theo diện H.O hoặc chương trình đoàn tụ. 

Dù họ ra đi bằng phương tiện hay diện nào đi nữa, không phải là họ sợ hoặc trốn chạy cộng sản. 

Họ ra đi với một lý do duy nhất: “Người Lính VNCH không đội trời chung với cộng sản.”

 

Người Lính VNCH buông súng chấm dứt cuộc chiến trên mặt trận quân sự để chuyển qua một mặt trận mới trong cuộc chiến mới.

 Đó là mặt trận chính trị trong cuộc chiến “Nhân Bản,” cuộc chiến nhân bản này chỉ có một trận chiến duy nhất và sẽ là trận thư hùng cuối cùng, chúng ta dùng Lá Cờ Vàng Chính Nghĩa khai tử, bôi xóa vĩnh viễn đảng cộng sản VN trong dòng lịch sử dân tộc Việt Nam nói riêng và dòng lịch sử thế giới nói chung.

Cho đến ngày hôm nay, 47 năm sau cuộc chiến, Người Lính trẻ nhất của QLVNCH cũng đã trên 60 tuổi... những cấp chỉ huy, lãnh đạo thì sương tuyết đã phủ trắng mái đầu. 

Những Người Lính VNCH bây giờ mắt đã yếu, thân thể không còn khỏe mạnh, tráng kiện như ngày xưa, nhưng ý chí và lý tưởng của họ vẫn không phai sờn theo dòng thời gian nghiệt ngã của tạo hóa, dù họ đang sống ấm no nơi xứ lạ quê người, họ vẫn đem những chuỗi ngày còn lại đóng góp công sức vào công cuộc đấu tranh giải thể bạo quyền cộng sản để mang lại sự tự do, hạnh phúc, ấm no cho 95 triệu người dân trong nước và những thế hệ mai sau.

 

Tất cả những sự hy sinh của Người Lính VNCH được trang trọng lưu vào trang sử của quê hương kèm theo bốn chữ mang đầy đủ ý nghĩa nhất “Tổ Quốc Ghi Ơn”.

Bốn mươi bảy năm chỉ là một thoáng so với thời gian vô cùng tận của tạo hóa, nhưng lại là chuỗi ngày dài đau thương của dân tộc Việt Nam.

 Bao năm qua, vết thương cũ hầu như chưa một lần khép kín nhưng đau buồn thay... Những hình ảnh kinh hoàng, hoang mang, sợ hãi chen lấn nhau trong những ngày cuối “Tháng Tư Đen” khi giặc tràn về thành phố; 

Những hình ảnh vượt biển cả chống chọi với phong ba bão táp, trực diện với thần chết để đi tìm hai chữ “Tự Do” hầu như đã phai mờ trong lòng của một số người; 

Cuộc sống cơm no, áo ấm nơi xứ lạ đã làm cho họ quên ngày đại tang của quê hương; 

Họ đã đem cuộc sống vật chất xa hoa nơi đất khách phủ lấp đi sự hy sinh cao cả của Người Lính VNCH. 

Họ đã thờ ơ, lãnh đạm với sự tan nát của Quê Hương cùng với sự khổ đau, tang tóc của 95 triệu người dân trong nước. 

Tàn nhẫn hơn nữa là họ đã quay về quỳ mọp bắt tay hợp tác với giặc, những kẻ đã từng sát hại thân nhân của họ và truy đuổi họ vào con đường chết... Hỡi ơi...!

 

Xin đừng vứt bỏ hai chữ “Quốc Hận” bên lề đường viễn xứ. 

Xin đừng nhẫn tâm đâm thêm một nhát dao nữa vào lưng những Người Lính VNCH đang ôm nỗi quốc hờn lưu vong biệt xứ hoặc đang lê lết cuộc đời tăm tối, tang thương trên quê hương Việt Nam. Xin đừng phản bội những người đã gục ngã, những người đang nằm trong lao tù vì công cuộc đấu tranh giải thể bạo quyền cộng sản VN. Hãy đóng góp công sức, góp một bàn tay cho công cuộc đấu tranh này sớm thành công.

Xin đừng để con đường viễn xứ mỗi ngày mỗi dài thêm.

 

Tác giả: “Mũ Đen” Hoàng Nhật Thơ

 

Phiet Pham thephiet_2002@yahoo.com

Wed, Feb 22 at 10:51 AM

Những văn Nghệ Sĩ quân nhân hy sinh khi tuổi đời còn trẻ.

Phạm Văn Duyệt 

03/12/2022

Từ 1954 đến 75, hằng vạn thanh niên miền Nam hăng hái lên đường tòng quân chống lại cuộc xâm lăng của cộng sản cuồng tín phương Bắc.

Biết bao chàng trai ưu tú đã vĩnh viễn ra đi chẳng hẹn ngày về, kể cả giới làm thơ, viết văn và sáng tác âm nhạc. Do tuổi thọ ngắn ngủi, nên di sản văn chương của họ không được phong phú dồi dào. Mặc dù các tác phẩm để lại cho thấy tài năng đang nở rộ.

Bài viết này xin lược ghi lại cuộc đời của một số văn nghệ sĩ bạc mệnh đó, như là những dòng tưởng niệm và tri ân với lớp người đã cống hiến tuổi thanh xuân cho quê Mẹ Việt Nam.

1. NGHIÊM SĨ TUẤN (1937 - 68). 

3

Y sĩ Trung úy Nghiêm Sỹ Tuấn, người thứ hai trong hàng, trước giờ lên máy bay cho một Saut nhảy dù bồi dưỡng, 1966. [tư liệu BS Vũ Khắc Niệm & Trang Châu]

Theo Nghiêm Sĩ Tuấn Tuyển Tập (Chủ Biên: Ngô Thế Vinh và nhiều tác giả khác, hanhchauphuc xuất bản, 29.7.19):

"Ông sinh tại Nam Định trong một gia đình thanh bạch và đông anh em. Cắp sách tới trường muộn màng ở tuổi 14. Hoàn tất học trình Trung và Đại Học khoảng 14 năm. Thư ký Tòa soạn Báo Tình Thương của Sinh Viên Y Khoa Saigon. Là tác giả nhiều bài viết sâu sắc, mang nặng những suy tư về các vấn đề văn hóa, xã hội và vận mệnh đất nước. Tốt nghiệp Bác Sĩ năm 65. Không thuộc diện Quân Y Hiện Dịch, nhưng tình nguyện gia nhập binh chủng Nhảy Dù, trở thành Y Sĩ tiền tuyến có mặt trên nhiều trận địa khắp 4 vùng chiến thuật. Hai lần bị thương tích, nhưng vẫn quyết chí ở lại đơn vị tiếp tục chiến đấu.

"Rất giỏi chữ Hán, tiếng La Tinh. Có năng khiếu về ngoại ngữ Anh, Pháp, Đức. Cùng Bác Sĩ Trần Xuân Dũng dịch tác phẩm Dưới Mắt Thượng Đế của Hans Killian. Có cá tính rõ rệt, đầy tài năng và lý tưởng. Một kẻ sĩ hiếm hoi. Là mẫu người quân tử Đông Phương thuần Việt còn vương sót ở hậu bán thế kỷ 20. Nghiêm Sĩ Tuấn chỉ để lại vài truyện ngắn, mấy bài thơ, cuốn nhật ký viết dở dang và có thể ở đâu đó là những trang bản thảo bị thất lạc. Chắc chắn anh còn hẹn hò khác, nhưng anh vội mang đi, chôn sâu dưới mãnh đất của một quê hương Việt Nam tự do mà anh hết lòng yêu mến và đã đem chính sinh mệnh của mình ra để bảo vệ. Giữa thập niên 1960s, là thời gian đầy biến động của đất nước. Ngoài tiền tuyến chiến tranh ngày càng khốc liệt với nhiều chết chóc, trong khi hậu phương lại xảy ra lắm cuộc biểu tình trên các đường phố, anh tỏ ra không đồng ý với mọi xáo trộn mà theo anh chỉ có lợi cho cộng sản. "Những Người Đi Tìm Mùa Xuân"

và "Para Bellum" (Chuẩn Bị Chiến Tranh) là hai tác phẩm mang nặng nỗi niềm suy tư về chiến tranh và hòa bình của anh. Anh đã viết: "...làm gì có xương nào phơi vô nghĩa, càng vô nghĩa bao nhiêu càng ý nghĩa bấy nhiêu. Vả chăng xương nào thay được xương mình. Trái đậu thì hoa tàn. Hạt giống có chết cây mới nẩy mầm xanh, sao nói là vô nghĩa được". 

Nghiêm Sĩ Tuấn là điển hình tính nhân bản của truyền thống y khoa, của một y sĩ sẵn sàng dấn thân để phục vụ con người khổ đau trong hoàn cảnh bất thường của đất nước.

Nhà thơ Trang Châu, tác giả Y Sĩ Tiền Tuyến (Giải Văn Học Nghệ Thuật 1969), bạn cùng lớp, có viết Một Bài Thơ Cho Tuấn:

...Tuấn ơi mầy không chấp nhận tầm thường 

Lẻ loi mà bất khuất 

Mầy lớn lao bằng im lặng 

Hiên ngang trong âm thầm 

Hỡi thằng y sĩ dù nhỏ bé của chúng tao ơi !

Đi chưa bao giờ biết mệt 

Chiến đấu chưa bao giờ biết nằm 

Đêm Gio Linh xác địch chất bên miệng hầm 

Chiều Cao Lãnh đạn ghim sâu vào gối

Và Đakto mảnh sướt bờ vai

Sao mầy không về cùng anh em?

Sao mầy đi biền biệt ?

Để một sớm mai buồn 

Chúng tao thức dậy 

Lặng người đau đớn 

Nghe tin mầy hy sinh

Mọi người khóc mầy bằng nước mắt tiếc thương. 

Trong bài "Các Vị Bác Sĩ Thiên Thần Mũ Đỏ" (Diễn Đàn Cựu Sinh Viên Quân Y), Thiếu Tá Trần Đoàn, Y Sĩ Trưởng Tiểu Đoàn 2/Quân Y Nhảy Dù ghi lại tin dữ từ mặt trận đưa về: Bác Sĩ Nghiêm Sĩ Tuấn, học cùng lớp, là Bác Sĩ dân y trưng tập, cũng chỉ còn một tháng nữa là mãn hạn kỳ phục vụ ở Tiểu Đoàn 6 Nhảy Dù, vừa tử trận tại Khe Sanh năm 1968 khi đang săn sóc thương binh. Bác Sĩ Mũ Xanh Trần Xuân Dũng không ngần ngại ca tụng "các Y Sĩ Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến là Những Hiệp Sĩ của Thời Đại, Những Đường Sơn Đại Huynh trên Tiền Tuyến Lửa".

2. DZŨNG CHINH (1941 - 69) 

4

Trở nên nổi tiếng sau khi sáng tác nhạc phẩm Những Đồi Hoa Sim, phổ từ thơ Hữu Loan lúc đang học Đại Học Luật Khoa Saigon.

Theo Nhà Văn Phạm Tín An Ninh

qua bài viết "Nhạc Sĩ Dzũng Chinh - Tác Giả 'Những Đồi Hoa Sim' Chết Trên Đồi Hoa Sim", chinhnghiavnch.com: Dzũng Chinh nhập ngũ năm 1965. Nhờ có năng khiếu âm nhạc nên được đưa về Khối Chiến Tranh Chính Trị Trung Đoàn, phụ trách ban văn nghệ. Nhưng với tính tình phóng khoáng, ít chịu khuôn khổ kỷ luật nhà binh, hay bỏ đơn vị về thành phố vui chơi cùng bạn bè nên bị trả lại đơn vị  tác chiến. 

Vào đêm cuối tháng 2.69, Dzũng Chinh hy sinh tại chân núi Chà Bang (Ninh Thuận), nơi này là  một vùng bạt ngàn hoa sim tím.

Cái chết của Nhạc Sĩ được bạn bè trong đơn vị bàn tán khá nhiều quanh vài câu chuyện mà mọi người cho là điềm gỡ báo trước:

    • Thuở ấy lương lính thường không đủ xài, nên trước cuộc hành quân, Dzũng Chinh đến ban tài chánh xin ứng trước. Viên sĩ quan phát ngân do dự ngần ngừ, hỏi sao mượn sớm thế, hơi khó xử cho ông. Dzũng Chinh gãi đầu năn nỉ:

     - Thì Đại Úy coi như xuất trước tiền tử tuất cho tôi thôi mà! 

Người sĩ quan đồng ý cho mượn, nhưng rầy anh: 

     - Cậu chớ nói điều gỡ không nên ! 

   • Sau đó anh rủ hai người lính cùng về Phan Thiết chơi. Không hiểu đụng chạm thế nào với nhóm lính thuộc đơn vị khác.

Trước ngày đi hành quân, anh nhận giấy báo gọi trình diện của quân cảnh tư pháp. Anh kể cho đám bạn bè trong một buổi nhậu rồi nói:

     - Kỳ này tao đi luôn, xem thử lấy ai để trình diện ! 

Ai ngờ anh đi luôn thật ! 

* Tác giả Vũ Khuê kể lại "Chuyện 

Đi Tìm Một Nhánh Sim Rừng", tuongtri.com, 5.10.17: sau mấy  ngày vất vã lặn lội quanh nhiều vùng đồi núi, hỏi thăm hằng chục người dân địa phương, có lúc tưởng chừng vô vọng. Nhưng rồi cuối cùng Ông cũng đến được di mộ Dzũng Chinh do người anh ruột phụng lập tại khu B1, Chùa Long Sơn, Nha Trang.

* Bài Hát Những Đồi Hoa Sim:

Những đồi hoa sim ôi những đồi  hoa sim tím chiều hoang biền biệt 

Vào chuyện ngày xưa nàng yêu hoa sim tím khi còn tóc búi vai

Mấy lúc xông pha ngoài trận tuyến ai hẹn được ngày về 

Rồi một chiều mây bay từ nơi chiến trường Đông Bắc đó 

Lần ghé về thăm chốn hoàng hôn tắt sau đồi.

Những chiều hành quân ôi những chiều hành quân tím chiều hoang biền biệt 

Một chiều rừng mưa được tin em gái mất chiếc thuyền như vỡ đôi 

Phút cuối không nghe được em nói, không nhìn được một lần 

Dù một lần đơn sơ để không chết người trai khói lửa 

Mà chết người em nhỏ hậu phương tuổi xuân thì.

Ôi ngày trở lại nhìn đồi sim nay vắng người em thơ

Ôi đồi sim tím chạy xa tít lan dần trong bóng tối 

Xưa xưa nói gì bên em một người đi chưa về mà đành lỡ ước tơ duyên 

Nói nói gì cho mây gió một rừng đầy hoa sim nên để chiều đi không hết.

Tím cả chiều hoang nay tím cả chiều hoang đến ngồi bên mộ nàng 

Từ dạo hợp hôn nàng không may áo cưới thoáng buồn trên nét mi

Khói thuốc bên hương tàn nghi ngút, bên mộ đầy cỏ vàng 

Mà đường về thênh thang, đồi  sim vẫn còn trong lối cũ 

Giờ thiếu người xưa ấy đồi hoang vẫn tiêu điều.

* Ca Khúc Đọc Tin Trên Báo:

Nhạc Sĩ Thanh Sơn là bạn tâm giao của Dzũng Chinh. Sau khi hay tin bằng hữu tử trận, Ông trằn trọc thâu đêm, nghẹn ngào nước mắt khóc bạn, sáng tác Đọc Tin Trên Báo với mấy lời ghi đầu bài hát: "Tưởng Niệm Thiếu Úy Nguyễn Bá Chính tự Dzũng Chinh đã yên giấc trên Những Đồi Hoa Sim ngày 1.3.69":

Hôm qua tôi đọc báo

Thấy tin anh ngã gục 

Phía trang sau chia buồn.

Lòng mình bỗng lạnh căm 

Xúc động đến dị thường. 

Xui đôi giòng lệ tuôn.

Tình bạn anh và tôi nay cách xa nhau rồi 

Hai đứa hai phương trời

Những ngày vui tắt lịm 

Bầu trời loang màu tím 

Như tiễn đưa linh hồn 

Một người vừa ra đi ! 

Anh ngã đi như bao anh hùng 

Không gian buồn não nùng, 

Hận thù trên tay súng 

Từ miền xa, mấy thằng trong bọn mình cũng nhận được hung tin.

Anh mất đi non sông kiêu hùng 

Quê hương lửa ngút trời thì còn tôi đi tới 

Giọt lệ rơi nức nở thương cuộc tình hai đứa mình ngăn đôi.

Hôm nay tôi đọc báo thấy đăng tin thắng trận 

Toán quân anh đứng đầu 

Lòng buồn bỗng chợt vui

Những người trẻ sau này noi gương hùng tranh đấu.

Chập chờn qua từng đêm trong giấc mơ mang về 

Anh báo tin tôi rằng: những người đi lính trận 

Một lần đi còn thiếu nhưng nước non thanh bình thì dù là bao nhiêu?!

3. ANH THY (1944 -73) 

5

Cùng gia đình di cư vào Nam năm 54. Tình nguyện theo binh chủng hải quân.

Trải qua những chuyến hải hành lênh đênh trên sóng nước, Ông sáng tác hàng chục bài hát về biển cả rất nổi tiếng, nhất là Hoa Biển, Lính Mà Em.

Tháng 4.73, chiếc xe dodge chở phái đoàn Tâm Lý Chiến thuộc Bộ Tư Lệnh Hải Quân đi từ Cam Ranh ra Quy Nhơn gặp tai nạn khiến Anh Thy tử thương. Tro cốt hiện cải táng tại Chùa Hoằng Pháp, Hốc Môn.

* Nhà Báo Nhật Hà ("Những Ngày Cuối Cùng của Nhạc Sĩ Anh Thy", dongnhacvang.com) ghi lại lời người em gái út của nhạc sĩ: Anh Thy là anh trai trưởng trong nhà, nhưng rất hiếu thảo. Làm lương bao nhiêu về đưa cho cha mẹ hết, kể cả tiền tác quyền âm nhạc của anh thời đó. Chính anh cũng đã xây nhà mới cho cha mẹ và chăm lo những đứa em nhỏ của mình ăn học. Khi anh qua đời đột ngột, hiền mẫu thất thần xỉu lên xỉu xuống một thời gian. Cả gia đình đều thương anh.

* Trong số mấy chục tác phẩm của Anh Thy, bài hát Đừng Gọi Anh Bằng Chú rất được giới trẻ ưa chuộng. Báo dantri.com, 12.4.17 thuật lại lời Bà Phạm Thị Nguyệt, em gái tác giả: Anh tôi viết ca khúc này lúc ngoài 20 tuổi. Tôi còn nhớ ngày đó anh nhận được rất nhiều thư ái mộ của các cô gái trẻ. Thậm chí còn ngồi trên ghế nhà trường. Thư gởi về nhiều quá, anh không thể trả lời hết, nhờ chị em tôi xem giúp. Khi ấy các cô cứ gọi anh bằng "chú" hay "đại nhạc sĩ". Đọc chồng thư làm tôi cũng buồn cười. Cũng vì điều này mà anh sáng tác bài Đừng Gọi Anh Bằng Chú với những ca từ thật dễ thương.

Em ơi đừng gọi anh bằng Chú 

Khi em em chín thơm hoa mộng 

Chưa vấn vương gì em lúc xuân thì còn anh mới đôi mươi.

Đừng gọi anh bằng Chú sợ ngăn cách đôi ta

Em làm công chúa nhé anh tráng sĩ hiên ngang 

Tung hoành trên bốn biển khi tàu anh trở về 

Quà anh sẽ cho em.

Xin em đừng gọi anh bằng Chú 

Ô hay sao Chú hay mơ mộng 

Sao Chú hay nhìn sao Chú hay cười 

Làm con bé bâng khuâng.  

Họ hàng ta chẳng có, tại sao giấu con tim

Sao gọi anh Chú lính, cho anh thấy không vui

Bao lần anh đã bảo, anh chỉ yêu áo vàng 

Thì em nhé đừng quên. 

Ông Chú ơi cô cháu thẹn thùng đôi môi 

Thôi nhé mình làm anh em

Nhưng đừng quên rằng em anh hay khóc đấy 

Ghét anh ghê khéo nịnh em quá thôi 

Nói gì thêm nữa đi.

Anh muốn em, em hãy giã từ thơ ngây

Em sẽ làm nàng Tiên xinh

Khi tàu anh về, em đi ra bến đón 

Nhớ nghe em chẳng còn ông Chú đâu 

Sẽ là anh với em.

Em không còn gọi anh bằng Chú 

Nhưng sao anh vẫn nghe chưa vừa 

Ông Chú bây giờ không muốn em là 

Người em gái anh đâu. 

Nhìn trùng dương dậy sóng, lòng mơ ước em anh

Yêu tàu xuôi bến cũ 

Yêu áo trắng anh mang 

Yêu vài câu hát buồn trong bài ca Hoa Biển 

Và yêu chỉ mình em...!!!

4. Y UYÊN (1940 - 69) 

6

Tên thật là Uy. Sinh quán tại Hà Nội. Di cư vào Nam 1954. Viết văn lúc mới 15 tuổi. Cọng tác với nhiều tạp chí văn học uy tín như Bách Khoa, Văn, Văn Uyển, Tân Văn...

Tốt nghiệp Sư Phạm Saigon. Dạy học ở Tuy Hòa. Theo lệnh động viên vào trường Võ Bị Thủ Đức.

Mất sớm nhưng để lại văn nghiệp tương đối phong phú gồm 6 tuyến tập truyện ngắn và một truyện dài.

* "Chiến Tranh Đi Qua Những Truyện Ngắn của Y Uyên", Nguyễn Lệ Uyên, vanviet.info:

Hầu hết những truyện Y Uyên viết đều bắt nguồn từ khi anh dạy học ở Tuy Hòa, thị xã nhỏ bé của duyên hải miền Trung giữa lúc chiến tranh đổ ập xuống nửa phần đất nước một cách khốc liệt nhất. Cái thị xã tí xíu mà anh đang sống, chẳng phải là một khu phi quân sự, một vòng đai an toàn mà là một lò lửa. Đạn  luôn nổ, người chết, nhà cháy, đồng khô, dân quê bồng bế nhau chạy trốn đạn lạc tên bay. Ngày Quốc Gia, đêm Cộng sản giành giật...Cuộc chiến quái gở ấy không phải chỉ có tôi và anh đánh nhau, mà một bên là được sự trợ giúp công khai, một bên là lén lút nhận vũ khí, quân trang quân dụng để "giương cao ngọn cờ chính nghĩa" đã đẩy người dân vô tội xô dạt bên này hay bên kia.

* "Tháng Giêng, Nhớ Y Uyên", Trần Hữu Thục, Văn số đặc biệt Thương Nhớ Y Uyên, nguoiviet.com:

"Y Uyên có phong cách viết rất riêng, điềm đạm, đôi khi như dửng dưng, nhưng đọc kỹ lại đậm đà chua xót".

Lê Bá Lăng, bạn văn, chung khóa Thủ Đức và cùng chiến đấu đã nói: "Y Uyên! Y Uyên! Tôi viết những dòng này trên bãi chiến trường. Không phải bãi tập ở Đồi Tăng Nhơn Phú, nơi mà chúng ta chung sống ít tháng ngày ngắn ngủi. Ở đây là khu rừng thưa, lúc này là lúc thần kinh căng thẳng vì đợi chờ những viên đạn địch hung hãn, những tiếng reo hò man rợ. Lòng tôi trùng xuống. Tôi gọi tên anh và thầm hỏi: tôi còn mùa hoa nào chờ anh cưới vợ? Chờ anh lập nhà xuất bản? Chờ anh ra báo? Chờ anh cất tiếng gọi anh em? Có còn mùa hoa nào, hỡi Y Uyên..."

* Trần Phong Giao, Thư Ký Tòa Soạn Văn nói về cái trớ trêu trong số mạng của Y Uyên: "Lộ xỉ, lộ hầu, tướng đi không chắc bước...tay này chết yểu", một nhà văn lão thành đã nói bâng quơ như thế, khi cụ nhìn theo Y Uyên vừa bước ra khỏi cửa tòa soạn. Nghe vị túc nho nọ nói mà tôi bỗng rùng mình. Lúc đó Y Uyên đang thụ huấn trong quân trường. Tôi có nói với vài chỗ quen biết nhờ lưu ý kéo cho hắn đi ngành và được trả lời là cứ yên chí (...). Ít lâu sau, chúng tôi hay tin là quân đội đã chiếu cố tới hắn. Một bưu điệp đã được  gởi ra tiểu khu nơi hắn trú đóng, cho hắn nộp đơn xin thuyên chuyển về Saigon. Chờ lâu chưa thấy hắn về, một nhà văn bạn lại xin với thượng cấp cho hắn đặc cách thuyên chuyển về thủ đô. Tôi được tin văn hữu nọ đã lo xong mọi thủ tục cần thiết (việc gọi Y Uyên về Saigon chỉ còn là thu xếp trong vòng vài ngày), ngay sau đó một cú điện thoại khác báo Y Uyên chết từ chiều hôm trước. "Trả lời người bạn văn tôi vẫn cố giữ lấy giọng bình tĩnh: Cảm ơn Anh. Có điều muộn mất rồi vì Y Uyên đã tử trận". (...)

"Như mọi người, anh bạn không tin là Y Uyên đã chết. Anh chỉ tin điều đó vào sáng hôm sau, khi anh mặc quân phục vào, cùng với mấy quân nhân khác đặt tay qua sợi dây chão, từ từ thả chiếc quan tài bọc xác Uy xuống sâu trong lòng đất lạnh".

Nhà Văn Nhị Linh cho rằng "cái chết của Y Uyên được nhiều người coi là rất đen đủi, vì ở thời điểm đó, gần như đã có quyết định thuyên chuyển anh về nơi "an toàn" hơn.

* "Nhớ Y Uyên", Trần Phong Giao, vanviet.info:

Mãi cho tới hôm Uy mãn khóa, về chơi nhà tôi, ngật ngưỡng nốc cạn ly cognac, chậm rãi ngã lưng vào thành ghế bành, rồi mới khặc khừ, "em đi địa phương quân anh ạ". Tôi bảo hắn, nếu được chọn, chọn ngay vùng I cho tôi nhờ. Ít bữa sau, hắn ghé báo quán, cho biết được đi Côn-lôn, nhưng lại tình nguyện xin về Bình Thuận. Tôi xô ghế đứng lên, nói như quát: "Cậu quên lời tôi dặn rồi à?". Hắn nhìn tôi, ấp úng nói: "Tôi...tôi có duyên nợ với vùng duyên hải Trung Phần lắm mà anh..."

- Duyên nợ ? Hừ, duyên nợ cái mốc xì ! Dại gái, hầu hết nếu không muốn nói tất cả những thằng con trai mới lớn đều dại gái. Tôi đã nghĩ về Y Uyên như vậy khi nhìn theo hắn leo lên chiếc xe "lam" ngừng bên mé đường rước khách...

Kỷ niệm của tôi về Y Uyên thật ít (vài lần dẫn nhau đi ăn nhậu, đánh bài, du hí, vài lần hắn đi phép ghé nhà tôi "tắm một cái rồi thay đồ...vào trường cho  khỏe"...có đáng gọi chăng là kỷ niệm?). Nhưng tôi thật tình quý mến Y Uyên.

* "Núi Tà Dôn và Dấu Chân Uy", Lê Văn Chính, vanviet.info:

Trung Úy Q, người chỉ huy trận đánh và cũng là đại đội trưởng của Uy cho biết: Uy chết ngay loạt đạn đầu tiên vì bị phục kích. Cả tiểu đoàn Việt Cộng đào hầm độn thổ từ trước. Với gia đình bè bạn, với văn học Việt Nam, anh chết đi là một mất mát lớn lao. Còn với đại đội 784 địa phương quân thì đây là một chiến thắng, địch để lại hơn 40 xác chết, bên ta chỉ có một chuẩn úy và một binh sĩ hy sinh.

Y Uyên sau khi chết rồi còn bị bắn bồi mấy phát súng ở mắt, tai, đâm thêm mấy nhát dao vào hai cánh tay và hai bên hông. Những người cộng sản Việt Nam đã làm lắm điều dã man như thế, khởi đi từ lòng thù hận và cuồng tín. Từ đó chúng ta có một nhận thức mới, họ mù quáng trong khi chiến đấu, họ không mảy may hiểu về những căn nguyên của cuộc chiến tương tàn này.

5. TRẦM KHA (1948 - 74) 

7

Cố HQ Đại-Úy Nguyễn Văn Đồng (truy-thăng sau Hải-Chiến Hoàng-Sa)

Tên thật Nguyễn Văn Đồng. Khóa 25 Võ Bị Dalat.

* "Tiếc Nhớ Anh Trầm Kha", HT Nguyễn, vietquoc.org, 17.1.76:

Sáng hôm ấy, đang tắm thì nghe tiếng Bà Nội từ ngoài cổng vào, vừa khóc vừa nói: " Anh Đồng mi chết rồi".

Bố chạy ra thì anh lính báo miệng nói rõ anh Đồng hy sinh hôm qua 19.1.74 ở Hoàng Sa, thi thể đưa về quàn tại Tổng Y Viện  Duy Tân. Gần trưa, Mẹ hay tin, vứt cả quang gánh, bỏ buổi chợ chạy về nhà khóc con. Hàng xóm ra vào thăm viếng chia buồn. Cả nhà buồn bã ngóng chờ.

Trưa hôm sau, 29 Tết, xe đưa  anh về nhà. Tiếng khóc vang.

Buổi tẩm liệm bắt đầu. Trung Tá Thông, Giang Đoàn Trưởng Giang Đoàn 32 đọc diễn từ truy điệu và thừa ủy nhiệm Tổng Thống gắn lon truy thăng Đại Úy, truy tặng Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương và Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu.

Hai bên quan tài có 6 người lính quân phục chỉnh tề đứng nghiêm trang.

Trung Úy Phú, bạn chiến đấu trên Hải Quân 5 kể lại: Lúc cuộc đụng độ nổ ra, Anh Đồng là Sĩ Quan Trưởng lớn nhất của tàu Hải Quân 5 Trần Bình Trọng. Anh chỉ huy bắn cháy tàu Trung Cọng, và cũng bị bắn trả dữ dội. Khoảng 11 giờ, chiến sự trở nên ác liệt, Anh hét to cho thuộc cấp nghe: "Đừng hoảng sợ. Có chết tao chết trước". Vừa dứt lời thì một phát đạn trúng pháo tháp, Anh ngã xuống cùng người lính xạ thủ. Đến chiều tối tàu được lệnh quay về Đà Nẵng.

Đêm hôm đó mọi người có mặt đều không ngủ.

Sáng hôm sau, 30 Tết, lễ di quan đưa Anh về nơi an nghỉ cuối cùng.

Năm 1968, Anh là sinh viên Trường Luật, tham gia Thanh Niên Thiện Chí, có sáng tác thơ văn. Khi vào Võ Bị Dalat, Anh cũng là cây bút sung sức viết nhiều cho Tập San Đa Hiệu và các Tạp Chí văn nghệ khác với bút hiệu Trầm Kha. Anh đã chuẩn bị xong Tập Thơ Đông Phương nhưng chưa kịp in ấn để xuất bản. Sau năm 75 thì bản thảo bị thất lạc.

Xin trích dẫn một bài thơ của Anh: Khi Thanh Bình Trở Lại  

Có một sớm tôi mơ thanh bình trở lại,

Trên môi người tình bừng giọt nắng reo vui, 

Trong mắt Mẹ rỡ ràng đồng lúa mới,

Trĩu hạt vàng óng ánh giữa ban mai.

Tôi sẽ rút phăng gươm chém cổ chai rượu mạnh 

Mời bạn bè say uống mềm môi 

Tôi sẽ đốt những cánh đồng rơm khô đã ải 

Cháy bừng bừng trên khắp cõi miền Nam

Mời mọi người, mời tất cả anh em

Cùng hít thở khói quê hương ngào ngạt 

Trước khi xuôi chuyến tàu Nam Bắc 

Đem thanh bình tặng quyến thuộc ngoài kia. 

Tôi sẽ chẳng mang theo hành lý, Ngoài những bài thơ ca tụng tình người 

Cho bà mẹ khóc đón con trở lại 

Cho vợ hiền tức tưởi đợi chồng về 

Cho cô gái ngỡ ngàng vui duyên mới, 

Cho trẻ thơ mừng rỡ được gần cha

Tôi sẽ đến từng nhà chung vui ngày mở hội 

Tặng bà con những cái nắm tay nụ cười thân ái. 

Cùng mọi người ca hát vui say

Khúc hoan ca ngây ngất

Lời tự tình Việt Nam thống nhất 

Đang dạt dào trong núi đá rừng cây.

Tôi sẽ nhận người làm anh em

Đi xây những cây cầu đã sập

Những ngôi nhà đổ nát

Những thành quách điêu tàn.

Tôi sẽ mời anh tắm lại dòng sông

Không còn máu, không còn biên thùy ngăn cách 

Trước khi cùng anh đi thăm những người đã chết,

Thắp cho nhau nén hương lòng muôn đời không tắt

Tưởng nhớ bạn bè xấu số vội ra đi.

Sau hết từ giả mọi người 

Tôi về chung vui với người tình nhỏ 

Trong mái lá đơn sơ

Cùng người yêu mở một mùa hội mới 

Uống chén rượu đào đón xuân trở lại 

Tôi sẽ kể em nghe

Suốt quãng đời tôi mang tuổi chiến binh.

6. DOÃN DÂN (1938  - 72) 

8

Nhà văn Doãn Dân

(HS. Nguyễn Trọng Khôi vẽ)

Tôi gặp anh Doãn Dân lần đầu tiên vào mùa Hè 1968. Lúc bấy giờ anh làm ở Bộ Chỉ Huy Sư đoàn tại Qui Nhơn và chẳng biết nhân dịp nghỉ phép hay đi công tác mà anh và Nguyễn Kim Phượng lái xe jeep vào Tuy Hòa mang luôn Trần Hoài Thư, Trần Huiền Ân, Thế Vũ... vào thẳng Nha Trang. Khi Nguyễn Kim Phượng giới thiệu anh với tôi, tôi cảm động cầm tay anh. Là bởi nhiều năm trước tôi có đọc mấy truyện anh đăng Bách Khoa, tôi yêu cái không khí lãng đãng nhẹ nhàng, cái uyển chuyển ngập ngừng rất tinh vi trong truyện anh. Khi viết những dòng này, tôi lười không lật ra những chồng Bách Khoa cũ để đọc lại, mà chỉ hồi tưởng cái cảm giác êm ả dịu dàng tôi đã cảm thấy lúc xưa.

Gặp gỡ nhau, chúng tôi cùng dự chung những bữa ăn vui vẻ, trong đó có mặt hầu hết các thân hữu ở Nha Trang. Tôi còn nhớ có một bữa ăn do tòa soạn Đất Sống của anh Lê Minh.

Tác phẩm của Doãn Dân hình như chưa được thưởng thức đúng mức của nó. Nguyên do có lẽ vì anh không chịu xếp đặt một cốt chuyện thật lôi cuốn, hấp dẫn, sử dụng mọi yếu tố gay cấn, bất ngờ để kích thích độc giả. Chắc không ai nỡ nghĩ rằng anh không xây dựng nổi một cốt truyện hấp dẫn như vậy. Mọi trí óc bình thường đều có đủ khả năng để thêu dệt nên những truyện lâm ly, huống chi Doãn Dân có thể mượn một vài cốt truyện ngoại quốc thật hay, pha chế 

Bị pháo kích mất xác khi đang đi hành quân từ Quảng Trị vào Huế. Binh sĩ đồng đội chỉ nhặt được cái ví, cây bút, chiếc đồng hồ và mấy tờ bản thảo. 

Đã xuất bản 4 Tuyển Tập Truyện Ngắn: Cái Vòng, Chỗ của Huệ, Bàn Tay Cho Yến, Tiếng Gọi Thầm.

* Nhận Định của Nguyễn Vy Khanh: nói về tác phẩm của Doãn Dân, nhà biên khảo này nêu ý kiến: người đọc nhìn thấy nhiều độc thoại trong truyện của Ông cùng những nhớ lại, tưởng tiếc, hối hận. Ngôn từ của tác giả khiến người đọc rung động đến tận đáy tâm thức nguyên sơ, đượm nhiều chất thơ mà không gian truyện cũng đầy thi vị.

* Chỗ Nào Cho Doãn Dân", dutule.com, 2.4.16:

Những người hiện diện hôm đó, tôi nghĩ chắc khó quên một Doãn Dân với khuôn mặt vuông, cằm bạnh, lưỡng quyền cao, trán lớn và bóng, với chồng sách còn ướt mực in trên tay. Anh nâng niu từng cuốn, tặng từng người. Anh say sưa với giọng đục và  (như) nằm ngang về những gian nan của cuốn sách. Về cái tình của chủ nhân Nhà Huyền Trân, người mà Doãn Dân coi như ân nhân của mình trong nổ lực để "Chỗ Của Huệ" ra đời đúng với ý nguyện tác giả.

* "Nhà Văn Doãn Dân, Phận Đời Nghiệt Ngã", trachcamlo.blogspot, 10.1.21: 

9

Nguyễn Đình Hiếu, Lê Văn Trạch, Trần Hoài Thư và 5 người con gái của nhà văn Doãn Dân. Ảnh Thiên Kim.

Sự ra đi của Đại Úy Trần Doãn Dân như cơn bão ập xuống gia đình, một mất mát quá lớn, gây hụt hẫng trống vắng trong lòng mọi người, nhất là 5 cô con gái còn rất nhỏ, cháu lớn nhất 11 tuổi và bé út mới lên 3 !!!

Mặc dù Nhà Văn không còn trên cõi đời này, nhưng các con Ông có cảm nhận sâu sắc về sự "truyền thông" từ hai phía. Ông luôn có mặt bên cạnh để giúp các con khi gặp những bất trắc hay vấn đề khó khăn. Chính Nhà Văn Trần Hoài Thư cũng xác nhận sự hiến linh này đã cứu ông thoát nạn khi chiếc xe quay vòng rồi đâm vào ụ tuyết trên đường đến thư viện Cornell để tìm bài viết "Bàn Tay Cho Yến". Có thể Ông ra đi trùng giờ thiêng, nên thần thức rất linh, như Ông đã về báo mộng cho gia đình khi nằm xuống ở Đại Lộ Kinh Hoàng. 

10

Buổi tưởng niệm và ra mắt sách được tổ chức tại studio Trương Vũ, Vienna (VA)

cuối tháng 4/2022 - Ảnh: Nguyễn Đình Hiếu

Trong "Bàn Tay Cho Yến", Doãn Dân viết: "Ngày nay, sự sống, chết đâu có báo trước cho ai. Người ta chết, thình lình trong khi đang ngồi coi hát. Chết giữa lúc thong thả dạo chơi ngoài đường. Chết vô lý ngay cả trong khi đang ăn, đang ngủ...Vậy thì, nếu anh chết ngoài mặt trận tức là được chết trong một hoàn cảnh hợp thời, hợp lý, sao lại không thể xảy ra?"

 

No comments:

Post a Comment