Wednesday, April 17, 2019

20190418 Bản tin biển Đông


20190418 Bản tin biển Đông


Report: China still harvesting organs from prisoners at a massive scale



TRỊNH CÔNG SƠN, NGƯỜI BẠN, KẺ ĐỐI NGHỊCH
kim thanh
nguyễn kim quý
Niên khóa 1959-60, tôi lên lớp Terminale (lớp Tú Tài 2) ở trường Jean-Jacques Rousseau, Sài Gòn. Lúc ấy, trường này không mang tên Chasseloup Laubat nữa, như một ông tác giả nào đó còn gọi lộn.
Lớp học là một phòng riêng biệt nằm ở góc đường Công Lý và Hồng Thập Tự, gần dinh Độc Lập. Trong lớp Terminale, ban Philosophie, có một số học sinh cũ từ dưới lên, có một số ở các trường ngoài vào, hoặc "học nhờ". Lớp Philo của tôi năm đó có sáu cô từ Marie Curie, hay trường các bà sơ Pháp Regina Pacis, Regina Mundi, vào "học nhờ", chiếm hẳn ba bàn học, mỗi bàn ngồi hai cô nàng, xếp liền nhau, trong sáu cô nàng đó bây giờ tôi còn nhớ ba, là Nguyễn Thiếu Nga (nhí nhảnh, dễ thương, sau đi Mỹ học, bây giờ không biết ra sao, nếu tình cờ đọc được bài này, làm ơn lên tiếng nhé, bà Nga!), Caroline (mà tên Việt tôi quên mất, vui tính, lúc nào gặp cũng cười, và bọn con trai cứ gọi đùa là Caroline chérie, theo tựa đề một quyển sách Pháp), và Nhung (tôi quên họ, hiền thục, ít nói, luôn mặc áo dài xanh hoặc trắng đi học).
Trịnh Công Sơn là học sinh từ ngoài vào Jean-Jacques Rousseau học Philo, tôi chẳng rõ từ đâu tới mà cũng chẳng bao giờ hỏi. Lần đầu, các học sinh chọn chỗ ngồi, đâu vào đó rồi, không ai được thay đổi nữa, vì các thầy cô muốn vậy để dễ nhận diện, như thế cho đến hết năm học. Sơn đeo kính cận, gọng đồi mồi lớn, mặt mày, râu ria, và dáng dấp gầy gầy giống tôi, nên các thầy cô, nhất là Monsieur Pezeu, thầy Sử-Địa (Histoire-Géographie), một giáo sư vào tuổi sồn sồn (nổi tiếng dê cụ, nghĩa là lúc giảng bài cứ hay đưa mắt dòm dòm về phía các cô cười cười), thường lẫn lộn Sơn với tôi. Nhiều lần Pezeu gọi lên khảo bài, tên thì gọi đúng của tôi, nhưng ông hất hàm, đưa mắt nhìn Sơn, hoặc ngược lại, gọi Sơn mà cứ đăm đăm ngó tôi, khiến hai đứa bối rối, nhìn nhau, tự hỏi không biết đứa nào sẽ phải "hy sanh", và có khi tôi, có khi Sơn, nếu hôm đó đứa nào thuộc bài, tự nguyện đứng lên bục trả lời thay cho đứa khác. Rủi là hai đứa đều kém Sử Địa một cách tệ hại giống nhau, nên điểm đứa nào cũng dưới trung bình. Tôi nhớ một lần, lên "hy sanh" cho tôi, bị hỏi một câu về Géo (Địa) khó quá, Sơn đứng như trời trồng, nhìn Pezeu cười trừ, vẻ rất ngây thơ vô tội, và bị ông thầy phết cho con 03 (trên 20), nhưng khổ một nỗi đó là điểm mang tên... tôi. Biết thế, nhưng chả đứa nào cải chính, vì hai đứa đều dốt và ghét Sử-Địa ngang nhau. Đó có lẽ là kỷ niệm duy nhất tôi có về Sơn.
Trịnh công Sơn, một trong những kẻ từng to mồm: "nối vòng tay lớn..."
đón giặc cộng vào chiếm phá miền Nam (VNCH)
Trong lớp Philo năm đó, có khoảng 40 tên. Ngoài Trịnh Công Sơn, tôi nhớ còn Nguyễn Văn Hòa, con của một giáo sư trung học (thầy Kính?) tắm biển chết ở Vũng Tàu. Hòa trẻ nhất, nhưng học giỏi nhất lớp, nhất là môn Triết, thường đến bắt chuyện, hỏi thăm tôi một cách rất tử tế. Có Vương Quang Sơn, con của Bác sĩ Vương Quang Trường, cháu của Luật sư Vương Quang Nhường, thủ lãnh Luật sư đoàn, gia đình vọng tộc nổi tiếng vào thời ấy; Sơn Vương này cũng đeo kính cận, hình như không biết nói tiếng Việt. Có Lê Hoàng Ân*, bạn khá thân, mà lúc đầu tôi tưởng lầm là tên của ông tân Tổng lãnh sự Mỹ tại Việt Nam, Lê Công Ân. Có Dương Sơn Trường luôn ngồi chung với Nguyễn Trung Tâm, không biết cả hai bây giờ ở đâu*. Có Trương Cam Hiển, không biết có liên hệ gì với các cụ Trương Cam Vĩnh, Trương Cam Khải hiện ở Mỹ không. Có ba anh Tây con, mà tôi chỉ nhớ hai: Claude Desboeufs (Desboeufs có nghĩa "của những con bò", đúng ra phải đọc là Đề-Bơ, khi boeuf (bớp) ở số nhiều, nhưng chúng tôi muốn chọc anh ta gọi là thằng Đề Bớp, anh ta bực lắm, và Alain Bui (đọc là Bui, chứ không phải Bùi), Tây chính cống, đẹp trai, dễ thương, chơi thân. Những người bạn học này, tôi không biết tin tức gì từ ngày rời trường, năm 1960, tức đã đúng nửa thế kỷ rồi.
Có ba người tôi biết tin chính xác. Đó là:
1) Hoàng Văn Kim, rất đẹp trai, trắng trẻo, người Bắc. Năm 1963, tôi về Nha Trang dạy học, thì bất ngờ gặp Kim đang là SVSQ tại Trung tâm Huấn Luyện Không Quân. Về sau, lúc tôi ra Thủ Đức, về đơn vị ở Ban Mê Thuột, Kim trở thành phi công lái khu trục A37 và năm nào đó, Kim lái biểu diễn tại quân trường Thủ Đức nhân dịp Nguyễn Cao Kỳ chủ tọa một buổi lễ lớn. Theo báo chí, máy bay của Kim đâm xuống đất sâu mấy thước. Khi TCS viết bản nhạc "Cho một người nằm xuống" (Anh nằm xuống sau một lần đã đến đây...), tôi cứ tưởng anh ta làm để tưởng niệm Kim, một bạn học cũ. Nhưng nghĩ lại Sơn không chơi thân với Kim hay bất cứ ai trong lớp bèn thắc mắc không biết đối tượng là ai, cho đến sau này, qua cô ca sĩ "mùa chay nào cũng có nước mắt" mách trên sân khấu mới rõ là ông cố chuẩn tướng Lưu Kim Cương, người đã chứa chấp cho Sơn trốn quân dịch và Sơn khóc để trả ơn.
2) Phan Quang Tuệ, con của Phó Thủ tướng Phan Quang Đán, hiện là thẩm phán Di trú tại San Francisco . Tuệ lúc còn ở trường chơi với tôi, tính tình dễ thương, thường nói chuyện qua lại, giọng của Tuệ hình như là Nghệ An, Hà Tĩnh lai Huế. Mấy năm trước, chị Kiều Mỹ Duyên cho tôi số điện thoại làm việc hay cell của Tuệ, tôi gọi mấy lần không được*.
3) Trần Quý Phong, con nhà giàu, chủ khách sạn Catinat và Đêm Màu Hồng, sau này trở thành dân biểu VNCH. Từ lâu tôi nghe tin ai nói, và đinh ninh, rằng Phong đã chết trong ngục tù cải tạo. Nhưng cách đây mấy tháng thôi, tôi đọc trên báo một bài tường thuật lễ kỷ niệm nào đó ở vùng DC hay Virginia, có nhắc rõ ràng tên "cựu dân biểu Trần Quý Phong" tham dự. Tôi dụi mắt, đọc lại cho kỹ. Té ra anh ta còn sống, mừng lắm! Không lẽ trước đây có hai ông dân biểu Trần Quý Phong? Dĩ nhiên, tôi không biết gì thêm nữa qua bài báo tình cờ được đọc ấy. Lúc còn học, Phong đôi khi quên làm bài philo ở nhà. Trước giờ nộp bài, Phong rủ tôi ra "gánh" kem trên lề đường Hồng Thập Tự, trước cổng trường, đãi tôi một ly, rồi mượn bài philo của tôi, chép lại tại chỗ. Tôi dễ dãi, vì còn kẹt ly kem, nhưng cũng thòng một câu: "Nhớ đừng chép nguyên văn nghe không toa." Cũng may thầy Lê Văn Hai, giáo sư Philo, có lẽ không đọc bài, nói chi sửa bài, mà cứ nhắm mắt cho điểm, không ghi một lời phê dù nhỏ nào, đứa nào cũng vừa đủ trung bình (trừ bài của Nguyễn Văn Hòa luôn luôn trên 16), cho nên bài của tôi và của Phong gần như sao y bản chánh, mà tôi (khổ chủ, tác giả) được 10, Phong (chép viên) lại được 12*.
Thầy Hai là agrégé (không phải thạc sĩ) Triết, tốt nghiệp École Normale (trường Sư phạm Pháp), như Sartre, người gầy thấp. Ông giảng (hay đúng hơn, đọc) bài bằng tiếng Pháp, dĩ nhiên, miệng chúm lại, như bị hô, những tử âm gió (consonnes sifflantes, s, z, ch, v.v...) bay ra vù vù (giống như TNS McCain nói tiếng Anh, quý bạn để ý nghe lại). Khi đọc, ông bỏ kiếng trắng, nhưng thỉnh thoảng nghe đứa nào nói chuyện to quá, ông nổi nóng, vội chụp kiếng đeo lên, nhìn chòng chọc thủ phạm, mắng chửi một hồi, rồi cúi xuống đọc tiếp. Không bao giờ thầy cười hay nói chuyện với học trò. Xong lớp, ông biến đâu mất. Còn thầy dạy Physique-Chimie (Lý Hóa) là một ông già béo phệ, Monsieur Breton, quanh năm suốt tháng chỉ đóng một bộ complet xanh nhạt, dính đầy bụi phấn, hình như không bao giờ giặt. Dạy Lý-Hóa mà mới bước vào lớp ông đã thao thao bất tuyệt ngay, nói không người lái, như đọc thuộc lòng, hồn ai nấy giữ, chả đứa nào "nắm" (tiếng VC) được cái gì. Ông hiền lắm, nên học sinh phá, có đứa khi thực tập thí nghiệm hóa học, vô tình hay cố ý pha trộn hóa chất bậy bạ, ống thủy tinh nổ, làm giật mình, lúc ấy ông mới lớn tiếng thôi, và gọi ông Tây Tổng giám thị rất hắc ám, người Corse, có nickname là Bù Lệt, vào chửi giùm và cho hình phạt. Còn bà dạy Khoa Học (Sciences Nat), Madame Cervetti, đẹp, hiền, năm nào cũng mang bầu bự. Mỗi lần thực tập mổ nghiên cứu chuột, ếch, v.v... mấy anh nam sinh trời đánh, cứ xách chuột nhát các cô "học nhờ" khiến các cô hoảng hồn, la ơi ới. Dạy Sử Việt Nam thì có thầy Nguyễn Văn Ban, mỗi tuần vào lớp mở sách ra đọc rào rào đủ một giờ, rồi "dọt". Thầy dạy Việt văn là ông Tôn Thất Dương Kỵ, mà sau này tôi mới biết là cán bộ Việt Cộng, bị tướng Nguyễn Chánh Thi trục xuất qua bên kia Bến Hải cùng với hai người khác. Khi học Việt ngữ, mỗi tuần một lần, tất cả các lớp, đều tụ lại học chung trong một phòng lớn, nghe thầy Kỵ đọc một bài văn tiếng Việt rồi bản dịch ra tiếng Pháp của chính ông, và ngược lại. Chả đứa nào phải làm gì, nhưng không trốn học được, vì ông Bù Lệt lù lù đứng đó.
Sở dĩ tôi kể tên một vài thầy cũ, nay chắc đã chết cả rồi, và bạn cũ, chẳng phải để khoe mẽ gì ráo, nhưng chẳng qua tôi có cái tật nói có sách mách có chứng. Lý do thứ hai, tôi muốn những người bạn cũ đã mất liên lạc nếu đọc bài này biết tôi còn sống nhăn đây, cũng chẳng để làm gì, chỉ muốn cùng nhau ôn kỷ niệm, khi bóng đời đã xế. Thế thôi.
Trở lại Trịnh Công Sơn. Anh ta rất đơn độc, suốt niên học không nói chuyện với ai, trừ tôi ngồi cạnh, nhưng cũng chỉ thỉnh thoảng thôi, để hỏi bài vở. Ít nói, không thân thiện, nhưng không làm phiền ai bao giờ. Trái lại, tôi thấy vẻ ngoài Sơn dễ thương. Xong các giờ học, không thấy anh ta đâu nữa. Riết rồi chẳng ai còn nhớ sự hiện diện trong lớp của Sơn. Tôi nghĩ bây giờ những người học lớp Philo năm đó, không chắc có ai còn nhớ đến Sơn, trừ sau khi đọc bài này của tôi. Lúc ấy, tiếng tăm của Sơn chưa nổi. Sơn sinh hoạt tại Jean-Jacques Rousseau như một bóng mờ. Khi đọc báo nghe biết anh soạn nhạc từ thời đi học, tôi rất ngạc nhiên, vì ít ra suốt thời gian còn ngồi cạnh nhau, tôi không hề thấy anh trong lớp viết lén nhạc hoặc ca âm ỉ trong miệng, trái lại học hành chăm chỉ, đôi khi tay chống cằm lơ đãng nhìn ra phía đường Công Lý, dập dìu xe cộ.
Niên học của tôi cũng là năm đầu tiên chính phủ Pháp áp dụng thủ tục mới thi Bac II: thi hai lần, không có vấn đáp. Tháng 4 thi đợt đầu, hai tháng sau, đợt hai, tại khuôn viên trường Marie Curie. Điểm số của hai đợt được cộng lại để lấy trung bình cho đậu hay rớt. Cũng như với Bac I, bài thi từ Paris gửi đến qua Tòa đại sứ Pháp Sài Gòn. Tôi được đậu, nhờ bài Triết (số điểm ấn định cho môn này là 40 thay vì 20 cho các môn khác) mà tôi đầu tư vào tối đa, vì tôi biết mình kém về các môn khác, chủ trương "được ăn cả ngả về không", như hiện giờ thỉnh thoảng đánh phé tố láng (all in) với bạn bè, em út. Năm đó, Trịnh Công Sơn, tôi dò đọc, không thấy tên trên bảng vàng. Và anh biến mất khỏi trường, khỏi trí nhớ tôi.
Chuyện về Trịnh Công Sơn và bài viết của tôi có thể kết thúc tại đây. Nhưng thời gian phục vụ tại trường Đại Học CTCT Đà Lạt, một đêm nào, tôi đi lang thang, tắp vào một quán cà phê, Tùng hay Domino (?), bất ngờ gặp lại Trịnh Công Sơn đang trình diễn nhạc ở đấy. Sơn không nhớ tôi, phải nhắc trường JJR, Monsieur Pezeu và chuyện "hy sanh" trả bài Histoire-Géo cho nhau, Sơn mới "à" ra, cười thành tiếng -điều rất hiếm hoi. Sơn còn nhái giọng nói của Pezeu khi gọi tên hai đứa: Ngu-y-en-Kim-Ky và Chin-Kông-Xon. Tôi cũng cười. Vì không khí ồn ào và Sơn bận tíu tít, tôi từ giã ra về, sau đó lòng thấy dửng dưng không buồn, không vui, bởi vì cả hai không thân nhau. Rồi ngày 30/4/1975, trong lúc đất nước hấp hối, và quân trường CTCT vừa mới tan hàng, tôi và tất cả quân dân Miền Nam nghe trên radio tiếng hát của Sơn, trong bài "Nối vòng tay lớn". Hát rồi nói, nói rồi hát tiếp, lặp đi lặp lại, giọng mỗi lúc một to hơn: "Hôm nay ngày vinh quang của dân tộc, ngày này chúng ta đã mong đợi từ lâu, mời các bạn văn nghệ sĩ hãy về đây cùng ca với chúng tôi Nối Vòng Tay Lớn, vòng tay của anh em, của tình thương, của bẻ gẫy xích xiềng, của chống Mỹ, của diệt Ngụy." Tôi ngỡ ngàng, đau xót, tức giận, buột miệng chửi thề: "Salaud, thằng khốn nạn!" Trên đường Lê Văn Duyệt về nhà, thấy những chiếc xe tăng đầu tiên chở lúc nhúc những "sâu bọ" và những "đàn bò vào thành phố" (câu của TCS), tôi nghẹn ngào, nước mắt chảy quanh. Đọc trên báo, thấy có người "quốc gia phe ta" lên tiếng bênh vực hành động này của Sơn (ví dụ, Sơn bị bắt buộc), nhưng lập luận của họ quá ấu trĩ, không thuyết phục nổi ai. Những tài liệu tôi đọc được chứng minh rằng anh ta là VC nằm vùng thứ thiệt từ lâu. Nhưng đây không phải là chủ đích bài này.
Rồi năm 1989, tôi đang ở Paris. Cô cháu gái tôi từ Việt Nam trở về. Cháu khoe với tôi, có ông nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đi cùng chuyến Air France, mang theo nhiều bức tranh, "bị cảnh sát phi trường Orly chận hỏi, ông ta cãi lại, bằng tiếng Pháp, cũng lưu loát lắm." Tôi nói, "ông đó học cùng lớp với cậu ở trường Jean-Jacques Rousseau Sài Gòn trước kia." Cháu reo lên, "hèn gì ổng nói giỏi tiếng Pháp." Quả vậy, năm đó, Trịnh Công Sơn đến Paris để triển lãm tranh, hay trình diễn ca nhạc gì đó, dưới sự bảo trợ của tòa đại sứ VC. Dĩ nhiên, còn lâu tôi mới đi tìm gặp anh ta, xem tranh, hay nghe hát. Trịnh Công Sơn, một người bạn học cũ, đã chết trong tôi như một kẻ đối nghịch, một đứa phản bội, ăn cơm quốc gia thờ ma Cộng sản, kể từ ngày 30 tháng 4, 1975, trước khi chết thật, vào năm 2001.
Những người yêu nhạc Trịnh Công Sơn ca tụng nhạc của anh hay, lời óng chuốt như thơ, gọi anh là “phù thủy của ngôn ngữ”. Tôi không nghĩ vậy. Tôi không rành về nhạc, nhưng có thể nói mà không sợ sai rằng nhạc Trịnh Công Sơn trung bình, đơn điệu (monotone), tẻ nhạt quá, bài nào cũng một âm giai, nghèo nàn, buồn rầu, nghe là biết của anh liền, so với những ca khúc của Phạm Duy, phong phú, biến đổi (varié), mỗi bài mỗi khác, hay của Đặng Thế Phong, đặc biệt Văn Cao nghe sang cả, cổ điển, cung điệu trầm bổng, thay đổi ngay trong cùng một bài, như "Thiên Thai" hoặc "Bến Xuân".
Còn lời ca? Những chữ như rong rêu, sỏi đá, ghế đá, đá xưa, đá ngây ngô, hòn cuội, công viên, sâu bọ, kiếp người, hư vô, tiền kiếp, cát bụi, hóa kiếp, trần gian, hiện tại, xa lạ, một ngày như mọi ngày v. v... đều là những nhóm chữ lấy từ những bài học Triết dựa trên tác phẩm của Sartre, như La Nausée (Buồn nôn), và Camus, như L'Étranger (Kẻ xa lạ), chẳng hạn, mà Trịnh Công Sơn đã dịch ra và được thấy nhan nhản trong Sáng Tạo của lớp nhà văn, nhà thơ hiện sinh mới. Chả có gì mới mẻ đối với văn học sử Pháp và chúng tôi, thuộc lớp Philo tại Jean-Jacques Rousseau đầu thập niên 60.
Tại Qui Nhơn năm nào, sau một cuộc hành quân trở về, tôi cùng với anh hạ sĩ tài xế vào một tiệm kem, chuyên chơi nhạc Trịnh Công Sơn. Tôi đến quán ấy không phải để nghe Trịnh Công Sơn, mà để ngắm cô chủ tiệm có mái tóc thoảng mùi hương bưởi, nước da trắng bóc và đôi mắt tình không chịu nổi. Lúc ấy, trong băng cassette, Khánh Ly đang hát bài "Ru mãi ngàn năm". Đến câu "bàn tay em năm ngón ru trên ngàn năm..." anh tài xế nói nhỏ với tôi: "Ông thầy có nghe không? Bàn tay em nào chả năm ngón, ông nhạc sĩ này thiệt kỳ, còn nếu bàn tay em nào có sáu ngón thì làm sao đây, phải chặt một ngón đi chăng?" Anh ta không biết rằng, bàn tay năm, sáu ngón ấy, hay ngón tay nói chung, Trịnh Công Sơn lấy từ một bài thơ của một ông thi sĩ trường phái Siêu thực Pháp nào đó mà thơ thuộc loại "hũ nút" còn hơn của Thanh Tâm Tuyền, hoặc Bùi Giáng. Nguyên Sa cũng có một bài thơ nói về các ngón tay của “em”, ngón này dùng để... ngón kia dùng để..., bắt chước hình như một bài của Prévert. Hay nhóm chữ dài tay em mấy trong câu dài tay em mấy thuở mắt xanh xao là một cấu trúc văn phạm quen thuộc trong thơ Pháp (tĩnh từ hay trạng từ đứng trước danh từ). Những mưa hồng, nắng thủy tinh v.v... là hình ảnh, ẩn dụ rất thường gặp trong văn chương Pháp.
Bởi vì bài của tôi không có chủ đích phê bình nhạc và lời của Trịnh Công Sơn, nên xin phép tạm dừng ở đây. Muốn viết một bài phê bình hẳn hoi, phải nêu ra nhiều dẫn chứng, ví dụ –điều rất dễ nếu có thì giờ và tôi nghĩ sẽ, hay đã, có người khác làm.
Nhạc Trịnh Công Sơn là nhạc phản chiến nặng, cộng thêm những bức ảnh của Nick Út, một tên Việt gian khác, chẳng hạn, đã góp phần vào sự sụp đổ của đất nước Miền Nam thân yêu của chúng ta bằng cách tiếp tay cho Cộng sản Việt Nam trong mưu đồ xâm lược (kêu gọi phản chiến một chiều) của chúng, tác động ít nhiều trên tinh thần đấu tranh của toàn quân toàn dân ta trước thực trạng bi thảm của chiến tranh (một cuộc chiến tranh do chính lũ Cộng Phỉ gây nên), và nhất là trên cái đầu tăm tối, ngu xuẩn của những chính trị gia và ký giả quốc tế vô luân. Chúng ta mất nước, ra đi tỵ nạn, gia đình tan nát, cá nhân bị bắt bớ, tù đày, thân nhân bị hãm hiếp, hoặc vùi thây trong lòng đại dương, và xa hơn những đồng bào ruột thịt tại quê nhà đang rên siết dưới gông cùm Cộng sản, tất cả cũng bởi vì những món độc dược văn hoá nguy hiểm ấy.
Vả lại, nhạc và lời của Trịnh Công Sơn đâu đặc sắc gì cho lắm, mà những kẻ đầu nhỏ như đầu chim sẻ phải khen ngợi, mê man, ca ngợi rối rít, ầm ĩ. Tuy nhiên, tôi tôn trọng ý thích của mọi người, miễn là họ đừng viết những bài để cầm ống đu đủ thổi Trịnh Công Sơn và sự nghiệp âm nhạc của anh ta lên tận mây xanh, các chủ băng video đừng bắt đồng hương và những người quyết tâm chống Cộng tới chiều, như tiện nhân đây, và những thế hệ con em lớn lên sau chiến tranh, chưa biết Cộng sản là gì, phải nghe những ca khúc Trịnh Công Sơn trong khi họ lợi dụng danh nghĩa chiến sĩ, thương phế binh, tử sĩ VNCH để bán hàng. Những việc làm vô ý thức đó rất mâu thuẫn, có tính cách phản bội, và đâm sau lưng chiến sĩ đấy. Không ai cấm các người mê “nhạc Trịnh”, chúng ta đang ở trong một nước tự do, dân chủ mà! Chỉ xin các người làm ơn hát, nghe hát nó trong xe, trong phòng ngủ, phóng tắm, như khi các người làm những việc cá nhân kín đáo. Đừng bắt thiên hạ mê theo các người, khổ lắm!
Các người cũng đừng ngụy biện rằng nghệ sĩ, nghệ thuật là phi chính trị, và Trịnh Công Sơn là nghệ sĩ nên không cần biết lập trường của anh ta là gì. Sai, chủ trương "nghệ thuật vị nghệ thuật" chỉ là một ảo tưởng. Có giỏi cứ đem vấn đề này ra tranh luận với Việt Cộng, nhất là Tố Hữu, là bọn chuyên bắt nghệ thuật (kể cả thơ con cóc chết của Bác khi còn chui rúc trong hang Pắc Bó) phục vụ cho mọi ý đồ chính trị đen tối. Tranh luận đi, chúng sẽ cười cho thối mũi.
Còn những người tỵ nạn lưu đày chân chính? Chúng ta hãy luôn tỉnh táo, đừng thấy ai khen, mình cũng vỗ tay khen theo, nức nở. Việc ấy, xưa rồi.
* Tác giả Kim Thanh (OR) đã liên lạc được với ba người bạn cũ, Lê Hoàng Ân (TX), Phan Quang Tuệ (CA) và Trần Quý Phong (GA), nhờ những đệ tam nhân có lòng, sau khi bài này được post lên các diễn đàn cách đây vài năm. Mới đây liên lạc qua email với Dương Sơn Trường (Hawaii).

Fra: Baclieu Ta <TaBacLieu@gmx.de>
Date: tir. 16. apr. 2019 kl. 23:49
Subject: Thà chết, không hàng giặc – Bảo Ðịnh
To: jimmy phan <
1001jimmy@gmail.com>
Bảo Ðịnh
Ðại Úy Hoàng Bôi phục vụ tại Phi Ðoàn 247, Trực Thăng Vận Tải Chinook CH47, Sư Ðoàn 1 Không Quân, QLVNCH.
Bôi quê ở làng Lai Hà, một ngôi làng bé nhỏ, nằm ven bờ Tây ngạn phá Tam Giang. Phá Tam Giang nổi tiếng, không những vì là con phá lớn nhất của đất nước, mà nổi tiếng nhờ qua những câu thơ:
“Ðường vô xứ Huế quanh quanh,
Non xanh nước biết như tranh họa đồ.
Yêu em, anh cũng muốn vô,
Sợ truông nhà Hồ, sợ phá Tam Giang”
Làng Lai Hà thuộc quận Quảng Ðiền, tỉnh Thừa Thiên, dù không có một lịch sử lâu dài, chỉ mới thành hình kể từ sau khi Chúa Nguyễn Hoàng vào trấn thủ vùng đất Thuận Hóa năm 1558, dưới đời vua Lê Anh Tôn, nhưng cũng đã sản sinh ra nhiều anh hùng hào kiệt. Ðiển hình là một người thuộc vào hàng chú bác của Bôi, vào khoảng thập niên 1930, hoạt động chống chính quyền Bảo Hộ Pháp, bị bắt, nhưng đã tuyệt thực cho đến chết ở trong nhà lao Hỏa Lò, Hà Nội. Năm 1945, khi quân viễn chinh Pháp, theo thỏa hiệp sơ bộ với chính phủ Hồ chí Minh, đưa quân vào Việt Nam để lập lại sự đô hộ, một người thuộc vào hàng ông của Bôi bị giặc Pháp bắt, không chịu đầu hàng, đã hô câu: “Việt Nam muôn năm” trước khi một tràng đạn oan nghiệt của quân xâm lược nổ vào người ông, kết liễu cuộc đời của một lão nông anh dũng.
Làng Lai Hà đã cưu mang con cháu họ Nguyễn thuộc hệ phái Tiền quân Nguyễn Văn Thành, một trong những vị khai quốc công thần nhà Nguyễn.
Phía Bắc của làng là Chí Long, quê hương của cụ Nguyễn Tri Phương, một vị đại thần anh hùng của nhà Nguyễn. Khi quân Pháp hạ thành Hà Nội, con là phò mã Nguyễn Lâm tử trận, cụ bị thương nặng, bị giặc Pháp bắt, nhưng cụ không chịu buộc thuốc và nhịn ăn mà chết vào năm 1873. Những tấm gương anh hùng đó đã ăn sâu vào tâm khảm của Bôi, và nó đã định hướng cuộc đời của Bôi, cuộc đời của một vị anh hùng “Thà chết không hàng giặc.”
Là phi công trực thăng, trước khi trở thành phi công lái Chinook, anh đã từng bay yểm trợ cho mặt trận vùng giới tuyến, anh đã bay qua phá Tam Giang, nơi chôn nhau cắt rốn. Bài hát “Chiều Trên Phá Tam Giang” của Trần Thiện Thanh phổ nhạc, thơ Tô Thùy Yên, làm cho anh chợt nhớ Sài Gòn, chợt nhớ làng quê nhỏ bé đang điêu linh vì cuộc chiến vô nghĩa do bọn Cộng Sản Bắc phương đang tiến hành từ mấy chục năm nay. Ngôi giáo đường Lai Hà, và trường trung học Tam Giang ẩn mình sau lũy tre xanh, nơi đã chôn giấu biết bao kỷ niệm của thời niên thiếu, với vị linh mục khả kính, Cha Nguyễn Phùng Tuệ, giờ chỉ còn trơ lại những bức tường loang lổ. Dấu vết chiến tranh đang tàn phá làng quê anh.
Những ngày cuối tháng 3 năm 1975, thành phố Ðà Nẵng hầu như lính nhiều hơn dân. Dưới quyền tư lệnh của Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, đáng lý phải xảy ra một trận thư hùng giữa quân CSBV với quân của Tướng Trưởng, mà phần thắng bại chưa biết nghiêng về bên nào, dù quân viện do ông bạn đồng minh Hoa Kỳ cắt giảm, nhưng lòng anh dũng, ý chí quyết chiến quyết thắng của người lính Cộng Hòa vẫn có thừa. Nhưng cuối cùng… Ðà Nẵng đã bị bỏ ngỏ, toàn quân, toàn dân đành tháo chạy. Hoàng Bôi cũng như tất cả mọi người, tháo chạy trong cảnh bát nháo, hỗn loạn, hơn cả những ngày tháng của mùa Hè đỏ lửa năm 1972, khi quân CSBV, với xe tăng và đại pháo, ngang nhiên vượt sông Bến Hải, ranh giới chia đôi đất nước theo Hiệp định Ðình Chiến Geneva tháng 7 năm 1954.
Sáng sớm ngày 29 tháng 3 năm 1975, trời Ðà Nẵng trở mưa. Cơn mưa Xuân cuối mùa lất phất nhẹ, như những cơn mưa phùn dầm dề xứ Huế, nhưng cũng đủ thấm ướt và làm lạnh lòng những ai phải rời thành phố, ra đi trong vội vã trước làn sóng đỏ đang đổ ập vào từ phương Bắc, như cơn đại hồng thủy, đang nhận chìm một đô thị rộng lớn vào hàng thứ hai của nước Việt Nam Cộng Hòa. Sân bay Ðà Nẵng hỗn loạn, đạn khói mù trời. Người dân từ các vùng lân cận, từ Huế đổ vào, tìm cách vào phi trường kiếm một chỗ bay để thoát thân.
Những ngày trước, chính phủ đã thuê bao nhiều chuyến bay của máy bay ngoại quốc để di tản dân tỵ nạn, nhưng số lượng người đông đảo, chen lấn nhau, ai cũng muốn nhanh chóng được ra đi, nên đã xảy ra nhiều cảnh thương tâm. Trung Tá Hùng, thuộc Trung Tâm Hành Quân Sư Ðoàn 1 KQ, sau khi không còn liên lạc được với ai – gọi qua quân đoàn hay các đơn vị bạn, chỉ nghe tiếng chuông reo, không có ai trả lời – anh vội vã chạy ra phi đạo, ẵm theo hai đứa con thơ, vì vợ anh đã tử nạn trong một trận pháo kích của Cộng quân. Anh leo lên một chiếc L19 còn sót lại, nhưng không thể nào khởi động được máy. Anh vội tìm một chiếc xe để câu bình điện. Cuối cùng, máy bay nổ máy, anh bay được, thoát vào Nam (theo lời kể lại của Hùng, khi ở tù chung một đội tại thành Ông Năm, Hóc Môn, năm 1975).
Ðại Úy Hoàng Bôi và một số đồng đội cùng thân nhân của họ lên một trong những chiếc Chinook cuối cùng vội vã rời bến. Khi phi cơ của anh bay ngang bãi biển Sa Huỳnh, bị súng VC bắn lên trúng đạn, không thể bay tiếp, đành phải đáp khẩn cấp. Ðó là một xóm làng ven biển, thuộc thôn Vĩnh Tuy, xã Phú Thạnh. Ngoài phi hành đoàn, còn có 17 hành khách. Hầu hết họ là quân nhân thuộc SÐ1KQ và thân nhân. Một toán VC gồm du kích địa phương và quân CSBV tiến ra kêu gọi đầu hàng. Trong hoàn cảnh không thể chống cự, đụn cát trắng trống trải không nơi ẩn núp, tất cả hành khách đành tuân thủ. Nhưng phi hành đoàn gồm Ðại Úy Hoàng Bôi và một thiếu úy, hoa tiêu phó, đã “thà chết, không hàng giặc.”
Hoàng Bôi là một tín đồ Thiên Chúa Giáo ngoan đạo. Theo giới luật, người tín hữu Thiên Chúa Giáo không được tự sát. Anh không muốn phạm vào giới luật. Nhưng đứng trước tình thế khẩn trương, một bên là giới luật, một bên là danh dự của một sĩ quan QLVNCH. Anh bắt buộc phải có sự lựa chọn. Là người dân xứ Huế, đã trải qua những giờ phút kinh hoàng hồi Tết Mậu Thân năm 1968, với những cảnh giết người không gớm tay của bọn Việt Cộng, nhất là đối với những quân nhân, công chức VNCH khi bị lọt vào tay giặc. Linh Mục Bửu Dưỡng, Thượng Nghị Sĩ Trần Ðiền, những vị giáo sư người Ðức dạy tại Ðại hHọc Y khoa Huế, cùng hàng ngàn người dân vô tội đã bị giặc bắt đi chôn sống. Một thoáng suy nghĩ trôi qua. Quyết định của anh là chọn lựa cái chết.
Người lính ra đi không hẹn ngày về. Là một sĩ quan QLVNCH, với lời thề bảo vệ “Tổ Quốc,” tôn trọng “Danh Dự,” và chu toàn “Trách Nhiệm,” anh đã “Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao.” Ðại Úy Hoàng Bôi và người hoa tiêu phó, rút vội khẩu súng lục tùy thân đang đeo trước ngực ra, mở khóa an toàn, kê vào đầu của nhau (có nghĩa là anh đã không tự sát!), và đếm: 1, 2, 3. Hai tiếng nổ chát chúa nhưng nghe như một vang lên, hai viên đạn cùng rời khỏi nòng súng một lượt. Hai thây người gục ngã. Máu của họ ướt đẫm đất Việt, tô thắm màu cờ vàng ba sọc đỏ. Thân xác của họ làm phân bón cho quê hương nghèo xơ nghèo xác vì đạn bom của chiến tranh.
Trong số hành khách, có một thiếu phụ là vợ của một HSQ/KQ cùng phi đoàn (nghe nói người thiếu phụ hiện đang sống tại Mỹ). Người thiếu phụ khẩn khoản tên du kích có vẻ là tên chỉ huy, sau này được biết là tên Lê Tiền, và một du kích gái tên Phan Thị Cư, biếu họ hai chỉ vàng, xin được chôn cất tử tế hai người lính vừa chết. Một trong số những hành khách, Trung Sĩ Kháng, thuộc một đơn vị ÐPQ cùng vài người khác, sau khi được bọn du kích cho phép, đào vội hai cái hố. Hai nấm mồ chôn vội, không có gỗ ván để làm quan tài, chỉ là bộ đồ bay làm cổ áo quan (theo lời kể lại của người anh người quá cố, một đại đội phó Cảnh Sát Dã Chiến, hiện định cư tại Orange County, và anh Nguyễn Ðiền, từ Việt Nam). Như là một chiến lợi phẩm, tên du kích mang hai chiếc nón bay về nhà.
Ngày 5 tháng 4 năm 1975, những quân nhân và công chức còn kẹt lại Ðà Nẵng được lệnh tập trung để nghe Ủy Ban Quân Quản thành phố nói chuyện… Nhưng rồi họ được chở đi những nơi nào không ai biết. Vài tháng sau, trong số những cựu quân nhân được gọi đi “thi hành nghĩa vụ lao động,” có anh Nguyễn Văn Linh, BÐQ, Nguyễn Ðiền, QC, được điều động đi sửa chữa đường sắt ở vùng Sa Huỳnh, được phân chia ngủ nghỉ ở nhà một tên du kích. Tình cờ họ thấy hai chiếc nón bay trong cái tủ thờ của người chủ nhà. Ðến gần nhìn kỹ, họ sững sờ khi thấy bảng tên đề “Hoàng Bôi.” Họ là những người bạn học của Bôi, thỉnh thoảng vẫn gặp nhau nhậu nhẹt tại Ðà Nẵng, tìm cách lân la làm quen người chủ nhà để tìm hiểu. Người chủ nhà cũng là tên du kích, đã kể lại toàn bộ câu chuyện, và còn hướng dẫn hai người lính ra ngoài đụn cát ven biển, chỉ hai nấm mồ “vô chủ ai mà viếng thăm.” Nhưng lạ lùng thay, ngoài sự tưởng tượng của hai người lính. Hai nấm mồ vô chủ, nhưng không phải như nấm mồ Ðạm Tiên của cụ Nguyễn Du:
“Sè sè nấm đất bên đường,
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.”
Hai nấm mồ đã được tên du kích, thôn đội trưởng, đắp cao, và có mộ bia (bằng gỗ) đàng hoàng. Có một lý do nào đó lớn lao như một phép nhiệm mầu đã biến đổi một tên du kích vô thần thành một gã giữ “từ đường,” lo hương khói, mồ mả cho đến ngày cải táng.
Biến cố 30 tháng 4 năm 75 đã làm sụp đổ toàn bộ cuộc sống của người dân miền Nam, mà nạn nhân trực tiếp là thân nhân, gia đình “ngụy quân ngụy quyền.” Vợ của Bôi, một giáo viên tốt nghiệp trường Sư Phạm Qui Nhơn, đang dạy học, bị đuổi việc, ôm đứa con còn đang măng sữa tìm về nương tựa nơi nhà ngoại. “Tấn về nội, thối về ngoại.” Nhưng khốn nỗi, ngôi nhà ngoại đã bị kẻ chiến thắng chiếm đoạt – cho đến bây giờ. Bên nội cũng ly tán. Người đi tù, kẻ đi “kinh tế mới,” một số trở về quê. Quê nội, một làng quê nhỏ, cách kinh thành Huế lối nửa ngày đường. Những ngày Hè, gió nồm lồng lộng thổi từ phá Tam Giang, xua đi cái nóng bức do cơn gió hạ Lào nung nấu. Sau những tháng năm điêu tàn vì chiến tranh, giờ quê nội cũng đang chịu khốn khổ vì bọn VC ngu dốt tập kết trở về trong việc làm thủy lợi, bắt đập và ngăn phá, làm cho ruộng đồng khô cằn. Quê hương miền Trung nghèo, vốn cày lên sỏi đá, nay sỏi đá cũng không còn để mà cày! Người dân phải tha phương cầu thực.. Người sống đã không lo được miếng cơm manh áo, làm sao lo được cho người chết. Cũng có vài lần, những người thân tìm đến mộ phần của anh thăm viếng và có ý muốn cải táng. Nhưng người dân địa phương tìm cách ngăn cản không cho di dời, vì họ tin vào những ơn ích có được mỗi khi họ đến cầu xin.
Thời gian đã đi qua khá lâu, vợ con và thân nhân của Ðại Úy Bôi quyết định cải táng, nhất quyết đem nắm xương tàn về gởi gấm nơi cố hương. Người nhà đã đến gặp tên chủ tịch xã, cũng chính là tên du kích, thôn đội trưởng ngày xưa. Chẳng biết có đút lót hay quà cáp gì không, nhưng hắn đã dễ dàng đồng ý, với sự thân thiện khác thường. Thay bộ áo quần đang mặc (không còn chân đi dép râu, đầu đội nón tai bèo), trịnh trọng trong chiếc áo dài đen, khăn đóng, dẫn đoàn người hướng về độn cát ven biển. Vừa đi, hắn vừa kể lại những gì đã xảy ra từ 30 năm trước. Câu chuyện sống động tưởng chừng như thể mới xảy ra hôm qua. Giọng kể đều đều, pha đôi chút ngậm ngùi, ăn năn. Hắn xin phép gia đình được thắp nén hương, và lâm râm khấn nguyện trước phần mộ. Sau đó hắn lại xin phép được tự tay đào tìm hài cốt vị anh hùng, như để đền bù lại cái ngày hắn đã “say men chiến thắng” một cách lầm lỡ, với những xúc động nghẹn ngào…
“Hơn 30 năm, bộ áo bay còn giữ màu cứt ngựa, gói trọn bộ xương tàn của một người thỏa chí tang bồng” (‘Lối Về’, Ðặc San Phượng Hoàng, Nguyễn Văn Thống, người anh em bà con). Mộ phần của viên thiếu úy hoa tiêu phó đã được cải táng trước – rất tiếc, người viết không được tin tức gì về vị anh hùng này.
Hai người phi công tuẫn nạn đã được người dân địa phương thờ phụng, và hương khói quanh năm. Và chính tên chủ tịch xã cũng rất sùng bái hai “tên sĩ quan ngụy” mà hắn đã trút hết những hận thù năm xưa! Nhưng bây giờ đã trở thành hai vị Thần Làng.
Michigan, mùa tuyết phủ
Bảo Ðịnh


Fra: Batkhuat nguyen <batkhuatnguyen@yahoo.com>
Date: ons. 17. apr. 2019 kl. 06:47
Subject: THÁNG TƯ ĐEN 2019: " TỰ TỬ ĐI ANH EM! TAO KHÔNG ĐẦU HÀNG " - MD NGUYỄN VĂN NƠI 
Một mặt trận hai kẻ thù
Giặc cộng bán nước, tàu phù xâm lăng.

Tháng Tư Buồn Thảm
______

“Tự tử đi anh em! Tao không đầu hàng!”

(Hào Kiệt Phương Nam) Những Chiến Sĩ Anh Hùng của Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù VNCH tự sát chứ không đầu hàng giặc (30/ 04/ 1975)

“Tuy mạnh, yếu có lúc khác nhau
Song, ‘Hào Kiệt’ thời nào cũng có” 
(Bình Ngô Đại Cáo - Nguyễn Trãi)
--------

Sáng sớm ngày 29 tháng 4, 1975, chúng tôi tiếp tục công việc như mọi ngày nhưng trong lòng nôn nao khôn tả. Từng đoàn dân chúng hoặc quân nhân của Sư Đoàn 18 Bộ Binh ào ạt kéo về hướng Sài Gòn, chúng tôi kêu gọi họ ở lại tiếp sức trấn giữ cây cầu nầy nhưng họ nói là được lệnh về bảo vệ Thủ Đô Sài Gòn.

Còn căn cứ Giang Thuyền của Hải Quân tại bờ sông Đồng Nai cạnh cây cầu nầy ngày hôm qua còn có bóng người thấp thoáng, đến hôm nay sao im vắng như vậy? Dưới sông còn mấy chiếc giang đỉnh nằm yên trên sóng nước lăn tăn dưới làn gió nhẹ.

Anh em tôi kéo đến hỏi ý kiến Trung Sỹ Ngôn là người có cấp bậc cao nhất và cũng lớn tuổi nhất trong bọn tôi:
- Tính sao Trung Sỹ?
Trung Sỹ Ngôn đáp tỉnh bơ:
- Không tính gì cả, giặc đến thì đánh chớ còn tính gì nữa, lúc trước ta phải sang Campuchia, sang Lào, đi ra Vùng I, Vùng II tìm giặc mà đánh, nay chúng kéo đến đây thì ta phải đánh chứ còn nghĩ ngợi gì nữa.

Lời nói khẳng khái của TS Ngôn khiến anh em Nhảy Dù và các chiến sĩ Công Binh, Địa Phương Quân cũng lên tinh thần. Một vài người phát biểu ý kiến:
- Trung Sỹ Ngôn đúng là một chiến sĩ can đảm của quân đội, lẽ ra anh phải có cấp bậc khác hơn mới đúng, quân đội cần phải có những chiến sĩ đảm lược như vậy.

Trung Sỹ Ngôn khoát tay bảo đừng nói tiếp nữa, ông nói:
- Các bạn đừng cho tôi uống nước đường tưởng tượng nữa, đời binh nghiệp của tôi nếu có được kéo dài thì cũng thế thôi, một tên quân phạm được Bộ Tổng Tham Mưu cho tiếp tục phục vụ thì còn lên xuống gì nữa!!!

Ai nấy đều không tin câu nói của Trung Sỹ Ngôn, ông ta phải xác minh tới lui mấy lần mà chưa có ai tin.

***
Riêng tôi thì tôi tin ông nói thật vì tôi là HSQ quân số của Tiểu đoàn, tôi nắm giữ hồ sơ lý lịch của quân nhân trong đơn vị nên tôi biết nhiều về quân nhân trong đơn vị.

Tôi xin mở dấu ngoặc nói về người Hạ sĩ quan nầy:

Sau những trận “Mùa Hè Đỏ Lửa” năm 1972, vì nhu cầu bổ sung quân số cho các đơn vị tác chiến đang thiếu hụt, Bộ Tổng Tham Mưu nghiên cứu và quyết định cho tiếp tục phục vụ các quân phạm được coi là thường phạm hiện đang bị giam giữ trong Quân Lao Gò Vấp. Ông Trung Sỹ Ngôn được xuất lao trong đợt đầu tiên và được bổ sung về Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù.

Ngày tôi đến Khối Bổ Sung nhận về 30 quân phạm trong đó có Trung Sỹ Ngôn, vừa gặp ông là tôi có thiện cảm liền. Tôi đưa các quân nhân nay về Hậu cứ Tiểu đoàn ở cổng số 9 trong Căn cứ Long Bình, Biên Hòa, trang bị cho họ và chờ ngày tăng cường hành quân.

Trong những ngày chờ đợi tôi có dịp tiếp xúc với các quân nhân nầy để tìm hiểu và giúp đỡ chuyển thư từ, nhắn tin người nhà đến thăm, tiếp tế cho họ, phần các quân nhân ở xa hoặc ở trong vùng mất an ninh thì chỉ gởi thư theo đường bưu điện thôi.

Riêng Trung Sỹ Ngôn, quê ở Hốc Môn, tuy không xa lắm nhưng xã ấp ở vùng xôi đậu nên tôi không thể đem thư đến nhà cho ông được, tôi cố gắng đi đến chợ quận Hốc Môn, rồi hỏi thăm tìm những người cùng xã ấp với ông nhờ họ chuyển thư về gia đình ông. Cuối cùng, thân nhân của ông cũng đã tìm đến thăm ông được. Và nhờ vậy ông mang ơn tôi, có tâm sự gì ông đều phun ra hết, và con đường tù tội của ông như sau:
“Sau Tết Mậu Thân, Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến gần như thường xuyên có mặt tại Quân Khu I và Quân Khu II, các người lính Tổng Trừ Bị nầy hầu như là “Trấn thủ lưu đồn” của thời xa xưa, có khi hai ba năm chưa được về thăm gia đình một lần, Trung Sỹ Ngôn tuy là đã có gia đình, nhưng vì lính xa nhà trong lúc sức lực phương cường, nên thường lén rời đơn vị đi thăm “Đệ Thất Hạm Đội” cắm sào trên sông Hương.

Một lần, sau khi lãnh lương, anh đi lả lướt trên sông Hương, Đến sáng ngày tỉnh dậy mới hay bị mất ví cả giấy tờ tùy thân và tiền lương tháng mới lãnh chưa kịp gởi về cho vợ. Còn chiếc thuyền thì đã cập bến nhưng người lái không có ở đó.

Trên đường trở về vị trí đóng quân bị Quân Cảnh xét giấy tờ không có nên bị bắt giữ rồi giải giao về đơn vị thọ phạt. Quá uất ức, nên sau khi thọ phạt xong Trung Sỹ Ngôn cầm một quả lựu đạn tìm đến bờ sông thì rất may anh gặp lại cô lái đò hôm trước. Anh đòi lại cái ví và số tiền anh đã bị đánh cắp, cô lái chối cãi là không có lấy, anh đập trái lựu đạn vào đầu cô ta phun máu, cô ta mới chịu nhận là có lấy nhưng gã anh trai ma-cô của cô ta đã cất giữ rồi, theo lời cô lái đò nói lại là nếu anh có tiền chuộc mới được trả lại.

Quá tức giận, anh lại cầm trái lựu đạn đập vào đầu cô ta khá mạnh khiến cô ta kêu thét lên rồi ngất xỉu luôn. Các người trên thuyền bên cạnh tri hô lên là có án mạng nên lính Quân Cảnh và An Ninh Quân Đội đến bắt anh, anh kháng cự đưa ra trái lựu đạn dọa nếu ai đến gần sẽ cùng chết với anh. Anh về đơn vị trình diện và bị An Ninh Quân Đội của đơn vị bắt giải về Sài Gòn đưa ra tòa án Quân Sự Mặt Trận Quân Khu III.

Tôi hỏi chen vào:
- Anh có mướn luật sư bào chữa cho anh không? Tòa án xử anh có nặng lắm không?
Trung Sỹ Ngôn thở ra, chán nản nói:
- Tiền đâu mà mướn luật sư, tiền của mình nó lấy hết rồi nên mình mới gây nên tội. Tôi trình bày tất cả sự việc để ông Chánh Án quyết định chứ không thèm xin ân giảm gì hết.

Tôi tò mò hỏi anh về quang cảnh của phiên Tòa, anh đáp:
- Đầu tiên, họ điệu tôi ra giữa phòng xử, các viên chức trong tòa lần lượt đi ra, cuối cùng tới ông Chánh Án, là một vị Trung Tá trong QĐVNCH. Đầu tiên họ đọc cáo trạng về trường hợp phạm pháp của tôi, tiếp theo ông Ủy viên Chính Phủ tức là Công Tố lên án tôi, tôi bị khép vào 3 tội.

Tội thứ I: Phạm vào điều Giáo lệnh thứ 5: Không được bê tha, rượu chè, cờ bạc, trai gái, và nghiện hút.
Tội thứ 2: Can tội sát nhân, đánh chết người phụ nữ chân yếu tay mềm không thể tự vệ.
Tội thứ 3: Dùng vũ khí để chống lại nhân viên công lực làm nhiệm vụ. Cuối cùng Ủy viên Chính phủ xin ông Chánh Án lên án thật nặng đối với quân nhân vô kỷ luật để làm gương.
Đến phần luật sư biện hộ, vì không có luật sư của bị cáo nên Tòa chỉ định một luật sư tình nguyện giúp tôi, tôi nói là tôi không cần, tôi tự trả lời lấy.

Về tội thứ 1: Các điều bê tha, rượu chè, cờ bạc, nghiện hút tôi không có, còn vấn đề trai gái thì tôi sống theo luật tự nhiên, giải quyết sinh lý, vì một người bình thường mà phải xa nhà cả hai, ba năm, thậm chí bốn năm năm thì bị mất quân bình, họ còn lo chiến đấu, sống chết bất ngờ, ăn uống thiếu thốn, nằm rừng ngủ bụi, thì làm sao chịu nổi. Tôi đặt ví dụ: Một người công chức mỗi ngày làm việc 8 giờ, tan sở đã có công xa đưa đón, về nhà có vợ con săn sóc, họ được ba bữa ăn nóng. Còn giới quân nhân thì sao, có nhà mà cả mấy năm không được về, có vợ mà phải đi ngủ với gái điếm lại còn bị tội bê tha, trai gái.

Về tội thứ 2: Tôi nhìn nhận có nóng nảy, quá mạnh tay với cô đó. Nhưng thưa quan Tòa, tôi ăn bánh trả tiền sòng phẳng. Tại nó lấy tiền, lấy giấy tờ của tôi khiến tôi bị bắt, bị phạt kỷ luật, sau đó nó còn đòi tiền chuộc thì tôi không nóng sao được.

Về tội thứ 3: Tôi dùng lựu đạn để gây áp lực chứ không hề mở khóa an toàn, không gây thương tích hay nguy hiểm cho nhân viên công lực, tôi không để nhân viên công lực bắt tôi vì tôi không muốn để những người phè phỡn ở thành phố bắt những thằng đi tác chiến, tôi quyết về đơn vị để cấp chỉ huy định đoạt. Phần trình bày của tôi đã xong.

Tôi hỏi anh:
- Sau đó thì sao, Công tố viên còn nói gì không? Tòa tuyên bố thế nào? Có nặng lắm không?
- Khi tôi nói, Ủy viên Chính Phủ có vẻ bất bình, muốn ngăn lại, nhưng ông Chánh Án không tỏ thái độ gì nên ông ta cũng nín luôn, cuối cùng Ông Chánh Án thay vì kết án là tôi “cố sát” hay ít ra là kết tội “Cố ý đả thương, nhân thương trí mạng” gì gì đó, thì Ông Chánh Án đã lên án là “ngộ sát” và hình phạt là năm năm tù ở. Nhưng mới hai năm thì được cho ra ngoài tiếp tục phục vụ. Tôi nói thiệt, nếu có được đi ra ngoài đó nữa, tôi sẽ vẫn đi thăm “Đệ Thất Hạm Đội” đó nữa”.

Vậy mà giờ đây, trước giây phút hấp hối của Thủ đô VNCH anh vẫn hiên ngang đóng tại cửa ngõ vào thành phố, vẫn cùng 6 người thương binh tự đặt dưới quyền điều khiển của anh, cạnh đó, các quân nhân Công Binh, Địa Phương Quân cũng lây cái hào khí của anh, họ hứa sẽ ở lại cùng chiến đấu với anh em Nhảy Dù.

Và bây giờ chúng ta hãy nghe Binh Nhất Hào Hoa của Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù kể tiếp:

***
“Từ buổi trưa đến chiều ngày 29 tháng 4, 1975, các quân nhân của Sư Đoàn 18 BB đi về càng nhiều, có người thì đi lẻ tẻ, có tốp thì đi chung nhiều người. Tôi nghĩ đây là họ “di tản chiến thuật” để sẽ được “tái phối trí” ở một vùng nào đó. Nhiều người dân di chuyển trên đường giục chúng tôi:
- Mấy chú Nhảy Dù ơi, bọn Việt cộng tràn tới rồi kìa !
“Nghe họ nói, tôi cũng cảm thấy lo ngại, hàng đoàn quân còn chạy, thì mấy mươi người chúng tôi có nghĩa lý gì với cơn thác lũ của chiến cuộc. Tôi liếc nhìn các bạn Nhảy Dù tại đó, thấy họ vẫn bình tĩnh chứ không có vẻ lo sợ gì cả. Tôi nghĩ họ đã dày dạn phong sương, đã tôi luyện trong máu lửa nên lòng họ đã chai lì rồi chăng?

***
“Từ ngày Tổng Thống Nixon lên chức, ông quyết định rút hết quân về nước trong “Danh dự”. Ông đưa ra áp dụng kế hoạch “Việt-Nam Hóa Chiến Tranh” là (bỏ của chạy lấy người). Quân Mỹ và Đồng Minh ào ạt đến rồi cũng ào ạt rút lui. Các căn cứ quân sự được chuyển giao lại cho QĐ VNCH, trong các căn cứ đó có căn cứ Long Bình là rộng lớn và ở gần thủ đô Sài Gòn nhất.

Trong khi đó Chính Phủ Việt-Nam Cộng Hòa cũng đã có kế hoạch chỉnh trang thành phố, mà hai doanh trại của Nhảy Dù là trại Nguyễn Trung Hiếu của Tiểu Đoàn 1 Nhảy Dù nằm trên đường Lê Văn Duyệt đối diện với Nghĩa Trang Đô Thành Sài Gòn và doanh trại Phạm Công Quân của Tiểu Đoàn 3 Nhảy Dù nằm trong vườn cao su của nhà thờ Chí Hòa tại ngã tư Bảy Hiền là bị ưu tiên chiếu cố để chuyển đi. Cả hai Tiểu Đoàn 1 và 3 Nhảy Dù đều được giao cho một số nhà tole tại Cổng số 9 trong căn cứ Long Bình để làm doanh trại cho đơn vị mình.

Vì doanh trại cũ của TĐ 3 ND sẽ được ưu tiên xây Bệnh Viện Vì Dân, nên toàn bộ trại nầy được chuyển về doanh trại mới gần cuối năm 73, còn TĐ 1 ND chưa kịp chuyển về căn cứ nầy, nên chỉ đưa một bán đội sáu người đến tiếp nhận và trông chừng doanh trại, và tôi là B.I “Hào Hoa” là một trong sáu quân nhân được phái đến giữ trại đó.

Sáu người anh em chúng tôi thường hay sang doanh trại của TĐ 3 ND chơi với các quân nhân phụ trách về các việc chuyên môn của đơn vị nầy.

Lý do tôi được đến giữ doanh trại mới nầy là trong lúc cùng đơn vị tham dự Hành quân tại Quảng Trị, tôi bị thương, được di tản về Bệnh Viện Đỗ Vinh để điều trị, khi vết thương đã bình phục, tôi chuẩn bị tăng cường HQ thì gặp lúc Tiểu đoàn cần một số quân nhân đến tiếp nhận và trông coi doanh trại mới vừa được chuyển giao và tôi được chọn cùng với 5 anh em khác.

***
Vì vậy mà tuổi chiến trường, kinh nghiệm chiến trận của tôi còn kém cỏi, nên khi nghe dân chúng bảo chạy đi tôi cũng thực sự lo ngại lắm, các binh sĩ kia cũng có vài người dao động, lo lắng trước những việc diễn biến quá nhanh. Binh 2 Kha rụt rè hỏi TS Ngôn mà cũng có thể hỏi chung anh em Nhảy Dù.
- Làm sao bây giờ Trung Sỹ?

Trung Sỹ Ngôn đáp không do dự:
- Như tôi đã nói ngày hôm qua, lúc trước ta tìm giặc mà đánh, bây giờ chúng nó tới thì ta phải đánh chứ còn tính gì nữa, nếu anh em nào sợ thì chạy theo đoàn người di tản đó đi, tôi không cản trở, còn anh em nào không sợ thì ở lại chúng ta cùng nhau chiến đấu tới cùng.

Trước lời nói quyết liệt của Trung Sỹ Ngôn, anh em lên tinh thần trở lại, họ hứa sẽ ở lại chiến đấu tới cùng với TS Ngôn. Riêng tôi không có ý kiến, ai làm sao tôi làm vậy thôi.

Trọn đêm đó tiếng súng nổ từ xa đến gần, hướng Sài Gòn thỉnh thoảng có tiếng pháo kích rải rác đó đây tuy không nhiều lắm. Chúng tôi cũng thay nhau ngủ gà ngủ gật trong các công sự bằng bao cát.

Trời vừa hừng sáng ngày 30 tháng 4, 1975, Trung Sỹ Ngôn đốc thúc anh em tìm chỗ có thể vừa ẩn nấp vừa chiến đấu bên dưới gầm cầu, chứ mấy cái công sự bằng cát đó chẳng có nghĩa lý gì đối với xe thiết giáp T-54 của bọn cộng phỉ. Trung Sỹ Ngôn còn phái Hạ Sĩ Đắc và Binh Nhất Tân sang bên kia đầu cầu lấy thêm một ít súng chống chiến xa M.72 để tăng cường cho đầu cầu bên này, hai người đi một chập trở lại với mấy khẩu M.72

Trung Sỹ Ngôn chưa kịp có ý kiến gì thì chợt có tiếng động cơ của xe thiết giáp chạy rần rần từ xa. Dân chúng chạy tán loạn vào vệ đường la hoảng lên:
- Bọn Việt cộng tới, nó có xe tăng nữa.

Chúng tôi thấy giữa đường có 2 chiếc xe thiết giáp treo lá cờ thổ phỉ xanh, đỏ và ngôi sao vàng ở giữa, hai bên đường, bọn cộng phỉ xâm lược hộc tốc chạy theo. Chợt chiếc xe chạy đầu dừng lại và bắn vào ụ cát làm công sự trên cầu, sau tiếng nổ lớn ụ cát đó biến mất, chúng lại bắn tiếp các ụ khác.

Chúng tôi nấp ở gầm cầu nên không bị thương tích gì, 3 người chúng tôi thủ M.72 bốn người kia thủ M.16 đồng loạt nhả đạn khiến lũ giặc xâm lược sợ hãi nằm rạp xuống vệ đường, chiếc xe chạy đầu sau khi bắn mấy phát liền chạy tới bị trúng đạn M.72 bị đứt xích đang xoay tròn trên xa lộ. Chiếc xe T.54 còn lại và lũ giặc cộng phỉ bắt đầu phản công, chúng đã biết chỗ ẩn nấp của chúng tôi nên tất cả đều nhắm bắn vào chỗ chúng tôi.
TS Ngôn vừa chiến đấu vừa bảo anh em tôi:
- Súng M.16 bắn vào bọn vc chớ đừng bắn vào xe thiết giáp chỉ gãi ngứa cho nó thôi, còn súng M.72 bắn vào xích của nó có kết quả hơn.

Chúng tôi bắn xong một loạt liền thay đổi vị trí mới nên bọn vc tuy đông người hơn nhưng chưa bắn trúng anh em chúng tôi một viên nào. TS Ngôn và HS Đắc bảo anh em tôi bắn phủ đầu bọn nó cho hai anh sử dụng súng M.72. Chúng tôi làm y lời họ và hai anh đã bắn cháy chiếc T.54 thứ 2.

Tuy áp lực trên 2 chiếc T.54 không còn, nhưng bọn giặc xâm lược tràn tới càng lúc càng đông, Trung Sỹ Ngôn căn dặn anh em:
- Các bạn hãy tiết kiệm đạn, chúng ta phải chiến đấu lâu dài đó, không có ai tiếp viện đâu!

Chúng tôi bắt đầu bắn dè sẻn từng loạt một cũng có thể chận đứng bọn cộng quân xâm lược được chốc lát. Nhưng kìa, hai chiếc PT.76 khác lại ào ào chạy đến, chúng tôi chỉ còn có hai khẩu M.72. TS Ngôn thủ một khẩu, HS Đắc thủ một khẩu, chúng tôi lại bắn ào ạt yểm trợ cho hai người bắn chiến xa, nhưng phía cộng quân cũng bắn rát quá nên hai anh bắn không trúng chỗ hiểm, hai chiếc thiết giáp liền chạy thẳng qua bên kia cầu, bọn bộ đội cũng nương đà đó chạy theo xe qua cầu, một số quây tại đầu cầu gọi chúng tôi đầu hàng, bọn tôi đáp lời lũ giặc xâm lược từ phương bắc bằng những phát đạn thật chính xác, vì thế chúng không dám xông vào chỗ ẩn nấp của chúng tôi.

Chúng tôi mong các quân nhân của đơn vị bạn giật sập cầu hoặc dùng súng M.72 bắn hạ mấy chiếc xe vừa thoát chạy sang bên đó, nếu để nó thoát được thì tai hại lắm. Nhưng chờ mãi mà chẳng thấy động tịnh gì cả, chúng tôi nghĩ là họ đã bỏ trốn hết rồi. Quá thất vọng TS Ngôn nói:
- Chúng ta muốn góp sức để ngăn chận đường tiến của bọn cộng phỉ xâm lược, nhưng chúng ta cô đơn chiến đấu, sức chúng ta chỉ có hạn, đạn dược sắp hết rồi, bây giờ các bạn muốn tiếp tục chiến đấu hay muốn trốn đi đâu tùy ý. Riêng tôi quyết chiến đấu đến viên đạn cuối cùng.

Ai nấy lên tiếng quyết chiến đấu, không lùi bước, riêng tôi có hơi do dự. Thấy vậy, Trung Sỹ Ngôn nói với tôi:
- Em có thể chui vào đám lục bình trên mặt nước kia để rút đi, bây giờ còn kịp.
Tôi cảm thấy bị chạm tự ái nên quyết ở lại. Bây giờ, bọn cộng phỉ xâm lược trên cầu kêu lớn:
- Hàng sống, - chống chết!
- Hàng sống, - chống chết!

Chúng tôi trả lời bọn thổ phỉ xâm lược bằng mấy loạt đạn. Chống trả thêm một lúc, chúng tôi đã thực sự hết đạn.

Bây giờ đến quyết định cuối cùng, Trung Sỹ Ngôn nói:
- Anh em nào vì gánh nặng gia đình, muốn rút lui để giữ mạng sống thì cứ tự nhiên.
HS Đắc hỏi lại:
- Còn Trung sĩ thì sao?
TS Ngôn đáp:
- Tao không đầu hàng!
HS Đắc nói:
- Tôi cũng không đầu hàng!

Cả bốn anh Lương, Tân, Kim và Kha cũng đồng lên tiếng:
- Chúng tôi cũng vậy, không đầu hàng, còn mấy viên đạn bắn hết rồi tính.

Thế là chúng tôi lại tiếp tục bắn tỉa những tên nào ló đầu vào gầm cầu.

Rồi viên đạn cuối cùng cũng đã được bắn đi.

Trung Sỹ Ngôn tuyên bố:
- Chúng ta không đầu hàng giặc, cũng không để cho giặc bắt. Vậy chúng ta cùng nhau chia cái nầy.
- Tự tử đi anh em ! Chúng ta dứt khoát không đầu hàng !

Trung Sỹ Ngôn cầm trái lựu đạn M.26 đưa ra đoạn bắt tay từng người, xong tất cả ngồi quây vòng tròn quanh trái lựu đạn. Tôi cũng ngồi xuống như mọi người nhưng bất chợt Trung Sỹ Ngôn cầm cái ba-lô để trước mặt tôi và đẩy tôi ngã ra, tôi vội đưa tay ra dẹp cái ba-lô nhưng không còn kịp nữa...

***
Khi tôi tỉnh dậy, cảm thấy mặt mũi đau buốt tôi khẽ rên lên, và một người thợ câu chèo thuyền nghe được ghé vào cứu giúp cho tôi. Từ đó đến nay tôi vẫn còn buồn anh em TĐ 3 ND đã chơi xấu với tôi, đã làm cái việc: “ăn đồng, chia... không đều” vì nhờ có cái ba lô Trung Sỹ Ngôn để trước mặt tôi mà tôi đã không chết cùng anh em.
(SGtt-MĐ. Nguyễn Văn Nơi)



CÁI CHẾT CỦA MỘT NGƯỜI VIỆT TÊN NAM.
Đọc bài này mà chảy nước mắt.

Tôi được dịp đi miền Tây trong phái đoàn của ông Thứ Trưởng Nội Vụ Lê Công Chất, được gặp tướng Nguyễn Khoa Nam trong dịp đó. Dưới 10 người ngồi chung một cái bàn gỗ nơi một quận nhỏ vùng quê tỉnh Phong Dinh với bữa ăn trưa có thịt rùa.
Hình ảnh tướng Nam với bộ quân phục và nón sắt vẫn còn rõ trong ký ức, dù là tướng, với khuôn mặt cương nghị, nhưng ăn nói nhỏ nhẹ, đáng yêu mến và ngưỡng phục. Buồn ! Cảm ơn những người đã luân phiên post lại bài viết này.
Tường Giang
***
*** ***
Tôi bắt đầu tháng 4 năm nay, khuya 31/3 – 1/4, bằng giấc ngủ chập chờn. Suốt đêm là như thế ! Lãng vãng trong đầu là khuôn mặt một người đàn ông với hai hàng nước mắt !
Người đàn ông đó là thiếu tướng Nguyễn khoa Nam!
Những ngày này, 44 năm xưa, trong khi phân nửa lãnh thổ “di tản”, chiến trường vùng 3 đang sôi động thì “Quân đoàn – Quân khu 4 chưa mất một tấc đất, quân số và vũ khí vẫn còn nguyên vẹn. Chúng ta cứ bình tĩnh chiến đấu, không phải chạy đi đâu cả”, đó là những tuyên bố, nhắc nhở của tướng Nam trong các buổi họp tham mưu.
Hai tháng cuối cùng của VNCH, biết bao nhiêu là hình ảnh tang thương, uất hận đã làm ứa máu trái tim, đứt đoạn lòng người, qua những bài viết, lời kể của các chứng nhân: những người lính, người dân có cơ may rời nước đến được bến “tự do”, những người trở về từ trại tập trung, trở về từ cõi chết … vv Tôi đã thấy, như trước mắt, diễn tiến các cuộc tự sát tập thể của lính mũ xanh, mũ đỏ hay những giây phút cuối cùng của quân nhân các cấp, các binh chủng trên đường lui quân, trong ngày mất nước…
Đó là những hình ảnh làm nước sôi, đá mềm, ngạ quỷ còn phải nhắm mắt, Chúa Phật còn phải thở dài.
Nhưng không biết sao, cái hình ảnh luôn đi về trong tôi, từ gần 20 năm nay, lại là những giọt nước mắt âm thầm của tướng Nguyễn Khoa Nam, trong chiều 30/4 và sáng 1/5, vài mươi phút, trước khi tự sát !
Trung úy Lê Ngọc Danh, tùy viên tướng Nam, thuật lại trong quyển “Nguyễn Khoa Nam” (Hội phát huy văn hóa Việt Nam, 2001).
Chiều 30/4/1975 ( bắt đầu từ 18h30 )
“….. Tư Lệnh đi từ đầu phòng đến cuối phòng hỏi thăm từng bệnh nhân, rồi Tư Lệnh đi qua dãy kế bên và tiếp tục hơn một giờ thăm viếng thương, bệnh binh buồn tẻ và nặng nề. Gần giường một thương binh, anh cụt hai chân, vải băng trắng xóa, máu còn rịn ra lốm đốm đỏ cuối phần chân đã mất. Tư Lệnh đứng sát bên và hỏi:
– Vết thương của em đã lành chưa?
– Thưa Thiếu Tướng, vết thương mới mấy ngày còn ra máu, chưa lành.
Với nét mặt buồn buồn, Tư Lệnh nhíu mày lại làm cặp mắt kiếng đen lay động. Tư Lệnh chưa kịp nói thêm thì anh thương binh này bất chợt chụp tay Tư Lệnh mếu máo:
– Thiếu Tướng đừng bỏ tụi em nhé Thiếu Tướng.
– Qua không bỏ các em đâu. Qua ở lại với các em.
Qua ánh đèn của bệnh viện, tôi thấy Tư Lệnh đưa ta nâng sửa cặp kính đen và hai giọt nước mắt từ từ chảy lăn dài trên khuôn mặt đau thương của ông. Tư Lệnh cố nén xúc động, nhưng người đã khóc, khóc không thành tiếng và những giọt nước mắt tự nhiên tuôn trào. Tư Lệnh vịn vai người thương binh nói trong nghẹn ngào:
– Em cố gắng điều trị… có qua ở đây ….”
Sáng 1/5/1975 ( khoảng 30 phút trước khi tướng Nam tự sát )
“ … Tư Lệnh chầm chậm bước theo nấc thang lên tầng trên, tôi và anh Việt nối bước theo sau. Tư Lệnh ra sân thượng, đứng sát bên lan can, mắt nhìn ra Đại Lộ Hòa Bình trước cửa cửa dinh, tôi đứng bên phải Tư Lệnh, anh Việt ( *) đứng bên trái. Trên lộ, chỉ có vài chiếc xe qua lại, người thưa thớt, khung cảnh vắng vẻ như chiều 30 Tết. Bất chợt, Thiếu Tướng bật khóc. Tư Lệnh cố nén không khóc thành tiếng, nhưng những giọt nước mắt tuôn trào chảy dài trên khuôn mặt đau buồn vì nước mất nhà tan. Tôi cũng khóc theo, anh Việt cũng vậy. Ba người đứng trên sân thượng trước mặt tiền dinh, mặc cho nước mắt tự do tuôn chảy…”.
(*) Trung úy Việt : sĩ quan liên lạc
Tối 30/4 , sau lệnh đầu hàng, trong khi nhiều “đại bàng” tìm cách thoát thân, thì tướng Nam là vị chỉ huy quân sự có cấp bậc cao nhất, có lực lượng hùng hậu nhất, (hơn cả quyền Tổng tham mưu trưởng QLVNCH: Chuẩn tướng nằm vùng Nguyễn Hữu (vô ?) Hạnh), lại bỏ ngày giờ đi thăm hết các thương binh, thể hiện tình “huynh đệ chi binh”, như môt câu trong bài hát của ns Anh Bằng: “… Sống chết có nhau là / huynh đệ chi binh ” !
Nói với người thương binh cụt hai chân: “Qua không bỏ các em đâu. Qua ở lại với các em”. Ông Nam nói và ông Nam làm: ông đã ở lại, vĩnh viễn ở lại, “Người ở lại Tây Đô” không chỉ ở lại với Cần Thơ, với “các em” thương binh trong quân y viện Phan thanh Giản, mà còn ở lại trong lòng người dân Việt Nam Cộng Hòa. Mà không chỉ với người Cộng Hòa, theo như lời kể (2014) của “cựu” tù nhân CS, luật sư Lê Công Định.
“Vào ngày 1/5/1980, sau bữa ăn trưa, ba tôi ngồi uống trà và trò chuyện với các anh em chúng tôi về những ngày tháng Tư của 5 năm về trước. Ba tôi, người thuộc bên thắng cuộc phía miền Nam, đã tham gia chiến tranh vì mơ ước hòa bình và, cũng như nhiều người đương thời, ông đã vỡ mộng vài năm sau khi cuộc chiến kết thúc. Ông kể với lòng kính phục về Thiếu Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh Quân đoàn 4 của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa (VNCH), vị danh tướng đã tuẫn tiết sau khi Sài Gòn thất thủ”.
Ông Định viết thêm:
“Trở lại câu chuyện ban đầu, hình ảnh về tướng Nguyễn Khoa Nam do ba tôi kể lại đã khiến tôi lao vào tìm hiểu nhiều hơn về các vị danh tướng VNCH khác, mà thật lòng tôi rất kính trọng, giống ba tôi. Đọc quyển sách “Chân dung các tướng ngụy Sài Gòn” được bên thắng cuộc in và tái bản nhiều lần sau 1975 nhằm mục đích bôi nhọ quân đội và tướng lĩnh của bên thua cuộc, tôi không khỏi bật cười với ý nghĩ rằng chân dung tồi tệ mà tác giả muốn phác họa cho các tướng VNCH thật ra thích hợp và xứng đáng dành cho những sĩ quan Quân Đội Nhân Dân VN thời bình ngày nay hơn. ( https://www.facebook.com/LSLeCongDi…/posts/1412420875698359… ) !
Ở đây, trong một vài buổi dạ tiệc, dạ vũ, với phần đầu chương trình “cùng (?) hát, cùng… chịu trận (!!!)”, thỉnh thoảng tôi lại nghe (!) câu hát “nước mắt đàn ông không rơi từng giọt / nước mắt đàn ông chôn sâu trong lòng…”, một câu tuy “cải lương” nhưng nghĩ lại cũng không sai .
Đàn ông rất ít ai khóc (trừ… ca sĩ Anh Khoa), nói gì đến “lính Dù lên điểm” Nguyễn khoa Nam, vào sinh ra tử hằng ngày, lon lá đều lên ở chiến trường (ngoài 5 năm “chịu trận” với chức vụ Đại Đội Trưởng Kỹ Thuật Nhảy Dù). 1961 – 1972 từ Đại úy trưởng ban 3 / TĐoàn 3 Dù lên đến Thiếu tướng Tư lệnh sư đoàn 7. Chưa nói Tướng Nam, qua ký ức những người tiếp cận, là một người ăn nói điềm đạm, ít khi biểu lộ tình cảm. Thế mà cuối cùng ông lại khóc trước mặt thuộc cấp ! Khóc những hai lần !
Hình dung buổi chiều ghê rợn ấy, buổi chiều 30/4, không ai biết chuyện gì sẽ xảy ra, khi đã có lệnh trên buông súng, khi đang ào ào kẻ chạy, người đi. Nhưng xe Tư Lệnh vẫn cắm cờ, hiên ngang, phom phom vào quân y viện. Hình dung buổi sáng 1/5, từ lầu cao tư dinh, 3 thầy trò im lặng đứng bên nhau nhìn ra Hòa Bình, cái đại lộ thường nhật ngựa xe như nước, bây giờ chỉ hớt hãi dăm bóng người qua. Rồi một người bật khóc, hai người khác khóc theo !
Đó là những người đàn ông, những người trai thời loạn, đã quen tiếng đạn bom, đã kề với cái chết. Thế mà bây giờ lại khóc. Sử sách chỉ ghi điều chánh yếu, không ghi chi tiết nhưng ai dám quả quyết rằng, trước khi tự sát, Hoàng Diệu không khóc, Võ Tánh không khóc, Phan thanh Giản không khóc…. Vv ? Khóc không vì sợ, không vì yếu lòng, “xưa nay chinh chiến mấy ai về”. Nước mắt này là nước mắt uất hận, tức tối, đau thương… Như muốn cắn lưỡi phun máu hỏi trời “Tại sao lại là như thế ?!”
Cũng những ngày này, 47 năm trước, 12/4/1972: Trung tá Nguyễn Đình Bảo, tiểu đoàn trưởng 11 Dù, đã ở lại “Charlie”, sau 5 ngày quần thảo với 1 đối phương đông gấp 6 lần (2 trung đoàn bộ binh + 1 trung đoàn pháo) !
Ông Bảo là đàn em ông Nam. Cả hai ông đều ăn gạo sấy, uống bi-đông Nhảy-Dù từ lúc là sĩ quan mới ra trường lên đến cấp chỉ huy. Khi ông đại tá Nam nắm Lữ Đoàn 3 thì ông thiếu tá Bảo là một tiểu đoàn phó. Bây giờ “người ở lại Charlie”, “kẻ ngã xuống Cần Thơ”.
Charlie hay Cần Thơ đều bắt đầu bằng “C”, khác chăng một bên đồi cao, một bên thành phố !
Khóc anh Bảo, nhạc sĩ Trần thiện Thanh viết: “Nhớ anh trời làm cơn bão”. Cơn bão âm ỉ từ 72 biến thành hồng thủy, địa chấn 75: nước mất, nhà tan, với biết bao nhiêu là xác người Nam Việt: xác lính can trường, xác dân vô tộ . Trong số những cái chết can trường, có cái chết tự sát của một người Việt tên Nam.
Tôi đã trãi qua (hầu như) trắng đêm 1/4/2019! Lãng vãng trong đầu là khuôn mặt cương ngh , oai nghiêm của một người đàn ông. Với hai hàng nước mắt !
Người đàn ông đó là Thiếu tướng tư lệnh vùng 4 Nguyễn khoa Nam ! Hai hàng nước mắt đó là những giọt lệ cuối đời ông. Một cuối đời đúng nghĩa. Bởi, chỉ vài mươi phút sau, ông đã kê súng bắn vào màng tang tự sát.
“Tư Lệnh thà chết chứ không bàn giao !”
Huỳnh Kim Thu

Fra: thaison21012 <thaison21012@gmail.com>
Date: søn. 7. apr. 2019 kl. 14:21
Subject:  CHUYẾN ĐI KINH HOÀNG: Pham thi Duyen
From: Loc Lam <loclam1@gmail.com>
Date: 4/6/19 2:55 PM (GMT-06:00)
To:
Subject: Fwd: [PSXH] Fw: CHUYẾN ĐI KINH HOÀNG: Pham thi Duyen

CHUYẾN ĐI KINH HOÀNG

Cuộc đời chúng ta có những điều trôi qua, rồi tan biến như cơn gió thoảng. Tuy nhiên, có những điều mãi mãi in đậm trong ký ức, dù có muốn quên cũng không thể nào quên được. Đối với tôi, một trong những điều không thể nào quên và cũng là món nợ không bao giờ trả được, dù bây giờ tôi có tiền rừng, bạc biển chăng nữa!
Câu chuyện xảy ra đã hơn ba mươi mốt năm. Hôm nay tôi xin ghi lại những phép lạ, mà tôi may mắn được chứng nghiệm trong chuyến đi bảy ngày đêm lênh đênh trên biển cả, với nhiều biến cố hãi hùng và kinh dị. Nếu như không có bàn tay nhiệm mầu của Thượng Đế, Trời, Phật cứu vớt thì 137 người đã cùng chết trong lòng đại dương trên bước đường đi tìm "Tự Do".
                                                                                      ****
Chuyến đi rất bất ngờ, do hai ân nhân là anh Nguyễn Vĩnh Tôn và anh ruột là Nguyễn Quốc Trụ, cựu Đại Úy thuộc binh chủng Nhảy Dù Quân Đội VNCH bảo trợ cho tôi mọi chi phí được trả từ Hoa Kỳ.
Có lẽ vì đột ngột, nên tôi đã khóc suốt đêm và không thể nào ngủ được. Tâm trạng khác hẳn với những lần đi trước. Chưa ra đi mà trong lòng đã tràn dâng niềm thương nhớ những người thân yêu trong gia đình.
Khoảng 3 giờ sáng, ngày 23-9-1984, tôi đến thắp nhang bàn thờ Phật. Nguyện cầu cho chuyến đi được bình an, may mắn, tai qua nạn khỏi, không bị tù đày, nhất là đừng gặp hải tặc. Có như thế tôi mới có thể giúp được gia đình thoát được cuộc sống bế tắc, khó khăn như hiện nay. Tôi cầu nguyện sức khoẻ, bình an, may mắn đến cho bố tôi đã già yếu, bệnh tật, cùng các anh chị em và một người tôi gọi là Cô đang sống đơn chiếc (đúng ra là Dì vì là em ruột của mẹ tôi). Cô đã đùm bọc, giúp đỡ gia đình chúng tôi rất nhiều kể từ khi Mẹ tôi bất ngờ ra đi vì quá đau khổ và lo sợ cho ngày mai đen tối của một gia đình mà hầu hết là quân nhân, công chức của chính quyền Việt Nam Cộng Hoà, sau biến cố 30-4-1975.
Và trong chuyến đi này, tôi cũng có thêm một lời nguyện cầu:Tôi sẽ tái ngộ một“Thiên Thần” đang chờ đợi tôi với một tấm lòng trong sáng và cao quý.
Lúc 3giờ 45 sáng, tôi đánh thức cô tôi dậy. Cô cũng vừa mới chợp mắt được một chút. Tôi cố giữ thật bình tĩnh chào từ giã cô để cho cô được yên tâm. Trong gia đình và bà con thân thuộc chỉ có cô lúc nào cũng bên cạnh tôi và là người duy nhất biết tôi sắp đi xa, mà chuyến đi này lành thì ít, nhưng dữ thì quá nhiều không thể nào lường được. Ngoài ra, cần phải giữ bí mật vì sơ xuất sẽ gặp những điều nguy hiểm có thể xảy ra.
Đúng 4:00 giờ sáng, nhìn qua khe cửa sổ, tôi thấy đèn từ một chiếc Honda gắn máy chớp đi, chớp lại bốn lần trước cửa nhà. Đây là tín hiệu mà tôi đã được cho biết trước: Có người trong nhóm tổ chức sẽ đến đón tôi.
Tôi lặng lẽ, nhẹ nhàng mở cửa. Tay ôm một túi xách nhỏ gồm: một ít lương khô, một bộ quần áo cũ, vài tấm ảnh gia đình, một quyển kinh loại bỏ túi “Bạch Y Thần Chú” do bác tôi cho. Bác căn dặn phải thường xuyên khấn niệm để cầu xin bình an; và một sợi dây chuyền có hình con chim Đại Bàng đang xoè cánh do một người bạn tặng tôi từ lâu. Tôi luôn mang theo trong người vì biết người ấy luôn luôn cầu nguyện cho tôi được may mắn. Đối với tôi, đó cũng là một biểu tượng "thần thoại." Tôi sẽ được chim Đại Bàng mang tôi đến vùng trời mơ ước.Tôi cũng bỏ theo một bình nước nhỏ, tuy rằng, người của tổ chức dặn đừng mang theo gì hết vì họ đã chuẩn bị tất cả đâu vào đó rồi.
Ngồi sau lưng người lái Honda mà tôi hoàn toàn không hề quen biết, tôi hơi lo sợ. Ngoái cổ nhìn lại con hẻm nhỏ thân yêu của một xóm nghèo gần ngã ba Cao Thắng và Trần Quốc Toản, Sài gòn. Giờ này hầu như mọi người đang yên giấc. Tôi chào vĩnh biệt trong nước mắt căn nhà mà gia đình tôi nương náu gần mười năm qua. Nơi đây bố tôi đã đưa cả gia đình về sống, sau khi trả lại căn nhà do chính phủ VNCH cấp cho công chức chỉ trước biến cố 30/04/1975 vài tháng. Nếu còn tiếp tục ở lại căn nhà đó thì không biết gia đình tôi sẽ gặp khó khăn biết chừng nào, khi người ta đến tiếp thu và yêu cầu gia đình tôi phải ra khỏi trong vòng hai mươi bốn giờ.
Tài xế Honda chở tôi ra bến xe miền Tây. Tại đây có một ngưòi đàn ông đội nón đen đã đứng chờ sẵn, ông ta trao vé xe đò đã mua từ trước để tôi lên xe đi Mỹ Tho. Khi đến Mỹ Tho, tôi được một người đàn ông khác hướng dẫn chuyển xe đi tiếp Bến Tre. Đến nơi, khoảng giữa trưa, tôi cùng mấy nguời đã tới trước cùng ngồi ăn với nhau. Tôi nghĩ họ là những người sẽ cùng đi chung chuyến vượt biên với tôi.
Sau khi ăn trưa xong, tất cả được mời lên xe Lambretta ba bánh để chở ra bến đò gần đó. Tại đây, người ta chia chúng tôi ra từng nhóm xuống những chiếc ghe nhỏ chở đầy trái cây để ngụy trang mà dân vượt biên còn gọi là “Ghe Taxi, hay “Cá Nhỏ”, để tránh những trạm kiểm soát dọc bờ sông, hoặc đột xuất có thể chận lại khám xét bất thình lình.
Ghe đi được một lúc thì nhóm tổ chức phát cho mỗi người một miếng giấy nhỏ, với mật mã do nhóm tổ chức ghi trên đó. Cho đến chiều thì ghe tấp vào một bụi rậm ven sông để chờ đợi. Khi bóng đêm vừa bao trùm xuống, ghe lại tiếp tục đi thêm một khoảng khá xa. Tại đây đã có một ghe lớn neo sẵn, còn gọi là “Cá Lớn.” Đây là ghe sẽ đưa chúng tôi ra đi trên biển cả.
Lúc này đã có nhiều ghe nhỏ đang vây quanh và mọi người cùng một lúc đang tìm mọi cách để leo lên Cá Lớn, nên vô cùng hỗn loạn. Phụ nữ, trẻ em đứng trên vai những người đàn ông hay thân nhân để vịn vào thành ghe, sau đó nhảy lọt được vào cá lớn. Trước cảnh đó, tôi chỉ muốn bỏ cuộc, vì nghĩ rằng tôi không thể nào đủ sức để có thể tự nhảy lên bám được vào thành ghe, rồi sau đó leo vào bên trong. Thời học sinh, tôi luôn luôn đứng cuối lớp về môn Thể Dục, đặc biệt là hai môn leo dây và nhảy cao thì yếu nhất. Bây giờ, nếu đứng trên mặt đất bằng phẳng, tôi cũng không thể nào làm nỗi, huống chi là phải bám vào thành ghe đang tròng trành trên sông nước. Tôi lại nhỏ con, thể lực rất yếu đuối; nếu chẳng may không vào được con cá lớn mà bị rớt xuống sông trong cảnh hỗn loạn và bóng đêm dày đặc này, chắc chắn một trăm phần trăm là chết đuối, vì tôi không biết bơi và cũng chẳng có ai can đảm cứu tôi trong lúc này. Nhưng nếu bỏ cuộc, có nghĩa là sẽ ở tù, vì tôi không thể tìm cách trở về nhà được trong lúc này nữa.
Tôi chỉ còn biết cầu xin Trời, Phật, Ông Bà khuất mặt hãy cứu vớt: “Con không thể đi tù thêm lần nữa! Con không thể nào chết. Con phải đi thoát  được thì con mới có cơ hội giúp gia đình. Tất cả đang trông vào con. Gia đình con không có điều kiện tiền bạc để cho con vượt biên. Nay có quý nhơn giúp đỡ, con chỉ cần quyết tâm, chấp nhận gian nguy là đạt được. Trời Phật có thương con, phù hộ cho con thì con sẽ vượt qua.”
Tôi đã có kinh nghiệm trong lần vượt biên ở Cần Giờ bị bắt vào năm 1981 và ở tù trong Chí Hoà, sau đó bị đưa đi lao động ở Sông Bé. Chỉ trong vài phút thôi, Cá Lớn sẽ nhổ neo. Không bao giờ tổ chức vượt biên đợi người lên đầy đủ mới ra đi.
Tôi không thể do dự hay chần chờ gì nữa! Phải quyết định tức khắc. Tôi vừa khóc, vừa niệm Phật, vừa cố lấy hết sức nhắm vào thành Cá Lớn, tung hết sức bình sinh nhảy thật cao, thật chắc. Ôi! thật là may mắn! Tôi bám được vào thành ghe. Ôi! Tôi đã lọt thỏm vào Cá Lớn. Phải chăng có một sức mạnh vô hình nào đã nhấc bổng tôi lên, để tôi được vào khoang ghe, vì bình thường tôi không bao giờ có thể làm nỗi điều này. Chưa kịp đứng lên thì đã bị một số người nhảy tiếp sau đạp và đè lên khắp người. Tôi lại tiếp tục niệm Phật giúp tôi có đủ sức đứng dậy; nếu không tôi sẽ bị chết bẹp ở đây. May sao!tôi đứng dậy được và nép sát người vào thành ghe.
Chưa kịp hoàn hồn, nghe tiếng hét to: “Không ai được lên nữa! Ghe đã quá trọng tải. Nếu còn tiếp tục nhảy lên, ghe sẽ bị lật và chìm, tất cả mọi  người sẽ chết tại giòng sông này.” Ngay sau đó, người của tổ chức bật đèn pin sáng lên để bắt đầu kiểm tra mật mã. Một số người trình mất mã, nhưng họ cho là không đúng và ra lệnh quăng những người này xuống những chiếc “Ta Xi” vẫn còn đang bao quanh con"Cá Lớn"chờ đợi.
Khi đến chỗ tôi đứng, tôi rất tự tin trao mảnh giấy ra cho họ xem. Vừa đọc xong, họ nói "Đây là mật mã của Ba Châu (tên người liên lạc dẫn tôi đi.) Chúng tôi không chấp nhận khách của Ba Châu. Vậy xin mời cô trở xuống ghe taxi đi về." Nghe đến đây, tôi tưởng chừng như tiếng sét đánh ngang tai, chân tay rụng rời. Làm sao lại xảy ra như vậy? Khách nào của Ba Châu cũng đều bị tai hoạ bất ngờ vì sự bất đồng và phản bội trong nội bộ tổ chức với nhau.
Nghĩ lại, nếu không nhờ phép lạ thì làm sao tôi lọt được vào cá lớn, rồi sau đó đứng dậy an toàn được. Vậy mà bây giờ bị đuổi xuống và chắc chắn sẽ lại bị ở tù.
Không thể được! Tôi bật khóc và năn nỉ "Tôi cũng là khách như những người khác, nhưng chẳng may là khách của Ba Châu. Gia đình tôi đã thoả thuận mọi điều kiện cho chuyến đi qua Ba Châu. Nay xin các bác, các anh cho tôi được tiếp tục đi. Gia đình tôi ở Mỹ sẽ đền ơn theo mọi điều kiện yêu cầu của quí vị." Khóc lóc, van nài, nhưng họ vẫn một mực dứt khoát từ chối. Hai người đàn ông được lệnh khiêng đầu và chân tôi quăng xuống ghe taxi. Tôi coi như chắc chắn vào tù. Trong lòng quá đau xót và coi như số tôi phải vào tù không thể nào tránh được.
Bỗng nhiên, ánh sáng đèn pin vụt tắt. Hai người đang khiêng tôi bèn bỏ tôi xuống sàn ghe. Cá Lớn được lệnh phải xả hết tốc lực phóng ra biển. Có lẽ thời gian mua bãi đã hết, nếu chậm trễ toán công an biên phòng khác đến đổi phiên trực có thể giữ ghe lại? Tôi bàng hoàng mừng rỡ; chỉ trong tích tắc tôi đã thoát được cảnh ngục tù. Phải chăng cũng là một phép lạ do Ơn Trên đã cứu tôi?
Chiếc ghe nhắm hướng ra biển lao như mũi tên bay trong bóng đêm dày đặc nghe rợn cả người. Chạy khoảng hơn bốn tiếng đồng hồ thì có những tiếng reo mừng:"Ghe đã ra được Hải Phận Quốc Tế. Chúng ta coi như sắp được tự do rồi.” Vừa nghe xong, tôi oà lên khóc nức nở, dù trong lòng cũng mừng. Vì từ giờ phút này tôi đã thật sự xa tất cả những người thân yêu. Không biết đến bao giờ mới có thể gặp lại, hoặc xa lìa vĩnh viễn; nếu như gặp nạn không tới được bến bờ.
Lúc này nhóm tổ chức bắt đầu quay lại hạch sách những hành khách của Ba Châu đang có mặt trên ghe. Họ doạ nạt từng người. Ai có cà rá, đồng hồ hay bất kỳ vật nào có giá trị thì đưa cho họ ngay. Khi họ hỏi tôi có gì đưa cho họ, tôi trả lời không có gì hết, ngoài một ít hành lý tôi đang có trên người. Thậ ra, tôi có giấu một chỉ vàng trong áo lót được cô tôi cho để phòng khi hữu sự. Tôi không thể nào nộp cho họ.Tôi năn nỉ với họ là khi nào được định cư, tôi hứa sẽ xin hoàn lại đầy đủ.
Trời lại dần dần sáng. Một ngày mới bắt đầu trên đại dương bao la. Tất cả đều vui mừng và hy vọng vài ngày nữa sẽ đến được bất cứ trại tị nạn nào và sau đó được đi định cư ở một nước thứ ba; lúc đó coi như đổi đời. Khi mặt trời lên cao, nắng chói chang, có lẽ là giữa trưa, nhóm chủ ghe bắt đầu cho phân phối nước uống. Tiêu chuẩn cho mỗi người là hai muỗng canh, phát vào buổi sáng và vào buổi chiều. Điều này khiến mọi người trên ghe hoang mang. Vậy là sao? Lúc đi đã hứa lương thực, nước uống cung cấp đầy đủ. Bây giờ lại xảy ra tình huống kỳ quái này! Có chuyện gì đây?
Lúc này, chủ ghe mới cho biết là anh tài công chánh mang theo các phương tiện đi biển đã bị kẹt lại, không hiểu vì lý do gì mà không lên Cá Lớn được? Nên chúng ta khó hy vọng sẽ đi đến được các trại tị nạn như đã dự tính, vì trên ghe không ai có kinh nghiệm đi biển. Tài công phụ chỉ có kinh nghiệm đi đường sông. Bây giờ chỉ còn trông mong vào số mệnh và ơn trên cứu giúp. Phải lênh đênh trên biển không biết bao nhiêu ngày. Cầu xin sóng yên, biển lặng và gặp tàu thuyền nào đi ngang qua xin được cứu vớt, như vài trường hợp các ghe đi trước may mắn đã gặp. Bây giờ, xin các bà con thông cảm về việc cần phải tiết kiệm nước tối đa để có thể cầm cự trong thời gian dài chưa biết đến khi nào.
Khi nghe chủ ghe giải thích xong, mọi người trên ghe cùng nhìn nhau lo lắng. Riêng tôi chết lặng cả người. Bao nhiêu tin tức về chuyện vượt biên lởn vởn trong đầu óc tôi. Có những chuyến, nếu may mắn không có gì xảy ra thì chỉ vài ba ngày là đến được trại tị nạn. Có những chuyến lênh đênh cả tháng trời bị các cơn đói khát, bệnh tật hành hạ. Đôi khi phải ăn thịt lẫn nhau để được sống còn; và cũng có những chuyến bị hải tặc tấn công cướp bóc, hảm hiếp và những phụ nữ bị bắt đem theo chúng. Biết bao là những bi kịch thảm khốc về chuyện vượt biên mà các cơ quan truyền thông đã đăng tải.
Tôi nghĩ số phận chíếc ghe của chúng tôi sẽ trôi giạt về đâu? Bến bờ vô định nào? Lương thực, nước uống, xăng nhớt sẽ cạn kiệt trong bao lâu nữa? Và cũng có thể làm mồi cho đại dương. Tôi có đạt được sự đổi đời như mơ ước, được sống và học hỏi ở các nước văn minh, dân chủ, tự do. Lúc đó tôi sẽ có điều kiện để giúp đỡ gia đình đang tin tưởng vào nơi tôi. Hoặc tôi tự trách mình đi tìm một cái chết ngu xuẩn, làm cho gia đình đau khổ hơn và mang tội bất hiếu với bố tôi. Trước mắt, tôi cứ niệm Phật, cầu nguyện cho được may mắn. Mà rõ ràng tôi đã thoát chết từ lúc nhảy vào được cá lớn, và chút xíu nữa đã bị chủ ghe ném xuống "taxi", nếu không có báo động bất ngờ xảy đến.
Bóng đêm lại buông xuống, tôi mệt đừ và khát rát cả cổ họng. Phải chờ đến ngày mai mới được phát nước uống. Tôi nghĩ mình có đem theo bình một lít nước. Nếu mỗi ngày uống hai muỗng thì tôi có thể cầm cự được trên nửa tháng. Thế là tôi lấy ra hớp một hớp. Chưa kịp cất lại thì vợ chồng trẻ và cô em gái ngồi kế bên thấy tôi cầm bình nước thì van xin cho họ uống bằng giọng nói lễ phép và lịch sự. Tôi nghĩ cho ba người uống thì nhiều quá, nó sẽ ảnh hưởng đến số nước dự trữ của tôi và cũng là bùa hộ mạng trong lúc này. Nhưng thấy họ nói quá, nên động lòng trắc ẩn.Tôi trao bình nước cho họ và nói "xin mỗi người chỉ được một hớp thôi nhé!" Tuy nhiên, khi cầm được bình nước trên tay, sau khi hớp xong, họ ngang ngược không chịu trả lại, mà còn giở giọng côn đồ ra thách đố tôi muốn làm gì thì làm! Vô tình tôi đã tự đánh mất bùa hộ mệnh vì lòng thương không đúng người.
Ngày thứ hai trôi giạt trên biển theo một hướng vô định. Cầu mong sẽ gặp đuợc tàu thuyền đi ngang qua giúp đỡ, hay phi cơ bay trên đầu để ra dấu kêu cứu. Nhưng chỉ có cả một không gian tĩnh mịch, im lặng của đại dương lạnh lùng và ghê sợ. Trên bầu trời không có bóng dáng một loài chim biển nào. Mọi người đoán là ghe đã đi lạc và cách rất xa đất liền. Tôi vừa đói, vừa khát, vừa nhức đầu, chóng mặt vì các mùi hôi thối của ói mửa, tiêu tiểu của trẻ con bắt đầu xông lên nồng nặc, vì chỉ có một chỗ đi vệ sinh nằm ở phía cuối ghe, trong khi người nằm, kẻ ngồi la liệt không còn chỗ để nhúc nhích.
Sự khủng hoảng bắt đầu khi cô bé khoảng mười lăm tuổi, ngồi đối diện tôi bị ngất xỉu vì khát. Mẹ của cô khẩn khoản, van xin “Ai có nuớc làm ơn cho con tôi xin một hớp; một hớp nước có thể cứu sống được con tôi”. Không một ai lên tiếng! Có lẽ mọi người nhớ lại lời nhóm chủ tàu căn dặn và đe doạ “Không ai được tự động đi lại, phải tuyệt đối giữ gìn trật tự tối đa. Không được đòi hỏi bất cứ gì! Nếu ai không chấp hành và cãi lời sẽ bị ném ngay xuống biển.” Nhìn mặt cô bé nhợt nhạt vì khát, chỉ cần một muỗng nước là có thể đem lại sự sống cho cô ta. Không thể đành lòng nhìn cô bé đang bất động, dù kiệt lực, tôi cũng cố gắng bò lên cầu thang để gặp nhóm chủ tàu xin nước cho cô bé. Họ nhìn tôi bằng cặp mắt giận dữ. Tôi bình tĩnh nói với họ là tôi không xin cho tôi mà xin các ông hãy nhỏ lòng thương cho cô bé kia đang cần vài muỗng nước. Nếu không, cô ta sẽ chết vì khát! Quả thật, khi được vài muỗng nước thì cô bé lần hồi tỉnh lại. Gia đình cô rất vui mừng và tôi cũng vui theo.
Ngày thứ ba, biển vẫn yên, sóng vẫn lặng. Đúng là Thái Bình Dương! Tuy nhiên, trong lòng mọi người đều bồn chồn, lo lắng. Sự đói khát đã bắt đầu hoành hành. Ánh nắng mặt trời chiếu xuống, thì cô bé lại kiệt sức và bất tỉnh lần nữa. Gia đình cô bé không dám gặp chủ tàu xin nước vì sợ chủ tàu nóng giận thì sẽ bị phiền phức. Sự việc xảy ra trước mắt tôi, nên tôi cũng không thể làm ngơ. Và tôi cũng cố lết đi gặp chủ tàu xin cho cô bé vài muỗng nước. Sau khi được vài muỗng nước thì cô bắt đầu tỉnh lại dần như hôm qua.
Ánh nắng càng lúc càng gay gắt. Tôi tưởng chừng như sắp ngất xỉu đến nơi giống như cô bé vừa rồi. May sao, có một cơn mưa trút xuống. Ôi! Tôi quá mừng như vừa được hồi sinh. Những giọt nước mưa như nước cam lồ của Phật Quan Thế Âm làm mát dịu cổ họng đang rát bỏng của tôi. Nhóm chủ tàu chạy đi lấy mấy tấm bạt Nylon để hứng nước mưa, xong đổ vào những thùng nhựa. Kết quả không ai có thể thể nào uống được vì những thùng chứa nước mưa trước đó dùng đựng nhớt, xăng dầu, làm cho nước mưa có mùi giống như nước cống rảnh, đen ngòm cho vào miệng bị nôn ra ngoài ngay. Nhờ cơn mưa bất chợt coi như một phép màu đã tiếp sức cho tôi sống còn.
Sang đến ngày thứ tư lênh đênh trong vô định. Giấc mơ tìm tự do có dấu hiệu tốt đẹp hơn. Đã thấy những cánh chim biển bay trên bầu trời, thấy những vệt khói dài của vài chiếc phi cơ phản lực để lại. Bóng dáng những chiếc tàu nhấp nhô từ xa đang tiến lại gần hơn. Chủ ghe cho người đốt quần áo để phát tín hiệu xin tiếp cứu. Nhưng tất cả đều vô ích. Không một tàu nào đến gần để giúp đỡ. Có lẽ họ sợ lãnh trách nhiệm và gặp nhiều phiền toái?
Thế rồi, thất vọng này, tiếp nối theo thất vọng khác. Những cơn đói khát dày vò cơ thể. Tôi bị khát rang cả cổ, nên không thể nào nuốt được bất cứ gì. Thức ăn mang theo tôi đều cho hết. Trong lúc này tôi chỉ cần một hớp nước. Nhưng nếu tôi xin chủ tàu, chắc chắn ông ta sẽ cho người quăng tôi xuống biển như lời ông ta đã hăm doạ. Trong lúc đó gia đình chủ tàu có nước, có dừa, có cam quýt tha hồ sung sướng không sợ đói khát. Vài người trên ghe có sáng kiến mưu sinh thoát hiểm. Họ lượm các vỏ dừa ném bừa bãi dưới ghe, đem tướt những lớp xơ để ngậm lấy chất đắng, chát và có độ ẩm để giữ cho cổ họng đỡ phần nào cháy bỏng vì khát. Nhờ vậy mà chúng tôi vẫn tiếp tục cầm cự, chưa bị gục ngã.
Cô bé trước mặt tôi lại ngất xỉu lần thứ ba trong ba ngày liên tiếp. Tôi nhờ cơn mưa hôm qua được hồi sinh, nay nhờ ngậm thêm xơ vỏ dừa, nên cũng có thể bò lên cầu thang xin nước cho cô bé. Không may, ngày hôm nay nhóm chủ tàu cương quyết từ chối. Họ lấy cớ là muốn sự công bằng cho mọi người. Trong vòng 30 phút cô bé cứ lập đi, lập lại: “cho tôi nước, cho tôi xin nước, nước, nước."Tôi thấy tội nghiệp và đau lòng qua, cầu mong cho mưa xuống ngay bây giờ. Ôi! Tôi không tin vào mắt tôi. Cô bé nấc lên, đảo một vòng mắt và rồi nhắm nghiền lại và bất động. Ngưòi Mẹ hét lên “Cứu con tôi, con tôi chết rồi.” Tất cả mọi người đều sửng sốt. Nghe la, nhóm chủ tàu vội vàng chạy xuống đem theo nước đổ vào miệng cô bé. Nhưng vô ích! Cô bé đã bất động và không bao giờ cần xin nước nữa! Mẹ cô, anh em trong gia đình khóc nức nở. Mọi người, kể cả nhóm chủ tàu cũng đều xúc động. Có lẽ họ đang hối hận về sự sai lầm của họ, khi không cho cô nước như hai ngày vừa qua. Nhất là đã không giữ lời hứa lo cho khách lương thực đầy đủ trong mười ngày.
Mới có ngày thứ năm, đã có người chết vì không được cung cấp nước. Với tình trạng con thuyền trôi vô định không biết đi về đâu? Dù biển yên, sóng lặng cũng sẽ chết dần, chết mòn, chứ đừng nghĩ chi đến sóng to, gió lớn. Lần đầu tiên, tôi thấy bóng tử thần đang chập chờn. Mọi người vừa xúc động, vừa lo sợ sẽ có thêm nhiều người kiệt sức, trước khi đến được “bến bờ Tự Do”.
Nắng đã bắt đầu tắt, hoàng hôn đang dần xuống. Nhóm chủ tàu quyết định "thủy táng cô bé". Họ kêu gọi bất cứ ai tùy theo tôn giáo của mình cầu nguyện cho cô bé. Không có ai hết! Tôi không hề đi lễ chùa, không biết gì về nghi thức tụng niệm. Nhưng từ những năm sau 30/04/1975, tôi đã sống triền miên trong nước mắt, chỉ biết đêm ngày cầu nguyện Trời Phật cứu vớt cho gia đình đang tan nát vì cha và anh lâm nạn, trong khi Mẹ qua đời và các em còn quá nhỏ dại.
Những năm gần đây, có những quý nhân giúp tôi vượt biên. Trong người tôi luôn luôn mang theo quyển kinh “Bạch Y Thần Chú” để cầu nguyện. Biết rằng đây không phải là kinh cầu siêu. Nhưng tôi cảm thấy có thể làm người mất đi được ấm áp, nên tôi tình nguyện đứng ra thắp nhang tụng niệm. Mẹ của cô bé cho tôi biết tên em là Tuyết Nhiên (tôi không còn nhớ họ). Sau khi thắp nhang do chủ tàu mang theo đưa cho. Tôi lăm răm tụng niệm. Sau đó, hai người đàn ông đến gần xác cô bé, người đỡ đầu, kẻ khiêng chân đẩy xác cô bé xuống biển, trong tiếng khóc nghẹn ngào của người Mẹ và anh em trong gia đình. Tôi cũng không cầm được nước mắt, thương tiếc cho cô bé hồn nhiên ngồi trước mặt tôi năm ngày qua. Hôm nay em đã đi vào lòng đại dương chỉ vì nhóm tổ chức đã tàn nhẫn bội ước.
Tôi chợt rùng mình:"Nếu không có cơn mưa nhiệm mầu hôm qua, thì nguời đầu tiên bị Thủy Táng đã là tôi.” Vì có lẽ không ai dám gặp nhóm tổ chức để xin nước cho tôi được hồi sinh thêm vài ngày như Tuyết Nhiên.
Sự xúc động vẫn chưa nguôi, thì nghe tiếng xôn xao"Máy ghe bị hư rồi, tự nhiên máy ghe bị tắt, không biết làm cách nào đễ cho ghe di chuyển.Vậy, bà con nào biết gì về sửa chữa máy móc làm ơn giúp để cho ghe có thể đi tiếp." Một vài đàn ông, thanh niên đi tới chỗ đầu máy loay hoay sờ tới, sờ lui, nhưng chẳng mang lại kết quả gì! Chiếc ghe vẫn không thấy động đậy.
Sau đó một hiện tượng kỳ lạ mà tôi chưa bao giờ thấy trong đời đã diễn ra trước mắt tôi và mọi người: Tự nhiên, một số người đứng dậy nhốn nháo làm chiếc ghe tròng trành, nghiêng qua, nghiêng lại. Nhóm tổ chức hét lớn lên:“Xin bà con hãy ngồi yên, nếu còn tiếp tục ghe sẽ lật úp và mọi người sẽ chết hết.”Tôi kinh ngạc nhìn thấy vài người lần lượt sắc mặt trở thành đờ đẫn, mắt ngây dại và miệng thì thào: “Nước, cho tôi xin nước.” Đúng là ánh mắt và câu nói liên tục của Tuyết Nhiên trước khi ra đi. Đang nghĩ như vậy thì một cô gái trẻ ngồi cạnh tôi mấy hôm nay, cũng từ từ đổi sắc mặt và lập lại đúng câu đó, giống như những người kia.
Tôi vốn dĩ rất nhát. Sau khi Mẹ tôi mất, tôi không dám đi ngang bàn thờ Mẹ một mình. Vậy mà lúc ấy, trước ánh mắt kỳ quái của cô ta, tôi không hốt hoảng chạy đi tìm chỗ khác như người ta. Tôi nghĩ ngay lập tức:"Đúng là hồn của Tuyết Nhiên nhập vào cô này rồi.” Tôi bình tĩnh, nghiêm trang nhìn thẳng vào ánh mắt đờ đẫn, kỳ quái của cô ta và nói: “Tuyết Nhiên, em có sống khôn, thác thiêng Xin em hãy tha thứ cho những ai đã sai lầm không cho nước để em được hồi sức. Em hãy phù hộ cho Mẹ, cho anh em của em và bà con trên ghe đuợc an toàn, không bị nguy hiểm đến tính mạng. Nguyện cầu Trời, Phật, Chư Thiên Thánh Thần và Thủy Thần cho hương linh em được siêu thoát về cõi vĩnh hằng.Tôi niệm: “ Nam Mô A Di Đà Phật và Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát ba lần.” Thật là quá ngạc nhiên! Chỉ trong vài phút sắc mặt cô ta trở lại bình thường và không nhớ mình vừa nói những lời cuối cùng của Tuyết Nhiên như vài người khác mà cô thấy trước đó.
Càng lại ngạc nhiên hơn là vài phút sau đó có nhiều tiếng reo mừng:" Ồ, máy ghe đã nổ lại được rồi, ghe từ từ chuyển động và đi tiếp.”(Hai hiện tượng này không thể giải thích theo khoa học được và coi như hoang tưởng. Nhưng tất cả là sự thật một trăm phần trăm, mà cho đến nay tôi vẫn còn thắc mắc về sự kiện này.)
Không khí ảm đạm và đau buồn, kèm theo sự lo lắng, sợ hãi lại tiếp tục phủ trùm những thuyền nhân trên chiếc ghe đang di chuyển trong vô định. Hôm nay đã bước vào ngày thứ năm giữa đại dương bao la. Tôi nhớ là ngày 28 tháng 09, năm 1984.
Tất cả mọi người gia tăng sự lo lắng và hoang mang, nôn nóng cầu mong gặp đuợc bất cứ tàu thuyền nào đi ngang qua cứu. Sức chịu đựng càng ngày, càng mỏi mòn, kiệt quệ, tinh thần suy sụp! Làm sao có thể cầm cự được lâu dài? Tùy theo tôn giáo riêng của mình, mọi người cùng khấn nguyện đấng thiêng liêng, hiển linh phù trợ. Riêng tôi thì liên tục cầu nguyện Mẹ Quan Thế Âm Bồ Tát gia hộ. Thấp thoáng từ phía xa xa có vài bóng dáng những chiếc tàu đi ngang qua, nhưng sau đó biến dạng.
Thình lình, mọi người thấy một chiếc thuyền lớn xuất hiện và đang tiến dần về phía ghe của mình. Tất cả đều mừng rỡ và hy vọng gặp “Thần Hộ Mạng” đến cứu. Họ cho thuyền cặp sát ghe và quăng dây neo lên. Sau đó họ trèo qua ghe. Lúc đó tôi mới định thần và thấy năm người đàn ông đen như cột nhà cháy, râu ria rậm rạp, trên người chỉ mặc một quần xà lõn. Một người cầm súng dài. Tôi đoán có lẽ là tên cầm đầu? Bốn tên còn lại thì kẻ dao, người búa và mã tấu. Có tiếng xì xào “Chết mẹ rồi, gặp hải tặc là coi như xong đời.”
Tự nhiên, toàn thân thể tôi cảm thấy rụng rời. Ôi! Trời, Phật xin hãy cứu con! Con luôn ngày đêm nguyện cầu:“Đừng cho con gặp hải tặc. Nếu gia đình con đã đến lúc tận cùng, mạt vận. Con thà chết trong lòng đại dương, còn hơn rơi vào tay bọn hải tặc.” Lời nguyện cầu của con không  được Trời, Phật chứng giám. Không lẽ con tới số rồi sao?Tim tôi đập vào lồng ngực thình thịch y như tiếng trống. Tôi tưởng chừng như trái tim văng ra khỏi lồng ngực và tôi sẽ chết ngay tại chỗ.
Bọn chúng trao đổi với nhau bằng tiếng Thái và ra dấu hiệu cho mọi người. Ai cũng đoán và hiểu là "Không được di chuyển hay động đậy. Nếu cãi lời sẽ bị quăng xuống biển ngay lập tức.” Thế là, chúng chia nhau đi lục soát từng người, tịch thu những gì quý giá mà chúng bắt gặp. Có cả trăm người bị chúng lục soát.Tôi và vài người khác không có gì đáng giá, còn đa số không ít thì nhiều đều bị chúng tước đoạt của cải. Tính ra chúng tịch thu cũng kha khá. Nhóm chủ tàu coi như bị thiệt hại nhiều nhất. Sau đó tên cầm súng mang các “chiến lợi phẩm” cướp được đem trở lại thuyền. Bốn tên hải tặc trên ghe dõi mắt nhìn theo hắn một cách chăm chú, hình như muốn xem tên đầu đảng cất giấu chiến lợi phẩm ở đâu?
Bình thường, tôi được ví yếu như con sên, chậm hơn rùa vì thể lực tôi rất yếu đuối. Tôi chỉ muốn càng xa bọn chúng càng tốt, dù chiếc ghe dài chỉ khoảng hơn mười thước. Lợi dụng cơ hội này, tôi vụt đứng dậy, lao thật nhanh về phía cuối ghe, rồi ngội thụp xuống giữa tiếng lao xao của vài người “Bà nội này tới số rồi, muốn chết sao? Con nhỏ này chắc muốn bị ném xuống biển!”Ngay tức khắc, anh tài công ném cho tôi một cục nhớt đen thui và nói "Trắng quá, bôi ngay vào mặt đi." Tôi vội vã bôi ngay vào mặt mũi và khắp cả người. Vài cô ngồi bên cạnh nhao nhao kêu:"cho tôi xin cục nhớt với.” Anh tài công lại ném tiếp vài cục nữa về phía các cô gái. Thấy thế bọn cướp giơ cao hung khí la hét, chửi rủa và bắt phải im lặng. May sao, tên đầu đảng vẫn chưa quay lại ghe, nên bốn tên hải tặc tiếp tục đưa mắt nhìn về phía thuyền của chúng. Lúc này, nhìn lại thì tôi đang ngồi đối diện với Mẹ Tuyết Nhiên, mà trước đó khi hồn Tuyết Nhiên nhập vào vài người thì họ đã sợ chạy đi tìm chỗ khác, do đó nhiều người không còn ngồi vị trí cũ nữa.
Lập tức, bà giao cho tôi đứa con gái út khoảng 2,3 tuổi và nói thật nhanh, giống như ra lệnh:"Cô hãy ôm cháu vào lòng ngay đi."Mấy cô ngồi bên cạnh tôi định giật đứa bé từ trên tay tôi. Mẹ Tuyết Nhiên nói:"Yên ngay! Cô này là Dì ruột của cháu bé này.” Lúc này, bọn cướp qua tức giận, chúng dùng vũ khí đập mạnh xuống sàn ghe và xồng xộc tiến về phía cuối ghe đang ồn ào. Tên cầm dao găm, gương mặt đầy thẹo, đen đúa, râu ria lổm chổm dùng cánh tay mặt xốc tôi đứng lên, khiến đứa bé đang được tôi bồng khóc thét lên và đưa hai tay bấu chặt vào người tôi. Tên cướp có vẻ hơi nao núng. Hắn đưa mắt thật nhanh nhìn đứa bé, rồi quay nhìn tôi. Thấy một phụ nữ có con quá dơ dáy, bẩn thỉu, trông thật gớm ghiếc, nên buông tôi ra. Sau đó bọn chúng đi lùng sục khắp ghe. Cuối cùng, bắt được năm cô gái trẻ, sạch sẽ, xinh đẹp. Chúng lôi xềnh xệch về phía thuyền của chúng, mặc kệ các cô vùng vẫy, kêu khóc thảm thiết, cùng với tiếng van xin, gào thét của thân nhân kẻ bị nạn. Trong số các cô bị chúng bắt mang theo có con gái chủ ghe mới 15 tuổi.
Người trên ghe bèn đặt cho tôi một biệt danh là “Người đàn bà bị hải tặc chê.” Trườc khi rút lui, bọn chúng ra lệnh mọi người phải im và dùng vũ khí đập mạnh xuống sàn ghe làm thủng vài chỗ. Sau này, tôi được biết là nhóm tổ chức có mang theo vài cây súng để phòng thân, nhưng không dám chống cự, vì sợ nếu chống cự bọn hải tặc sẽ lên cơn điên và giết hết mọi người trên ghe. Do đó nhóm chủ ghe phải bó tay chịu trận, và đành đau lòng hy sinh ngay cả con gái của mình cho bọn hải tặc bắt mang đi.
Chiếc thuyền của bọn cướp biển đang xa dần. Mọi người trên ghe vẫn còn sững sờ vì vừa trải qua một biến cố quá kinh hoàng. Những tiếng khóc của thân nhân các cô gái bị bắt đi thật sầu thảm. Tôi không biết mình đang tỉnh hay đang mê? Tôi đã thoát khỏi bàn tay hải tặc dễ dàng vậy sao? Làm sao tôi lại có can đảm đứng dậy chạy về phía cuối ghe, trong khi bọn cướp ra lệnh ở đâu phải ngồi đó, không được nhúc nhích. Trời, Phật, hay hồn thiêng của bé Tuyết Nhiên đã nhấc tôi đứng dậy, đẩy tôi chạy về cuối ghe, để may mắn gặp lại Mẹ Tuyết Nhiên và được bà trao em của Tuyết Nhiên cho tôi bồng, cũng như tại sao anh tài công đã ném cho tôi cục nhớt và nói tôi bôi ngay vào người nhanh lên? Nhờ đó, tôi đã thoát khỏi bàn tay hung ác của hải tặc trong đường tơ, kẻ tóc. Vậy là thêm một phép lạ đã cứu sống tôi. Mới có mấy ngày mà tôi đã suýt chết mấy lần. Liệu tôi còn sức và còn may mắn thêm lần nào nữa để được bến bờ tự do hay không?
Mọi người bắt đầu lao xao:" Tát nước ngay, tát nước ngay! Nước tràn vào ghe rồi!" Đàn ông, thanh niên cố gắng dùng các vật dụng do chủ ghe đưa, cố ra sức tát nước đang làm ghe bị khẳm vì những lỗ thủng trên sàn ghe do bọn cướp gây ra. Ôi! Vừa không biết phương hướng, vừa chống chọi với đói khát, vừa lo hết nhiên liệu, vừa lo nguy cơ chiếc ghe sẽ bị chìm vì nước biển đang tràn vào. Bây giờ, mọi người thật sự thấy tử thần càng lúc, càng trở nên gần hơn. Sự khủng hoảng càng gia tăng, nhưng vẫn cố hy vọng"còn nước, còn tát." Chiếc ghe cứ lê lết đi tiếp. Tôi vẫn tiếp tục niệm Phật cầu nguyện và thiếp đi trong sự hãi hùng chưa nguôi. Tôi lập đi, lập lại trong đầu:" Con không thể chết được. Con là niềm hy vọng của gia đình. Con phải sống để cứu vớt gia đình đang trông mong vào con."
Chiếc ghe tiếp tục di chuyển từ từ trong tuyệt vọng. Ánh nắng chiều dịu tắt dần, từ xa bỗng rực rỡ ánh đèn sáng ngời như từ cái tháp khổng lồ trên mặt nước. Vài người mừng rỡ, la lên:" Có giàn khoan dầu ở phía trước. Hãy cố gắng hướng về phía đó. Hy vọng sẽ được vớt." Tôi chợt bừng tỉnh, nhìn những ánh đèn màu rực rỡ ở trên cao, ngày càng gần hơn, tôi tưởng như mình đang mơ khi được thấy cung điện của Thủy Thần trong một truyện thần thoại. Nghe tiếng reo mừng của mọi người trên ghe, tôi biết đây là sự thật! Không phải là ảo tưởng hay trong mơ. Tôi tưởng chừng ngất lịm trong nỗi vui mừng tột độ, và muốn hét to lên:"Vậy là coi như thoát chết, sẽ được giàn khoan cứu vớt, sẽ được đến bến bờ tự do như đã cầu khẩn.Vậy là đã được Trời, Phật chứng giám, độ trì.”
Mọi nguời như được uống thuốc hồi sinh. Đàn ông, thanh niên ra cố gắng ra sức tát nước nhiều hơn, chiếc ghe dường như cũng đi nhanh hơn. Một lúc sau chiếc ghe đã đến được gần chiếc tàu khổng lồ treo cờ Anh Quốc với hàng chữ to PANAMA. Dù vô cùng vui mừng, nhưng tôi lại rơi vào tình trạng hôn mê vì đã kiệt sức từ lúc quá hãi hùng khi vừa thoát bọn hải tặc sáng nay. Một lát sau, tôi mơ hồ thấy có người cho nước uống, nên tỉnh dậy, thì ra đó là vài ba thủy thủ của tàu Panama đang cho chúng tôi nước và một số thức ăn. Tôi nghe thoáng thoáng tiếng người nói “Có một cựu Trung Úy Quân Đội VNCH đã lên gặp Thuyền Trưởng xin được cứu vớt, nhưng ông ta từ chối. Và một cưụ Trung Tá hiện đang tiếp xúc với Thuyền Trưởng cũng để tiếp tục cầu xin cứu vớt." Nhưng vài phút sau, ông Trung Tá trở lại ghe với nỗi buồn tuyệt vọng cho biết: “Thuyền Trưởng không thể nào cứu được, vì họ đang làm nhiệm vụ khai thác dầu hoả. Ông tặng ghe chúng ta một hải bàn và hướng dẫn đi về hướng trại tị nạn. Ông nói, trên đường đi sẽ gặp tàu của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc và họ sẽ cứu chúng ta.” Ai ai cũng đều thất vọng, nhưng cũng mừng vì đã có hải bàn và hy vọng sẽ có tàu đến cứu. Hiện giờ đã được cung cấp nước uống, thức ăn, một số quần áo; không như trước đây trong hoàn cảnh đói khát, vô phuơng hướng, vô tin tức và sống trong tuyệt vọng.
Tôi đang hồi tỉnh một chút thì lại choáng váng khi nghe tin không may này. Bất ngờ, có một thanh niên la to lên:" Trong chuyến đi này có một cô giáo dạy Anh Văn tên Duyên.Vậy cô Duyên có trên ghe không? Nếu có, sao cô không chịu lên gặp Thuyền Trưởng xin cứu giúp đi?" Tôi đoán thanh niên này là Khánh, em vợ của anh Nguyễn Quốc Trụ. Khánh chưa hề gặp tôi, nhưng đã được anh Trụ dặn:" Hãy nhớ tìm cô Duyên, cô giáo dạy tiếng Anh đi trong chuyến này”. Mọi người lao xao la to theo: “Cô Duyên đâu? Cô Duyên đâu?” Tôi chưa kịp trả lời thì nghe tiếng xì xào:" Chắc cô ta bị quăng xuống “ghe taxi” hay bị hải tặc bắt đi theo rồi chăng?” Tôi không còn đủ hơi sức để lên tiếng, chỉ đưa tay vẫy vẫy. Có người nói:" Ồ! cái bà tưởng đã chết hồi sáng nay.”
Hai thanh niên còn khoẻ mạnh vội tiến về phía tôi, một người khiêng đầu, một người khiêng chân để đưa tôi lên thang dây, sau đó họ đặt tôi nằm trên sàn tàu. Chỉ vài phút sau, có một Bác Sĩ và vài thủy thủ vây chung quanh tôi. Họ cho tôi thở Oxy, tiếp theo cho uống một loại nước hay thuốc gì đó. Vị Bác Sĩ tiếp tục đo huyết áp, nghe tim, phổi và theo dõi. Ông nói tôi cứ thở tự nhiên. Được hít thở gió biển trong lành khoảng 15 phút, tôi thật sư tưởng mình đã được uống thuốc tiên “cải tử hoàn sinh” trong các truyện cổ tích. Tôi có thể trả lời các câu hỏi của Bác Sĩ bằng giọng nói rõ ràng, và xin được đứng dậy để được nói chuyện với Thuyền Trưởng cũng đang đứng tại đó.
Lần đầu tiên được đứng trên sàn tàu vững chắc, kiên cố, rộng mênh mông, mà trước đó chỉ được ngồi chen chúc như cá hộp trên chiếc ghe mong manh; rồi đói khát, lo sợ hãi hùng với bao biến cố cận kề cái chết. Nhìn những ánh đèn màu rực rỡ từ trên cao của giàn khoang giữa những màu sắc lung linh của mặt trời như một viên hồng ngọc trên mặt nước biển vào lúc hoàng hôn, khiến tôi tưởng mình đang ở Thiên Đàng. Nếu may mắn được Thuyền Trưởng cứu, cho lên chiếc tàu Panama, thì đúng như từ âm phủ được lên cõi Tiên.
Sau khi nghe tôi trình bày "Chúng tôi là những người ra đi từ miền Nam Việt Nam, đã bất chấp mạng sống, bất chấp hiểm nguy để đi tìm tự do bằng chiếc ghe bé bỏng, mong manh và hiện đang bị vô nước vì hải tặc đâm thủng." Vị Thuyền Trưởng lắc đầu, rồi buồn bã nói: “Tôi rất tiếc không thể cứu quý vị được.Trước đó đã có hai người đàn ông nói chuyện tôi về yên cầu này. Tôi đã giải thích lý do tôi không thể cứu được.
Thứ nhất: Chúng tôi đang khai thác dầu hỏa tại nước Malaysia này, chúng tôi không có đầy đủ phương tiện cứu nạn.
Thứ hai: Số người trên ghe quý vị phải hơn 100 người, chúng tôi lại càng gặp rất nhiều khó khăn để giúp đỡ. Tuy nhiên, xin quý vị đừng nên lo lắng. Hãy an tâm. Tôi đã cung cấp hải bàn để định phương hướng trên biển. Tôi đã hướng dẫn kỹ lưỡng đi về phía có trại tị nạn gần nhất, và tôi sẽ liên lạc với các tàu của Cao Ủy Liên Hiệp Quốc đang di chuyển gần đây đến để cứu quý vị. Các thủy thủ chúng tôi đã làm mọi cách để giúp quý vị rồi. Tôi nghĩ quý vị sẽ lên đường bình an.”
Đến đây, tôi lại thấy đầu óc quay cuồng. Từ lúc đầu tiên lọt vào được chiếc ghe Cá Lớn cho đến nay đã 5 ngày lênh đênh giữa đại dương trong tuyệt vọng. Nếu không có những phép lạ xảy ra, làm sao tôi còn sống sót đến giờ phút này. Ôi!Tại sao có thể như thế này? Phải cố gắng nài nỉ, van xin Thuyền Trưởng. Tôi cố gắng trình bày với Thuyền Trưởng những biến cố hãi hùng, những nguy hiểm mà chúng tôi đã trải qua mấy ngày hôm nay như: không có người biết lái, nên chiếc ghe trôi vô dịnh, một cô bé đã chết khát và phải bị ném xuống biển, 5 thiếu nữ đã bị hải tặc bắt đem theo sáng nay. Trước khi rút lui bọn hải tặc đã làm thủng ghe, hiện phải tát nước để có thể cầm cự, sống còn. May mắn đã gặp giàn khoang của các ông. Bây giờ chờ được tàu của Cao Ủy LHQ đến cứu, có lẽ tất cả chúng tôi sẽ làm mồi cho biển cả không bao lâu nữa.
Thuyền Trưởng lộ vẻ xúc động, nhưng lại trấn an tôi: “Bây giờ đã có phương hướng, và sẽ có tàu của Cao Ủy LHQ đến cứu, quý vị đã có đủ lương thực và nước uống trong vài ngày nữa, xin cứ an tâm”. Chỉ nghĩ khi tôi trở về chiếc ghe mong manh, chật ních, ngột ngạt vì bao nhiêu mùi hôi hám cũng đủ chết. Trên ghe ai có đủ khả năng biết xử dụng hải bàn để lái cho đúng hướng? "Sai một ly sẽ đi một dặm” giữa đại dương thì cũng sẽ lạc hướng, tiếp tục trong vô định. Thêm vào đó tình trạng chiếc ghe bị đục thủng thì làm sao cầm cự cho đến khi gặp được tàu của Cao Ủy LHQ?
Đứng trên sàn tàu kiên cố này, tôi thấy rõ rằng. Đây là đất sống. Chiếc ghe mong manh kia là miền đất chết. Tất cả sẽ đi vào cõi chết nếu như không được lên tàu Panama này. Giờ phút này gặp giàn khoang mà không được cứu, thì đúng là số tôi phải chết dưới lòng biển rồi. Tôi lặng người khẩn cầu Trời, Phật: “Gia đình con thật sự đã đến lúc tận cùng mạt vận, nên con đã thoát khỏi tay hải tặc, nhưng phải chịu chết dưới lòng đại dương như đã khấn nguyện chăng? Tại sao Trời, Phật đã ra tay cứu con thoát khỏi bao nguy hiểm từ lúc ban đầu, mà nay phải bắt con chết tức tửi, giữa lúc tưởng rằng thật sự thoát mọi hiểm nguy? Tại sao? Tại sao? Nguời cha già, cả một đời là công chức hiền lương cuối cùng phải lâm nạn; các em thơ dại đã chịu đựng quá nhiều đau khổ trong bao nhiêu năm, nay sẽ càng đau thương hơn?”
Con phải sống. Con chỉ có ước nguyện giúp cha già, các em dại ra khỏi đường hầm, đen tối của đau khổ, và con cầu xin được gặp lại một “thiên thần” đang tha thiết chờ đợi con. Nhưng giờ phút này, tôi thấy thật sự hoàn toàn tuyệt vọng rồi, nên nước mắt đầm đìa, ngước nhìn Thuyền Trưởng khẩn khoản trong nghẹn ngào. "Nếu ông cương quyết từ chối, tôi xin thay mặt hơn 100 người xin kính chào Vĩnh Biệt. Vì tôi tin chắc rằng giờ phút tôi rời khỏi nơi đây, trở về chiếc ghe bất hạnh, tất cả chúng tôi sẽ chết dưới lòng biển. Chiếc ghe đã bị đục thủng và đang bị vô nước trầm trọng thì làm sao chúng tôi có thể có cơ hội gặp được tàu của Cao Ủy LHQ cứu như lời Thuyền Trưởng nói. Xin Vĩnh Biệt Thuyền Trưởng!”
Sau lời chào vĩnh biệt đầy nước mắt trong nỗi tuyệt vọng của tôi, Thuyền Trưởng xúc động thật sự. Ông hỏi tôi:“Có tất cả bao nhiêu trẻ con và phụ nữ trên ghe?” Tôi trả lời “Tôi không biết”, nhưng có lẽ ít hơn đàn ông và thanh niên. Ông nói tiếp:“Trong điều kiện của chúng tôi hiện tại, chúng tôi chỉ cố gắng cứu trẻ em, phụ nữ. Đây là những người dễ dàng bị chết trong cơn nguy hiểm. Riêng các đàn ông, thanh niên xin tiếp tục lên đường, sẽ được tàu của Cao Ủy LHQ hay các tàu khác đi ngang qua gặp sẽ cứu.
Ôi! Thuyền Trưởng đã đổi ý! Đã bằng lòng cứu trẻ con và phụ nữ. Vậy là tôi thật sự thoát chết, và chắc chắn sẽ được đến bến bờ “Tự Do” như hằng ước nguyện. Ôi! Vô vàn cảm tạ Thuyền Trưởng! Ôi! Phải chăng Thượng Đế, Trời, Phật, những người khuất mặt đã làm Thuyền Trưởng đổi ý? Tôi quay qua nói với hai thanh niên khiêng tôi lên đây, và vẫn đang đứng đó, nóng lòng chờ kết quả:“Thuyền Trưởng chỉ có thể cứu trẻ con, phụ nữ mà thôi!"Hai anh thét to lên: “Thuyền Trưởng đã đồng ý cứu trẻ con và phụ nữ.”
Sau đó ông ra lệnh cho các Thủy Thủ xuống ghe, bồng bế các trẻ con, phụ giúp các phụ nữ bước lên thang dây của tàu Panama. Tổng cộng đếm được tất cả là 50 người. Mọi người khóc nức nở, đưa tay vẫy chào những người thân: chồng, cha, chú, bác, cậu, anh em…phải ở lại chiếc ghe không lành lặn, trải qua bao biến cố hiểm nguy, đau buồn, biết đến bao giờ có cơ hội đoàn tụ hay sẽ vĩnh viễn chia lìa? Mặc dù tôi không có bất cứ người thân nào trên chiếc ghe này, nhưng trước cảnh chia ly não nề với những người đã chịu cùng chung số phận với mình từ ngày 23 tháng 09. Nay cá nhân tôi sẽ được bình yên, đến được bến bờ Tự Do mà ai cũng mơ ước; còn họ sẽ đi về đâu, khi tiếp tục lênh đênh trên biển cả, dù được cung cấp đầy dủ phương tiện đi biển? Nhưng chiếc ghe đang bị vô nước và không ai có kinh nghiệm đi biển thì làm sao đi đúng hướng và biết đến khi nào gặp được tàu của Cao Ủy LHQ hay bất cứ tàu nào khác tiếp cứu. Theo tôi tất cả là vô vọng. Tôi vẫn cảm thấy “Chiếc ghe ấy là cõi chết”, nên tôi rất đau lòng và suy nghĩ. Hay mình thử cố gắng năn nỉ Thuyền Trưởng cứu họ. Ông đã can đảm không xin lệnh cấp trên để tự quyết định cứu trẻ con, phụ nữ. Bây gìờ mình yêu sách thêm. Không biết ông sẽ phản ứng ra sao? Mình có quá đáng và không biết sự quảng đại của ông không? Nhìn thấy 50 người đứng chiếm một diện tích bé nhỏ khoảng vài phần trăm trên con tàu khổng lồ, kiên cố chẳng đáng là bao. Dù lo sợ, tôi tiếp tục cố gắng nói với ông: “Thưa Thuyền Trưởng, xin ông tha thứ cho tôi. Tôi rất đội ơn ông đã cứu mạng tôi và những người khác. Nay xin ông hãy cứu tất cả mọi người còn lại. Với chiếc ghe như vậy, tôi không tin họ sẽ có cơ hội gặp được tàu của Cao Ủy LHQ. Chúng tôi không cần thức ăn, quần áo, chúng tôi chỉ cần một nơi an toàn có hy vọng được sống. Chiếc tàu của ông là đất sống, chiếc ghe kia là cõi chết. Nếu ông nhận thêm những người kia mà tôi nghĩ chỉ chiếm thêm diện tích không đáng là bao của chiếc tàu khổng lồ này, và tất cả cùng chờ đợi gặp tàu của Cao Ủy LHQ đến giúp đưa đi tới trại tị nạn.“ Có lẽ Thuyền Trưởng đã xúc động giữa tiếng khóc nghẹn ngào, những tiếng chào biệt ly, dù bằng tiếng Việt, một ngôn ngữ mà ông hoàn toàn xa lạ và không hiểu:“ Ba ráng bảo trọng, tạm biệt anh; tạm biệt con, tạm biệt cậu, chú vvv…” nên ông lặng yên, trầm ngâm suy nghĩ với ánh mắt đầy xúc động. Sau một, hai phút, ông nhìn tôi nhè nhẹ gật đầu và ra dấu bằng lòng cứu tất cả mọi người còn lại trên ghe. Nhiều tiếng hét to:“ Thuyền Trưởng bằng lòng cứu tất cả mọi người.“ Ôi! Không còn gì may mắn và hạnh phúc hơn! Cảnh tượng đau lòng như một đám tang tập thể trước đó, lập tức trở thành hân hoan, vui sướng với mọi người. Thế là, từng người vội vã cuống quýt leo lên thang dây với sự giúp đỡ của các Thủy Thủ để bước lên sàn tàu. Những khuôn mặt rạng rỡ lẫn ngỡ ngàng, dù nét lo âu, khủng hoảng vẫn còn in trên nét mặt.
Khi không còn ai lên nữa, vài thủy thủ hỏi to bằng tiếng Anh:“Còn ai ở dưới ghe không?” Không có tiếng trả lời. Họ hỏi thêm vài lần nữa! và nói  chúng tôi xem lại có người nào bị kiệt sức, ngất xỉu chưa lên được chăng? Tất cả gia đình cùng xem lại thân nhân của mình. Thật là một cử  chỉ nhân từ và chu đáo! Sau đó các thủy thủ dùng búa chặt đứt sợi dây thừng to dùng để cột chiếc ghe vào tàu Panama trước đó, chiếc ghe tròng trành, lơ lửng trôi bềnh bồng, trên đó có chiếc túi xách mà lúc hai người khiêng tôi lên tàu Panama tôi làm rớt lại. Biểu tượng thần thoại, cánh chim Đại Bàng mà tôi thường mang theo trong những lần vượt biên từ nay sẽ trôi theo giòng nước, không bao giờ cùng tôi đi tiếp bất cứ nơi đâu!
Tất cả mọi người được yêu cầu đứng xếp hàng để đếm số người. Tất cả 137 người gồm: trẻ em, phụ nữ, thanh niên và đàn ông. Vừa mới đếm xong thì vài phút sau bỗng nhiên giông tố ầm ầm từ đâu kéo tới, kèm theo những đợt sóng khổng lồ đánh tràn vào cả sàn tàu. Các thủy thủ vội vã dùng những sợi dây thừng thật to, cột mọi người lại với nhau, và sau đó buộc chặt vào các cột tàu để không bị sóng đánh cuốn trôi đi. Một sự kinh hoàng diễn ra trước mắt mọi người đang bị ướt đẫm: Chiếc ghe mà truớc đó chứa cả trăm người chỉ trong nháy mắt đã bị nhận chìm theo những đợt sóng khổng lồ, rồi mất hút ngay dưới cơn mưa tầm tã đổ xuống như thác, sấm chớp nổ vang khắp trời.
137 người trong đó có tôi đã chết đi và sống lại trong sự nhiệm mầu của  Thượng Đế, Trời, Phật??? Nếu không may mắn gặp vị Thuyền Trưởng đầy lòng bác ái và nhân từ này thì chúng tôi đã cùng theo chiếc ghe chìm sâu vào lòng đại dương lúc đó. Tôi đi từ bàng hoàng này sang đến bàng hoàng khác. Chỉ trong năm ngày lênh đênh trên biển, tôi đã chứng nghiệm được quá nhiều phép nhiệm mầu của Thượng Đế, Trời, Phật đã cứu vớt tôi thoát khỏi Tử Thần, và kể từ giờ phút này đã cùng 136 người được trở về từ cõi chết.
Thuyền Trưởng và các Thủy Thủ cảm thấy vui mừng đã cứu đuợc 137 người một cách bất ngờ. Chỉ trong vòng vài phút đã có những tấm bạt khổng lồ được căng lên che chở cho đoàn người chúng tôi đang bị ướt sũng, và lạnh run cầm cập bởi những luồng gió mạnh như vũ bão quất thẳng vào người.
Sau đó mọi người được các Thủy Thủ đưa vào các phòng cho ấm. Rồi họ phân phát những cục xà bông thơm phức và một số quần áo, yêu cầu mọi người lần lượt, từng nhóm bốn, năm người, chia ra nam theo nam, nữ theo nữ đi tắm, vì không có đủ phòng tắm cho từng người tắm riêng. Lúc bấy giờ, tôi đã hoàn hồn, và không còn lạnh run nữa, không khỏi bật cười khi nhìn thấy vài cô mặt mũi, mình mẫy vẫn còn dính đầy nhớt, lem luốc trông thật gớm ghiếc (giống như tôi).
Sau khi được tắm rửa sạch sẽ, ấm áp, mọi người được mời vào phòng ăn. Bao nhiêu thức ăn được khui ra từ các hộp thịt, hộp súp đã được bày sẵn trên các bàn trong căn phòng sáng rực những ánh đèn Néon. Chỉ mới sau mấy ngày đói khát, luôn luôn bị khủng hoảng, lo sợ, và lúc nào cũng kề cận với Tử Thần, chúng tôi cảm thấy như được thưởng thức một bửa yến tiệc linh đình, thịnh soạn do chiếc Đèn Thần của Aladin biến hoá. Tôi nhờ vài thanh niên đi vòng quanh càc bàn nhắc nhở mọi người dùng súp truớc, cố gắng ăn từ từ và ít thôi để bao tử không bị ảnh hưởng, có thể gây nguy hiểm đến tính mạng khi chuyển từ tình trạng quá đói sang quá no.
Mọi người lại được phân phát mền, dù không đủ cho mọi người, nhưng chúng tôi vui vẻ, chia theo nhóm đắp chung cho càng ấm, và nằm tạm trên sàn tàu dưới những tấm bạt che mưa vẫn đang còn rỉ rả. Riêng tôi thì may mắn được ngủ trong một phòng riêng nho nhỏ, có lẽ của một Thủy Thủ nhường chỗ cho dùng tạm trong thời gian chờ đợi này?
Cơn giông bão đã ngưng gầm thét để cho mọi người được ngủ yên trong niềm vui sướng và diễm phúc lớn lao nhất: Đã sống lại từ cõi chết và sẽ đến bến bờ Tự Do như ước nguyện. Chưa bao giờ tôi có một giấc ngủ thật say trong tâm trạng bình an, và tinh thần phơi phới như đêm hôm đó!
Chúng tôi chỉ van xin Thuyền Trưởng cho chúng tôi một chỗ ngồi trên sàn tàu Panama kiên cố, để được sống sót, và chờ đợi được tàu của Cao Ủy Tị Nan Liên Hiệp Quốc đến cứu.
Chúng tôi không dám mong được ăn uống, phân phát chăn mền, quần áo như thế này. Chắc là đoàn người chúng tôi đã tiêu thụ hết thực phẩm, quần áo dự trữ của tất cả Thủy Thủ đoàn? Có thể vì thế mà Thuyền Trưởng đã cương quyết từ chối lúc ban đầu. Ơn cứu mạng này của Thuyền Trưởng chắc chắn không bao giờ có thể đền trả được.
Mọi người sung sướng, yên tâm chờ đợi trên tàu Panama thêm một ngày và một đêm. Lần thứ hai được nằm trên chiếc giường bé nhỏ có chăn nệm trắng phau giữa tiếng sóng biển rì rào và thỉnh thoảng có tiếng ầm ầm của những cơn sóng từ xa vọng lại, không khí mát dịu, trong lành mà chưa bao giờ tôi có trong đời đã đưa tôi chìm vào giấc ngủ thật dễ dàng và êm ái.
Tiếng gõ cửa của một Thủy Thủ đánh thức tôi dậy giữa lúc tôi còn đắm chìm trong giấc ngủ êm đềm. Anh ta nói khi tôi vừa mở cửa"Tôi xin lỗi đã đánh thức cô. Cô đã có một giấc ngủ ngon không? Thuyền Trưởng muốn gặp cô".
Tôi vội theo anh ta bước lên cầu thang dẫn tới boong tàu trên cao. Dưới ánh bình minh giữa đại dương, mặt trời thật rạng rỡ trên mặt nước bao la xanh biếc, cảnh sắc còn đẹp hơn cả bức tranh thủy mạc. Vị Thuyền Trưởng cứu tinh của chúng tôi đang đứng chờ và đưa tay ra bắt trong lúc tôi chào ông ta. Sau đó, với khuôn mặt thật nghiêm trang quay về phía mặt Trời đang tiếp tục lên cao trên mặt nước, vị Thuyền Trưởng quỳ xuống, lâm râm vài lời và làm dấu lạy Thượng Đế theo kiểu Thiên Chúa Giáo, tôi cũng vội vã quỳ xuống theo.
Rồi Thuyền Trưởng đứng đậy, nói:" Cảm ơn Thượng Đế đã nhờ Cô cho tôi cơ hội cứu được 137 người. Đúng như lời cô, nếu tôi không thay đổi quyết định kịp thời, 137 người đã thật sự bị chôn vùi dưới lòng đại dương lúc đó. Và suốt hai ngày nay, tôi không liên lạc được với bất kỳ tàu nào của Cao Ủy, vì ảnh hưởng của cơn bão, điện thoại cũng hoàn toàn bị tê liệt. Hôm nay, không thể chờ thêm nữa, chúng tôi phải nhổ neo để đưa quý vị đến một trại tị nạn gần đây nhất."Tôi rưng rưng nước mắt, chỉ biết tận đáy lòng, vô cùng cảm ơn cứu mạng của Thuyền Trưởng. Tôi xin ông cho tôi cơ hội được liên lạc với ông trong tương lai khi được định cư. Thuyền Trưởng về phòng, vài phút sau trở ra trao cho mảnh giấy có ghi tên, địa chỉ ở đất liền bằng chữ viết tay:
Captain Brian O' Connell 17 Arundel Close Bexley Kent England U.K
Các Thủy Thủ được lệnh nhổ neo tiếp tục lên đường, tàu từ từ xa giàn khoan đứng sừng sững như toà lâu đài giữa đại dương vào buổi sáng ngày 30 tháng 09, năm 1984. Buổi chiều cùng ngày thì đến Đảo Pulau Bidong, một trại tị nạn dành cho các thuyền nhân Việt Nam trên quốc gia Mã Lai Á.
Mọi người coi như đã đạt ước nguyện nhờ ơn cứu mang của vị Thuyền Trưởng có tấm lòng bác ái bao la, "Thuyền Trưởng O'Connell”. Lần lượt từng người chào từ biệt Thuyền Trưởng và các Thủy Thủ với tất cả sự biết ơn không có lời nào có thể diễn tả được. Tất cả Thủy Thủ đoàn và Thuyền Trưởng hân hoan chúc chúng tôi may mắn, sớm được định cư ở một nước thứ ba.
Vì tàu được cặp vào đất liền, chúng tôi không phài dùng thang dây để leo xuống như lúc ở giữa biển. Mọi người ung dung bước ra khỏi tàu như bước ra khỏi phi cơ, có lối đi thẳng lên chiếc cầu giữa mặt nước, rồi cao lên dần cho đến khi giáp với đất liền. Sau này tôi được biết tên cây cầu là Jetty.
Thuyền trưởng O’Connell bắt tay từ biệt tôi lần cuối, sau khi giới thiệu tôi với các Cao Ủy Tị Nạn Liên Hiệp Quốc đang đứng chờ đón đoàn người tị nạn được tàu Panama bàn giao.
Một trang sách mới đã được lật qua trong dòng đời của 137 thuyền nhân sống sót nhờ một phép mầu vào ngày 28 tháng 09, năm 1984 vì đã may mắn gặp được vị Thuyền Trưởng giàu lòng nhân ái. Và bắt đầu đoạn đời tị nạn từ đây với mã số do Văn Phòng Cao Ủy Tị Nạn đăt tên theo thứ tự khi có đoàn người tới đảo: MB 224 Pulau Bidong.
Vẫy tay chào tàu Panama đang xa dần trên mặt nước mênh mông, tôi vẫn còn ngẩn ngơ như đang mê ngủ. Đứng trên nền cát trắng, dưới những hàng dừa xanh cao vút dọc theo bãi biển, tôi hướng về phía mặt trời rực rỡ đang dần dần đi xuống gần mặt nước xanh trong vắt, thành tâm khấn nguyện lời cảm tạ Thượng Đế,Trời, Phật, những hương linh đã cứu vớt tôi thoát khỏi Tử Thần đầy nhiệm mầu qua bao biến cố kinh hoàng suốt mấy ngày qua.
Từ đây, bắt đầu một khúc rẽ cuộc đời như một hành khất đi chân đất, với hai bàn tay không; cái túi xách nhỏ có vài kỷ niệm và đôi dép đã bị rớt lại trên chiếc ghe trong lúc được khiêng lên tàu Panama. Tôi đã không dám xin đôi giầy hoặc dép trong thời gian chờ đợi, vì đã nói với Thuyền Trưởng: Chỉ xin một chỗ đứng trên “vùng đất sống”.
Hành trang tôi mang đến Pulau Bidong chỉ có một trái tim tràn ngập lòng biết ơn Thượng Đế, Trời, Phật và những ân nhân đã cứu giúp tôi trên từng bước đường đời, sự thương nhớ những người thân yêu còn lại đang vất vả nơi quê nhà, và đang ấp ủ những ước mơ cho ngày mai tươi sáng. Bên cạnh đó là một linh hồn nặng trĩu với những hình ảnh hãi hùng, tuyệt vọng trong cuộc hành trình đi tìm "Tự Do",với bao ký ức đau buồn của những năm tháng" đại bác đêm đêm vọng về thành phố" trên quê hương. Một linh hồn quằn quại vì sự tan nát của gia đình khi chiến tranh chấm dứt trong cảnh nước mất, nhà tan, đau thương, thống khổ chất chồng.
Thấm thoát đã hơn ba mươi mốt năm trôi qua. Tôi đã bước qua bao nhiêu ngã rẽ cuộc đời như chiếc thuyền trôi theo giòng nước. Có những lúc rẽ qua giòng suối nên thơ, có đôi khi rẽ vào giòng sông êm ả và cũng có lúc di vào lòng biển khơi đang trong cơn giông tố. Ở bất kỳ ngã rẽ nào, không có một khoảnh khắc nào trong đời, tôi có thể quên được những phép lạ đã cứu vớt tôi trong chuyến đi nhiệm màu ấy.
Những lời cuối cho dòng hồi ức về những phép lạ tôi đang kể lại, xin thay mặt 137 người cùng thoát chết dưới lòng đại dương trong cơn giông bão vào buổi chiều ngày 28 tháng 09, năm 1984, và bây giờ không biết đang tản mạn ở các phương trời nào, ai còn, ai mất, thành tâm gửi đến Thuyền Trưởng Brian O' Connell (cũng không biết ông đang phiêu du ở chân trời, góc bể nào), lòng biết ơn vô bờ bến và không bao giờ đền trả được ơn cứu mạng ngày ấy.
Ước nguyện tha thiết nhất của tôi trong những năm tháng cuối cuộc đời là được Ơn Trên ban phép lạ cho tôi tìm được tin tức vị Thuyền Trưởng có tấm lòng bác ái bao la đã cứu 137 người tưởng chừng như chắc chắn là chết được trở về đất sống
Sự liên lạc của tôi với Thuyền Trưởng đã bị cắt đứt, sau bức thư gửi đến ông năm 1988 đã bị trả về với hàng chữ: "Moved to unknown address". Nhiều năm nay, các con tôi đã cố truy tìm trên nhiều trang mạng từ Internet, nhưng tảt cả đều vô vọng.
Cũng xin thay mặt 137 thuyền nhân, gửi đến tảt cả Thủy Thủ đoàn của tàu Panama ngày ấy sự biết ơn sâu xa trước sự giúp đỡ nhiệt tình đầy lòng bác ái của quý vị.
Từ đáy lòng , xin gửi đến cô Minh, mẹ của Tuyết Nhiên, và anh tài công sự biết ơn vô bờ đã giúp tôi thoát khỏi bọn hải tặc một cách nhiệm mầu,  khi giao cháu bé và liệng cục nhớt cho tôi kịp thời trong tích tắc.
Và cũng tận đáy lòng, xin chân thành đặc biệt gửi đến ân nhân Nguyễn Vĩnh Tôn sự biết ơn vô bờ đã giúp tôi bước lên chiếc thuyền định mạng ngày 23 tháng 09, năm 1984. NVT mãi mãi là một Thiên Thần của sự trong sáng và cao quý trong hồn tôi.
Giờ đây, tôi xin thắp một nén hương dâng lên hương linh của anh Nguyễn Quốc Trụ với tất cả sự biết ơn chân thành nhất của một người hân hạnh và may mắn đã được anh giúp trong chuyến vượt biên này.
Và cùng hàng triệu Quân, Dân, Cán, Chính VNCH, xin tưởng nhớ, ghi ơn những anh hùng đã hy sinh bảo vệ VNCH, trong đó có người anh hùng Mũ Đỏ Nguyễn Quốc Trụ, SVSQ/ Khoá 20 Võ Bị Đà Lạt, Đại Úy thuộc Binh Chủng Nhảy Dù, người đã tham dự trận chiến khốc liệt nhất trong quân sử VNCH, trận Đồi 31, Lam Sơn 719, Hạ Lào 1971, nơi anh hùng Mũ Đỏ Nguyễn Văn Đương đã nằm xuống, và đi vào huyền thoại qua nhạc phẩm bất hủ "Anh không Chết Đâu Anh" của Nhạc Sĩ Trần Thiện Thanh, còn anh Nguyễn Quốc Trụ và nhiều Sĩ Quan, binh sĩ đã bị bắt làm tù binh trong những trại tù nghiệt ngã ở Bắc Việt cho đến năm 1979.
Xin thắp một nén hương dâng lên người Cô (Dì) yêu dấu Hồng Hoàng Lan, với tất cả sự biết ơn của người cháu được Cô thay Mẹ, an ủi, đùm bọc trong giai đoạn gia đình tan nát, đau thương sau biến cố lịch sử 30 tháng 04, năm 1975. Cô là người duy nhất trong gia đình Mẹ tôi còn ở lại Hà Nội sau năm 1954 vì đã không thể bỏ lại những cây đàn yêu quý để ra đi. Là một nhạc sĩ xử dụng đàn Violoncelle trong Dàn Nhạc Giao Hưởng Hà Nội, cô đã kịp thời vào Sàigòn để đưa tiễn Mẹ tôi về cõi vĩnh hằng ngay sau 30-4-1975. Cô cũng là người đã khuyến khích, giúp tôi tìm đường vượt biên, và bắt nhịp cầu cho tôi được bước vào chuyến đi hãi hùng, nhưng mầu nhiệm này.
Và xin thắp một nén hương nguyện cầu cho hương linh emTuyết Nhiên cùng tất cả những thuyền nhân đã nằm xuống lòng đại dương trong những cuộc hành trình đi tìm Tự Do đưọc an nghỉ nơi vùng trời miên viễn.
Nếu không có những phép lạ nhiệm mầu cứu vớt, 137 người trong đó có tôi cũng đã chung số phận âm thầm nằm trong lòng biển cả ngày 28 tháng 09, năm 1984. Và những biến cố dồn dập xảy ra trong suốt cuộc hành trình không bao giờ thân nhân được biết.
Cuối cùng, xin chân thành gửi đến anh Trần Đình Phước, cựu Trung Úy Không Quân VNCH, sự biết ơn sâu xa đã khuyến khích, bỏ ra nhiều thời gian và nhiệt tình giúp tôi hoàn tất viết lại những dòng hồi ký đúng vào ngày Giáng Sinh 2015 về chuyến đi nhiều phép lạ mầu nhiệm này.
Toronto, Giáng Sinh 2015
Phạm T. Duyên
*
Kính dâng lên hương hồn những thuyền nhân đã bỏ mình trên biển cả vì lý tưởng tự do. Xin Quý vị nào biết tin tức về Thuyền Trưởng người Anh tên là Brian O’ Connell và Thủy Thủ Đoàn của tàu Panama khoan dầu trên Biển Đông cách đây hơn 31 năm. Xin làm ơn giúp, để tôi có thể liên lạc, dù là muộn màng. Đây cũng là ước nguyện cuối đời của tôi. (PTD)

No comments:

Post a Comment