Sunday, November 9, 2025

20251110 CDTL Ai Là Cộng Sản Giặc Hồ Phần 16

20251110 CDTL Ai Là Cộng Sản Giặc Hồ Phần 16


Tài liệu “Ai Là Cộng Sản Giặc Hồ” được đúc kết từ ngày 4 April 1954 cho đến ngày 29 July 1954 cho chúng ta thấy rõ cuộc tiến chiếm quần đảo Hoàng Sa ngày 19/01/1974 của hải quân tầu cộng không phải là một ngẫu nhiên tình cờ. 

Nó là một kế sách tiến chiếm đất nước cùng biển đảo Việt-Nam đã được thành hình từ khi chủ nghĩa cộng sản quốc tế được Nguyễn Tất Thành mang vào đất Việt từ thập niên 1930’s. Mãi cho đến khi đám “con hoang cộng sản giặc Hồ” thành công chiếm lĩnh chính quyền từ Thủ Tướng Trần Trọng Kim ngày 19/08/1945, nó trở thành cơ hội giúp cho những bước tiến xâm lăng của tầu cộng vào đất Việt dể dàng hơn. Qua mặt trận Điện Biên Phủ, được tầu cộng đạo diễn từ kế sách rước giặc Pháp trở lại Việt-Nam từ mật ước Modus Vivendi giữa Hồ Chí Minh và Marius Moutet ký ngày 14 September 1946, tầu cộng đã mang đôi hia bẩy dậm tiến chiếm biển đảo Việt-Nam bằng phương thức thành lập Hiệp định Geneva 1954 để chia đôi nước Việt-Nam tại vĩ tuyến 13, 14, 15, 16, 17 ngõ hầu có thể áp dụng kế hoạch 12 hải lý để cướp biển đảo Việt-Nam.

Bên dưới đây là những tài liệu được trích từ những cuộc thương thảo giữa các cường quốc, dĩ nhiên trong đó bao gồm cả tầu cộng, cùng nhau xẽ thịt đất nước Việt-Nam với sự tiếp tay của đám con hoang cộng sản giặc Hồ.

20251016 CĐTL Ai Là Cộng Sản Giặc Hồ? Phần 1

https://bachvietnhan.blogspot.com/2025/10/20251016-ctl-ai-la-cong-san-giac-ho.html

20251018 CĐTL Ai Là Cộng Sản Giặc Hồ? Phần 2

https://bachvietnhan.blogspot.com/2025/10/20251018-ctl-ai-la-cong-san-giac-ho.html

20251019 CĐTL Ai Là Cộng Sản Giặc Hồ? Phần 3

https://bachvietnhan.blogspot.com/2025/10/20251019-ctl-ai-la-cong-san-giac-ho.html

20251021 CĐTL Ai Là Cộng Sản Giặc Hồ? Phần 4

https://bachvietnhan.blogspot.com/2025/10/20251021-ctl-ai-la-cong-san-giac-ho.html

20251022 CĐTL Ai Là Cộng Sản Giặc Hồ? Phần 5

https://bachvietnhan.blogspot.com/2025/10/20251022-ctl-ai-la-cong-san-giac-ho.html

20251023 CĐTL Ai Là Cộng Sản Giặc Hồ? Phần 6

https://bachvietnhan.blogspot.com/2025/10/20251023-ctl-ai-la-cong-san-giac-ho-p6.html

20251024 CĐTL Ai Là Cộng Sản Giặc Hồ? Phần 7

https://bachvietnhan.blogspot.com/2025/10/20251024-ctl-ai-la-cong-san-giac-ho.html

20251031 CĐTL Ai Là Cộng Sản Giặc Hồ Phần 8

https://bachvietnhan.blogspot.com/2025/10/20251031-ctl-ai-la-cong-san-giac-ho.html

20251101 CDTL Ai Là Cộng Sản Giặc Hồ Phần 9 Pic Vt17

https://bachvietnhan.blogspot.com/2025/10/20251101-cdtl-ai-la-cong-san-giac-ho.html

20251103 CDTL Ai Là Cộng Sản Giặc Hồ Phần 10

https://bachvietnhan.blogspot.com/2025/11/20251103-cdtl-ai-la-cong-san-giac-ho.html

20251105 CDTL Ai Là Cộng Sản Giặc Hồ Phần 11

https://bachvietnhan.blogspot.com/2025/11/20251105-cdtl-ai-la-cong-san-giac-ho.html

20251106 CDTL Ai Là Cộng Sản Giặc Hồ Phần 12

https://bachvietnhan.blogspot.com/2025/11/20251106-cdtl-ai-la-cong-san-giac-ho.html

20251107 CDTL Ai Là Cộng Sản Giặc Hồ Phần 13 Pic

https://bachvietnhan.blogspot.com/2025/11/20251107-cdtl-ai-la-cong-san-giac-ho.html

20251108 CDTL Ai Là Cộng Sản Giặc Hồ Phần 14 Pic

https://bachvietnhan.blogspot.com/2025/11/20251108-cdtl-ai-la-cong-san-giac-ho.html

20251109 CDTL Ai Là Cộng Sản Giặc Hồ Phần 15 Pic

https://bachvietnhan.blogspot.com/2025/11/20251109-cdtl-ai-la-cong-san-giac-ho.html

Google Translate

Ngày 20 tháng 7 năm 1954

***

(5) Đồng chí Phạm Văn Đồng lại gặp Mendes-France vào ban đêm. Mendes-France đề nghị vạch đường ranh giới tỉnh Quảng BìnhQuảng Trị, tức là vĩ tuyến 17. Phạm Văn Đồng không trả lời.”

Đúng là ngưu tầm ngưu, mã tầm mã. Thầy nào trò nấy.

Hồ Chí Minh khi ký hiệp ước Modus Vivendi September 14th, 1946 để rước Pháp vào củng đã âm thầm ký vào ban đêm.

Franco-Vietnam Modus Vivendi of September 14th, 1946

https://www.vietnamgear.com/modusvivendi.aspx

At final conference with French September 14, 1946, Ho Chi Minh signed joint declaration and modus vivendi and departed few hours later for Toulon to sail for Saigon.

https://history.state.gov/historicaldocuments/frus1946v08/d75

20241015 CDTL Hồ Chí Minh Rước Pháp Vào Việt Nam

https://bachvietnhan.blogspot.com/2024/10/20241015-cdtl-ho-chi-minh-ruoc-phap-vao.html

20250224 CDTL Chuyện Đi Rước Giặc 24 December 1949 Hồ Chí Minh Cầu Viện Tàu Cộng 24 December 1949 với trị giá 10 triệu U.S. dollars

https://bachvietnhan.blogspot.com/2025/02/20250224-cdtl-chuyen-i-ruoc-giac-24.html

20250410 CDTL Chuyện Đi Rước Giặc 1949 Hồ Chí Minh Cầu Viện Mao Chống Pháp

https://bachvietnhan.blogspot.com/2025/04/20250410-cdtl-chuyen-i-ruoc-giac-1949.html

20250301 CDTL Chuyện Đi Rước Giặc 17 Jan 1950 Hồ Chí Minh Yêu Cầu Được Ban Giao Với Mao

https://bachvietnhan.blogspot.com/2025/02/20250301-cdtl-chuyen-i-ruoc-giac-17-jan.html

20250301 CDTL Chuyện Đi Rước Giặc Jul 17 1966 Trò Lừa Bịp Của Hồ Chí Minh

https://bachvietnhan.blogspot.com/2025/02/20250301-cdtl-chuyen-i-ruoc-giac-jul-17.html

***

https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/telegram-zhou-enlai-mao-zedong-and-others-regarding-zhous-meetings-pierre-mendes-france

https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/87675/download

Ngày 20 tháng 7 năm 1954

Điện tín của Chu Ân Lai gửi Mao Trạch Đông và những người khác, về các cuộc gặp của Chu với Pierre Mendes-France và Eden, cũng như các cuộc thảo luận bên ngoài Hội nghị

Chủ tịch [Mao], Đồng chí [Lưu] Thiếu Kỳ và Ban Chấp hành Trung ương:

(1) Mendes-France và Eden đã đến thăm tôi vào chiều ngày 19 và tập trung thảo luận về các vấn đề của Lào. Mendes-France nói rằng quân Pháp, khoảng 3.000 người, đóng quân tại Lào vì lý do an ninh, [không] đe dọa bất kỳ ai. Ông ta đồng ý giới hạn số lượng quân Pháp ở đó, nhưng không đồng ý giới hạn thời gian. Tôi nói rằng vấn đề bao lâu, khu vực nào và bao nhiêu quân Pháp nên đóng quân tại Lào có thể được thảo luận cùng với các vấn đề liên quan khác. Về việc tập hợp lại lực lượng kháng chiến Lào, ông ta nói rằng lực lượng kháng chiến chỉ có 2.000 người, không đủ để kiểm soát một đặc khu hành chính. Tôi nói với ông ấy rằng quân kháng chiến nên tập hợp lại ở một khu vực, không nên phân tán thành mười một điểm (đề xuất của Pháp là mười một điểm). Về chính quyền địa phương, vấn đề nội bộ của họ cần được thảo luận thông qua các cuộc tiếp xúc địa phương giữa chính quyền Hoàng gia và đại diện lực lượng kháng chiến. Mendes-France nói rằng các điểm tập kết có thể được giảm bớt, nhưng sẽ trở nên phức tạp nếu tất cả quân đội phải di chuyển từ miền Nam ra miền Bắc để tập kết vì lực lượng kháng chiến ở khắp cả nước. Việc xác định một số điểm tập kết ở miền Nam có thể được xem xét, vì hầu hết người dân ở đó đã quen với cuộc sống địa phương của họ, vì vậy vấn đề này nên được giải quyết tại chỗ. Tôi nói rằng mười một điểm tập kết ở Lào sẽ không mang lại hòa bình và ổn định, và có thể gây ra một số xung đột cục bộ. Lực lượng kháng chiến là quân đội địa phương nên tập hợp lại với nhau, không nên phân tán thành mười một điểm. Họ cần được bảo vệ. Sau khi tập hợp, họ sẽ dần dần tham gia vào đời sống của nhà nước dưới sự giám sát quốc tế. Lào khác với Việt Nam. Chính phủ Hoàng gia của họ sẽ chịu trách nhiệm về lực lượng vũ trang để họ không phải lo lắng. Nếu ai đó không muốn đi về phía bắc, phong trào kháng chiến và chính phủ Hoàng gia có thể cử đại diện đến gặp và thảo luận về vấn đề này. Sau đó, Eden hỏi tôi liệu tôi có phản đối một khu vực tập hợp lại ở phía nam không. Tôi đã không trả lời anh ta. Cuối cùng, Mendes-France nói rằng ý kiến ​​của chúng tôi không quá khác biệt và [chúng ta nên] để các chuyên gia tiếp tục thảo luận. Anh ta cũng đồng ý rằng các khu vực tập hợp lại chính sẽ ở phía tây bắc và nói rằng vẫn có thể có một khu vực tập hợp lại ở phía nam. Các ranh giới cụ thể của các khu vực có thể được xác định tại chỗ. Sau khi tập hợp lại, các sĩ quan chỉ huy của quân kháng chiến có thể thiết lập liên lạc với chính quyền địa phương để giải quyết tất cả các vấn đề sau khi tập hợp lại.

(2) Sau cuộc gặp của tôi với Mendes-France và Eden, trợ lý của Eden, Caccia, người đi cùng Eden, đã ở lại và nói chuyện với Đại sứ [tại Liên Xô và Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Trung Quốc] Trương [Văn Thiên] về vấn đề vạch đường ranh giới. Caccia nói rằng Pháp chắc chắn muốn có Đường số 9. "Nếu điều này không thể thương lượng được, tất cả chúng ta phải mua vé tàu và về nhà." Ông cũng yêu cầu phải có đủ khu vực ở phía bắc Đường số 9 để đảm bảo an toàn cho quân đội Pháp. Ông đề xuất rằng một trong hai con sông giữa Đường số 9 vĩ tuyến 18 có thể được chọn làm đường ranh giới. Về ngày bầu cử, ông đề xuất tổ chức vào năm 1956. Nói về liên minh quân sự, Caccia mô tả lập trường của [Vương quốc Anh và Khối thịnh vượng chung Anh] như sau. Nếu một thỏa thuận được tất cả các phái đoàn chấp thuận tại đây và thỏa thuận quy định rằng ba nước Đông Dương [Việt Nam, Campuchia, Lào] không thể tham gia bất kỳ hiệp ước quân sự nào, thì Anh tin rằng ba nước này không được mời [tham gia hiệp ước quân sự Đông Nam Á]. Và bản thân Anh cũng sẽ không [mời họ]. Ông ấy nói rằng Lào và Campuchia sẽ tự đưa ra thông báo [của riêng họ], nói rằng họ sẽ không tham gia bất kỳ liên minh quân sự nào.

(3) Các phái đoàn của Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam đã thảo luận về đề nghị cuối cùng vào chiều nay và đã trình lên Anh. Các điểm chính của đề nghị đã được gửi điện tín [cho Bắc Kinh] vào hôm qua.

(4) Tôi đã gặp [V.K. Krishna] Menon tối nay. Tôi đã nói với ông ấy về đề nghị đã được trình lên Anh. Ông ấy nói rằng Pháp hy vọng sẽ vạch ra ranh giới ở khu vực gần một con sông. Về ngày bầu cử, Menon đề nghị không ấn định ngày bầu cử mà là ấn định ngày thành lập ủy ban bầu cử. Tôi kiên quyết phản đối đề nghị của ông ấy và nói rằng đã có thỏa thuận rằng cuộc bầu cử sẽ được giám sát quốc tế. Nếu thành lập ủy ban bầu cử, cần phải có cả hai bên cộng thêm một nước nữa. Điều này có thể dẫn đến sự can thiệp của nước ngoài vào công việc nội bộ. Cả hai bên ở Việt Nam sẽ không chấp nhận đề nghị kiểu này. Và Trung Quốc cũng không đồng ý [với đề nghị đó].

(5) Đồng chí Phạm Văn Đồng lại gặp Mendes-France vào ban đêm. Mendes-France đề nghị vạch đường ranh giới tỉnh Quảng BìnhQuảng Trị, tức là vĩ tuyến 17. Phạm Văn Đồng không trả lời. Mendes-France đồng ý ấn định thời hạn rút quân trong vòng 245 ngày. Nhưng ông ấy yêu cầu thêm hai tháng để chuẩn bị tâm lý. Ông ấy đồng ý với đề nghị của chúng tôi về ngày bầu cử, tức là hai năm. Năm đầu tiên dành cho thảo luận và đàm phán. Mendes-France không đồng ý với việc rút quân dần dần. Về việc bảo vệ nền kinh tế và doanh nghiệp Pháp tại Việt Nam, ông ấy đưa ra một đề nghị mới, yêu cầu nhiều hơn [nội dung] đề nghị trước đó. Tóm lại, giải pháp duy nhất cho đến nay là ngày bầu cử.

Chu Ân Lai

20 tháng 7 năm 1954, 12:00 trưa

Chu báo cáo về cuộc gặp với Medes-France và Eden. Mặc dù Chu lưu ý rằng họ đã tìm ra giải pháp cho ngày bầu cử ở Việt Nam, các bên vẫn phải giải quyết các vấn đề về tập hợp lại khu vực và rút quân.

https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/telegram-zhou-enlai-mao-zedong-and-others-regarding-zhous-meetings-pierre-mendes-france

https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/87675/download

Google Translated

Ngày 29 tháng 7 năm 1954

https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/telegram-498-k-novikov-v-m-molotov

https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/95811/download

Ngày 29 tháng 7 năm 1954

Điện tín số 498 của K. Novikov gửi V. M. Molotov

BÍ MẬT, Bản sao số ___

29 tháng 7 năm 1954

#498/YuVA

Kính gửi Trưởng đoàn V. M. MOLOTOV

Tôi xin trình bày để các đồng chí xem xét các đề xuất liên quan đến những vấn đề mà Phạm Văn Đồng đã nêu ra trong cuộc thảo luận với tôi ngày 27 tháng 7:

1. Về việc Hoàng Văn Hoan, Hồ Văn Lộ và những người khác đi Delhi để tham dự Hội nghị về công tác của các Ủy ban Quan sát và Thanh tra Quốc tế.

Những đồng chí này không thể đến Delhi trước ngày 1 tháng 8, vì phải mất vài ngày mới có được thị thực quá cảnh để đến Ấn Độ qua châu Âu. Hơn nữa, theo kinh nghiệm, việc đi máy bay qua Rome sẽ mất từ ​​5-7 ngày. Do đó, trong trường hợp tốt nhất, những đồng chí nói trên sẽ chỉ có thể đến Delhi vào ngày 7-10 tháng 8.

Trong bối cảnh này, có thể thực hiện một trong hai bước sau:

1) Đề nghị chính phủ Ấn Độ dời hội nghị sang ngày 7-10 tháng 8. Chúng ta có thể dự đoán rằng yêu cầu này sẽ không được đón nhận một cách thuận lợi, vì nó sẽ làm chậm trễ việc thành lập các ủy ban quốc tế.

2) Các đồng chí Việt Nam cần khẩn trương chuẩn bị các đề xuất về vấn đề các ủy ban quốc tế (địa điểm đặt các ủy ban, số lượng thành viên ủy ban, cấp bậc đại diện của các ủy ban, số lượng đoàn thanh tra, số lượng và cấp bậc đại diện của ba nước trong các ủy ban này, các tổng thư ký, v.v.) và chuyển các đề nghị này đến các đồng chí Ba Lan, đồng thời đề nghị hỗ trợ họ tại hội nghị ở Delhi.

Đại sứ quán Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Moscow cần khẩn trương triển khai các biện pháp để cử Hoàng Văn Hoan, Hồ Văn Lộ và những người khác đến Delhi. Có thể các đồng chí này sẽ đến Delhi vào cuối hội nghị.

2. Về việc cung cấp tàu vận chuyển lực lượng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ miền Nam ra miền Bắc Việt Nam.

Việc cung cấp tàu Liên Xô cho mục đích này dường như không hợp lý. Có thể đề nghị với VNDCCH nên thử thuê tàu từ Ấn Độ, Pháp, Anh hoặc từ các nước tư bản khác. Ba Lan cũng có thể cung cấp tàu của mình. Việc thuê tàu có thể được thực hiện thông qua các công ty của Trung Quốc.

3. Về việc cử một nhóm cố vấn quân sự Liên Xô sang Việt Nam.

Việc cử một nhóm như vậy đến Việt Nam trong tương lai gần có vẻ hợp lý. Ví dụ, hôm qua, Trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng VNDCCH, Ta Kuang Byu, đã đề nghị Tướng F. A. Fedenko hỗ trợ VNDCCH trong việc bảo trì và vận hành các sân bay lớn, vốn sẽ nằm dưới sự kiểm soát của VNDCCH trong tương lai gần. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện thỏa thuận ngừng bắn, sẽ có nhiều vấn đề phát sinh mà VNDCCH cần được chúng tôi tư vấn. Để tránh bất kỳ khó khăn nào phát sinh với các đồng chí Trung Quốc, nhóm cố vấn quân sự Liên Xô này nên được cử ngay lập tức làm tùy viên quân sự Liên Xô tại VNDCCH.

4. Về việc hỗ trợ các đồng chí Việt Nam trong việc soạn thảo kế hoạch đáp ứng nhu cầu kinh tế của VNDCCH.

Thông báo với Phạm Văn Đồng rằng chúng tôi sẽ cung cấp mọi hình thức hỗ trợ cho VNDCCH về việc vận chuyển hàng hóa cần thiết với giá cả phải chăng từ Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân.

[chữ ký]

/K. NOVIKOV/

3-cps/KN

1- gửi com. Molotov

2- gửi com. Zorin

3- để lưu

yuvam/759

28.VII.54.

Điện tín từ K. Novikov thảo luận về các đề nghị liên quan đến các câu hỏi của Phạm Văn Đồng. Các đề nghị liên quan đến việc Hoàn Văn Hoàn, Hồ Văn Lộ và những người khác đến Delhi để dự hội nghị; việc cung cấp tàu để vận chuyển lực lượng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ miền Nam ra miền Bắc Việt Nam; việc cử một nhóm cố vấn quân sự Liên Xô đến Việt Nam; và hỗ trợ phía Việt Nam soạn thảo kế hoạch đáp ứng nhu cầu kinh tế của VNDCCH.

https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/telegram-498-k-novikov-v-m-molotov

https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/95811/download

***

1992

“La Quý Ba kể lại sự tham gia của Trung Quốc vào Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất và sự hỗ trợ của nước này đối với Việt Minh.”

Tiếng Trung giọng Quảng Đông của ông lưu loát đến mức không cần phiên dịch. Cuộc gặp diễn ra trong không khí ấm áp thân mật thay vì những nghi thức ngoại giao thông thường, như thể Hồ Chí Minh vừa được đoàn tụ với gia đình. “His Cantonese-accented Chinese was so fluent that an interpreter was not needed. The meeting proceeded with intimate warmth rather than conventional diplomatic formalities, as though Ho had just been reunited with his own family.”

***

https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/glorious-model-proletarian-internationalism-mao-zedong-and-helping-vietnam-resist-france

https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/95437/download

1992

Một mô hình vẻ vang của chủ nghĩa quốc tế vô sản: Mao Trạch Đông và việc giúp Việt Nam kháng Pháp

Tài liệu này được thực hiện với sự hỗ trợ của Quỹ MacArthur

Một

Cuối năm 1949, ngay sau khi nước Trung Hoa Mới được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (ĐCSTQ) đã viết thư cho Chủ tịch Mao và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ), đề nghị Trung Quốc giúp đỡ. Tháng 1 năm 1950, Hồ Chí Minh bí mật sang Bắc Kinh để yêu cầu Trung Quốc giúp đỡ Việt Nam kháng Pháp.

Sau chuyến thăm của Hồ Chí Minh, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã quyết định, được sự ủy quyền của Chủ tịch Mao, cử tôi đi công tác bí mật tại Việt Nam. Tôi chính thức được bổ nhiệm làm Đại diện Liên lạc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đồng chí Lưu Thiếu Kỳ đã đích thân soạn thảo một lá thư giới thiệu, trong đó viết: `Tôi xin giới thiệu đồng chí La Quý Ba, nguyên Bí thư Tỉnh ủy và Chính ủy, làm Đại diện Liên lạc của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đồng chí đi cùng có tám cán bộ. Lưu Thiếu Kỳ, Tổng Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương, ngày 17 tháng 1 năm 1950.`

Lúc đó, Chủ tịch Mao và Thủ tướng Chu Ân Lai đang ở Moscow đàm phán với Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô do Joseph Stalin đứng đầu. Chuyến thăm của họ đã dẫn đến việc ký kết Hiệp ước Hữu nghị, Liên minh và Tương trợ Trung-Xô.

Tôi đã bí mật rời Bắc Kinh về Việt Nam vào tháng 1 năm 1950. Đồng chí Thiếu Kỳ đã nói với tôi vào thời điểm tôi rời đi rằng tôi sẽ trở về Bắc Kinh sau ba tháng công tác. Tuy nhiên, do tình hình Việt Nam thay đổi, tôi đã phải xa nhà tám năm. Ở Việt Nam, tôi đã trải qua cuộc Kháng chiến tám năm lần thứ hai, một cuộc chiến mà kẻ thù của tôi là người Pháp chứ không phải người Nhật.

Hai

Tôi trở về Bắc Kinh lần đầu tiên từ vùng căn cứ miền núi phía Bắc Việt Nam vào ngày 24 tháng 9 năm 1950, tám tháng bảy ngày sau khi tôi rời đi. Sau khi chuẩn bị báo cáo về công tác tại Việt Nam theo đúng mẫu quy định, tôi đã gửi báo cáo lên các lãnh đạo Trung ương Đảng, theo chỉ đạo bằng miệng của đồng chí Thiếu Kỳ và Tổng tư lệnh Chu Đức. Hai ba ngày sau, đồng chí Dương Thượng Côn nói với tôi rằng đồng chí Thiếu Kỳ đã mời tôi đến văn phòng của đồng chí. Tôi lại một lần nữa đến thăm những văn phòng quen thuộc của khu nhà Trung Nam Hải. Sau khi đồng chí Thiếu Kỳ nói với tôi rằng chính Chủ tịch Mao đang chờ nghe tôi báo cáo, tôi và đồng chí được đưa bằng ô tô đến Phong Trạch Viện.

Phong Trạch Viện là ngôi làng ở Bắc Kinh, nơi Hoàng đế Khang Hy đã chủ trì lễ cày ruộng mùa xuân hàng năm. Chúng tôi đến thăm nơi an nghỉ trước đây của Hoàng đế tại Phong Trạch Viện, một khu nhà truyền thống điển hình với hai sân. Cây táo gai và cây lê nở hoa được trồng đối xứng ở hai bên sân ngoài. Ngoài ra, không có bất kỳ đồ trang trí nào khác. Không khí trang nghiêm và đầy cảm hứng. Có một phòng tiếp khách lớn gọi là Ân Niên Điện, và ở phía đông và phía tây của khu nhà là các phòng mang tên "Tranh Sương Mưa" và "Tranh Mây Núi". Đơn giản và không trang trí, đó là nơi ở riêng của Chủ tịch Mao.

Ngược lại, phòng tiếp khách khá sang trọng bên trong. Trần nhà, cửa ra vào và khung cửa sổ được làm bằng gỗ gụ chạm khắc. Nhưng đồ đạc lại rất sơ sài, chỉ có khoảng chục chiếc ghế bành đặt xung quanh một chiếc bàn nhỏ đặt trên tấm thảm cũ ở giữa phòng. Một chiếc bàn dài và hẹp đặt phía sau những chiếc ghế. Khoảng một nửa diện tích sàn hoàn toàn trống rỗng. Đó là những khu vực tiếp khách và phòng ở đơn sơ, phục vụ Chủ tịch Đảng và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa của chúng ta. Hơn nữa, vào thời đó, các cuộc họp chính thức được tiến hành mà không có nhiều nghi lễ. Trong nhiều lần tôi trình bày báo cáo lên Chủ tịch Mao, Chủ tịch thường ngồi trên một trong những chiếc ghế ở phía nam của căn phòng. Tôi ngồi ngay cạnh ông ấy, thường chuyển sang một chiếc ghế xa hơn một chút sau khi hoàn thành báo cáo.

Nhân dịp này, Tổng tư lệnh Chu ĐứcThủ tướng Chu ngồi cạnh Chủ tịch Mao khi đồng chí Thiếu Kỳ dẫn tôi vào phòng. Đồng chí Thiếu Kỳ bắt đầu bằng việc trình bày tóm tắt báo cáo của tôi. Khi đồng chí kết thúc, Chủ tịch Mao đứng dậy và nói với tôi: "Đồng chí Trường Chinh, Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, đã gửi điện yêu cầu đồng chí trở về Việt Nam. Hồ Chí Minh đã mời đồng chí làm Tổng Cố vấn. Đồng chí cần chuẩn bị tinh thần cho chuyến công tác dài ngày tại Việt Nam." Lúc này, đồng chí Thiếu Kỳ ngắt lời: "Ban đầu, đồng chí được phân công công tác ba tháng tại Việt Nam. Nhưng kế hoạch đó phải được điều chỉnh. Chúng ta phải lập kế hoạch dài hạn!" Thủ tướng Chu sau đó thông báo với tôi: "Ủy ban Trung ương đã có quyết định nội bộ đề cử đồng chí làm đại sứ đầu tiên của chúng ta tại Việt Nam." Chủ tịch Mao xác nhận điều này và nói thêm: "Đồng chí sẽ tiếp tục công việc cầu nối giữa hai Đảng Cộng sản Trung Quốc và Việt Nam. Đồng chí là Đại diện Liên lạc đầu tiên, và có thể là duy nhất, của Đảng ta tại Việt Nam."

Thủ tướng Chu và Tổng tư lệnh Chu sau đó đã tóm tắt cho tôi về cuộc xâm lược Triều Tiên của đế quốc Mỹ và việc thành lập một đội quân tình nguyện Trung Quốc sẵn sàng hỗ trợ Triều Tiên. Họ cũng giao cho tôi nhiệm vụ chuyển những chi tiết này về cuộc xung đột Triều Tiên đến Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương.

Chủ tịch Mao sau đó tuyên bố: “Xét tình hình Triều Tiên, chúng tôi quyết định hỗ trợ người Triều Tiên trong cuộc đấu tranh chống Hoa Kỳ. Quân đội tình nguyện của chúng tôi sẽ công khai tiến vào Triều Tiên; quân đội Trung Quốc sẽ sát cánh chiến đấu với quân đội Triều Tiên để chống lại cuộc xâm lược của Mỹ. Xét tình hình Việt Nam, chúng tôi quyết định hỗ trợ bí mật cho cuộc đấu tranh chống Pháp bằng cách cung cấp viện trợ quân sự, viện trợ kinh tế, tài chính và cố vấn. Mặc dù sự hỗ trợ của Trung Quốc ở Việt Nam khác với ở Triều Tiên, nhưng trong cả hai trường hợp, sự hỗ trợ của Trung Quốc đều mang tính quốc tế và yêu nước. Chúng tôi cam kết hỗ trợ Triều Tiên và Việt Nam như nhau, và coi cả hai nhiệm vụ đều vinh quang như nhau.” Mao đột ngột chuyển chủ đề để hỏi tôi về vợ và gia đình tôi. Khi tôi nói với ông ấy rằng vợ tôi đã gia nhập Hồng quân năm 1933 và là người sống sót sau cuộc Vạn lý Trường chinh, Chủ tịch vui vẻ nói: “Vậy thì, cô ấy là một cựu chiến binh dày dạn kinh nghiệm chiến đấu. Rất tốt! Cô ấy đã làm những công việc gì?” Tôi trả lời: “Cô ấy đã làm việc trong các lĩnh vực an ninh nội bộ, hành chính và cán bộ.” Chủ tịch Mao trả lời ngay: "Tốt! Vậy thì khi về Việt Nam làm trợ lý, xin mời đồng chí dẫn cô ấy theo. Hồ Chí Minh đã thúc giục tôi cho phép các cố vấn của chúng ta mang theo vợ. Chỉ cần vợ phù hợp với nhiệm vụ, tôi sẽ đồng ý cho cô ấy đi." Sau đó, một số cố vấn Trung Quốc khác tại Việt Nam cũng được vợ tháp tùng.

Đồng chí Thiếu Kỳ nói: "Vấn đề tài chính, đặc biệt là vấn đề liên quan đến nguồn cung lương thực và tiền tệ, hiện là những vấn đề cấp bách nhất ở Việt Nam. Chúng tôi đã lựa chọn một số cán bộ có kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng và cung ứng lương thực để làm cố vấn tại Việt Nam. Họ sẽ đi cùng đồng chí trong nhóm ban đầu. Sau đó, chúng tôi sẽ lựa chọn các cố vấn trong các lĩnh vực khác và tổ chức họ thành một Đoàn Cố vấn Chính trị để giúp đỡ người Việt Nam. Đồng chí là Tổng Cố vấn và cũng sẽ là Trưởng Đoàn Cố vấn Chính trị của Trung Quốc tại Việt Nam."

Nghe Lưu Thiếu Kỳ dùng từ "Tổng Cố vấn", Chủ tịch Mao nói: "Cẩn thận đừng học theo Liên Xô trong công tác Tổng Cố vấn. Phải nhớ rằng Việt Nam không phải là Trung Quốc. Đừng cố gắng sao chép phương pháp của Trung Quốc. Hãy nhớ rằng điều kiện đặc thù của Việt Nam phải là nền tảng của mọi cách tiếp cận. Hãy trung thực và chân thành với người Việt Nam. Ngoài việc kể cho họ nghe về những kinh nghiệm cách mạng thành công của chúng ta, hãy chắc chắn kể lại chi tiết những thất bại và bài học đau đớn của chúng ta." Buổi họp rút kinh nghiệm là cơ hội đầu tiên tôi được trực tiếp nhận sự chỉ đạo và hướng dẫn của Chủ tịch Mao về các vấn đề quốc tế.

Ba

Bước đầu tiên của chúng tôi trong việc hỗ trợ Việt Nam là đột phá hệ thống phòng thủ của Pháp dọc biên giới Trung-Việt để thiết lập mối liên kết trực tiếp giữa Trung Quốc và các khu vực do Việt Minh kiểm soát. Nhờ đó, chúng tôi có thể vận chuyển hàng tiếp tế trực tiếp vào Việt Nam. Quân đội Pháp sẽ mất lợi thế chủ yếu ngay khi Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) kiểm soát các cửa ải và tuyến đường chiến lược qua biên giới. Có hai phương án khả thi để đột phá hệ thống phòng thủ của Pháp. Phương án thứ nhấtchiếm thị xã Cao Bằng, nằm trên biên giới tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc; phương án thứ haichiếm Lào Cai, nằm trên biên giới tỉnh Vân Nam. Hay tốt nhất là tấn công cả hai thị xã cùng lúc? Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương và Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã mất gần ba tháng đàm phán trước khi thống nhất một kế hoạch tấn công. Ngày 2 tháng 7 năm 1950, Chủ tịch Mao đã trả lời Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương trong một bức điện: "Tôi tán thành đề xuất chiếm Cao Bằng trước. Về kế hoạch tác chiến chi tiết cho cuộc tấn công Cao Bằng, xin hãy chờ Trần Canh đến rồi hãy quyết định sau khi thảo luận với ông ấy. Về việc tiếp tục tác chiến, xin các ngài cần căn cứ vào tình hình thực tế để quyết định. Khi chúng tôi đưa ra ý kiến, chúng chỉ mang tính chất tham khảo. Bởi vì các ngài hiểu rõ hoàn cảnh của mình hơn chúng tôi."

Đồng chí Trần Canh là vị tướng Trung Quốc được Hồ Chí Minh đích thân chọn để hỗ trợ Việt Nam. Sau khi Hồ Chí Minh yêu cầu sự giúp đỡ của Tướng Trần từ Chủ tịch Mao và Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta, Trần Canh được cử sang Việt Nam với tư cách là đại diện của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, với sự ủy nhiệm của Chủ tịch Mao và Ban Chấp hành Trung ương, giúp tổ chức lực lượng và chỉ huy họ trong Chiến dịch Biên giới mà Đoàn Cố vấn Quân sự của ta đang chuẩn bị tham gia. Chủ tịch Mao đã rất chú ý và cẩn thận đến Chiến dịch Biên giới quan trọng này. Nhiều bức điện quan trọng phải qua tay ông và được ông đích thân phê duyệt. Ông thậm chí còn tự mình soạn thảo điện tín. Trong thời gian chuẩn bị cho Chiến dịch Biên giới, Chủ tịch Mao và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã chấp thuận yêu cầu của Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương cho phép chuyển quân QĐNDVN đến khu vực Văn Sơn, tỉnh Vân Nam để nghỉ ngơi, tái trang bị, huấn luyện và tái tổ chức. Các cố vấn Trung Quốc đã giúp tổ chức lại các đội quân này thành hai trung đoàn hoặc sư đoàn lớn, do đó biến chúng thành hai nắm đấm mạnh mẽ. Hai đơn vị được tổ chức lại này đã đóng một vai trò quan trọng trong Chiến dịch Biên giới. Theo chỉ thị của Mao, Trần Canh đã cống hiến sự hỗ trợ vô giá và quên mình cho chiến dịch, giúp quân và dân Việt Nam giành thắng lợi quyết định. Chiến thắng này đã đưa quân đội Việt Nam thoát khỏi giai đoạn phòng ngự và củng cố liên lạc xuyên biên giới giữa Trung Quốc và Việt Nam. Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp và các nhà lãnh đạo Việt Nam khác đã rất phấn khởi trước chiến thắng này. Ngày 14 tháng 10 năm 1950, ngay sau trận đánh, Hồ Chí Minh đã viết thư cho đồng chí Mao Trạch Đông và Đảng Cộng sản Trung Quốc, báo cáo: “Chúng ta đã giành được thắng lợi hoàn toàn trong trận Thất Khê và Cao Bằng. Sự giúp đỡ toàn diện của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Liên Xô là nguyên nhân chính của chiến thắng này. Các đồng chí từ các tỉnh Vân Nam, Quảng Tây và Quảng Đông đã thực hiện chính xác và tận tâm chỉ đạo của đồng chí, không màng đến khó khăn của chính mình, trực tiếp giúp đỡ chúng ta. Tôi xin nêu bật những đóng góp đặc biệt của các đồng chí Trần Canh, Tống Nhậm Quỳnh, Trương Vân Nghi, Lý Thiên Diệu, La Quý Ba, Diệp Kiếm Anh, Phương Phương, Ngụy Quốc Thanh và các đồng chí khác trong Đoàn Cố vấn. Tóm lại, tôi tin rằng đây là một thắng lợi trên con đường quốc tế cách mạng của Mao Trạch Đông. Tôi sẽ không nói những lời cảm ơn thông thường để bày tỏ lòng biết ơn. Thay vào đó, tôi phải tuyên bố rằng các đồng chí và nhân dân Việt Nam chắc chắn sẽ đáp ứng những kỳ vọng cao cả và đền đáp sự giúp đỡ to lớn mà chúng ta đã nhận được từ các anh em trong Đảng Cộng sản Trung Quốc và Liên Xô tiếp tục nỗ lực hướng tới thắng lợi to lớn và cuối cùng.”

Bốn

Tôi trở về Trung Quốc để báo cáo với Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Khi tôi đang báo cáo về yêu cầu của Việt Nam xin Trung Quốc hỗ trợ thêm, Chủ tịch Mao nói: “Vì nhân dân Trung Quốc đã giành được thắng lợi cách mạng, chúng ta có nghĩa vụ giúp đỡ các dân tộc mà đất nước chưa được giải phóng: đây là chủ nghĩa quốc tế. Việt Nam đang vật lộn trong cuộc kháng chiến chống Pháp xâm lược, nhưng vẫn bị cô lập, thiếu sự giúp đỡ của các nước khác. Trong thời điểm khó khăn này, Việt Nam đang trông cậy vào sự giúp đỡ của chúng ta. Là những người cách mạng, chúng ta có nghĩa vụ hỗ trợ Việt Nam một cách vô tư, miễn phíhoàn toàn không kèm theo bất kỳ ràng buộc chính trị nào. Vì vậy, Trung Quốc sẽ cung cấp cho Việt Nam bất cứ thứ gì họ cần mà chúng ta có.” Chủ tịch Mao tiếp tục nói: “Bọn thực dân Pháp xâm lược không chỉ là kẻ thù của nhân dân Việt Nam; chúng còn là kẻ thù của chúng ta. Pháp là kẻ thù chung của nhân dân Trung Quốc và Việt Nam. Sự giúp đỡ của Trung Quốc dành cho Việt Nam chính là giúp đánh bại bọn thực dân Pháp xâm lược. Giúp khôi phục hòa bình ở Việt Nam chính là giúp nước láng giềng của chúng ta. Đổi lại, bằng cách đánh bại bọn thực dân Pháp xâm lược và đuổi chúng ra khỏi Việt Nam, Việt Nam sẽ giúp Trung Quốc bằng cách giải phóng biên giới phía Nam của chúng ta khỏi mối đe dọa xâm lược thực dân Pháp.

Vì vậy, chúng ta không nên chỉ nói một chiều về sự giúp đỡ của Trung Quốc dành cho Việt Nam; chúng ta phải nói rằng Việt Nam cũng đang giúp Trung Quốc; sự giúp đỡ này là sự giúp đỡ lẫn nhau.

Khi tôi nói rằng những kỳ vọng của Việt Nam về sự hỗ trợ từ Trung Quốc là quá tham vọng, đòi hỏi quá cao và xa rời thực tế, Chủ tịch Mao nói: "Có lẽ sự thiếu hiểu biết về tình hình ở đất nước chúng ta, cũng như ở chính đất nước họ, có thể là lý do khiến họ đưa ra những yêu cầu đầy tham vọng, đòi hỏi quá cao và không thực tế về một chương trình viện trợ từ Trung Quốc. Một lý do khác có thể là do họ thiếu kinh nghiệm. Các ngài phải kiên nhẫn hỗ trợ họ."

Trong những năm tôi ở Việt Nam, sự chỉ đạo và hướng dẫn của Chủ tịch Mao và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã được thực hiện một cách trung thực trong các chương trình hỗ trợ của chúng tôi. Các chương trình này rất đa dạng, bao gồm cung cấp vũ khí và trang thiết bị quân sự, cùng với lương thực, quần áo, thuốc mendịch vụ y tế, thiết bị liên lạc và phương tiện. Vì vậy, chúng tôi không chỉ hướng dẫn bằng cách kể lại và chia sẻ kinh nghiệm của cách mạng Trung Quốc, mà còn cung cấp cả hỗ trợ chiến đấu tiền tuyến và dịch vụ hậu cần cơ sở tại Việt Nam.

Các cố vấn Trung Quốc tại Việt Nam đã làm việc với sự tận tâm và tận tụy, đóng góp vô tư cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam. Theo chỉ thị của Chủ tịch Mao, chúng tôi không yêu cầu bất kỳ sự đền bù nào dưới hình thức dịch vụ hay thù lao trong thời gian ở Việt Nam. Sống, làm việc và chiến đấu sát cánh cùng các đồng chí Việt Nam, chúng tôi chia sẻ những khó khăn và hạnh phúc của họ. Tương tự, chính phủ Trung Quốc đã hỗ trợ Việt Nam mà không yêu cầu bất kỳ sự đền bù nào dưới bất kỳ hình thức nào. Trung Quốc không áp đặt bất kỳ hiệp ước hay thỏa thuận bất bình đẳng nào lên Việt Nam, và không duy trì bất kỳ căn cứ quân sự nào hay triển khai một binh sĩ nào tại Việt Nam. Sự hỗ trợ và giúp đỡ của Trung Quốc là tự nguyện và vô tư, thể hiện rõ sự vĩ đại của chủ nghĩa quốc tế của Chủ tịch Mao. Chủ nghĩa quốc tế theo tinh thần này rất hiếm có trên thế giới.

Năm

Mùa đông năm 1951, Hồ Chí Minh lại bí mật đến thăm Bắc Kinh. Một hôm, tôi đưa ông đến Điện Ân Niên ở Phong Trạch Viện. Khi chúng tôi đến gần cổng, Chủ tịch Mao, Đồng chí Thiếu Kỳ, Thủ tướng Chu Ân Lai và Tổng tư lệnh Chu Đức đều ra đón Hồ. Họ chào đón ông bằng những cái ôm thân mật. Hồ Chí Minh đã quen biết Chủ tịch Mao, Đồng chí Thiếu Kỳ, Thủ tướng Chu và Tổng tư lệnh Chu trong cuộc Nội chiến Cách mạng Trung Quốc lần thứ nhất và sau đó là trong cuộc Kháng chiến chống Nhật. Tiếng Trung giọng Quảng Đông của ông lưu loát đến mức không cần phiên dịch. Cuộc gặp diễn ra trong không khí ấm áp thân mật thay vì những nghi thức ngoại giao thông thường, như thể Hồ Chí Minh vừa được đoàn tụ với gia đình. “His Cantonese-accented Chinese was so fluent that an interpreter was not needed. The meeting proceeded with intimate warmth rather than conventional diplomatic formalities, as though Ho had just been reunited with his own family.”

Hồ Chí Minh chào đón Chủ tịch Mao như một người anh em thất lạc từ lâu. Sau những lời chào hỏi thân mật và trao đổi xã giao, họ nhanh chóng bắt đầu thảo luận những vấn đề quan trọng. Hồ Chí Minh đã trình bày vắn tắt về tình hình hiện tại của cuộc kháng chiến chống Pháp, tiến độ xây dựng căn cứ địa cách mạng và công tác của các cố vấn Trung Quốc tại Việt Nam. Sau đó, Thủ tướng Chu Ân Lai và Tổng tư lệnh Chu đã trình bày tóm tắt về tình hình Chiến tranh Triều Tiên và tình hình nội bộ của Trung Quốc.

Trong một cuộc trò chuyện, Hồ Chí Minh đã nói với Chủ tịch Mao: “Bộ Chính trị của chúng tôi hy vọng đồng chí La Quý Ba sẽ phê bình chúng tôi nhiều hơn và đưa ra nhiều chỉ đạo hơn với tư cách là người tham gia các cuộc họp Bộ Chính trị, nhưng ông ấy đã quá khiêm tốn và thận trọng. Chúng tôi hy vọng đồng chí sẽ chỉ đạo đồng chí phê bình chúng tôi kỹ lưỡng hơn. Mao Chủ tịch, đồng chí có đồng ý không?

“Chắc chắn rồi,” Chủ tịch Mao nói, “Nhưng những lời phê bình, ý tưởng và đề xuất của ông ấy chỉ để đồng chí tham khảo. Hãy ghi nhớ những gì đồng chí cho là đúng, đồng thời bác bỏ những gì có vẻ không đúng. Quyết định là do đồng chí.”

Cuộc trò chuyện giữa Chủ tịch MaoHồ Chí Minh tiếp tục một cách thân mật. Nhưng Chủ tịch Mao đã bày tỏ quan điểm và sở thích của mình theo cách khiến chúng trở nên gần gũi như một cuộc trò chuyện thân mật. Tuy cuộc trò chuyện của họ có vẻ thoải mái và tự nhiên, nhưng nội dung thực sự lại vô cùng ý nghĩa. Hồ Chí Minh, một người giàu cảm xúc, dường như vô cùng cảm động trước sự chân thành của Mao. Ông đứng dậy và tuyên bố: "Các đồng chí Việt Nam và tôi tin chắc rằng qua hành động của Trung Quốc, các đồng chí đã giúp đỡ chúng tôi bằng sự chân thành thực sự."

Đã đến giờ ăn trưa. Chủ tịch Mao, Chủ tịch Hồ, Đồng chí Thiếu Kỳ, Tổng tư lệnh Chu và tôi cùng bước vào phòng ăn. Thủ tướng Chu xin phép rời đi để tiếp khách nước ngoài. Phòng ăn là một khu vực ngăn cách với phòng họp bằng vách ngăn, chỉ chừa chỗ cho hai bàn. Chúng tôi chỉ tìm thấy một bàn ở đó. Trong suốt bữa trưa, Chủ tịch Mao, Chủ tịch Hồ, Đồng chí Thiếu Kỳ và Tổng tư lệnh Chu liên tục trò chuyện, bình luận, xen vào và ngắt lời nhau một cách thân thiện.

Ớt cay được phục vụ cùng bữa trưa. Nhìn thấy ớt, Chủ tịch Hồ nói với Chủ tịch Mao: "Đồng chí La Quý Ba đã nói với chúng tôi rằng đồng chí thích ớt đến nỗi không có ớt thì không có cảm giác thèm ăn. Có đúng vậy không?" Chủ tịch Mao mỉm cười khi Hồ tiếp tục: "Người Việt Nam chúng tôi cũng thích ăn ớt. Nhưng cây ớt ở Việt Nam khác với cây ở Trung Quốc. Chúng cao một hoặc hai mét, giống như những cây nhỏ. Ớt mọc hướng lên trên, hướng lên trời. Chúng thực sự có vị cay ..." Mọi người đều lắng nghe với sự thích thú lớn khi Hồ mô tả về những quả ớt nhỏ mọc hướng lên trời trong những khu rừng ở miền bắc Việt Nam. Chủ tịch Mao sau đó nói: "Tôi không phải là người duy nhất ở đây thích ăn ớt. Đồng chí Thiếu Kỳ và tôi đều đến từ tỉnh Hồ Nam và thích ớt như người Hồ Nam điển hình. Tổng tư lệnh Chu đến từ Tứ Xuyên; người dân Tứ Xuyên cũng thích ớt." Nhắc đến tôi, Chủ tịch Mao nói tiếp: “Ông ấy là người tỉnh Giang Tây; người dân Giang Tây cũng rất thích ớt. Người dân Vân Nam, rất gần Việt Nam, cũng vậy. Tuy chúng tôi đều thích ăn ớt, nhưng có nhiều cách chế biến khác nhau.” Sau đó, tất cả chúng tôi bắt đầu mô tả các phương pháp chế biến ớt đặc trưng ở quê hương mình, trong đó phương pháp của Việt Nam được quan tâm nhiều nhất. Hồ Chí Minh giải thích rằng phong tục của người Việt là ngâm những quả ớt hướng lên trời trong nước mắm và một ít nước cốt chanh. Chủ tịch Mao xen vào lúc này và nói: "Thực ra việc chúng tôi nghiện ớt không phải do phong tục địa phương. Trong giai đoạn từ 1932 đến 1934, Quốc Dân Đảng đã áp đặt lệnh cấm vận thương mại nghiêm ngặt đối với Khu tự trị Trung Xô của chúng tôi. Kết quả là thiếu muối trầm trọng. Để có được nguồn cung cấp muối, một số đồng chí đã phải trả giá rất đắt; thậm chí có người đã hy sinh mạng sống. Chúng tôi đã phải vật lộn biết bao! Bữa ăn không có muối thật nhạt nhẽo. Nhiều đồng chí, kể cả tôi, đã phải dùng ớt thay muối. Một món ăn không có muối nhưng ăn kèm với ớt được coi là một bữa ăn ngon!"

Mặc dù đã nhiều năm trôi qua, cuộc trò chuyện của chúng tôi về ớt vẫn giống như chuyện mới xảy ra ngày hôm qua.

Sáu

Sau khi tiễn Hồ Chí Minh, Chủ tịch Mao, đồng chí Thiếu Kỳ và Tổng tư lệnh Chu mời tôi ở lại để thảo luận thêm.

Chủ tịch Mao dặn dò tôi: “Hãy nêu quan điểm và góp ý mỗi khi đồng chí Hồ Chí Minh mời đồng chí đến họp Bộ Chính trị và xin ý kiến. Nhưng đồng chí phải nói rõ rằng ý kiến ​​và đề xuất của đồng chí chỉ để các nhà lãnh đạo Việt Nam tham khảo. Đồng chí phải chú trọng nghiên cứu, tìm hiểu, tránh chủ quan. Đồng chí phải lấy điều kiện cụ thể của Việt Nam làm xuất phát điểm khi vận dụng kinh nghiệm Trung Quốc, tránh áp đặt phương pháp Trung Quốc một cách rập khuôn. Đồng chí phải hết sức thận trọng khi đưa ra ý kiến ​​và đề nghị. Đồng chí phải cân nhắc kỹ lưỡng, trình bày hợp lý và chịu trách nhiệm về những gì mình nói. Muốn giúp đỡ người Việt Nam, phải giúp đỡ đúng mức. Tuyệt đối không áp đặt quan điểm của mình. Đồng chí phải hết sức tôn trọng đồng chí Hồ Chí Minh và các đồng chí lãnh đạo khác của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Tuyệt đối không được hành xử như một sứ thần của đế quốc và đặc biệt phải cẩn thận, không được có thái độ sô vanh của một cường quốc. Xu hướng thận trọng của đồng chí là đúng đắn.”

Đồng chí Thiếu Kỳ và Tổng tư lệnh Chu nói: "Hãy nhớ giới hạn nhiệm vụ của mình, tuyệt đối không được vượt quá. Luôn báo cáo Chủ tịch Mao và Ban Chấp hành Trung ương Đảng về những vấn đề quan trọng khi phát sinh hoặc sau khi quyết định được đưa ra."

Nét mặt Chủ tịch Mao trở nên nghiêm nghị và xúc động hơn. Ông nói với tôi: "Anh đã ở Khu Trung tâm Xô Viết trước cuộc Vạn lý Trường chinh. Anh phải nhớ Lý Đức."

"Có," tôi trả lời. “Lý Đức là người Đức,” Chủ tịch Mao nói tiếp, “Ông ấy đã chiến đấu với Hồng quân và được tặng thưởng huân chương trong Cách mạng Tháng Mười. Được Stalin tin tưởng, ông ấy được cử đến hỗ trợ Đảng Cộng sản Trung Quốc và đến Khu vực Trung Xô làm cố vấn quân sự. Chẳng bao lâu sau, ông ấy nắm được quyền chỉ huy Hồng quân của công nông Trung Quốc. Sự lãnh đạo của Lý Đức đã gây ra thiệt hại to lớn cho sự nghiệp cách mạng Trung Quốc. Ông ấy không hiểu rõ điều kiện cụ thể của Trung Quốc hay tình hình của Hồng quân Trung Quốc. Ông ấy không chịu học hỏi hay nghiên cứu để hiểu rõ tình hình, và phớt lờ những quan điểm khác biệt với mình. Cách tiếp cận của ông ấy là áp dụng trực tiếp và không hề sửa đổi những chiến thuật và chiến lược đã hiệu quả ở Liên Xô nhưng lại hoàn toàn không thực tế ở Trung Quốc. Tuy nhiên, với sự ủy nhiệm của Quốc tế Cộng sản, ông ấy có thể bắt nạt và đe dọa tất cả mọi người. Tóm lại, Lý Đức kiêu ngạo, thích chỉ huy, cứng đầu và ép buộc, giống như một sứ thần đế quốc kiểu cũ. Cùng với Bạc Cổ và những người theo đuôi khác, Lý Đức đã thực hiện một loạt chiến lược và chiến thuật quân sự sai lầm, gây ra cho chúng ta những đau khổ to lớn và phải trả giá bằng máu.”

Chủ tịch Mao tiếp tục: “Hãy nhớ bài học về cách hành xử của Lý Đức ở Trung Quốc khi anh đang công tác tại Việt Nam. Cũng đừng quên nói về điều này với tất cả các đồng chí trong Đoàn Cố vấn. Khuyến khích mỗi người ghi nhớ điều này bằng cách nói với họ rằng sự hỗ trợ của chúng ta dành cho Việt Nam sẽ không theo hình thức sao chép các cách tiếp cận trước đây, cũng không phải là sự chuyển giao trực tiếp; sự giúp đỡ của chúng ta thực sự phải giúp người Việt Nam trở nên tốt đẹp hơn. Sự hỗ trợ sẽ không hiệu quả nếu các cố vấn Trung Quốc giữ những kỳ vọng chủ quan. Sự hỗ trợ của họ sẽ chỉ hiệu quả nếu họ nhận thức được tình hình cụ thể ở Việt Nam và giữ thái độ khiêm tốn, thận trọng. Họ nên hiếm khi đề cập đến những chiến thắng của chúng ta và thường xuyên thảo luận về những thất bại của chúng ta. Chúng ta đã trải qua những thất bại. Là một phần trong công việc hỗ trợ Việt Nam của anh, hãy chắc chắn theo dõi và xem xét lại tất cả những gì anh nói và làm. Hãy thực hiện thói quen xem xét lại lời nói và hành động của mình hàng ngày, hoặc ba ngày một lần, hoặc ít nhất một lần một tuần, để ghi nhớ rõ ràng cách anh đang tiến hành đúng đắn và những cách anh có thể đang đi chệch hướng.”

“Về phần đồng chí Hồ Chí Minh,” Mao nói tiếp, “ông được nhân dân Trung Quốc và Việt Nam kính trọng; trên trường quốc tế, ông thậm chí còn được những người chống đối ông kính trọng.” Việc Chủ tịch Mao nâng Hồ Chí Minh lên một vị trí cao như vậy có ý nghĩa vô cùng to lớn; lời ca ngợi của ông đã để lại ấn tượng sâu sắc trong tôi. Nhờ vậy, Mao đã cho tôi một bài giảng vô cùng sâu sắc và đồng thời cũng rất thực tế về chủ nghĩa quốc tế vô sản.

Bảy

Đối với Chủ tịch Mao, sự nghiệp cách mạng chống thực dân của nhân dân Việt Nam cũng quan trọng như sự nghiệp cách mạng của nhân dân Trung Quốc; Người đã tận tụy giúp đỡ Việt Nam với tinh thần quốc tế sâu sắc và sự hy sinh quên mình. Không chỉ chỉ đạo tôi và những người khác trong đoàn cố vấn theo tinh thần này, Chủ tịch Mao còn thể hiện điều đó bằng hành động của mình.

Trần Canh, Ngụy Quốc Thanh và tôi đã liên lạc điện tín với Chủ tịch Mao và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khi xin chỉ thị của họ. Nội dung trao đổi của chúng tôi bao gồm nhiều vấn đề quan trọng, bao gồm các hoạt động quân sự (như Chiến dịch Biên giới, Trận Điện Biên Phủ và Trận Tây Bắc), việc mở rộng và huấn luyện lực lượng vũ trang Việt Nam, củng cố Đảng về tư tưởng và tổ chức, các vấn đề kinh tế và tài chính, cải cách ruộng đất, hỗ trợ quân sự, an ninh công cộng, tình báo và quan hệ với các nhóm dân tộc thiểu số. Chủ tịch Mao đã đọc, chỉnh sửa và ký tất cả các điện tín gửi đến và nhận từ Trần, Ngụy và tôi. Ông đã tự tay soạn thảo những bức điện tín đặc biệt quan trọng. Mỗi khi Hồ Chí Minh và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam gửi điện tín cho Chủ tịch Mao và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc để xin ý kiến, Chủ tịch Mao và Ban Chấp hành Trung ương đều gửi điện tín phản hồi. Trong những bức điện quan trọng, Chủ tịch Mao luôn lưu ý: “Quan điểm của chúng tôi chỉ để các đồng chí tham khảo. Các đồng chí tự quyết định lấy; các đồng chí hiểu rõ tình hình hơn chúng tôi.”

Đồng chí Vương Gia Tường đã chủ trì một tổ công tác thuộc Ban Liên lạc Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, soạn thảo một bộ quy định tạm thời để các cố vấn Trung Quốc tại Việt Nam tuân thủ. Chủ tịch Mao đã bổ sung những điểm quan trọng khi biên soạn bản dự thảo, bao gồm: “Giữ gìn từng cọng cỏ, từng cây của nhân dân Việt Nam; tôn trọng nền độc lập của dân tộc Việt Nam và phong tục tập quán của nhân dân Việt Nam; ủng hộ Đảng Lao động Việt Nam và Đồng chí Hồ Chí Minh, lãnh tụ của nhân dân Việt Nam.” Vì vậy, nội dung của quy định này thấm đẫm tinh thần quốc tế của Chủ tịch Mao và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Khi tôi trở về Trung Quốc vào năm 1952 để trình bày báo cáo công tác thường kỳ, tôi đã báo cáo với Chủ tịch Mao rằng hầu hết các cố vấn Trung Quốc đều ổn định công tác theo chỉ thị của Chủ tịch Mao và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và tinh thần quốc tế. Tuy nhiên, một số ít người trong số họ chưa quen với khí hậu nhiệt đới ẩm ướt ở Việt Nam, với muỗi, hay với lối sống khác biệt. Một số người thường xuyên bị ốm, sốt rét và sụt cân đáng kể. Hơn nữa, thường xuyên phải đối mặt với chiến sự trên bộ và không kích của Pháp, các cố vấn này lo sợ rằng họ sẽ mất mạng ở Việt Nam. Họ hy vọng hoặc đã nộp đơn xin chuyển quân sớm về Trung Quốc.

Norman Bethune, Chủ tịch Mao, im lặng. Một lúc sau, ông nói nhỏ: “Norman Bethune là một người Canada đã vượt hàng ngàn dặm đến Trung Quốc, quyết tâm giúp đỡ nhân dân Trung Quốc kháng chiến chống Nhật Bản. Không mưu cầu lợi ích cá nhân, ông sẵn sàng hy sinh tất cả những gì mình có. Bethune là hiện thân của tinh thần quốc tế. Ông đã hy sinh như một anh hùng và được an táng tại Trung Quốc. Ông là một chiến sĩ quốc tế kiệt xuất, người mà chúng ta sẽ mãi mãi tôn vinh và tưởng nhớ.”

Chủ tịch Mao tiếp tục: “Nhiều đồng chí trong Đảng của chúng ta là người miền Bắc đã làm việc, chiến đấu và định cư ở miền Nam Trung Quốc. Một số đã hy sinh ở miền Nam. Trong khi đó, nhiều người miền Nam đã làm việc, chiến đấu và định cư ở miền Bắc; một số người trong số họ cũng đã hy sinh. Tất cả các cố vấn của chúng ta ở Việt Nam đều là đảng viên ĐCSTQ do Đảng ta cử đến để giúp đỡ người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Tại sao họ không được tiếp tục làm việc, chiến đấu và sống ở Việt Nam? Tại sao họ không được chết ở Việt Nam?” Sau đó, Chủ tịch Mao đọc hai câu thơ trong một bài thơ cổ điển: “Một người trung thành có thể được chôn cất ở bất kỳ nơi nào; có cần thiết phải mang hài cốt được bọc da ngựa của anh ta về nhà không?” Sau đó, ông giải thích ý nghĩa của câu thơ cho tôi.

Tám

Nguồn cung cấp lương thực an toàn và một hệ thống tiền tệ hiệu quả là những mục tiêu quan trọng trong chương trình viện trợ của Trung Quốc cho Việt Nam. Những mục tiêu này đã được xác định ngay từ tháng 3 năm 1950 khi Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Phạm Văn ĐồngVõ Nguyên Giáp báo cáo tóm tắt cho tôi về tình hình Việt Nam. Họ xác định vấn đề lương thực và tiền tệ là những vấn đề cấp bách và nan giải nhất mà họ tìm kiếm sự giúp đỡ của chúng tôi.

Tôi đã báo cáo vấn đề lương thực và tiền tệ lên Chủ tịch Mao và Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Chủ tịch Mao và đồng chí Thiếu Kỳ đã trả lời và đưa ra chỉ thị. Họ lập luận rằng giải pháp cơ bản cho các vấn đề kinh tế và tài chính ở Việt Nam, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến lương thực và tiền tệ, là xóa bỏ hệ thống tài chính và kinh tế cũ mà thực dân Pháp đã thiết lập và tiếp tục kiểm soát, và thay thế chúng bằng các hệ thống mới. Chủ tịch Mao và đồng chí Thiếu Kỳ đã đề cập đến kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trong cuộc kháng chiến chống Nhật và chiến tranh giải phóng, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã xây dựng một bộ chính sách tài chính và kinh tế để giải quyết những vấn đề này một cách hiệu quả. Các chính sách này bao gồm việc áp dụng thuế ngũ cốc, rút ​​tiền khỏi lưu thông và khuyến khích sản xuất. Chủ tịch Mao và đồng chí Thiếu Kỳ nói với tôi rằng những chính sách này nhìn chung phù hợp với Việt Nam và có thể dùng làm tài liệu tham khảo.

Thực hiện chỉ thị của Chủ tịch Mao và Đồng chí Thiếu Kỳ, các cố vấn và tôi bắt đầu giúp cải cách hệ thống cung cấp lương thực và tiền tệ của Việt Nam. Chúng tôi giới thiệu những kinh nghiệm của Trung Quốc cho người Việt Nam và điều chỉnh chúng cho phù hợp với tình hình ở Việt Nam, do đó giúp họ thiết lập hệ thống của riêng mình. Công việc này bao gồm từ chiến lược và hoạch định chính sách ở cấp vĩ mô, đến xây dựng kỷ luật dưới hình thức hiến chương, quy định và chỉ thị, và đến các mệnh lệnh và hoạt động thực hiện. Kết quả là, tình hình tài chính và kinh tế của Việt Nam đã được cải thiện rõ rệt vào năm 1951. Binh lính và nhân viên dân sự đã có thức ăn trên bàn và không còn phải chịu đói nữa. Dân thường cũng có nhiều thức ăn hơn. Đồng tiền Việt Nam được ổn định và lạm phát được ngăn chặn. Thị trường dần trở nên sôi động. Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Trường ChinhVõ Nguyên Giáp đều hài lòng với những diễn biến này. Như Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã tuyên bố năm 1951, “Chủ tịch Mao và Đảng Cộng sản Trung Quốc đã hỗ trợ chúng ta một cách vô tư, cử cố vấn giúp chúng ta giành chiến thắng chiến lược trong Trận Biên giới năm 1950, và do đó đã thay đổi quyết định cục diện cuộc Kháng chiến của chúng ta. Giờ đây, các cố vấn Trung Quốc đã giúp chúng ta giải quyết những vấn đề khó khăn và cấp bách nhất – những vấn đề tài chính và kinh tế, đặc biệt là liên quan đến lương thực, tiền tệ và sản xuất. Sự hỗ trợ này thể hiện tinh thần quốc tế cao cả của Chủ tịch Mao và Đảng Cộng sản Trung Quốc, đồng thời cho thấy hiệu quả của Tư tưởng Mao Trạch Đông và kinh nghiệm cách mạng ở Trung Quốc khi được áp dụng vào Việt Nam.”

Chín

Sau Chiến dịch Biên giới năm 1950, chúng ta đã tiến hành nhiều chiến dịch và chiến đấu nhiều trận, bao gồm các trận đánh ở Trung lưu sông Hồng [tháng 12 năm 1950 - tháng 1 năm 1951], Ninh Bình [tháng 5 - tháng 6 năm 1951], Trận Đông Bắc [tháng 3 - tháng 4 năm 1951], Thượng Lào [tháng 3 - tháng 5 năm 1953], Tây Bắc [tháng 10 - tháng 12 năm 1951], Chiến dịch Du kích Đồng bằng sông HồngDiên Biên Phủ [tháng 3 - tháng 5 năm 1954]. Cuối cùng, bọn thực dân Pháp xâm lược đã buộc phải ngồi vào bàn đàm phán ở Geneva và chấp nhận hiệp định ngừng bắn. Nhân dân Việt Nam cuối cùng đã giành được thắng lợi quyết định.

Chính trong cuộc chiến tranh chống Pháp của Việt Nam, đồng chí Hồ Chí Minh, Đảng Lao động Việt Nam và nhân dân Việt Nam đã hiểu được chủ nghĩa quốc tế của đồng chí Mao Trạch Đông. Đáp lại tinh thần quốc tế vĩ đại của Mao Trạch Đông, nhân dân Việt Nam vô cùng kính trọng đồng chí Mao Trạch Đông đến mức họ gọi ông là "Bác Mao", thể hiện tình cảm chân thành. "Bác" cũng chính là cách gọi đầy kính trọng và trìu mến mà nhân dân Việt Nam dành cho đồng chí Hồ Chí Minh.

Lịch sử là vị thẩm phán công bằng nhất và là thước đo chuẩn xác nhất. Bất chấp thời gian và những biến động của tình hình thế giới, tư tưởng quốc tế vô sản của Mao Trạch Đông và những đóng góp của ông cho chiến thắng Pháp của Việt Nam sẽ sống mãi trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam.

La Quý Ba kể lại sự tham gia của Trung Quốc vào Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất và sự hỗ trợ của nước này đối với Việt Minh.

https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/glorious-model-proletarian-internationalism-mao-zedong-and-helping-vietnam-resist-france

https://digitalarchive.wilsoncenter.org/document/95437/download

No comments:

Post a Comment