20200914 Trận Pleime năm 1974 (kỳ 7)
December 7th, 2019
***
Vào cuối năm 2019, trùng hợp với bệnh dịch CCP
virus từ China hoành hành thế giới, Thái Sơn Vương Mộng Long Tiểu Đoàn
trưởng 82 Biệt Động Quân đã cho lên internet tài liệu trận chiến Pleime
kéo dài 33 ngày trong năm 1974 do chính tác giả tham gia và chỉ huy.
Với những người lính miền Nam Việt Nam Cộng
Hòa, ngày 30 tháng 04 năm 1975 là ngày uất hận vì họ không phải là
những người lính không có tinh thần chiến đấu để phải dể dàng thua
trận, đầu hàng một đoàn quân ô hợp của cộng sản miền Bắc, nếu không
có lệnh đầu hàng quái ác của tổng thống 1 ngày Dương Văn Minh. Trong
tài liệu của Thái Sơn Vương Mộng Long đã cho ta thấy điều đó, cùng
với những cái chết tuẩn tiết, tức tửi của những người lính Nhảy
Dù, những sĩ quan miền Nam mà đồng bào đã biết.
Nhận thấy tài liệu quân sử trân qúy nầy rất
cần thiết cho những thế hệ trẻ sau nầy nhưng lại thiếu những bản đồ
hành quân diện địa trong thời gian 1970's, cho nên chúng tôi mạo muội
thêm vào những bản đồ hành quân của Hoa Kỳ trong thập niên 70's cùng
những đường nối kết để độc gỉa trẻ sau nầy có thể kiểm chứng và
hình dung được những giây phút hào hùng, oai dũng của những người
lính trận miền Nam Việt Nam Cộng Hòa trên những địa danh xa lạ, những
diển biến trận địa trong không gian và thời gian 1970's. Hơn nửa gần
đây trên Youtube, Wikipedia bộ chính
trị tuyên truyền của cộng sản Việt Nam, China đã gian xảo đưa lên
những tài liệu không thật về cuộc chiến để tiếp tay với hệ thống
truyền thông thiên tả Hoa Kỳ sĩ nhục những người lính đã tận tụy hy
sinh thân xác, sinh mạng của chính mình cho miền Nam Việt Nam được yên
ổn hơn 20 năm.
Tài liệu bạch hóa của Henry Kissinger thú nhận
rằng Hoa Kỳ đã trói tay quân lực Việt Nam Cộng Hòa từ khởi đầu cuộc
chiến mải cho đến khi hiệp định Paris 1973 được ký kết họ mới để cho
quân lực Việt Nam Cộng Hòa tự do làm chủ cuộc chiến sau khi họ đã
rút quân và cắt đứt viện trợ cho miền Nam. Nghĩa là họ trắng trợn
bán đứng miền Nam cho cộng sản Việt và China.
***
SECRETARY OF STATE
HENRY KISSINGER
LESSONS OF VIETNAM -
MAY 12, 1975
https://thebattleofkontum.com/extras/kissinger.html
https://bachvietnhan.blogspot.com/2020/09/20200908-bai-hoc-viet-nam.html
Chư Hô Chư Prong Đức Cơ Pleime
http://www.nexus.net/~911gfx/vietnam/maps/nd48-12/nd48_12d.html
Bản đồ VN từng khu vực
http://legacy.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/vietnam_index.html
Bản đồ Pleime
http://legacy.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/xuong_kuang-6536-2.pdf
Tiều Teo
http://legacy.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/tieu_teo-6535-1.pdf
Địa danh, căn cứ, tọa độ.
https://thebattleofkontum.com/extras/RVN.pdf
http://www.generalhieu.com/pleime-2.htm
Kỳ trước:Những ngày sau đó, căn cứ Pleime bị siết
chặt vây hãm, những đơn vị bạn cứu viện bị chận đánh từ xa. Thiếu lương thực,
những chốt tiền đồn đành rút bỏ. Hai chiếc trực thăng của Đại tá Từ Vấn bay vào
tiếp tế cho trại nhưng 2 món quà thuốc lá và rượu thì bị lọt ra ngoài vòng đai
hàng rào căn cứ.
Nhiều kỳ – kỳ 7
Ðêm ấy gió theo hướng Ðông Tây. Những người trấn thủ mặt Ðông của
trại, đều ngửi thấy mùi thuốc lá thơm bay trong gió! Thùng thuốc lá tiếp tế của
Ðại tá Từ Vấn đã rơi ngay giữa đội hình của Trung Ðoàn 48 Sư Ðoàn 320A Cộng Sản
Bắc-Việt!
Trong những ngày sau tôi không được thông báo tin tức gì liên quan
đến các hoạt động của quân bạn, nhưng trên máy thu thanh thì đài BBC loan báo
nhiều đơn vị tác chiến Việt-Nam Cộng-Hòa đang được điều động từ Ban Mê Thuột
lên Pleiku để tăng viện cho quân trú phòng ở Pleime.
Tin tức này làm cho tinh thần tôi thêm phấn chấn, vì thấy Tướng
Nguyễn Văn Toàn tiếp tục tung thêm quân vào trận địa thì tôi chỉ cần cố gắng
gồng mình chịu đựng ít lâu nữa, sứ mạng của Tướng Toàn sẽ hoàn thành, đem chiến
thắng đặt trên bàn hội nghị xin thêm viện trợ.
Từ Căn cứ Hỏa lực 711 qua tần số của máy truyền tin PRC 74 có một
phóng viên chiến trường của nhật báo Trắng Ðen xin gặp tôi để phỏng vấn.
Hôm đó anh phóng viên đã được tận tai nghe người chỉ huy Pleime kể
lại chi tiết diễn tiến trong gần hai tuần lễ ác chiến giữa một tiểu đoàn Biệt
Ðộng Quân Biên Phòng và hai trung đoàn thiện chiến bậc nhất của quân đội Bắc
Việt.
Anh ký giả này nài nỉ tôi cho phép anh ta đáp xuống Pleime, ở lại
đây cho hết thời gian chiến dịch, hầu có tin tức sốt dẻo hằng ngày gửi về
Sài-Gòn.
Tôi cũng rất ngưỡng mộ sự can đảm của anh ký giả, đồng thời đáp lại
sự đam mê của người bạn mới quen ấy, tôi vui vẻ nhận lời cho anh vào cùng Biệt
Ðộng Quân chung lưng đội pháo, núp đạn, lặn ngụp trong giao thông hào ít lâu
cho biết.
Tiếc thay anh bạn nhà báo này chờ cả tuần lễ mà không ai cấp phương
tiện cho anh ta vào trại. Cũng thời gian này, mặt trận Thường Ðức bắt đầu bùng
nổ. Anh phóng viên báo Trắng Ðen được lệnh bay ra Ðà-Nẵng lấy tin. Ít lâu sau
tôi nghe tin anh bạn này đã tử thương. Trực thăng chở anh trên đường vào trại
Thường-Ðức đã bị Cộng Quân bắn hạ.
Ngày xưa, trên các mục phân ưu đăng trên báo chí hằng ngày, người
ta thường đọc được những tin chia buồn, tiếc thương các quân nhân đền nợ nước.
Lần đầu người ta đọc được lời phân ưu của một Thiếu Tá Biệt Ðộng
Quân và toàn thể quân nhân các cấp dưới quyền ông gửi lời thương tiếc một ký
giả Nhật Báo Trắng Ðen vừa bỏ mình trên chiến địa.
Chợt một hôm, liên đoàn báo cho tôi hay rằng, trong ngày hôm đó sẽ
có một cánh quân của Trung Ðoàn 53 Bộ Binh tiến vào bắt tay với Pleime.
Hôm đó trời nắng và không có trận pháo kích rạng đông như thường
nhật của địch quân.
Tôi leo lên chòi canh, đảo mắt quan sát một vòng quanh trại. Hầu như
không một thước đất nào không có dấu đạn, đạn cối của ta chen lẫn đạn pháo cối
của địch quân. Xác Cộng Quân còn nằm phơi đầy trong rừng lau sậy ngoài rào.
Trong gió, vang vang tiếng “Quang quác!…” của loài quạ đen
đang gọi bạn.
Xa xa về hướng Ðông Bắc có nhiều cụm khói trắng ngùn ngụt bốc lên,
rõ ràng một đơn vị di chuyển bộ đang có mặt trong vùng. Tôi nghĩ đoàn quân đang
đi tới là Trung Ðoàn 53 Bộ Binh; có lẽ họ đang đốt lửa để nấu cơm, hay hong khô
quần áo.
Họ còn cách tôi chừng ba hay bốn cây số đường chim bay.
Trong máy PRC 25 của tôi bỗng có tiếng quân bạn gọi:
“Thái Sơn đây Thanh Dương! Nghe được trả lời?”
Tôi đã được thông báo “Thanh Dương” là danh xưng
truyền tin của Thiếu tá Nguyễn Dương Lâm, người chỉ huy hai tiểu đoàn của Trung
Ðoàn 53 Bộ Binh đang tiến vào.
Tôi vội trả lời,
– Thái Sơn nghe Thanh Dương!
Thiếu tá Lâm nói,
– Báo cho Cùi 20 hay, kỳ này anh dẫn theo một thằng em Cùi 21 tiếp
tay cho chú. Ba anh em mình chung lưng thì không thằng Vi Xi (Việt Cộng) nào
địch nổi. Chú Nhẫn 21 cũng là dân Ðại đội B, Thái Sơn có nhớ ra hắn ta không?
Dứt lời anh Lâm cười khà khà vui vẻ. (Cùi=danh từ dùng để gọi những
sĩ quan xuất thân trường Võ Bị từ khóa 16 trở về sau)
Tôi cũng cười theo anh,
– Nhớ chứ! Anh ra trường thì chú Nhẫn nhập trường. Anh và chú Nhẫn
ở Trung đội 5, còn tôi ở Trung đội 6.
Tiếp đó là tiếng Thiếu tá Cao Mạnh Nhẫn, người chỉ huy Tiểu đoàn
3/53 đi chung với bộ chỉ huy nhẹ của Thiếu tá Lâm,
– Thái Sơn ơi! Hồi đó các ông khóa 20 “quần” tụi tôi mệt muốn chết
luôn!
Tôi vui vẻ đáp,
– Ðừng than van nữa! Các hung thần khóa 19 cũng quay tụi này như
quay dế! Có thế anh em mình mới nên người!
Chúng tôi, ba người đang có mặt trong trận Pleime này cùng xuất
thân từ Ðại Ðội B Sinh Viên Sĩ Quan của trường Võ Bị, với ba khóa kế tiếp nhau,
Nguyễn Dương Lâm khóa 19, Vương Mộng Long khóa 20 và Cao Mạnh Nhẫn khóa 21.
Trận Pleime 1974 – Công đồn đả viện
20200914 Pleime74 39Chú Nhẫn la oang oang,
– Tôi còn cách niên trưởng chừng ba “click” nữa. Tình hình yên tĩnh
như đi nghỉ mát! Hai ngày nay tui tìm hoài mà chẳng thấy thằng Vi Xi nào
cả! (Click=Cây số)
Thấy một ông đàn anh và một ông đàn em chuyện trò thực vô tư, hồn
nhiên, tôi cũng cảm thấy vững tâm, hy vọng họ sớm bắt tay với đơn vị mình.
Nhìn vào những cụm khói trắng bao phủ một vùng phía xa xa, tôi đoán
chắc hai tiểu đoàn của quân bạn đang dừng quân trên vùng bình nguyên Bắc suối
Lé. Ðịa thế ở đây là đồng tranh, xen kẽ cỏ lau cùng những cụm tre gai thấp,
cách nhau vài chục mét.
Ðất của vùng này rất mềm, có thể dùng tay không mà moi, chỉ một lúc
sau đã có cái hố cá nhân. Có điều mạch nước cũng nhiều, hố vừa moi xong, vài
phút sau đã đầy nước, đất xung quanh hố sụp xuống, thế là cái hố trở thành một
vũng nước.
Nếu phải đánh nhau trong vùng này, cách tốt nhất là ào xuống suối,
bám bờ suối mà chiến đấu.
Tôi nghĩ, đoàn quân tăng viện đi lồ lộ thênh thang như thế đã hai
ngày mà chưa xảy ra biến cố gì thì có thể địch đã rút lui rồi. Tôi cũng đang
cầu mong địch đừng đánh nữa.
Nhưng hôm nay sao tình hình yên ắng quá! Mà tình hình càng
yên tĩnh lại càng đáng sợ.
Tôi biết chắc chắn rằng từ mùa Hè năm 1972, ở xứ Tây Nguyên này Sư
Ðoàn 320A Cộng-Sản là một địch thủ mà bất cứ ai cũng không thể coi thường.
Kỳ này mục đích của Sư Ðoàn 320A là xóa sổ trại Pleime. Pleime còn
đứng vững, chưa chắc gì chúng đã chịu bỏ dở mục tiêu nửa chừng.
Tôi nghĩ, nếu bị địch tập kích từ hướng Tây thì hai tiểu đoàn của
Trung Ðoàn 53 chỉ có một con đường thoát hiểm là chạy thẳng về hướng Ðông Nam,
chỉ có vùng đó là không có địch.
Tôi định góp ý với hai vị sĩ quan đồng môn, khuyên họ nên cẩn thận
đề phòng, nhưng e ngại sẽ đụng chạm tới tự ái của họ.
Tôi nhỏ nhẹ,
– Hai vị nhớ cẩn thận! Nếu có chuyện gì thì gắng giữ hướng
hai ngàn bốn trăm ly giác!
***
Cuộc đàm thoại nầy có thể đã bị nghe lén.
***
Lợi dụng buổi trời trong, tôi dùng ống nhòm để quan sát những vạt
rừng phía ngoài xa. Có một chiếc quan sát cơ đang bay vòng vòng trên vùng cách
Pleime chừng năm cây số. Có lẽ cái máy bay thám thính này đang yểm trợ cho cánh
quân của niên trưởng Nguyễn Dương Lâm.
Ðột nhiên tai tôi nghe “Ùm! Ùm! Ùm!…” tiếng pháo
địch “depart” liên tiếp rộ lên từ biên giới Việt-Miên.
Trong đồn Pleime kẻng báo động khua vang, mọi người chui vào hàm
ếch.
Tôi vẫn còn trên chòi canh. Tôi đã thấy những đụn khói đen cuồn
cuộn bốc lên trong rừng khói trắng! Những trái đạn đại bác 122 ly nòng dài bay
nhanh hơn những viên cối bắn cầu vồng. Khói đen đang bốc lên là do những viên
122 ly vừa chạm đất.
Ðoàn quân bạn đang trên đường tiếp viện cho tôi bắt đầu nếm mùi mưa
trái phá!
Trong thời gian dài chừng nửa giờ, ước lượng hàng ngàn quả đạn 122
ly, 105 ly, 120 ly, và 82 ly đã rơi trên ngọn đồi lá thấp chỉ có tre gai và cỏ
tranh.
Khi hai đợt pháo tập trung đánh trên khoảng rừng có diện tích chưa
đầy hai cây số vuông vừa ngừng, thì tôi bắt đầu nghe vọng lại tiếng súng tay nổ
rền.
Cùng lúc đó hàng chục khẩu phòng không nhả đạn nhắm vào chiếc thám
sát cơ.
Không rõ chiếc máy bay có bị trúng đạn hay không, mà sau đó tôi
không còn thấy bóng dáng nó nữa.
Trong máy PRC 25 tôi nghe Cao Mạnh Nhẫn hoảng hốt,
– Thái Sơn ơi! Nguy quá! Biết làm sao đây?
Tôi gào lên,
– Hai ngàn bốn trăm ly giác! Chạy mau! Hai ngàn bốn trăm ly giác!
Trong ống nghe, tôi thấy Nhẫn lặp lại, y chang, chắc là chú ấy đang
ra lệnh cho đơn vị dưới quyền:
“Hướng hai ngàn tư! Chạy mau!”
Sư Ðoàn 320A Cộng-Sản đang thực hành chiến thuật “Bôn tập
tập kích” sở trường của họ! Cánh quân đang trên đường tiếp cứu Pleime
chưa phải là địch thủ ngang cơ của Sư Ðoàn Cộng-Sản này!
Lúc này Căn cứ 711 đang bị pháo kích, các pháo thủ mắc bận phản
pháo. Pháo binh ngoài Phú Nhơn ở quá xa, với không tới khu vực giao tranh, nên
muốn giúp quân bạn, tôi chỉ còn cách dùng khẩu 105 cơ hữu của mình bắn một
tuyến dài dọc theo Tỉnh lộ để ngăn địch.
Chờ một hồi lâu, tôi không nghe thêm tiếng nói nào của người đàn em
khóa 21 là Cao Mạnh Nhẫn. Tôi cũng không nghe được tiếng nói nào của người niên
trưởng khóa 19 là Nguyễn Dương Lâm.
Cho tới ngày chiến dịch tàn, tôi mới biết niên trưởng Nguyễn Dương
Lâm đã chết và bị bỏ xác tại chiến trường.
Trong khi đó, cấp chỉ huy của anh Lâm thì đóng quân ở ngoài ngã ba
Mỹ Thạch, trên Quốc lộ 14, cách xa nơi anh Lâm tử trận một đoạn đường dài gần
hai mươi cây số!
Chiều hôm đó Pleime lại bị pháo, trận pháo kích dài khoảng một giờ.
Không ai ngồi đếm có bao nhiêu trái đạn đã rơi trên đầu chúng tôi, thôi thì cứ
báo cáo là hàng trăm trái.
Không lâu sau là trận mưa truyền đơn, kêu gọi Biệt Ðộng Quân buông
súng đầu hàng.
Tiếp đó, hướng Tây, nơi những liều Bangalore đã mở ra con đường dẫn
tới khu đất trống giữa hai lớp rào cũ và mới hứng chịu đợt xung phong thứ mười
hai! Lần này có vài cán binh Việt-Cộng mang theo những tấm ván để làm thang.
Chỉ sau mười phút, đợt xung phong đã bị bẻ gãy vì thang ván của
địch không đủ dài, địch rơi xuống đất, dưới đất là bãi mìn của Công Binh.
Có những cán binh Cộng Sản vừa bị bắn ngã, thân mình đè trên một
quả mìn, quả mìn nổ, thân xác anh ta liền banh ra thành nhiều mảnh.
Ðứng trên nóc Pháo đài số 5, tôi thấy thấp thoáng bóng người chạy
qua, chạy lại trong đám lau sậy nơi khoảng đất trống giữa hai hệ thống hàng rào
cũ và mới.
Lúc khẩu đại liên tạm ngừng để thay dây đạn mới, tôi nghe tiếng bọn
Việt-Cộng gọi nhau,
“Ðồng chí Quang! Ðừng lên nữa! Còn rào!”
Cùng tiếng kêu la,
“Chết tôi! Á! A! A! Mẹ ơi!” lẫn trong tiếng mìn và lựu đạn gài
vừa phát nổ “Ùm! Ùm! Ùm! Oành! Oành!Oành!”
Dưới chân pháo đài, đang lúc hứng chí, hai anh xạ thủ phóng lựu M79 của Ðại đội 2/81 vừa bóp cò vừa la oang oang “Biệt Ðộng Quân! Sát!” – “Biệt Ðộng Quân! Sát!”
20200914 Pleime74 40Khẩu đại liên 30 trong Pháo đài số 5 lại tiếp tục nổ giòn. Mãi tới
khi Trung úy Song và Thiếu úy Phước phải gào lên “Thôi bắn! Thôi bắn!” thì
tiếng súng mới im.
Hôm đó về phần “đả viện” thì địch đã thành công, nhưng về mặt “công
đồn” thì chúng đã thảm bại.
Những ngày sau địch gia tăng pháo kích ban ngày, ban đêm liên tục
dùng Bangalore phá rào. Có ít nhất là bốn cửa khẩu có chiều ngang cỡ hai
thước đã bị bộc phá của địch mở xuyên qua 6 lớp hàng rào ngoài. Cho tới nay thì
6 lớp rào trong vẫn chưa bị suy suyển.
Vì ngày nào cũng thấy cảnh vật xung quanh, nên vừa phát giác những
cụm đất đỏ mới xuất hiện trên mặt đất sát vườn rau, lính gác cổng Bắc biết ngay
đó là đường hầm do Ðặc-Công Việt-Cộng vừa tạo thành, nên lập tức nổ súng báo
động ngay.
Chỉ vài chục phút sau thì đường hầm này đã bị lấp kín và bị gài vài
trái lựu đạn M26.
Cao Nguyên đang giữa mùa mưa, hôm trước trời trong, mây cao, chỉ
qua một đêm trời đã âm u xám xịt, với những trận mưa giông, mưa nguồn.
Trong mưa tháng Tám, hàng ngày, trên tiền đồn biên
phòng Pleime còn thêm những cơn mưa đạn cối 120 ly, 105 ly, 82 ly.
Ðặc biệt trong chiến dịch này, địch đã sử dụng truyền đơn
như một loại vũ khí.
Những quả đạn cối 82 ly nổ cao bung ra từng chùm truyền đơn
nhìn như những lọn pháo bông đêm hoa đăng.
Buổi sáng là loạt truyền đơn đầu in những giòng chữ êm ái, bao
dung, tình người thắm thiết:
“Hỡi các chiến binh Ngụy Sài-Gòn! Các anh mau mau bỏ
súng quay về với nhân dân! Nhân dân đang dang tay chờ đón các anh!
Hỡi những người con lạc đường! Hãy quay về với Tổ Quốc về với đồng
bào!”
Buổi chiều sau đợt pháo kích hàng trăm viên 122 ly, 120 ly, 105 ly,
82 ly, thì truyền đơn lại mang giòng chữ đọc lên nghe mà ớn:
“Hàng sống! Chống chết! Tất cả Ngụy quân đồn trú
phải buông súng đầu hàng ngay! Nếu không, các anh sẽ bị tiêu diệt!”
“Hãy kéo cờ trắng! Mở cổng đồn! Ngồi lại tập
trung trước sân cờ chờ Quân Giải Phóng vào tiếp thu! Hàng sống! Chống chết!”
“Tất cả các chiến sĩ đầu hàng sẽ được đối xử tử tế và
phong danh hiệu anh hùng! Hãy quay súng bắn chết tên chỉ huy rồi mở cổng trại
đầu hàng ngay!”
Mỗi lần pháo truyền đơn, có ít nhất 4 khẩu 82 ly nhả đạn từ hai vị
trí chính Bắc và chính Tây. Truyền đơn đã phủ đầy mặt đất từ trung tâm trại, ra
tới hàng rào ngoài. Truyền đơn rải khắp nơi, trắng xóa!
Tôi biết có vài người lén cất kín trong túi mấy tờ truyền đơn
của địch, nhưng tôi cứ lơ đi như không thấy!
Hầu như đêm nào tôi cũng chỉ chợp mắt được vài chục phút. Ði đâu
tôi cũng phải dẫn theo Thiếu úy Phước và một toán cận vệ.
Tôi không sợ trong đồn có nội tuyến, nhưng tôi sợ những tờ truyền
đơn làm tinh thần người lính hoang mang. Cái đói và cái sợ có thể làm cho con
người ta mất lòng tin mà làm bậy.
Một buổi tối Thiếu úy Phước thì thầm,
-Thái Sơn ơi! Có ông Thượng sĩ người Thượng vừa dẫn
hai thằng lính chui rào trốn đi rồi!
Ông Thượng sĩ Y Ban Nier và hai anh lính người Kinh của Ðại đội
1/82 đã theo đường giao thông hào nơi cổng Bắc, chui ra khỏi rào tìm đường ra
Quận Phú-Nhơn.
Ba ngày sau toán tuần tra cổng Bắc phát giác xác ông Thượng sĩ Ban
và hai anh lính đã bị Việt-Cộng bắn chết ở đâu đó rồi bị kéo về phơi trên con
dốc dẫn vào vườn rau để đe dọa những người còn tử thủ trong căn cứ.
Có thể trên đường trốn chạy, toán ba người lính đào ngũ này đã bị
Việt-Cộng phát giác rồi bắn chết.
(xem tiếp kỳ tới)
December 14th, 2019
Trận Pleime năm 1974 (kỳ 8)
Kỳ trước:Hai tiểu đoàn của Trung đoàn 53 Bộ binh
tiếp viện cho Pleime đã bị đánh tả tơi. Đả viện thành công, nhưng công đồn thì
chưa! Tiểu đoàn 82 Biệt động quân dưới tay Thiếu tá Vương Mộng Long vẫn trụ
được và địch bắt đầu tung truyền đơn chiêu dụ đầu hàng lẫn hăm dọa.
Pleime đang trong cơn tuyệt vọng…
Nhiều kỳ – kỳ 8
Mưa kéo dài nhiều ngày, giao thông hào thành những con suối, nước
thoát về hai hướng Bắc và Nam, vô tình những đường thoát nước trở thành những
con đường hầm trơn bóng chui qua lớp rào kẽm gai. Nơi sâu nhứt có thể cao
hơn một đầu, một với của người đứng thẳng. Người từ trong chui ra
được thì chắc chắn Việt-Cộng cũng có thể theo đường này mà vào được.
Tôi vội bắt ông Thiếu úy Hoàng cho người đánh rối từng chùm thép
gai rồi thả trên đường hầm, sau đó gài thêm lựu đạn và bẫy sáng để chống Ðặc
Công.
Sợ chuyện này làm tinh thần anh em bị dao động, tôi phải ra lệnh
cho Trung úy Minh và ban truyền tin kín miệng.
Ngay sau đó lại xảy ra chuyện toán tuần tra cổng Nam do Binh nhì
tên là Thêm dẫn đầu đã ra đi mà không trở về. Có lẽ ba người này đã nhân cơ hội
được ra khỏi rào mà chạy trốn luôn.
Thế là từ hôm đó, tôi phải cho viễn thám thay phiên đảm nhiệm công
tác tuần tra, thay vì người của các đại đội.
o O o
Giá trị của một người lính…
Từ khi Pleime bị cô lập với thế giới bên ngoài, cứ đúng lúc rạng
đông thì kẻng báo động lại khua vang báo cho mọi người biết đã đến giờ chui vào
hàm ếch.
Tin A 2 truyền đi cho tôi biết, các đơn vị pháo của Việt Cộng được
lệnh pháo hợp đồng vào trại mỗi ngày hai lần, lần đầu diễn ra lúc 6 giờ sáng,
giờ Hà-Nội, buổi chiều sẽ đánh hợp đồng vào lúc 6 giờ chiều. Giờ Hà-Nội đi sớm
hơn giờ Sài-Gòn một tiếng.
Sáng 16 tháng 8 cũng như mọi ngày, cũng đúng 6 giờ sáng Hà-Nội,
nhưng lại là 5 giờ sáng giờ Sài-Gòn, trận pháo rạng đông mở màn. Ðặc biệt là
hàng trăm trái cối 120 ly địch sử dụng sáng hôm đó toàn là loại “delay” nổ
chậm.
Mỗi lúc địch bắn đạn “delay” tôi đều leo lên lô cốt xem mặt hướng
Tây có động tĩnh gì không? Tôi đứng chân trong chân ngoài ở tầng cao nhứt của
pháo đài.
Ðất đá bung lên từ chỗ đạn cối chui xuống văng cao hàng chục mét;
đất đỏ rơi tung toé trên nóc nhà, trên sân cờ.
Tôi có hai kho đạn đại bác 105 ly và bốn kho đạn dự trữ đủ loại.
Một vài viên cối 120 ly nổ chậm rơi trúng kho đạn số 2, ngoài bờ đất sát bên
Câu Lạc Bộ, thế là kho đạn này phát nổ!
Ðạn nhỏ cháy thì kêu “Lép! Bép! Lép! Bép!…”
Ðạn 106 ly thì nổ “Ùng! Ùng!…” rồi bay tít lên
cao, lúc rớt xuống gây tiếng gió rít “Xèo! Xèo! Vèo! Vèo!…” rợn
tóc gáy.
Sợ mảnh đạn cắt đứt đầu, tôi chui vào hầm truyền tin của Trung úy
Nguyễn Công Minh.
Chuông điện thoại của Ðại đội 3/82 reo khẩn cấp. Thiếu úy
Nguyễn Văn Hổ, đại đội phó 3/82 sụt sịt vài giây rồi khóc òa lên,
– Thái Sơn ơi! Anh Việt chết rồi!
Tôi nghe tiếng chú Hổ mà bỗng thấy ù cả hai tai,
– Cái gì? Ai chết? Nói lại đi!
– Dạ Thiếu úy Việt bị pháo trúng hầm, anh ấy chết cùng với người
lính mang máy PRC 25!
Tôi lội xuống giao thông hào, giao thông hào ngập nước tới thắt
lưng. Nước mưa đỏ ngòm và quánh lại như bùn. Ðất sạt lở ở những đoạn
giao thông hào trúng đạn nổ chậm đã thành những hố sâu như những cái giếng.
Cái hầm chứa hai thầy trò Thiếu úy Phạm Ðại Việt và anh
Binh 1 Vy Văn Trai, hiệu thính viên máy PRC 25 đã bị một viên 120 ly đánh sập.
Hai thầy trò Việt và Trai nằm chết bên nhau. Hai Biệt
Ðộng Quân này chết không dấu vết, họ bị chết tức do sức pháo nổ.
Mắt chú Việt và mắt chú Trai còn mở trừng trừng, tôi vuốt mắt cho
chú Việt, rồi vuốt mắt cho chú Trai.
Bốn tháng trước Thiếu úy Phạm Ðại Việt là đại đội phó của Thiếu úy
Phiến. Ngày Căn cứ 711 bị địch tràn ngập, Thiếu úy Phiến chết trên đường rút
lui, người mang máy truyền tin của chú Phiến là Binh 2 Y Don Nier rất buồn và
có vẻ mất tinh thần.
Sau khi tôi đề cử Thiếu úy Phạm Ðại Việt giữ chức đại đội trưởng
Ðại đội 3/82 thì tôi mang Binh 2 Y Don Nier lên bộ chỉ huy tiểu đoàn để mang
máy PRC 25 cho tôi.
Binh 1 Vy Văn Trai được Thiếu úy Việt cho giữ chức hiệu thính viên
đại đội.
Vy Văn Trai còn một người em họ là Vy Văn Trung ở cùng đơn vị. Hai
anh em nhà họ Vy là người Nùng, mới tới Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân trong đợt
bổ sung quân số cuối tháng Tư 1974 vừa rồi.
Những chiến binh người Nùng, người Thái lúc nào cũng là những cái
gương can đảm và thiện chiến bậc nhứt của tiểu đoàn này.
Phạm Ðại Việt và Vy Văn Trai là người thứ 23 và 24 chết còn thấy
xác, được đồng đội bọc trong poncho và chôn trong khu đất trống sau nhà bếp của
tiểu đoàn.
Như thế là, chỉ trong vòng bốn tháng, Ðại đội 3/82 đã có hai sĩ
quan đại đội trưởng tử trận.
Nhớ lại, sau trận đánh giành giựt Căn cứ 711 hồi tháng
Tư, tôi đã đề nghị thăng cấp trung úy tại mặt trận cho Thiếu úy Phạm Ðại Việt,
nhưng Ðại tá Chỉ Huy Trưởng Biệt Ðộng Quân/ Quân Khu 2 đã không chấp thuận.
Kỳ này không cần chữ ký với lời xác nhận công lao của thượng cấp,
người sĩ quan đại đội trưởng giỏi nhất của tôi trong trận này đã đương nhiên
được lên trung úy, nhưng là “Cố Trung úy.”
Ai mà không biết? Với người chỉ huy ngồi trên tàu bay, hay trong
hầm trú kiên cố ngoài Pleiku thì “Tử thủ!” dễ òm! Dễ như ta
vừa mở miệng tợp cạn một ly rượu cay.
Nhưng ở tiền đồn Pleime thời gian này thì “Tử thủ!” có
nghĩa là bất cứ giây phút nào mình cũng sẵn sàng nhắm mắt để đồng ngũ quấn cho
mình một chiếc poncho rồi đem thân xác mình chôn trong mảnh đất sau nhà bếp.
Cơ hội được “Tổ Quốc Ghi Ơn” dành cho tất
cả mọi người, bất kể đó là Thiếu tá hiện dịch Vương Mộng Long, Chuẩn úy trừ bị
Phan Quốc Thiều hay Binh nhì Vy Văn Trung.
Hành trang mang theo của người nằm xuống vỏn vẹn một tấm thẻ bài
ghi họ tên, số quân và loại máu. Rồi thời gian đi qua, chỉ có người thân, kẻ
thuộc và bạn bè còn nhớ tới mình thôi.
Gần mười năm lăn lộn trên chiến trường, máu tôi đã nhiều lần đổ
xuống đất quê hương, thuộc cấp của tôi giờ này có nhiều người còn chôn xác ở
Dak Tô, Chư Pa, Sé San, Yaly, Chư Prong.
Anh em chúng tôi chiến đấu và sẵn sàng chết vì dân, vì nước, chúng
tôi không chiến đấu vì mong được tiến chức, thăng quan.
Chúng tôi không đến nỗi ngây thơ mà tin vào những câu hứa hẹn suông
hay những lời “khích tướng” của thượng cấp.
Chúng tôi quan niệm rằng:
“Giá trị của một người lính không thể căn cứ vào
những gì mà họ được cấp trên ban phát cho, mà giá trị đích thực của mỗi chiến
binh chính là những gì mà anh ta đã cống hiến cho tổ quốc.”
Bởi vậy, ‘Đừng đem lon lá luận anh hùng!”
20200914 Pleime74 41o O o
Sống chết cùng nhau cho trọn nghĩa thầy trò!
Có thể nói, thời gian kế tiếp sau khi hai tiểu đoàn của Trung Ðoàn
53 Bộ Binh bị đánh lui thì Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân bước vào giai đoạn “So
găng tay đôi” với các trung đoàn chủ lực của Sư Ðoàn 320A Cộng
Sản Bắc-Việt.
Nhìn vào, ai cũng thấy màn so găng này chẳng cân xứng chút nào!
Chúng tôi ví như một võ sĩ hạng nhẹ quyết tử với những đối thủ loại
siêu nặng.
Giống như một chú tí hon bị những thằng khổng lồ luân phiên tấn
công.
Cũng một chiến trường mang tên Pleime, mà chín năm trước đây, liên
quân Việt Mỹ phải vất vả lắm mới chiến thắng.
Ngày đó, quân Mỹ Việt được yểm trợ bởi hàng trăm chiến đấu cơ của
Hạm Ðội 7, hàng trăm trực thăng võ trang, hàng chục pháo đài bay B52, hàng trăm
chiến xa, chưa kể hàng chục nghìn quả đạn pháo đủ loại bắn T.O.T bất cứ chỗ
nào. (T.O.T = Time On Target = Bắn từ nhiều vị trí để đạn rơi cùng giờ
trên một mục tiêu định trước.)
Gìờ đây, cũng ở Pleime, tôi đang đối diện với một lực lượng địch
mạnh hơn nhiều so với những đơn vị địch tham chiến chín năm trước.
Ðịch đông hơn tôi cả chục lần, lại có đủ loại pháo binh nặng, nhẹ,
cùng với chiến xa và phòng không tối tân.
Trong khi đó, tôi chỉ có hai khẩu 105 ly sắp hết đạn, bốn khẩu 155
ly của quân bạn ở tít mù xa, yểm trợ hết tầm mà vẫn còn cách Pleime gần năm cây
số!
Không yểm lại quá giới hạn. Ngày nào tôi cũng gửi đơn xin không
quân, nhưng chẳng thấy chiếc máy bay nào bén mảng trên vùng.
Chỉ tới đêm mới nghe “Ì ầm! Ì ầm!” vọng về do
tiếng bom nổ trên những box 1x1km đâu đó trong vùng Tây Bắc Pleime.
Tôi biết tường tận vị trí nào địch có thể tập trung, khu vực nào
địch sẽ dàn quân, nên tôi đã gửi đi nhiều đơn xin oanh tạc chiến lược ô vuông
1x1km. Nhưng những đơn này đều bị bác bỏ.
Muốn đánh những phi tuần chiến lược, thì yêu cầu của các đơn vị cấp
lữ đoàn trở lên mới được cứu xét, còn đơn xin của các cấp thấp như liên đoàn
hay tiểu đoàn không có giá trị.
Tôi đã dùng tới gần một ngàn viên cối 60 ly để đánh rào cản quanh
trại Pleime này kể từ ngày đầu bị cô lập.
Trong hầm chứa đạn cối 60 ly của Mỹ trước đây là những thùng gỗ
chất cao nghều nghệu, nay chỉ còn vài chục thùng. Hai khẩu súng cối 60 ly đã
gãy kim hỏa.
Tôi đang dùng hai khẩu còn lại để sống còn. Nếu địch tấn công thì
cứ yếu tố 45 độ cao, tầm xa 150 mét thuốc bồi không (0), góc quay một vòng một
trái, bắn cầm chừng.
Hai khẩu súng 106 ly và 81 ly sắp hết đạn nên được đặt trong tình trạng
cố định ưu tiên nhắm vào hai cao điểm 509 và Chư Hô, sẵn sàng đánh trả mỗi khi
75 ly và 12.7 ly của địch ló mòi.
Trường hợp bất đắc dĩ tôi mới sử dụng cối 81 ly
để hỗ trợ cho các cuộc phản công.
Trên máy truyền tin, không còn ai hỏi thăm chúng tôi nữa, có lẽ cấp
chỉ huy của chúng tôi đã mệt mỏi lắm rồi?
Tôi nghĩ rằng mọi nỗ lực tiếp cứu cho tôi đã bị đình chỉ. Giờ này
tôi chỉ trông vào chính sức mình, kéo dài được ngày nào hay ngày ấy. Chúng tôi
bước vào giai đoạn chiến đấu trong tuyệt vọng.
Mưa hoài, nên nước uống lúc nào cũng dư thừa, chưa kể tới cái hầm
chứa nước mà tôi đã cho xây giữa sân, có thể cung cấp nước cho toàn đơn vị
trong thời gian ba, bốn tháng. Chúng tôi không bị khát, nhưng bắt đầu bị đói.
Kho gạo cháy rồi, để tiết kiệm, chúng tôi bắt đầu ăn cháo với rau
tàu bay luộc. Ðêm nào cũng có tiếng bẫy sập. Các anh Biệt Ðộng Quân đang thèm
thịt, nên có vẻ rất niềm nở hân hoan đón chào các chú chuột đồng bụng cũng xẹp
lép vì chẳng có gì để ăn.
Giao thông hào ngập nước, nhưng muốn sống, những người lính
biên phòng đành ngâm mình trong giao thông hào để tránh pháo.
Tôi thấy da chân, da đùi, da bụng của tôi như đang rữa ra, như lớp
bánh tráng mỏng bị thấm nước.
Ban ngày mắc bận đánh nhau, trầm mình trong nước, nên quên đi cảm
giác khó chịu; ban đêm sau khi thay cái quần lót, mới thấy ngứa ngáy tới điên
khùng luôn!
Ðêm đêm, khi những đợt pháo kích của địch tạm
ngưng, tôi thường vào trong bộ chỉ huy tiểu đoàn ghé thăm thương binh. Khu
vực xung quanh trung tâm hành quân và bệnh xá không có giao thông hào nên không
bị ngập nước.
Mặc dù những người bị thương nhẹ đã tự nguyện ra trú ẩn trong các
pháo đài, trong hầm vẫn còn cả chục thương binh nặng nằm ngồi la liệt trên sàn
đất.
Thuộc cấp của tôi, người gãy tay, người thủng bụng, người đui
mắt, đang chờ tôi vào thăm.
Kho gạo và kho thuốc bị cháy, hết thuốc, hết rượu cồn tẩy trùng.
Nhiều vết thương đã có dòi. Trung sĩ Chiến Quân y phải lấy nước đun
sôi để nguội thay rượu cồn rửa vết thương cho đồng đội.
Tôi tiếp tay Y tá Chiến rửa vết thương cho một anh lính bị thương
mù hai mắt.
Tôi nghe anh thương binh mù thút thít,
– Cám ơn Thái Sơn!
Những dòng nước mắt pha với máu tuôn xuống má anh ta, làm ướt mu bàn
tay tôi…
Người lính tiếp tục khóc,
– Xin lỗi Thái Sơn, em bị thương rồi! Em không còn
thấy đường để bắn! Em không làm được gì
có thể giúp sức cho Thái Sơn giữ đồn nữa rồi. Thái Sơn đừng
trách em nhé!
***
Lời nói một thương binh BDQ đã nói lên tinh thần quyết tử của đơn vị nầy, đây là điểm son trung trinh, tiết liệt, oai vủ, hào hùng của một quân nhân BDQ mà chỉ có những cấp chỉ huy trực tiếp của họ mới có thể chứng nhận được. Nó đập tan hết mọi tuyên truyền xảo quyệt của cả hai phía CSBV và truyền thông cánh tả Hoa Kỳ, ngoài ra còn chứng tỏ cho ta thấy tình huynh đệ chi binh cật ruột giửa cấp chỉ huy và người lính thuộc cấp. "Tình thân thủ túc, cật ruột chi binh"
***
Tôi không ngờ trong hoàn cảnh ấy tai tôi lại được nghe câu nói
đó từ miệng một phế binh. Tôi dịu giọng an ủi người em,
– Em gắng chịu đau! Rồi sẽ có trực thăng tải
thương cho em! Em yên tâm! Mình sẽ giữ được đồn mà! Việt-Cộng không
làm gì được mình đâu! Thái Sơn còn sống thì Pleime sẽ không thể mất! Nếu
như anh em mình không giữ được Pleime thì chúng mình sẽ chết
theo Pleime!
Thời gian mà Tướng Tư lệnh Quân Ðoàn II quy định cho tôi đứng vững
đã vượt quá, tôi có thể bỏ đồn nếu thấy không thể kéo dài sự chịu đựng, nhưng
tôi không thể làm vậy.
***
Tướng Toàn đã nợ Thái Sơn Vương Mộng Long cập
lon Trung Tá.
***
Tôi đã không nghe lệnh Tướng Toàn, vì làm như thế, chỉ những quân
nhân lành lặn hy vọng sống sót. Tôi còn phải nghĩ tới những thương binh. Từ
Pleime ra tới Phú Nhơn đường xa gần hai chục cây số, lại bị địch chốt giữ. Nếu
phải rút chạy, trên đường đi, chắc chắn sẽ phải đánh nhau.
Trong tình thế đó, làm sao tôi có thể mang vác theo mình gần hai
chục đứa em đui mù, què quặt? Chẳng lẽ đành lòng bỏ chúng nó mà chạy lấy thân?
Ðể rồi, nếu thoát chết kỳ này cũng mãi mang trong lòng một vết thương.
Chi bằng anh em ta cứ liều thân, sống chết cùng nhau
cho trọn nghĩa thầy trò!
Tôi nghĩ trời đã an bài sẵn là số mệnh của tôi, sống hay chết đều
tùy theo vận mệnh của cái tiền đồn mang tên Pleime này!
Hôm sau trời mưa như bão, trong hầm chỉ huy, nước lên tới bụng, tôi
lấy một cuộn băng mới tinh, đưa vào máy cassette, ghi lại những lời trăn trối
của 5 thày trò có mặt lúc đó. Cuộn băng ghi lại những lời sau:
1) Tôi, Thiếu tá hiện dịch Vương Mộng Long Tiểu Ðoàn Trưởng
Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân xin thề sẽ chết theo Pleime nếu Pleime thất thủ.
2) Tôi, Trung úy trừ bị Nguyễn Công Minh sĩ quan Truyền Tin
của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân xin thề sẽ chết theo Pleime nếu Pleime thất
thủ.
3) Tôi, Thiếu úy trừ bị Trần Văn Phước trưởng Ban 2 của Tiểu
Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân xin thề sẽ chết theo Pleime nếu Pleime thất thủ.
4) Tôi, Trung sĩ Nguyễn Chi trưởng toán Viễn Thám 823 của
Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân xin thề sẽ chết theo Pleime nếu Pleime thất thủ.
5) Tôi, Binh Nhì Y Don Nier hiệu thính viên của Tiểu Ðoàn 82
Biệt Ðộng Quân xin thề sẽ chết theo Pleime nếu Pleime thất thủ.
Cuộn băng ghi âm này tồn tại cho tới ngày Việt-Cộng tràn ngập thành
phố Ban Mê Thuột thì gia đình tôi mới thiêu hủy nó đi.
(xem tiếp kỳ tới)
https://bachvietnhan.blogspot.com/2020/09/20200905-pleime-1974-thai-son-vuong.html
https://bachvietnhan.blogspot.com/2020/09/20200912-tran-pleime-nam-1974-ky-3.html
https://bachvietnhan.blogspot.com/2020/09/20200913-tran-pleime-nam-1974-ky-5.html
https://bachvietnhan.blogspot.com/2020/09/20200914-tran-pleime-nam-1974-ky-7.html
https://bachvietnhan.blogspot.com/2020/09/20200915-tran-pleime-nam-1974-ky-9.html
https://bachvietnhan.blogspot.com/2020/09/20200917-tran-pleime-nam-1974-ky-cuoi.html
No comments:
Post a Comment