Sunday, July 25, 2021

20210726 Cong dong Tham Luan

20210726 Cong dong Tham Luan

 

Phiet Pham thephiet_2002@yahoo.com

Sat, Jul 24 at 11:57 PM

 

THÂN PHẬN CỦA ĐẠI TÁ CAO VĂN VIÊN TRONG CUỘC ĐẢO CHÁNH 1-11-1963.

Từ đơn vị tác chiến (tiểu đòan 41 BĐQ), Tôi được lệnh về làm Sĩ quan Tuỳ Viên cho Đại Tướng Cao văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng vào cuối năm 1966. Vì tôi không có nhà ở Sài Gòn nên ông bà Đại Tướng cho tôi tạm ở trong tư dinh thời gian đầu.

Với công việc hoàn toàn mới lạ, nhiều bỡ ngỡ, cộng thêm sự gò bó ở trong dinh của Đại Tướng, mới đầu tôi hơi nản lòng, nhưng nhờ sự giúp dỡ, chỉ dẫn tận tình của người tiền nhiệm của tôi là Quách tinh Cần K20//TVBQGĐL, và sự cởi mở của ông bà Đại Tướng nên tôi cảm thấy an tâm đôi chút.

Những ngày đầu về ở trong dinh của Đại Tướng, cứ sau bữa cơm tối ông xuống phòng tùy viên chỉ rõ cách sinh hoạt trong nhà, cách tiếp nhận đìện thoại từ bên ngoài gọi vào, an ninh vòng ngoài, an ninh vòng trong, và v.v...

Ông bảo tôi: thông thường các tướng lãnh khác tôi đều tiếp họ tại văn phòng, ngoài giờ làm việc tôi không tiếp ai ở nhà riêng cả, nếu có vi tuớng tá nào muốn gẵp tôi ngoài giờ làm việc, mà không có hẹn, chú không được mở cổng, mà phải báo tôi trước để tôi quyết định có tiếp họ hay không, dặc biệt chú phải quan sát, xem vị tướng đó có đem theo lính hộ tống hay không, trong mọi trường hợp chú đừng cho lính hộ tống vào bên trong dinh, cổng phải luôn luôn khóa chốt

Nhưng đặc biệt có hai vị cựu tướng lãnh khi tới nhà muốn gặp tôi bất cứ lúc nào, chú cũng mở cổng mời vào phòng khách rồi báo tôi ra tiếp, không cần phải hỏi tôi trước, hai vi đó là trung tướng Trần văn Đôn và trung tướng Tôn thất Đính, mà chú có bao giờ thấy hai vị tướng đó chưa? Tôi trả lời “da chỉ biết qua hình ảnh trên báo chí”. Ông bảo cũng tót, vậy thi ráng nhận diện nếu hai vị đó tới. Xong ông nhìn tôi thấy có vẻ như tôi muốn tìm hiểu lý do mà hai ông cựu tướng này được đại tướng ưu ái như vậy, ông nói thêm chú muốn biết tại sao tôi đối xử với hai ông đó đặc biệt như thế chứ gì, được rồi để mai tôi kể cho chú nghe vì mai là chúa nhật có nhiều giờ rảnh hơn”

Hôm sau ăn cơm trưa xong ông xuống phòng tôi và bắt đầu kể:

“Ngày 1 tháng 11 năm 1963 là ngày Lễ Các Thánh, quân nhân, công chức nghỉ buổi sáng khoảng 10 giờ sáng tôi được điện thoại của chánh văn phòng thiếu tướng Khiêm mơi vào Bộ Tổng Tham Mưu họp ở phòng họp số 1, và phải có mặt trước 1 giờ, tôi tới lúc 1 giờ kém 10 phút, thấy có đông các đơn vị trưởng sẵn đó rồi, nhìn mặt toàn là các sĩ quan thân tín của ông Diệm, đúng 1 giờ 2 qưân cảnh ở ngoài đóng cửa phòng họp và khoá lại, mọi người trong phòng ngơ ngác nhìn nhau, đại tá Lê quang Tung nói lớn: “họp hành khỉ mẹ gì, ai chủ toạ phiên họp sao chưa tới mà họ khoá cửa nhốt mình rồi, chuyện gì đây”, vài phút sau đó có tiếng mở cửa, đại úy Nhung cận vệ của trung tướng Dương văn Minh đứng ngoài cửa nới với vào: “mời đại tá Lê quang Tung Lưc Lượng Đặc Biệtt và đại tá Cao văn Viên Nhẩy Dù lên lầu gặp trung tướng Dương văn Minh, vì đại tá Tung ngồi gần cửa nên bước ra trước, tôi ở trong xa cửa hơn nên đi ra sau, khi tôi ra khỏi phòng họp thì nhìn thấy đại tá Tung đã bị đại úy Nhung còng tay dẫn xuống xe, còn tôi cũng bị 1 sĩ quan khác còng nhưng mới vừa bị còng 1 tay thì tình cờ thiếu tướng Tôn thất Đính trên lầu đi xuống chợt thấy vậy, ông bảo tháo còng tôi ra, rồi sĩ quan đó cùng tướng Đính dẫn tôi lên lầu gặp trung tướng Minh .

Tướng Minh nói: Hôm nay “moi” và một số các tướng lãnh đảo chánh ông Diệm “toi” nghĩ sao? Tôi trả lời, chuyện quan trọng như vậy mà tới giờ này trung tướng mới cho tôi biết thì tôi đâu có quyết định được gì. Lúc đó trung uý Trương (hay Trần) Tự Lập sĩ quan tùy viên của trung tướng Minh lăm le khẩu súng carbine chiã vào lưng tôi như sẵn sàng bắn tôi. anh ta hỏi tôi “Đại tá có theo Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng không?” Tôi đáp” Tinh thần của quân nhân thuộc binh chủng nhẩy dù không trả lời trước áp lực” thiếu tướng Đính thấy vậy bảo tên trung úy Lập đừng hỗn với cấp trên, rồi tướng Đính dẫn tôi về lại phòng sô 1 đóng cửa lại.

Vài vị sĩ quan đang bị nhốt chung trong phòng tới hỏi tôi chuyện gì vậy? Tôi nói họ đảo chánh Tổng Thống Ngô đình Diệm. Có người hỏi: còn đại tá Tung đâu? tôi nói bị còng dẫn đi chỗ khác rồi”.

Khoảng 15 phút sau tôi lại bị dẫn lên gặp Trung tướng Minh lần nữa, lần nàyTrung tướng Minh nói với tôi:” có 1 tiểu đoàn nhẩy dù theo “Chiến Đoàn Vạn Kiếp” của trung tá Vĩnh Lộc từ Bà Rịa về tới Sài Gòn, nhưng không chịu tấn công vào Dinh Gia Long, đòi phải được liên lạc trực tiếp với “toi”, vậy nếu “toi” chịu làm 2 việc như sau: Thứ nhất tuyên bố theo Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng, thứ hai ra lệnh cho tiểu đoàn nhẩy dù ở Bà Rịa về tấn công vào Dinh Gia Long, khi thành công “moi” gắn lon thiếu tướng cho “toi” liền. Tôi trả lời rằng chuyện của trung tướng làm, tôi không chống đối, nhưng bảo tôi phản lai “thầy” tôi thì tôi không làm, trung tướng thông cảm cho tôi (lời người viết: xin nói rõ thêm, trước khi chỉ huy lực lượng nhẩy dù, đại tá Viên là chánh Võ Phòng rồi Tham Mưu Trưởng Biệt Bộ Phủ Tổng Thống);

“Tôi được dẫn trả lại phòng họp số 1, các vị sĩ quan trong phòng lại hỏi, tôi trả lời chưa hết thì chánh văn phòng của thiếu tướng Khiêm xuống dẫn tôi lên văn phòng giữ riêng tôi ở đó.

Sau khi đảo chánh thành công tôi được cho về nhà, rồi hằng ngày tôi phải lên Bộ Tổng Tham Mưu chờ lệnh độ 5,6 ngày sau trung tướng Khiêm “lên trung tướng ngày 2 tháng 11 năm 1963” tự ý quyết định cho tôi trở về chỉ huy Lữ đoàn nhẩy dù như cũ, còn các vị sĩ quan bị nhốt chung với tôi đa số bị giải ngũ hoặc bị hạ tầng công tác.

Rồi sau đó không lâu tôi được trung tướng Đôn cho biết: sau khi tôi từ chối lời yêu cầu cuả trung tướng Minh thì Trung tướng Minh bàn với trung tướng Đôn định đưa tôi theo số phận của đại tá Lê quang Tung, nhưng trung tướng Đôn không đồng ý và nói rằng trước khi tiên hành cuộc “cách mạng”: anh” (ông Minh) có hứa với chúng tôi hạn chế tối đa vìệc gây đổ máu các sĩ quan cấp tá không ủng hộ chúng ta, anh đã cho giết đại tá Hồ tấn Quyền <TL.HQ.> giết đại tá Lê quang Tung <LLĐB.> bây giờ anh muốn giết luôn đại tá Viên nữa sao? Hơn nữa dù “lui” không hợp tác với mình nhưng “lui” đâu có chống mình mà giết “lui”.

Tôi nghĩ dường như tướng Khiêm cũng biết ý định đó của tướng Minh nên mới ra lệnh đem tôi lên văn phòng của ông giao cho chánh văn phòng là đại úy Pham bá Hoa giữ riêng tôi ơ đó, rồi ông Khiêm bảo: “Ai muốn kêu đại tá Viên đi đâu phải có lệnh của tôi mới cho đi”

Đấy là 3 người ơn cứu tử tôi đó.

Vai trò của Đại tá Cao văn Viên trong cuộc chỉnh lý ngày 30-1 -1964.

Một lần tôi theo Đại Tướng Viên ra Đà Nẵng thăm các đơn vị thuộc Quân Đoàn I, Tối lại, ngủ ở Tòa Thị Chính Đà Nẵng, lúc đó trung tá Lê chí Cường gốc nhẩy dù làm Thị Trưởng.

Đầu hôm thời tiết còn nóng, thầy trò tôi chưa ngủ được nên Đại Tưóng kể chuyện Đảo Chánh, chỉnh lý cho tôi nghe, giờ đây thì chuyện dù đã xa xưa, nhưng thiết tưởng còn nhiều người chưa biết rõ, hoặc biết không chính xác, không đầy đủ, nên tôi mạo muội thuật lại những gì Đại Tướng Viên kể cho tôi nghe với ước mong giúp quí vị độc giả đánh giá được 1 phần sự thực của 1 giai đoạn của Đất Nước.

Nguyên nhân đưa đến cuộc chỉnh lý 30-1-1964

Đại Tướng Viên kể rằng:

“Trong nội bộ các tướng lãnh: sau ngày Đảo Chánh 1-11-1963 thành công, trong hàng tướng lãnh trụ cột của cuộc đảo chánh có những bất đồng ý kiến về việc thành lập chính phủ mới, về việc sắp xếp nhân sự và quan trọng hơn là sự tranh công tranh quyền giữa các tướng với nhau, cho nên dân tới sự chia rẽ.

Ngoài ra trung tướng Minh ỷ quyền là chủ tịch Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng nên tỏ ra độc đoán trong mọi quyết định.

“Chẳng hạn như ông Minh muốn đưa ông Nguyễn ngọc Thơ nguyên Phó Tổng Thống của ông Ngô Đình Diệm ra làm thủ tướng, nhìều tướng lãnh không đồng ý, vì cho rằng nguyên Phó Tổng Thống của chính phủ vừa bị lật đổ ra làm thủ tướng của chính phủ mới thì thật là vô lý, nhưng ông Minh cứ làm theo ý ông.

“Về phía Tòa Đại Sứ Mỹ thì ông Đăi Sứ đề nghị với ông Minh nên cử ông Trần quốc Bửu Chủ Tịch Tổng Liên Đoàn Lao Công ra lập chính phủ với lý do ông Bửu có nhiều uy tín trong giới bình dân và hiện trong tay ông Bửu có hơn 20 ngàn doàn viên của Tổng Liên Đoàn Lao dộng là lực lượng hùng hậu sẽ hỗ trợ cho chính phủ, ông Dương văn Minh chẳng những không nghe mà còn ra lệnh cho thìếu tướng Đỗ Mậu bắt giam ông Trần quốc Bửu với lý do rất mơ hồ.

Thêm nữa, ông Minh lại gọi 2 người đã rời khỏi quân đội hồi năm 1955 đang lưu vong bên Pháp (vì chống ông Ngô đình Diệm) trở về hợp tác, đó là thiếu tướng Nguyễn văn Vỹ và đại tá Trần đình Lan (phòng2) trong quân đội Liên Hiệp Pháp; đìều này có vài tướng trẻ mới được thăng cấp như thếu tưóng Nguyễn hữu Có, Đỗ Mậu, thiếu tương Dương ngọc Lắm, trung tướng Trần thiện Khiêm đều không đồng ý, bởi các vị này cho rằng ông Nguyễn v Vỹ và ông Lan đã lỗi thời và đã rời khỏi quân đội lâu rồi, không còn thích hợp với quân đội hiện giờ nữa, các ông Khiêm, Có, Lắm cho rằng, hiện nay trong quân đội có nhiều cấp tá trẻ có nhiều năng lực và được đào tạo chánh quy, cứ mạnh dạn giao việc cho họ, chứ cần gì phải gọi 2 người đó về hợp tác.

Ông Dương văn Minh chẳng thèm nghe mà vẫn cứ hành xử theo ý riêng mình dựa trên tình cảm cá nhân.

“Phần tôi (đại tá Cao văn Viên) thì mỗi ngày trình diện ở Bộ Tổng Tham Mưu, nghe nói ông Minh định cho tôi giải ngũ, nhưng nhờ trung tướng Khiêm tự ý cho tôi trở về nhẩy dù ngày 6-11-1963 mà không hội ý với ông Minh, vì việc này nằm trong thảm quyền của ông Khiêm.

Về sau mới biết, sở dĩ ông Khiêm hành động như vậy vì ngày 5-11-1963, ông Minh nói với ông Khiêm rằng đại tá Nguyễn chánh Thi ở Campuchia sắp về, ông Minh sẽ cho ông Thi chỉ huy lại Lực Lượng Nhẩy Dù, diều này chính ông Khiêm không muốn, nên hành động trước một bước, vì nếu để ông Nguyễn chánh Thi chỉ huy nhẩy dù thì khi ông Khiêm muốn mưu đồ gì cũng không thể xử dụng lực lượng nhẩy dù được vì ông Khiêm với ông Thi không thân nhau, vả lại cũng còn ngờ vực không biết ông Thi còn ôm mối hận ngàỳ 11-11-1960 cách 3 năm trước hay không.

Ngày 8-11-1963 đại tá Nguyễn chánh Thi từ Nam Vang đi đường xe về tới Gò Dầu Hạ, được ông Khiêm cho trực thăng đi đón về Tổng Tham Mưu, sau đó ông Khiêm cử ông Thi làm chủ tịch Ủy Ban Điều Tra tài sản và tội ác của ông Ngô đình Cẩn, thế là ông Thi trở ra miền Trung làm việc.

Từ những việc như vậy đưa đến những xích mích giữa ông Khiêm và ông Minh, rồi một ngày vào hạ tuần thang 12-1963, ông Minh cử ông Khiêm đi công du qua Nhật và Đài Loan, ở nhà ông Minh giao cho Trung tướng Lê văn Kim thay thế trung tướng Khiêm giữ chức vụ Tham Mưư Trưởng Liên Quân (không làm lễ bàn giao), đến khi ông Khiêm trở về thì ông Minh chỉ định ông Khiêm làm tư Lệnh Quân Đoàn III chia bớt nhiệm vụ của trung tướng Đính đang kiêm nhiệm Bô An Ninh.Thời gian này Quân Đoàn ÌÌÌ còn nằm trong trại Lê văn Duyệt Sài Gòn chưa dời lên Biên Hoà. Vậy là ông Khiêm bị hạ tầng công tác nên ông Khiêm trở nên bất mãn.

Nguyên nhân bên ngoài

Ông Dương văn Minh gây cho Đại Sứ Mỹ cú “sốc” đầu tiên là không nghe theo đề nghị của Đại Sứ Mỹ đề cử ông Trần quốc Bửu làm thủ tướng mà ông Bửu còn bị bắt giam với tội danh mơ hồ.

Sau khi đảo chánh thành công, ông Minh thường liên lạc với đại sứ Pháp ờ Sài Gòn, hơn là đại sứ Mỹ, và có vài lần ông Minh mời Đại Sứ Pháp đến dinh “Hoa lan” của ông Minh dùng cơm tối, có sự hiện diện của ông Đôn, ông Kim, ông Xuân ...mà không có sự hìện diện của viên chức Mỹ nào cả. Việc này không qua khỏi cặp mắt “cú vọ” của cơ quan CIA ở Sài Gòn khiến họ đâm ra hoài nghi. Ngoài ra mỗi khi có việc phải giao tiếp với viên chức của toà đại sứ Mỹ và Bộ Tư Lệnh M.A.C.V, các ông Minh, Đôn, Xuân, Kim ...chỉ nói toàn tiếng Pháp mà không nói 1 câu tiếng Anh nào, điều này cũng gây khó chịu và tự ái đối với các viên chức Mỹ không ít, và họ nghĩ là các tướng có khuynh hướng thân Pháp.

Tổng hợp những chuyện kể trên đưa đến cuộc chỉnh lý ngày 30-1-1964.

Chỉnh lý ngày 30-1-1964

Chiều ngày 29-1-1964 tướng Khiêm mời tướng Khánh ở Đà Nẵng về Sài Gòn, nói có chuyện cần bàn với tướng Khánh, rồi tướng Khiêm gặp tôi (Đại tá Viên) chỉ thị cho tôi chuẩn bị lực lượng nhẩy dù đi bắt 5 vị tướng: Đôn, Kim, Xuân, Đính,Vỹ và người thứ 6 là thìếu tá Nhung (người đã giết ông Ngô đình Diệm và ông Ngô đình Nhu), thiếu tá Nhung đang ở trong nhà trung tướng Dương văn Minh.

Tôi đề nghị với trung tướng Khiêm nên giao người khác đi bắt ông Đôn và ông Đính, chứ tôi rất khó xử nếu phải đi bắt 2 người mà cách đâỷ 3 tháng đã là ân nhân cứu tử tôi. Trung tướng Khiêm thấy đề nghị của tôi hợp lý nên giao cho tiểu đoan 2 TQLC lúc đó do thiếu tá Cổ tấn tinh Châu làm TĐT đi bắt tướng Đôn và tướng Đính.

Lệnh tổng quát của trung tướng Khiêm cho 2 tôi và thiếu tá Châu là không được liên lạc hoặc tiếp xúc với bắt cứ ai cho đến khi hoàn thành nhiệm vụ.

Thời gian này tất cả mọi đơn vị muốn vào lãnh thổ Biệt Khu Thủ Đô phải có lệnh của Tư Lệnh QĐII, và riêng TĐ2/TQLC vì đang đóng quân bên ngoài lãnh thổ Biệt Khu Thủ Đô nên tr/t Khiêm ký sự vụ lệnh giao cho 1 đại úy thuộc QĐ.III đem đến cho TĐT/TĐ2/TQLC để di chuyển tiểu đoàn vào BKTĐ mà không bị ngăn cản.

Tr/t Khiêm ra lệnh cho thiếu tá Phạm bá Hoa chuẩn bị 1 xe dodge truyền tin để theo dõi việc đi bắt 5 ông tướng mà chính t/t Hoa phải trực máy truyền tin.

Giờ xuất phát đi bắt là 23 giờ và các đường giây điện thoại ở nhà 5 ông tướng đã bị ông Khiêm cho lệnh cắt đứt hết rồi, không liên lạc được với ai cả.

Đúng 23 giờ tôi được lẹnh xuất phát để bắt 3 ông tướng: Mai hữu Xuân, Lê văn Kim và Nguyễn văn Vỹ, rồi sau cùng đến bắt th/t Nguyễn văn Nhung tại nhà của ông Dương văn Minh.

Tiểu đoàn 2/TQLC được giao nhiệm vụ đi bắt 2 ông tướng Tôn thất Đính và Trần văn Đôn, cả 2 đơn vị xuất phát cùng một lúc.

Đến khoảng 2 giờ sáng 5 vị tướng: Đôn, Kim, Xuân, Đính, Vỹ được đưa vô Bộ Tổng Tham Mưu, riêng th/t Nhung thì tôi đưa về trại Hoàng Hoa Thám bản doanh của lữ đoàn nhẩy dù.

Trung tướng Nguyễn Khánh ở Đà Nẵng được trung tướng Khiêm mời về Sài Gòn từ chiều, đang ở nhà chờ, đến bấy giờ mới được tướng Khiêm mời vào BTTM cho biết:” Nhiệm vụ của tôi (tướng Khiêm) tới đây đã xong, phần còn lại tôi giao cho anh (tướng Khánh) chuẩn bị sáng mai anh họp báo.

Tướng Khánh nói: “công của anh thì anh làm luôn đi”. Tướng Khiêm vãn khước từ và gợi ý với tướng Khánh, khi họp báo cứ nói các ông đó cớ ý định “trung lập thân Pháp” nên mình phải ra tay ngăn chặn.

Trung tướng Khánh liền gọi ra Quân Đoàn I Đà Nẵng dặn dò chuyện gì đó, rồi dại tá Thi nghe được lièn bay vô Sài Gòn kịp sáng sớm vào TTM ngồi họp báo chung với tướng Khánh, điều này khiến báo chí và dân chúng tưởng rằng ông Khánh và ông Thi làm cuộc chỉnh lý, chứ không biết rằng trong đêm 1 mình tướng Khiêm đích thân chỉ huy 2 vị sĩ quan cấp tá là tôi và thiếu tá Cổ tấn tinh Châu đi bắt 5 ông tướng và thiếu tá Nhung, xong rồi mới giao cho ông Khánh.

Tóm lại ông Khiêm dọn sẵn “mâm cỗ” cho ông Khánh hưởng.

Hôm saụ 5 vị tướng bị chỉnh lý được phi cơ chở ra Đà Nẵng rồi vài ngày sau lại chở vô quản thúc ở Đà Lạt. Ông Khánh lên làm thủ Tướng từ lúc đó.

Số phận của th/t Nhung

Đại Tướng viên kể lại rằng:

“Khi tới nhà ông Minh để bắt t/t Nhung thì tôi gặp ngay tướng Minh, ông hỏi lệnh của ai biểu bắt,

Tôi (đại tá Viên) trả lời: lệnh của tr/t Trần thiện Khiêm.

Ông Minh hỏi: ông Khiêm hiện giờ ở đâu?

Tôi trả lời: thưa trung tướng tôi không biết.

Ông Minh lại hỏi tiếp: vậy đại tá nhận lệnh của ông Khiêm từ lúc nào? lý do nào bắt cận vệ của tôi.

“Tôi đáp: xin tr/t hỏi ngay tr/t Khiêm, còn tôi chỉ thi hành lệnh. liền đó tướng Minh bốc điện thoại gọi ai đó, nhưng gọi không được, bèn dằn mạnh điện thoại xuống bàn, thấy vậy tôi nói:” điện thoại bị cắt giây rồi, trung tướng không gọi được ai đâu”, tôi chào tr/t Minh rồi dẫn th/t Nhung ra xe đưa về trại Hoàng Hoa Thám.

Tại đây tôi giao th/t Nhung cho sĩ quan an ninh nhẩy dù hỏi cung th/t Nhung, chủ yếu ở điểm: ai ra lệnh giết Tổng Thống Ngô đình Diệm và ông cố vấn Nhu? Sĩ quan an ninh nhẩy dù đưa giấy, viết bắt ông ta tư viết lời khai để làm chứng cớ. Sau khi lấy lời khai xong, khuya ngày hôm sau sĩ quan an ninh (cấp bậc trung úy) cho người vô phòng giam bóp cổ Nguyễn Nhung chết rồi lấy giây giầy “saut” của chính ông Nhung thắt vòng treo cổ Nguyễn Nhung lên trần nhà.

Đêm đó tôi về nhà ngủ, sáng sớm hôm sau, sĩ quan trực ở trại Hoàng Hoa Thám đìện thoại báo cáo tôi: th/t Nhung thắt cổ tự tử chết rồi, tôi bảo sĩ quan trực gọi bác sĩ Văn văn Của, lúc ấy là th/t y si trưởng ND ráng cứu chữa ông ta coi có thể sống lại được không?

Sau đó y sĩ thiếu tá Văn văn Của điện thoại báo tôi: “Thưa đại tá hết phương cứu chữa rồi và ông Của làm bản báo cáo, y chứng xác nhận, thiếu tá Nhung đã chết do thắt cổ tự tử”. Cuộc điện đàm này tôi có cài máy ghi âm để thủ thân về sau này.

<Trong lời tự khai của th/t Nhung, ông ta nói rằng ông Dương văn Minh ra lệnh cho ông ta giết ông Nhu trướckhi đoàn xe về tới Bộ TTM, ngoài ra trên đường di chuyển nếu có sự bất trắc gì xẩy ra thì chỉ nghe theo lệnh của thiếu tướng Mai hữu Xuân mà thôi> khi ông Nhung đâm ông cố vấn Nhu thì bị ông Diệm chống cự quyết liệt nên buộc lòng ông Nhung phải giết luôn ông Diệm

Ngoài ra khi khám tử thi của t/t Nhung, sĩ quan an ninh lấy ra được một mẩu giấy viết sẵn giấu trong quần, định tìm cách gửi về nhà, nhưng chưa gửi được. Nội dung như sau: “Em ơi! Bọn Diệm, Nhu sống lại rồi, chắc anh phải chết, nếu anh có mệnh hệ gì, em phải ráng nuôi các con cho khôn lớn, anh đang bị nhốt trong lữ đoàn nhẩy dù”.

Lời tự khai và cái thơ riêng gửi cho vợ của t/t Nhung được đưa cho trung tương Khánh giữ.

Nhận định riêng của người viết:

Về cái chêt của thiếu tá Nhung, tôi nghĩ rằng vị sĩ quan an ninh nhẩy dù không dám tự ý hành động, mà phải có lệnh của 1 trong 3 vị: tuớng Khánh, tướng Khiêm hoặc đại tá Viên? Nhiều lần tôi muốn hỏi đại tướng Viên nhưng lại rụt rè không giám hỏi vì sợ tướng Viên giận và cho rằng tôi tò mò.

Theo tôi cuộc chỉnh lỷ 30-1-1964 chắc chắn phải có bàn tay “phù thuỷ” của Mỹ thúc dẩy cho tướng Khiêm thực hiện, mà nguyên nhân chánh là do trung tướng Dương văn Minh làm phật lòng người Mỹ, nhưng ông Minh không bị loại vì lúc bấy giờ dân chúng và khối phật giáo Ấn Quang vẫn còn xem ông Minh như người hung “cách mạng” nếu loại hẳn ông Minh sợ e có xáo trộn xã hội và sợ thượng toạ Thích trí Quang sách động phật tử “xuống đường” ủng hộ ông Minh. Còn 5 ông tướng bị chỉnh lý vì thân tín với ông Minh nên bị làm vật tế thần, bị chụp lên đầu cái mũ “trung lập thân Pháp”, để chặt hết tay chân của ông Minh, biến ông Minh thành “con cua bị gẫy cang” ngồi đó nhìn ông Khánh tung hoành .

Phụ chú;

Những điều tôi thuật lại cho quý độc giả trên đây là tôi được nghe đại tướng Viên kể lại lúc tôi đang là sĩ quan tùy viên của ông,

Sau này vào tháng 8 năm 2004, tôi từ Cali qua Virginia thăm đại tướng Viên trong 1 nursing home, tình cờ có đại tướng Khiêm tới, ông Viên, ông Khiêm và tôi cùng ngồi nói chuyện chung, đây là dịp may hiếm có, tôi hỏi đại tướng Khiêm vài điều mà tôi ấp ủ từ lâu vì không biết hỏi ai cho chính xác.

Tôi hỏi: thưa đại tướng, em nghe nói ngày đảo chánh 1-11-1963 có 1 người Mỹ ở trong phòng của đại tướng ngay từ giờ phút đầu để theo dõi cuộc đảo chánh, em muốn biết lời đồn đó có đúng không?

Đại tướng Khiêm nói: lời đồn đó đúng, người Mỹ đó là trung tá Conein, ông ta ở trong 1 phòng nhỏ sát phòng làm việc của tôi sau tấm vách ngăn mà không hề bước qua phòng tôi trong thời gian tiến hành đảo chánh.

Tôi cho chú biết thêm, ông Conein này là 1 sĩ quan trưởng của 1 toán tình báo Mỹ đã từng nhẩy dù xuống vùng Việt Minh kiểm soát ở miền Bắc, Việt Nam năm1945 để giúp Hồ chí Minh đánh Nhật, ông ta là người biết nhiều về Hồ chí Minh và mặt trận Việt Minh.

Tôi hỏi tiếp: thưa đại tướng, em được biết, sau khi đại tướng làm cuộc chỉnh lý ngày 30-1-1964 thiếu tá Nhung đã khai, ông Minh ra lệnh cho ông ta giết ông Diệm, ông Nhu, lời khai đó chân thật không? Liệu sau lưng ông Minh có 1 thế lực nào khác thúc đẩy ông Minh làm chuyện đó không?

Đại tướng Khiêm trả lới: chú nghe kỹ tôi nói đây: “trước ngày đảo chánh (1-11-1963) tôi đưa ra 1 điều kiện tiên quyết với ông Minh, liên quan đến Tổng Thống Diệm như sau: phải bảo đam sinh mạng Tổng Thống Diệm và để T/T Diệm bình an xuất ngoại. Ong Minh và ông Kim đều đồng ý, sở dĩ có ông Kim vì mới đầu ông Kim có 1 nhóm riêng cũng âm mưu đảo chánh, về sau 2 nhóm mới kết hợp lại.

Khi biết ông Diệm, ông Nhu bị giết, lúc ấy tôi mới biết luôn đại tá Quyền, đại tá Tung và em của đại tá Tung là Lê quang Triệu cũng bị giết, còn ông này (ông Khiêm vừa nói vừa nhìn qua ôngViên) cũng bị còng tay, may mà ông Đính thấy kip chứ không thì cũng theo Hồ tấn Quyền và Lê quang Tung rồi (ông Viên và ông Khiêm cùng cười).

Ông Khiêm nói tiếp: tôi ở văn phòng của tôi trên lầu còn ông Minh, ông Kim, ông Đôn ngồi ở phòng của đại tướng Tỵ, lúc đó đại tướng Tỵ đang dưỡng bệnh, nên ông Đôn làm quyền Tổng Tham Mưu Trưởng. Họ hành động lến lút, giấu không cho tôi biết rồi họ quyết định với nhau tôi có hay biết gì đâu.

Chú nghĩ coi: ông Diệm đã gọi đìện thoại bảo cho xe đến đón ông về TTM, như vậy nghĩa là ông đã đầu hàng rồi, tại sao lại giết người đầu hàng. Ông Minh, ông Kim độc ác quá! Cho nên tôi bất mãn với 2 ông ấy từ lúc đó.

Còn chú hỏi liệu có thế lực nào khác thúc đẩy ông Minh giết ông Diệm, tôi cho chú biết thêm chi tiết này, khi ông Conein ở trong phòng nhỏ bước ra phòng tôi trung tướng Minh cho ông ta biết ông Diệm và ông Nhu chết rồi, ông Conein tỏ ra tức giận không nói với ông Minh một lời, ông quay trở vào phòng và thốt lên một câu: “Do a terrible thing” rôì một lúc sau ông Coneil bỏ ra về. Thế đó chú tự suy nghĩ”

Tôi cám ơn đại tướng Khìêm, rồi chúng tôi tiếp tục nói chuyện linh tinh khác suốt cả buổi sáng hôm đó.

Thân phận của một Quốc Gia nhược tiểu là như vậy.

Đặng Kim Thu (Có biệt danh Thu đen, chức vụ sau cùng là Quận Trưởng Q. Chợ Gao, TK, Đinh Tường)

Cựu Sĩ quan tùy viên Đặng kim Thu

 

'Phóng Sự': Thảm cảnh kinh hoàng khu cách ly tập trung Thủ Đức

https://www.youtube.com/watch?v=NW_2btf9K3E

Thousands of Cars Could Have Been Submerged in a 5-Mile Tunnel in China

https://www.youtube.com/watch?v=WimkUfMeASc

Dr. David Martin: Daszak and Fauci committed acts of domestic terrorism with coordinated release of covid bioweapons

https://www.conspiracy.news/2021-07-25-david-martin-daszak-fauci-domestic-terrorism-covid.html

 

Phiet Pham thephiet_2002@yahoo.com

Sun, Jul 25 at 11:55 AM

Quốc Hận và tội ác Cộng sản

Báo Mai - HN

Kính thưa Quý vị,
Trong số những ngày tháng đáng nhớ nhất, của lịch sử Việt Nam thời hiện đại, Quốc Hận 30.4 là ngày đánh thức những đau đớn tột cùng, những kỷ niệm kinh hoàng nhất, của người Việt trên khắp thế giới. Vì vậy, mỗi năm bước vào tháng Tư, hầu hết người Việt đều có những suy tư, ám ảnh, hồi tưởng, cùng những trăn trở, thao thức, nhớ lại những tội ác tàn nhẫn, kinh hoàng, cùng bản chất gian manh, tráo trở của Cộng sản (CS); những kỷ niệm thương tâm, tử biệt sinh ly, của những người thân yêu còn sống hoặc đã khuất…
Mỗi năm đến tháng Tư, các cơ quan truyền thông, ngôn luận trên thế giới, nhất là truyền thông Việt ngữ, đều có bài và hình ảnh xoay quanh đề tài chiến tranh Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cùng một sự kiện, một biến cố lịch sử, mỗi tờ báo, mỗi đài truyền hình, truyền thanh, mỗi tác giả… tùy theo vị thế chính trị, sự hiểu biết và góc độ đứng khác nhau, đều có những dị biệt trong việc mô tả, đánh giá cuộc chiến tranh Việt Nam.

Hiển nhiên, 44 năm là một thời gian đủ dài, để mỗi người Việt Nam, có những suy nghĩ chín chắn về nguyên nhân, diễn tiến cùng những hậu quả của cuộc chiến tranh Việt Nam, và vai trò, trách nhiệm, cùng chỗ đứng của mình, trong cuộc chiến tranh.
Bên cạnh đó, thời gian 44 năm, cùng những biến đổi trên thế giới, chuyển biến trong nhân tâm, trong nhận thức… cũng là những yếu tố quan trọng khiến nhiều người, nhiều báo chí, ký giả… có những thay đổi trong việc nhìn nhận và đánh giá cuộc chiến tranh Việt Nam. Trong số đó, có những thay đổi, không phải là kết quả của một thái độ khách quan, khôn ngoan, đến gần CHÂN LÝ và SỰ THẬT. Trái lại, có những thay đổi, là hậu quả của sự suy thoái lý trí, nghiêng ngửa lập trường, cùn nhụt nhuệ khí, mòn mỏi lương tâm, hoặc đầu hàng trước thế lực kim tiền, danh vọng… do cộng sản thao túng.
Tưởng niệm 44 năm Quốc Hận, sau đây, kính mời Quý vị cùng chia sẻ những SỰ THẬT HIỂN NHIÊN, chứng minh cuộc chiến tranh Việt Nam, KHÔNG PHẢI LÀ CUỘC NỘI CHIẾN, mà SỰ THỰC LÀ CUỘC CHIẾN XÂM LĂNG nước Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) do CS quốc tế và CS Bắc Việt, đứng đầu là tội đồ Hồ Chí Minh (HCM), thực hiện.
Suốt thời gian chiến tranh Việt Nam, cũng như sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, quan điểm cho rằng chiến tranh Việt Nam là một cuộc nội chiến đã hiện diện trong đầu óc phần đông người ngoại quốc cũng như một số người Việt thuộc thành phần thứ ba, hoặc thân cộng.
Nguyên nhân chính dẫn đến quan điểm này là do họ không hiểu rõ bản chất của cuộc chiến tranh Việt Nam, tham vọng của đảng cộng sản Việt Nam và chính sách xuất cảng cách mạng nhuộm đỏ toàn cầu của cộng sản quốc tế.
Đặc biệt, trong hai thập niên gần đây, trước sự thống nhất của hai miền Đông và Tây Đức, cùng viễn ảnh thống nhất trong hoà bình của Nam Bắc Hàn, người Việt càng nhận ra tội ác của CS khi thực hiện cuộc chiến tranh xâm lăng nước VNCH. Vì vậy, để trốn tránh tội ác, CS đã âm thầm giật dây cho tay sai, bằng mọi cách gọi cuộc chiến tranh xâm lăng Miền Nam là cuộc nội chiến.
CS BẮC VIỆT VÀ CS QUỐC TẾ XÂM LĂNG NƯỚC VNCH

SỰ THẬT, ai cũng biết, nội chiến là cuộc chiến tranh bắt nguồn từ những mâu thuẫn về quyền lợi giữa các thế lực trong một quốc gia. Trái lại, xâm lăng là cuộc chiến tranh của một quốc gia nhằm thôn tính bờ cõi, lãnh thổ một quốc gia khác có chủ quyền, được quốc tế công nhận.
SỰ THẬT, nhìn vào bản chất cùng nguyên ủy dẫn đến cuộc chiến tranh Việt Nam ta sẽ thấy, đó là một cuộc chiến tranh xâm lăng Việt Nam Cộng Hoà, do cộng sản Bắc Việt chủ trương với sự hậu thuẫn của CS quốc tế. Chủ trương này đã được TC và VC thoả thuận, ngay từ trước khi Hiệp Định Geneva được ký kết.
Tại khách sạn Liễu Châu, Quảng Tây, Trung Quốc, từ ngày 3 đến 5 tháng 7, 1954 Thủ tướng TC Chu Ân Lai đã họp với HCM, chỉ thị những điều khoản căn bản VC sẽ phải ký kết tại Hiệp Định Geneva vào ngày 20 tháng 7, 1954. Cũng tại đây, Chu Ân Lai ra lệnh cho CS Hà Nội chỉ được phép thực hiện “chiến tranh du kích đánh phá VNCH ở cấp trung đội trở xuống”.
Bằng chứng, thực hiện chỉ thị của CS quốc tế, ngay trước khi Hiệp Định Geneva ký kết, cộng sản VN đã chôn giấu vũ khí, gài hàng chục ngàn cán bộ, du kính nằm vùng, tại miền Nam với trách nhiệm ám sát, thủ tiêu, khủng bố, phá hoại… hậu thuẫn cho quân đội Bắc Việt xâm lăng thôn tính Miền Nam.
Mao Trạch Đông , Chu Ân Lai và HCM trong chuyến viếng thăm TC 2 tuần lễ (23-6 đến 8-7-1955). Một lần nữa, Mao Trạch Đông nhấn mạnh với HCM, TC chỉ có thể hậu thuẫn VC thực hiện “chiến tranh du kích đánh phá VNCH ở cấp trung đội trở xuống”.
Bằng chứng, chính HCM đã ra lệnh cho Lê Duẩn ở lại Miền Nam ngay từ năm 1954, để soạn thảo kế hoạch: Võ trang khủng bố, nổi dậy tại Miền Nam, hậu thuẫn cho Miền Bắc xâm lăng. Kế hoạch này có tên “Đề cương cách mạng miền Nam”, được Lê Duẩn soạn thảo xong vào tháng 8 năm 1956, tại số 29 đường Huỳnh Khương Ninh, gần chợ Đa Kao, Sài Gòn.
Bằng chứng, 2 tháng sau khi Hiệp Định Geneva ký kết, CS Hà Nội bí mật cho thành lập tại Bản Namèo, một đội du kích võ trang gồm 100 quân, với mục đích hậu thuẫn CS Lào, mở đường cho CS Hà Nội xâm lăng và chiếm đóng một phần lãnh thổ Lào vào tháng 12 năm 1958, chuẩn bị cho việc xâm lăng Miền Nam.
Bằng chứng, Nghị Định 15 của BCH Trung ương Đảng CS khóa 2, thông qua tháng 1 năm 1959 cũng ghi rõ: Chủ trương, đường lối và kế hoạch, đưa bộ đội chính quy cùng vũ khí của Nga, Tàu từ Bắc vô Nam, thực hiện cuộc xâm lăng Miền Nam.
Bằng chứng, không đầy 5 tháng sau, ngày 19 tháng 5 năm 1959, cộng sản Hà Nội cho thành lập Đoàn 559 [tháng 5 năm 59], và mở tuyến đường vận tải quân sự chiến lược, mệnh danh Đường mòn HCM. Kể từ đó, binh lính, vũ khí của CS lũ lượt đổ vào Nam, dẫn đến một loạt cuộc nổi dậy và tấn công võ trang của VC tại tại Bến Tre, Ấp Bắc vào cuối năm 1959, đầu năm 1960. Trong khi đó, mãi đến ngày 8 tháng 3, năm 1965, Mỹ mới chính thức gửi 3500 thuỷ quân lục chiến đầu tiên tới VN.
Bằng chứng, ngay cả những trang web điện tử chính thức của CSVN cũng xác nhận, sự hiện diện của cái gọi là “Quân đội nhân dân Việt Nam” và đảng cộng sản Việt Nam, ngay tại Miền Nam từ cuối thập niên 1950. Cụ thể, năm 2015, trang web của chính phủ VC đã ghi rõ: “Nguyễn Tấn Dũng sinh ngày 17.11.1949 tại Cà Mâu, tham gia Quân đội Nhân dân Việt Nam ngày 17.11.1961, kết nạp đảng CSVN ngày 10.6.67, với 6 lần đoạn danh hiệu Dũng Sĩ Diệt Mỹ”.
Ngày 3-10-1959, nhân dịp sang mừng ngày Quốc khánh của TC, HCM đã báo cáo với Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Đức, kế hoạch cuối năm 1960, VC sẽ thành lập cái gọi là “Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam”, nhằm đánh lừa dư luận thế giới, biến cuộc chiến tranh xâm lăng Miền Nam thành cuộc nội chiến tại Miền Nam.
Để đánh lừa dư luận, coi cuộc xâm lăng của CS Bắc Việt là cuộc nội chiến tại Miền Nam, CS Hà Nội đã nặn ra cái gọi là “Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam” (MTGP) vào tháng 12 năm 1960, và “Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam”(CPLT) vào tháng 6 năm 1969.
Như vậy rõ ràng, chiến tranh VN là cuộc chiến xâm lăng, do CS Hà Nội và cộng sản quốc tế chủ trương, thực hiện, nhằm thôn tính Việt Nam Cộng Hòa, một quốc gia có chủ quyền, có dân, có chính phủ và quốc gia đó đã được quốc tế công nhận. MTGP cũng như CPLT, là những tổ chức bù nhìn do cộng sản Hà Nội nặn lên, nhằm tạo cho cuộc chiến tranh tại Miền Nam là một cuộc nội chiến, đã hoàn toàn bị rữa nát và bị chính cộng sản Hà Nội khai tử, ngay sau khi chiếm được Miền Nam vào tháng 4/75.



Đồng ý phần lớn những người tham gia cuộc chiến tranh VN ở cả hai bên chiến tuyến đều là người Việt Nam, nhưng điều đó không phải là yếu tố then chốt để kết luận cuộc chiến tranh đó là cuộc nội chiến. Bằng chứng từ xưa đến nay, mỗi khi đề cập đến cuộc chiến tranh VN, công luận thế giới đều phải thừa nhận đó là cuộc chiến tranh xâm lăng Miền Nam, do CS Hà Nội thực hiện.
Cũng cùng một nhận định như vậy, xưa nay cả thế giới, bao gồm cả CS Hà Nội, đều thừa nhận, sẽ là cuộc XÂM LĂNG, nếu Đông Đức đánh chiếm Tây Đức, Trung Cộng đánh chiếm Đài Loan, hoặc Bắc Hàn đánh chiến Nam Hàn.
HCM – TAY SAI CS QUỐC TẾ – XÂM LĂNG MIỀN NAM
Bất cứ ai hiểu rõ bản chất của đảng cộng sản, tiểu sử của HCM, cùng diễn biến của cuộc chiến tranh Việt Nam, đều phải thừa nhận, chính cộng sản Bắc Việt, đứng đầu là Hồ Chính Minh, với sự giật dây của TC và Nga cộng, đã gây nên cuộc chiến tranh xâm lăng Miền Nam, khiến mấy triệu người bị thảm tử và đất nước Việt Nam bị lạc hậu cả thế kỷ so với thế giới.
Bằng chứng, tháng 3 năm 2000, trong một bài viết trên tờ tuần báo Việt Mercury, nhan đề “Một quan điểm về vụ Triển lãm chân dung HCM” của Trần Trường tại Hoa Kỳ, ông Robert Templer đã xác nhận một sự thật kinh hoàng: “Chính HCM đã khởi sự một cuộc chiến tranh sát hại 3 triệu người Việt Nam”.
Ông Robert Templer là người ngoại quốc, nhưng là nhà trí thức có tầm cỡ được sống tại Việt Nam, giao tiếp với những người cộng sản, nên ông đã nhận ra, vai trò cộng sản quốc tế của HCM, và nguyên nhân đích thực, dẫn đến cuộc chiến tranh Việt Nam, là do tham vọng xâm lăng của CS quốc tế và Hà Nội.
Phát hiện “mầm non CS Á Châu HCM”, CS Nga tại Đức đã cấp giấy thông hành số 1829 ngày 16/6/1923, cho Chen Vang (HCM) để tới Nga, tham dự Đại hội Quốc tế CS năm 1924.
SỰ THẬT, vai trò và bản chất cộng sản quốc tế trong con người HCM, không phải chỉ bắt đầu khi cuộc chiến tranh xâm lăng Miền Nam mở màn, mà đã bắt đầu ngay từ khi HCM, tham gia hội nghị thành Tours của Đảng Xã Hội Pháp, vào ngày 25 tháng 12 năm 1920. Lúc đó HCM mới 30 tuổi.
Tại hội nghị này, HCM đã đọc diễn văn, tuyên truyền tư tưởng cộng sản trong các nước thuộc địa, bao gồm cả Việt Nam, và khẳng định, “cách mạng VN chỉ là một bộ phận của cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản”.
Bị chủ nghĩa CS đầu độc, tại Đại hội 5 Quốc tế Cộng sản họp ở Nga vào năm 1924, HCM (ngồi hàng đầu, thứ tư từ phải sang), đọc bản tham luận khẳng định, “vấn đề giải phóng dân tộc chỉ là một bộ phận của cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản”.
Trong đại hội lần thứ 5 của Quốc tế cộng sản được tổ chức tại Mạc Tư Khoa từ 17.6 đến 8.7.1924, HCM với tư cách đại biểu của đảng cộng sản Pháp cũng đã đọc một bản tham luận khẳng định, tư tưởng bán nước cho CS, hết sức nguy hiểm, “vấn đề giải phóng dân tộc chỉ là một bộ phận của cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản”. Sau này, trong một bài viết nhan đề, “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lenin” HCM cũng đã một lần nữa ngu ngốc cho rằng, “Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ.”
Sự thật, sau Đệ Nhị Thế Chiến, một loạt các quốc gia trên thế giới được giải phóng, không cần tới chủ nghĩa CS, đã chứng minh sự ngu dốt tai hại của HCM đối với dân tộc VN.

Vì HCM có quan niệm sai lầm như vậy, nên chủ nghĩa cộng sản quốc tế, đã vội vã dùng HCM, như là một lá bài trong mưu toan, bành trướng thế lực cộng sản quốc tế tại Việt Nam.
Cũng vì vậy, HCM đã xách động một cuộc chiến tranh xâm lăng Miền Nam kéo dài suốt 16 năm, trong khi những quốc gia khác trong vùng Đông Nam Á, với tinh thần quốc gia thuần túy, đã thực hiện cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc thành công và phát triển thịnh vượng để trở thành những quốc gia phú cường, mà không cần tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Trong thời gian trên dưới một thập niên, từ cuối thập niên 1940 đến đầu thập niên 1950, cộng sản quốc tế, cụ thể là cộng sản Tàu và Nga đã cố tình xuất cảng cách mạng, hay nói cách khác, đã xâm lăng dưới chiêu bài khởi nghĩa, đồng khởi, nổi dậy, giải phóng… tại một số quốc gia trên thế giới trong đó có Burma, Mã Lai, Phi Luật Tân, Nam Dương…
May mắn, những quốc gia này không có những kẻ ngu ngốc ăn phải bả CS như HCM, nên đã thoát khỏi thảm họa thôn tính của chủ nghĩa cộng sản.
CHẠY TỘI CHO HCM
Việt Nam, cầm quyền 1945-1969, chịu trách nhiệm về cái chết của 1,7 triệu người; tội ác lớn nhất: chiến tranh Việt Nam
Trong khi ông Robert Templer hiểu rõ bản chất của HCM thì rất tiếc, một số người Việt Nam lại không hiểu như vậy. Thậm chí, có người còn dại dột ăn phải bả CS khi ngây thơ cho rằng, HCM là một người quốc gia chân chính, một người Việt yêu nước nồng nàn.
Trước những sự thật hiển nhiên bất khả chối cãi về tội ác bán nước cho CS của HCM, nhiều nhân vật “trí thức” bị CS giật dây, đã làm những việc ngu muội, so sánh Quỷ với Chúa, với Phật, với Thánh Thần… khi họ viết bài, giả vờ nêu câu hỏi: “Ngô Đình Diệm và HCM, ai yêu nước, ai bán nước?”
Thậm chí, có người còn ấu trĩ tin vào luận điệu của CS: Chỉ vì Mỹ thờ ơ trước nguyện vọng kết thân với Mỹ của HCM, nên Việt Nam mới rơi vào qũy đạo cộng sản.
Ăn phải bả CS, họ viện dẫn: Vào tháng 9, tháng 10 năm 1945, HCM đã viết cả chục lá thư cho TT Truman xin Mỹ bảo hộ cho Việt Nam. Nếu lúc đó tổng thống Truman quan tâm đến nguyện vọng của HCM, hai dân tộc Việt, Mỹ đã không phải trải qua chiến tranh.
Sự thực, HCM có viết thư cho Truman. Tuy nhiên phải hiểu, khi viết những lá thư đó, HCM chỉ có ý muốn dùng Mỹ hất cẳng Pháp, giành “độc lập” cho Việt Nam, để rồi sau đó, HCM sẽ quay ra phản bội Mỹ, biến Việt Nam thành chư hầu của cộng sản Nga, Tàu. 
Biết rõ âm mưu quỷ quyệt của tay sai CS HCM, nên tổng thống Truman đã quyết định không hậu thuẫn HCM. Nhờ vậy, VNCH mới được thành lập, nửa nước VN mới được sống trong tự do, dân chủ, cải cách ruộng đất đẫm máu tại Miền Bắc đã không diễn ra tại Miền Nam, và Sài Gòn mới trở thành Hòn Ngọc Viễn Đông… suốt 20 năm.  (HN)

Đoàn Phú Hòa

TỰ SỰ.

Tôi sinh ra và lớn lên ở Miền Bắc hay theo cách nói của người Miền Nam thì tôi là thằng Bắc rặc. Hồi nhỏ tôi cùng bố mẹ sống với ông bà ngoại ở 82 Lò Đúc, cái phố có hai hàng cây Sao Đen được nối tiếp với hai hàng cây bàng cao vút, xum xuê lá mà những năm 1960 – 1964 được dân Hà Nội mệnh danh là phố “cò ỉa”. Không ai hiểu vì lý do gì mà tự nhiên vào thời kỳ đó cò từ khắp nơi đến làm tổ trên những cành cây Sao Đen. Cả đoạn phố từ ngã ba Trần Xuân Soạn đến đúng trước cửa nhà tôi, ranh giới của các hàng cây Sao Đen với hàng cây bàng đầy cò. Không ít người đi trên đường đã được lũ cò “tặng” cho một bãi phân trắng lên đầu hay lên quần áo. Sông xênh hơn nữa thì có khi còn được tặng cả một con cá đang còn giẫy.

Ông bà tôi có một sân vườn khá rộng với đủ loại cây ăn quả, hoa mà hồi bé tôi thường rủ lũ bạn vào chơi khăng, chơi xèng, đánh quay. Ngoài ngôi nhà chính còn một dãy nhà ngang dọc theo vườn mà lúc trước gồm nhà bếp, nhà để xe, phòng ngủ cho lái xe và phòng ngủ cho bác Phúc, một phụ nữ trạc tuổi mẹ tôi, mồ côi từ bé và được ông bà tôi đón về nhà như con nuôi của ông bà. Bác tự nguyện xin làm người giúp việc cho gia đình. Cho đến cuối đời bác không hề có một mối tình nào mặc dù nhiều lần ông bà, bố mẹ tôi hoặc các cô chú cố gắng làm mối cho bác. Không bao giờ tôi biết được lý do vì sao bác không lấy chồng.

Hè năm 1958, khi tôi chuẩn bị vào học lớp 1 thì chính quyền thành phố đến trưng thu khu vườn của 3 nhà 78, 82, 84 để xây dựng khu nhà tập thể 1 tầng cho công nhân Nhà máy rượu Hà Nội. (Từ thời Pháp, khi phố Lò Đúc được hình thành thì vì một lý do nào đó nên không có số nhà 80. Hồi đó người lớn thường nói đùa là các công nhân của Sở Địa Chính đẩy xe ba gác đi đóng biển số nhà nhưng làm rơi trên dọc đường biển số 80 nên họ cho nhảy cách từ 78 thẳng lên 82). Thời này còn có đền bù chứ khi đó đơn giản là trưng thu theo lệnh. Tất cả các cây trong vườn bị đốn sạch để sau vài tháng, song song với dãy nhà ngang có từ trước xuất hiện thêm một dãy nhà ngang nữa. Mỗi dãy nhà có 6 căn hộ cho các gia đình. Ông bà tôi phải thu xếp cho bác Phúc một khoang dưới gầm cầu thang vì gia đình không còn phòng nào trống. Ngay cả cái bếp của gia đình cũng bị trưng tu sửa thành căn hộ cho công nhân nên bác Phúc phải nấu cơm cho cả gia đình ở ngoài hành lang.

Những gia đình công nhân mới đến toàn từ nông thôn ra, lại nhiều trẻ nhỏ nên ầm ĩ suốt ngày. Lũ trẻ chúng tôi bị mất chỗ chơi nên đành phải lui ra phía ngoai, chỗ đường đi vào vườn nhà, rộng đủ cho xe tải qua lại.

Trong số các gia đình đó có hai gia đình người Miền Nam, được gọi là “cán bộ tập kết”. Họ rất khệnh khạng và thường có yêu sách này, yêu sách kia. Đấy là những người Miền Nam đầu tiên tôi tiếp xúc và họ đã làm tôi có ác cảm với dân Miền Nam vì tôi nghĩ ai cũng như vậy. Lũ trẻ chúng tôi thường bị họ xua đuổi khi đang chơi, điều mà trước khi không bao giờ ông bà, cô chú tôi làm. Tôi ghét họ và dần dần ghét cả những người nói giọng Nam gặp ở ngoài đường. Dân Miền Nam tập kết có một câu lạc bộ riêng của họ, gọi là “Câu lạc bộ Thống Nhất” ngay sát Hồ Gươm. Tại đó thường xuyên có những cuộc gặp gỡ mà chỉ có họ, dân Miền Nam hoặc khách mời mới được vào. Mỗi lần đi qua cái cổng sắt đó là tôi cùng mấy thằng bạn cũng nhổ vài bãi nước bọt.

Tất cả tự nhiên đảo ngược khi học hết lớp 3 tôi được bố mẹ mua cho cuốn sách “Đất rừng Phương Nam” của nhà văn Đoàn Giỏi. Chỉ đọc vài trang đầu là tôi thấy say mê. Tôi bị cuốn hút vào những tình tiết của câu chuyện. Về cậu bé An, về ông già bắt rắn, về Võ Tòng, ... và về cách sống chân phương, mộc mạc của người dân Miền Tây Nam Bộ, về sông nước, về rừng Phương Nam. Tôi thấy tính cách những nhân vật trong truyện hoàn khác với những lão “hàng xóm, dân tập kết” của tôi. Tự nhiên tôi thấy yêu Miền Nam và muốn được tận mắt nhìn thấy cuộc sống của người dân Miền Tây Nam Bộ. Cho đến giờ, sau 60 năm tôi vẫn ao ước có được cuốn truyện đó trong tay để ngấu nghiến đọc lại một lần nữa. Tôi muốn một lần nữa được uống từng ngụm văn mộc mạc nhưng tuyệt vời của nhà văn Đoàn Giỏi.

Sau này, khi lớn lên, có tầm nhìn rộng hơn, suy nghĩ sâu hơn thì tôi mới nhận ra rằng không ít người trong số “cán bộ tập kết” đó có cách xử sự mà ta thường nói “có biết bố mày là ai không?”. Những người này cho rằng họ phải được hưởng đặc quyền hơn những người khác bởi vì họ là “cán bộ tập kết” nhằm hoàn thành “sứ mệnh cao cả”.

Những người cùng lứa tuổi tôi chắc chắn còn nhớ bài thơ của Tố Hữu, vua bưng bô của chế độ viết về cảnh công an ở Hải Phòng đi tuần đêm để đảm bảo giấc ngủ cho các học sinh Miền Nam. Thời đó, bài thơ này đã được đưa vào chương trình giảng dạy cấp 1 mà chúng tôi phải học thuộc, phải phân tích nội dung, ý nghĩa cao cả của nó. Sau này nghĩ lại tôi mới thấy lũ trẻ chúng tôi bị nhồi sọ như thế nào. Mẹ kiếp, giấc ngủ của mấy đứa trẻ ranh quan trọng hơn giấc ngủ của các công nhân ngày đêm làm việc quần quật trong nhà máy hay giấc ngủ của những người nông dân cả ngày chổng mông lên trời, úp mặt xuống đất hay sao???

Nhờ về Việt Nam thực hiện các dự án “xóa đói giảm nghèo” của chính phủ Séc giúp đỡ Việt Nam theo qui định của EU mà năm 2006 tôi mới được nhìn tận mắt Miền Nam “của tôi”. Lúc đó tôi mới có điều kiện tiếp xúc với người dân Miền Nam hiền lành, chất phác, ruột để ngoài da, sẵn sàng chia cho người khác những gì họ có. Tôi yêu Miền Nam và yêu người dân Miền Nam từ đó. Họ hoàn toàn khác hẳn những ông, bà “cán bộ tập kết” mà tôi đã gặp hồi nhỏ. Sinh ra và lớn lên ở Miền Bắc nhưng nếu giờ đây cho phép tôi chọn nơi sống của mình đến cuối đời khi chế độ tà quyền cộng sản Việt Nam sụp đổ thì tôi sẽ không ngần ngại nói rằng “nơi tôi trút hơi thở cuối cùng sẽ là một nơi nào đó trong Nam. Có thể là Nha Trang, Đà Lạt, Sài Gòn hay vùng sông nước Cửu Long”.

Tôi sinh ra và lớn lên trong chế độ cộng sản. Cũng như những người cùng thế hệ tôi cũng bị đầu độc, bị nhồi sọ ngay từ khi mới bước đến trường về lòng căm thù “đề quốc Mỹ” cùng “chính phủ bù nhìn” của Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Tôi cũng bị nhồi sọ cho cái tư tưởng “giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước” ngay khi mới học lớp 1. Có 1 điều mà tôi có thể khẳng định là tôi chưa bao giờ yêu và cảm thấy phải yêu ông Hồ như nhiều đứa trẻ khác. Trong nhà tôi, kể từ khi ở với ông bà hay sau này ở với bố mẹ chưa bao giờ có ai treo hình ông Hồ như các gia đình khác.

Có lẽ tôi may mắn hơn những đứa trẻ cùng lứa tuổi là tôi được sống với những người hiểu biết như bố, như các bác, các chú nên khi lớn lên, có được nhận thức của mình thì tôi dần dần hiểu bản chất thối nát, thâm hiểm và ác độc của cộng sản. Chính vậy nên dù đã là sĩ quan, thiếu úy, trung úy rồi thượng úy nhưng tôi luôn tìm cách thoái thác để không phải tham gia nhóm cảm tình đảng rồi trở thành đảng viên. Chính thế nên có lẽ tôi là một trong những số rất ít sĩ quan trung cấp (từ thượng úy đến thượng tá) không phải là đảng viên. Đó là điều an ủi không nhỏ đối với tôi.

Từ khi nhận biết được bộ mặt thật của chế độ cộng sản thì tôi càng yêu tự do và tôi hạnh phúc khi chọn được con đường đi của mình với tiêu chí “chế độ cộng sản phải bị đào thải khỏi lịch sử”. Tôi đứng về phía những người đấu tranh cho tự do, cho nhân quyền và cho thế giới không còn chủ nghĩa cộng sản.

Tôi tin và biết sẽ giữ được con đường đi của mình cho đến những giờ phút cuối cùng của cuộc đời.

Czech Republic, 24.7.2021

Đoàn Phú Hòa

 

No comments:

Post a Comment