20200905 Pleime 1974 Thai Son Vuong Mong Long
***
Vào cuối năm 2019, trùng hợp với bệnh dịch CCP
virus từ China hoành hành thế giới, Thái Sơn Vương Mộng Long Tiểu Đoàn
trưởng 82 Biệt Động Quân đã cho lên internet tài liệu trận chiến Pleime
kéo dài 33 ngày trong năm 1974 do chính tác giả tham gia và chỉ huy.
Với những người lính miền Nam Việt Nam Cộng
Hòa, ngày 30 tháng 04 năm 1975 là ngày uất hận vì họ không phải là
những người lính không có tinh thần chiến đấu để phải dể dàng thua
trận, đầu hàng một đoàn quân ô hợp của cộng sản miền Bắc, nếu không
có lệnh đầu hàng quái ác của tổng thống 1 ngày Dương Văn Minh. Trong
tài liệu của Thái Sơn Vương Mộng Long đã cho ta thấy điều đó, cùng
với những cái chết tuẩn tiết, tức tửi của những người lính Nhảy
Dù, những sĩ quan miền Nam mà đồng bào đã biết.
Nhận thấy tài liệu quân sử trân qúy nầy rất cần thiết cho những thế hệ trẻ sau nầy nhưng lại thiếu những bản đồ hành quân diện địa trong thời gian 1970's, cho nên chúng tôi mạo muội thêm vào những bản đồ hành quân của Hoa Kỳ trong thập niên 70's cùng những đường nối kết để độc gỉa trẻ sau nầy có thể kiểm chứng và hình dung được những giây phút hào hùng, oai dũng của những người lính trận miền Nam Việt Nam Cộng Hòa trên những địa danh xa lạ, những diển biến trận địa trong không gian và thời gian 1970's. Hơn nửa gần đây trên Youtube, Wikipedia bộ chính trị tuyên truyền của cộng sản Việt Nam, China đã gian xảo đưa lên những tài liệu không thật về cuộc chiến để tiếp tay với hệ thống truyền thông thiên tả Hoa Kỳ sĩ nhục những người lính đã tận tụy hy sinh thân xác, sinh mạng của chính mình cho miền Nam Việt Nam được yên ổn hơn 20 năm.
Tài liệu bạch hóa của Henry Kissinger thú nhận
rằng Hoa Kỳ đã trói tay quân lực Việt Nam Cộng Hòa từ khởi đầu cuộc
chiến mải cho đến khi hiệp định Paris 1973 được ký kết họ mới để cho
quân lực Việt Nam Cộng Hòa tự do làm chủ cuộc chiến sau khi họ đã
rút quân và cắt đứt viện trợ cho miền Nam. Nghĩa là họ trắng trợn
bán đứng miền Nam cho cộng sản Việt và China.
***
SECRETARY OF STATE
HENRY KISSINGER
LESSONS OF VIETNAM -
MAY 12, 1975
https://thebattleofkontum.com/extras/kissinger.html
https://bachvietnhan.blogspot.com/2020/09/20200908-bai-hoc-viet-nam.html
http://www.nexus.net/~911gfx/vietnam/maps/nd48-12/nd48_12d.html Chư Hô Chư
Prong Đức Cơ Pleime
http://legacy.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/vietnam_index.html Bản
đồ VN từng khu vực
http://legacy.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/xuong_kuang-6536-2.pdf Bản đồ Pleime
http://legacy.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/tieu_teo-6535-1.pdf Tiều
Teo
https://thebattleofkontum.com/extras/RVN.pdf Địa danh, căn cứ, tọa độ.
http://www.generalhieu.com/pleime-2.htm
13° 37' 0" N, 107° 55' 0" E
Thái Sơn Vương Mộng Long
https://baotreonline.com/chuyen-muc/van-hoc/hoi-ky-k20
https://baotreonline.com/van-hoc/hoi-ky-k20/tran-pleime-nam-1974.baotre
https://baotreonline.com/van-hoc/hoi-ky-k20/tran-pleime-nam-1974-ky-2.baotre
https://baotreonline.com/van-hoc/hoi-ky-k20/tran-pleime-nam-1974-ky-3.baotre
https://baotreonline.com/van-hoc/hoi-ky-k20/tran-pleime-nam-1974-ky-4.baotre
https://baotreonline.com/van-hoc/hoi-ky-k20/tran-pleime-nam-1974-ky-5.baotre
https://baotreonline.com/van-hoc/hoi-ky-k20/tran-pleime-nam-1974-ky-6.baotre
https://baotreonline.com/van-hoc/hoi-ky-k20/tran-pleime-nam-1974-ky-7.baotre
https://baotreonline.com/van-hoc/hoi-ky-k20/tran-pleime-nam-1974-ky-7.baotre
https://baotreonline.com/van-hoc/hoi-ky-k20/tran-pleime-nam-1974-ky-8.baotre
https://baotreonline.com/van-hoc/hoi-ky-k20/tran-pleime-nam-1974-ky-9.baotre
https://baotreonline.com/van-hoc/hoi-ky-k20/tran-pleime-nam-1974-ky-10.baotre
https://baotreonline.com/van-hoc/hoi-ky-k20/tran-pleime-nam-1974-ky-cuoi.baotre
January 17th, 2020
Trận Pleime năm 1974 (kỳ 1)
20200911 Pleime74 00Vương
Mộng Long huấn luyện đơn vị
Nhiều
kỳ – kỳ 1
Qua
hai chiến dịch trường kỳ và đẫm máu của những năm 1965 và 1974, địa danh Pleime
đã trở thành huyền thoại. Tôi không có mặt trong trận Pleime năm 1965. Nhưng
năm 1974 thì chính tôi, Thiếu tá Vương Mộng Long, Tiểu Ðoàn Trưởng Tiểu Ðoàn 82
Biệt Ðộng Quân Biên Phòng là người đã cầm vận mệnh Pleime
trong suốt 33 ngày đêm sinh tử.
Giờ
đây tôi sẽ kể lại toàn bộ diễn tiến chiến dịch này để lớp trẻ hậu sinh biết
ngày ấy những chiến binh của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân đã chiến đấu như thế
nào, và vì sao tên Pleime đã có thêm một lần được ghi vào chiến sử.
oOo
Pleime lên tiếng gọi…
20200911 Pleime74 01http://www.nexus.net/~911gfx/vietnam/maps/nd48-12/nd48_12d.html
Pleime 1974
20200911 Pleime74 02http://legacy.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/xuong_kuang-6536-2.pdf
http://legacy.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/vietnam_index.html
Vào
một đêm cuối tháng 11 năm 1965 nơi Vũ Ðình Trường Lê Lợi của Trường Võ Bị
Quốc-Gia Việt-Nam trên Ðà-Lạt, lần đầu tôi nghe biết cái tên “Pleime”
Hôm
đó chúng tôi đang tập quỳ gối gắn lon thiếu úy hiện dịch để chuẩn
bị lên đường ra chiến trường.
Bỗng
từ xa, bên kia núi, có tiếng âm vang của bom đạn dội về. Thiếu
tá Nguyễn Bá Thịnh, Liên Ðoàn Trưởng Liên Ðoàn Sinh Viên Sĩ quan
lớn tiếng giải thích:
-Pleime
đang đánh lớn. Tiếng ì ầm vừa rồi là tiếng B-52 đang “trải thảm” trên
thung lũng Ia Drang đó!
Dù
sau này đã dạn dày chinh chiến, đã biết rằng nếu đứng trên đồi 1515
Ðà-Lạt, dù có đôi tai thiên lý nhĩ, chúng tôi cũng không thể nào nghe được
tiếng bom nổ trong thung lũng Ia Drang, Pleiku; nhưng từ đó, địa
danh “Pleime” đã ghim sâu trong tâm trí tôi.
Cuối
năm 1966 tôi từ Vùng 1 Chiến Thuật thuyên chuyển vào Pleiku.
Sau
đó tôi gắn bó với Cao Nguyên mưa bùn, nắng bụi gần mười năm trời, tôi đã
thành một trong những Thổ Ðịa của vùng này.
Cao
Nguyên Trung Phần là nơi có nhiều sắc dân thiểu số sinh sống. Mỗi sắc dân gọi
nơi cư trú của họ với âm khác nhau; vì vậy làng của người Lào là “Bản”, làng
của người Rhadé là “Buôn”; làng của người Jharai lại là “Plei” hay “Trà”.
Tên
Pleime mà người ta thường gọi, chính thực là một danh từ ghép với hai chữ
“Plei” và “Mé” theo tiếng Thượng Jharai. Vì vậy, “Pleime” hay “Plei Me” cũng
chỉ là một. Pleime nằm cách Pleiku hơn 30 cây số về hướng Tây Nam.
Nhân
một chuyến quá giang tàu bay chở thư của Mỹ, tôi đặt chân tới Trại Pleime
lần đầu khi căn cứ này vừa được di chuyển từ chân núi Chư Hô về Ðồi
403 trên Tỉnh lộ 6C.
Pleine 74
20200911 Pleime74 03http://legacy.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/xuong_kuang-6536-2.pdf
http://legacy.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/vietnam_index.html
Trại
Pleime mới có hình lục giác với hệ thống tường đất cao hai thước bao quanh chỉ
huy sở. Còn Trại Pleime cũ thời 1965 có hình tam giác; trại đó đã bị phá đi rồi.
Old Pleime củ 1965
20200911 Pleime74 04https://lh5.googleusercontent.com/p/AF1QipOWCuqpKK4w265LVoAiO1_iTqhpPp4GCEMHCmFx=h720
Từ Noel năm 1973
tôi đã được lệnh vào Pleime thay thế Thiếu tá Nguyễn Ngọc Lân, vậy mà
cứ nhùng nhằng mãi, hai tháng sau tôi mới chính thức nhận chức Tiểu Ðoàn Trưởng
Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng dưới sự chứng kiến của Trung
tá Chính, Liên Ðoàn Phó Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân.
Tôi
trở thành người chỉ huy chính thức thứ bảy, và cũng là tiểu đoàn
trưởng sau cùng của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng.
Tôi
đã biết, theo lịch trình “Việt-Nam Hóa” thì cuối năm 1970
những chiến binh Dân Sự Chiến Ðấu của trại Pleime đã được cải
tuyển thành quân nhân chính quy trực thuộc Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân
Biên Phòng. Vậy mà hơn ba năm qua, với sáu lần thay đổi tiểu đoàn trưởng
mà đơn vị này vẫn chưa thoát ra khỏi cái cốt CIDG của nó (Civilian Irregular
Defense Group = Phòng Vệ Dân Sự = Dân Sự Chiến Ðấu).
Toàn cảnh khu vực trận địa Pleime 74.
20200911 Pleime74 05Vị trí Trại Pleime 1974 trên bản đồ Tây Nam Pleiku
20200911 Pleime74 06Chỉ
nhìn vào hình thức thôi, nó chẳng có vẻ gì là một đơn vị chính quy, chứ đừng
nói tới đó là một đơn vị trực thuộc lực lượng nòng cốt của Vùng 2.
Không
biết quân trang quân dụng của tiểu đoàn này đã bị thất thoát đi đâu mà đội ngũ
Biệt Ðộng Quân trước mắt tôi và Trung tá Chính lại ăn mặc như một đoàn
người ô hợp. Trừ ra những sĩ quan có quần áo rằn ri, các quân nhân khác
thì mang đủ thứ trang phục của Bộ Binh, Cảnh Sát Dã Chiến,
Thủy Quân Lục Chiến, Cán Bộ Xây Dựng Nông Thôn, áo 4 túi lẫn
với áo 2 túi, có người còn mặc cả đồ kaki vàng, chân mang dép Nhựt!
Ngay
sau ngày ký biên bản bàn giao, tôi bắt Thiếu úy Nghị, sĩ quan tiếp liệu của đơn
vị làm một phúc trình xin ứng trước quân trang bổ sung vì lý do hành quân.
Ông
Nghị là người rất giỏi ngoại giao, ông ta quen nhiều vị có quyền uy trong Bộ
Chỉ Huy Tiếp Vận 5 dưới Qui Nhơn, nên chỉ một tuần lễ sau, bộ mã của tiểu đoàn
tôi đã đổi khác ngay.
Khi
kiểm tra quân số bàn giao hiện diện, tôi mới té ngửa: Theo giấy tờ thì ngày đó
quân số thực hiện của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân là trên 400 người, nhưng
tới khi điểm danh đếm số thì lòi ra 92 quân nhân chỉ có tên mà không có
mặt!
Phải
một tuần lễ sau tôi mới truy cứu ra, trong số 92 ông lính vắng mặt
thì một nửa là lính kiểng, nửa kia là lính ma, có người đào ngũ đã
nửa năm nhưng chưa ngưng lương, chưa có báo thị tầm nã; có người biệt phái tới
tận Sài-Gòn để làm thợ mộc mà vẫn hưởng hàng tháng bốn nghìn đồng phụ cấp
hành quân.
Từ ngày mới ra trường,
nhận chức trung đội trưởng cho tới khi chỉ huy tiểu đoàn, tôi chưa từng đem một
người lính nào về làm công việc trong nhà tôi.
Tôi
quan niệm rằng, đem lính về làm việc nhà là một hành động ăn cắp công quỹ, lạm
dụng chức quyền.
Tôi
từ chối thẳng thừng mọi yêu cầu của thượng cấp khi các vị này muốn tôi cung ứng
cho họ một vài người giúp việc trong nhà dù chỉ là trong thời gian một hay hai
ngày thôi.
Tôi
nhất định không ký chứng nhận hành quân cho những anh lính kiểng, nên chỉ một
kỳ lãnh lương đi qua, không nhận được 4000 đồng phụ trội, những người này
tự động quay về trình diện.
Những
anh lính kiểng nào không về trình diện đều nhận được giấy báo cáo
vắng mặt bất hợp pháp; sau đó họ sẽ bị báo cáo đào ngũ. Ông quan to nào còn lưu
giữ những anh lính này sẽ đương nhiên can tội “tán trợ đào binh”
Một
tháng sau khi tôi vào Pleime thì những vị quan nào đang giữ người của Tiểu Ðoàn
82 Biệt Ðộng Quân để giúp việc trong nhà đều phải ngậm đắng nuốt cay mà
trả lại lính cho tôi.
Thế
rồi, những anh “Biệt Dạng Quân” dần dần lộ diện, theo nhau trở
về rừng, tiếp tục kiếp sống ngang tàng của Cọp, coi cái chết tựa lông hồng.
Tôi đã
không tiếc công sức, không nản lòng để chấn chỉnh đơn vị này. Cuối cùng
tôi đã thành công; chưa tới hai tháng sau, tất cả đã vào khuôn, vào phép.
Sau
này, từ một đơn vị vô danh tiểu tốt, Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng
Quân đã ngoi lên, nhanh chóng trở thành một tiểu đoàn lừng danh của
Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa.
Cũng
phải kể đến sự đóng góp công khó của các bạn trẻ, sĩ quan và hạ sĩ quan đầy
nhiệt huyết của tiểu đoàn đã tiếp tay tôi xây dựng đơn vị mỗi ngày mỗi tiến bộ
hơn. Nếu không có họ, tôi cũng đành thúc thủ.
Mỗi
khi nhắc tới Pleime 1974, thì trong lòng tôi lại dấy lên một cảm giác lâng
lâng, ngọt ngào, cùng những hình ảnh thân yêu theo nhau hiện về trong trí nhớ:
Phạm Ðại Việt, Nguyễn Công Minh, Phạm Văn Thủy, Nguyễn Văn Trâm, Trần Văn
Phước, Nguyễn Hữu Phước, Huỳnh Kim Hoàng, Lý Ngọc Châu, Trần Dân
Chủ, Trương Trọng Tài, Lê Ðình Khay, Phan Quốc Thiều, Lưu Ðức
Hoàn, Phạm Hoa, Nguyễn Văn Năng, Nông Văn Út,…vân vân.
Ðóng đồn
tức là chấp nhận đối đầu với địch quân bất cứ lúc nào. Xung
quanh đồn là rừng, xung quanh ta là địch. Tốt nhất là lúc nào ta cũng
phải ở trong tư thế sẵn sàng.
Với
kinh nghiệm của một người cầm quân đã nhiều năm, tôi biết chắc
chắn rằng:
“Tay
nghề của người lính tiên phong mà không chuyên, thì sự thất bại của một đơn vị
tác chiến coi như cầm chắc mỗi khi đối đầu với địch.”
Nói
ra thì nhiều người sẽ không tin, nhưng thực tế, tôi đã chứng kiến cái
cảnh xảy ra thường xuyên là, những tân binh mới ra trận lần đầu, nghe
súng nổ, thường nằm úp mặt xuống đất, chổng mông lên
trời, nhắm mắt bóp cò, đạn nối đuôi nhau, chẳng biết bay
về đâu. Có người khi đối diện địch quân thì đứng chết trân
không phản ứng được gì cả. Có người thấy địch thì quýnh quáng
quá, bắn cả vào chân của mình.
Muốn
nâng cao tay nghề của những người lính dưới quyền mình thì người chỉ huy phải
thường xuyên rèn luyện quân sự cho đàn em.
Những
quân nhân dưới quyền tôi hầu như đã quen với cái thông lệ tự huấn luyện
sau khi hành quân, nên không có ai than van hay phiền muộn vì chuyện này.
Ngay
khi nắm quyền chỉ huy Pleime, tôi liền cấp tốc lập chương trình huấn luyện
tại chỗ cho các đại đội.
Trong
kho của tiểu đoàn, đạn thặng dư không có giấy tờ kiểm kê do Mỹ để lại còn
cả đống. Số đạn tồn kho này đã cũ, nên thay vì đem ra thiêu hủy thì tôi lại sử
dụng cho công tác huấn luyện.
Tôi
đã đích thân dẫn từng trung đội ra bãi tập, rồi đứng giảng giải cho
từng người lính biết cách “bóp cò” khẩu súng của anh ta
làm sao vừa nhanh, vừa hiệu quả khi chạm trận; tôi bắt họ mở mắt cho
to, nhìn về phía địch, rồi cầm tay họ, chỉ cho họ kỹ thuật ghìm súng để
cho viên đạn bay cao tối đa là từ ngang cỡ đầu gối một người đứng
thẳng.
Bằng
cách đặt hai khẩu đại liên 30 trên giàn cao quá đầu người, quay nòng về hướng
núi bóp cò; rồi cho quân lính luân phiên nhau tập bò, tập chạy,
tập đi, tập nằm trước họng súng bắn ngược chiều. Ngày nào cũng nghe tiếng
đạn thật bắn ngược như đang đánh nhau, thét rồi lính hết nhát, hết sợ.
https://baotreonline.com/van-hoc/hoi-ky-k20/tran-pleime-nam-1974.baotre
November 2nd, 2019
Trận Pleime năm 1974 (kỳ 2)
Kỳ
trước: Hơn
3 năm và sau 6 lần thay thế Tiểu đoàn trưởng, đơn vị vẫn chưa thoát khỏi cái
cốt của một đơn vị Dân sự Chiến Đấu. Chính vị Tiểu Đoàn Trưởng Vương Mộng Long
đã thay da đổi thịt nó trở thành một Tiểu đoàn lừng lẫy nhất của QLVNCH.
Chính
vì có những buổi thực tập dã ngoại thường xuyên này mà những đơn vị dưới quyền
tôi hiếm có cảnh “nằm úp mặt xuống đất, chổng mông lên trời, siết ngón
tay trỏ, đạn vút lên mây” khi trực diện với địch quân.
Người
ta nói “văn ôn võ luyện” cũng đúng!
Công
tác chấn chỉnh và cải tổ đơn vị của tôi chưa hoàn
tất thì Sư Ðoàn 320A Cộng-Sản đã ra tay trước.
Giữa
tháng Tư năm 1974, một trận đánh đẫm máu và ác liệt đã xảy ra ở Căn cứ Hỏa Lực
711 khiến đài BBC mô tả trong một bài tường thuật: “Ðây là trận
đánh mà tổn thất của đôi bên được coi là cao nhất kể từ sau Hiệp Ðịnh
Paris”
Thế
rồi chiến tranh tiếp tục leo thang, Hiệp định Paris không còn hiệu lực, Việt
Cộng công khai tấn công lấn chiếm, mở rộng vùng kiểm soát. Tháng 5 năm
1974 chúng ngang nhiên đánh chiếm Dak Pek và Mang Buk giữa ban ngày,
mặc dù hai địa danh này hiện diện rành rành trên bản đồ đình
chiến là của Việt-Nam Cộng-Hòa, vậy mà Ủy-Hội Quốc-Tế cũng chỉ trơ mắt ngó
mà thôi. Hiển nhiên mục tiêu sắp tới của Cộng Quân chắc chắn sẽ là Pleime!
o
O o
Từ
ngày tiếp nhận Căn cứ Pleime, tôi đã bỏ ra rất nhiều công sức để tổ chức nội vi
căn cứ này thành một cứ điểm phòng thủ vững chắc.
Trên
mặt đất của trại Pleime đúng là một “Trận Ðồ” chằng chịt hàng rào kẽm gai và
giao thông hào. Hai cái cổng Bắc và Nam lại là nơi rào kỹ nhất. Từ dốc vườn
rau, vào tới trung tâm hành quân xa không tới hai trăm thước, vậy mà muốn đi
qua đoạn đường này cũng mất cả chục phút loanh quanh trong hàng rào gai dích
dắc.
Trại
Pleime có 6 cạnh, 6 góc, mỗi góc có một pháo đài kiên cố xây bằng xi măng cốt
sắt. Tôi đặt tên cho các pháo đài theo thứ tự 1 tới 6, theo chiều quay của kim
đồng hồ. Hướng Ðông là các pháo đài 1, 2, 3, hướng Tây là các pháo đài 4, 5, 6.
Sơ đồ phòng thủ trại Pleime tháng 7 năm 1974
20200911 Pleime74 07Sau
khi tôi dựng thêm hai lô cốt phụ nơi cổng Bắc và cổng Nam thì vòng đai trong
của trại này có 8 pháo đài kiên cố.
Bình
thường các quân nhân trong đồn chỉ cần nói họ đang ở gần pháo đài số mấy, người
nghe sẽ biết vị trí hiện tại của anh ta ngay.
Các
đại đội cũng được phân chia khu vực trách nhiệm cố định, họ sẽ quen với cảnh
vật hàng ngày trước mắt họ, nếu có gì khác lạ, họ sẽ nhận ra ngay.
Tôi
tiên đoán mặt Tây sẽ là hướng tấn công chính của địch, do đó tôi
cho dựng một cái hầm chỉ huy ngay giữa sân cờ. Từ đây, tôi có thể theo
giao thông hào mà di chuyển tới các Pháo đài 1 (Ðông Bắc), Pháo đài 6 (Tây
Bắc), Pháo đài 5 (Tây), và Pháo đài 4 (Tây Nam). Ông tiểu đoàn phó giữ Pháo đài
số 2, còn Pháo đài số 3 nằm ngay sát trung đội pháo binh nên Trung úy Nguyễn
Như, Trung đội trưởng pháo binh biên phòng, sẽ kiêm nhiệm chỉ huy cứ điểm
này. Trong hầm chỉ huy dã chiến có ban Truyền Tin của Trung úy Nguyễn Công Minh
và Binh nhì Y Don Nier, người mang máy nội bộ của tiểu đoàn trưởng.
Tôi
và Thiếu úy Trần Văn Phước, sĩ quan Ban 2 ở chung một hầm, cách hầm
chỉ huy vài mét về hướng hàng rào.
Vây
quanh căn hầm của tôi là ba cụm tam tam của ba toán viễn thám, mỗi toán trang
bị hai thùng lựu đạn M26 và một đại liên M60.
Những
ngày tình hình căng thẳng nhứt thì mặt đất chứa đầy mìn Claymore
phòng khi bị địch tràn ngập.
Suốt
thời gian xảy ra chiến dịch Pleime 1974, tôi đã phải đích thân chỉ huy, điều khiển
các điểm tác chiến, từng lô cốt, từng pháo đài, từng khẩu đội, vì nếu xảy ra
một hoạt động không ăn khớp có thể sẽ đưa tới thảm họa.
Chỉ cần mở được một cửa
khẩu, Ðặc-Công Việt-Cộng có thể đánh thẳng vào trung thâm. Nếu Việt-Cộng vào
được trung thâm, triển khai được giai đoạn “Hoa nở trong lòng địch” là
ta mất đồn! (Trung thâm: Danh từ của Ðặc-Công Việt-Cộng dùng để chỉ nơi đặt chỉ
huy sở hay vị trí đầu não của ta)- (Hoa nở trong lòng địch: Từ trong đánh ra
theo nhiều hướng. Ðây là giai đoạn cuối cùng trong một trận đánh Ðặc-Công của
Việt-Cộng)
Tôi
làm việc bằng điện thoại, khẩu lệnh, thủ lệnh và máy truyền tin nội bộ. Vì thế
mà nhiều khi, liên đoàn muốn ra lệnh cho tôi, họ phải gọi qua trung tâm hành
quân của trại, từ đây sĩ quan Ban 3 của tôi sẽ chuyển lại cho tôi.
Trung
tâm hành quân tiểu đoàn vì có cái anten cao do Mỹ để lại nên trở
thành nơi độc nhứt có thể liên lạc vô tuyến với Căn cứ 711 và đài
tiếp vận Hàm Rồng.
Trung
tâm hành quân là một lô cốt kiên cố, xây bằng xi măng, cốt sắt, thêm hai tầng
nóc lợp bằng bao cát và vỉ sắt tổ ong chống đạn nổ chậm. Ngồi trong
hầm, đôi khi không nghe được tiếng đạn cối nổ ở ngoài sân cờ.
Sát
cạnh trung tâm hành quân là một hầm lộ thiên hình tròn xây bằng bao cát, trong
vòng tròn là mũi tên lửa chỉ điểm mục tiêu.
Mũi
tên lửa này được đốt bằng dầu Diesel thắp sáng suốt đêm, nó có thể quay 360 độ
một cách dễ dàng, đầu nhọn của nó luôn luôn quay về hướng địch.
Nếu
không có nhu cầu tác xạ, thì trước khi rời vùng, để giải tỏa bom đạn,
máy bay Hỏa Long hay Gunship cứ việc phóng hỏa tiễn hay bắn phá cách xa Pleime
3 cây số theo hướng mũi tên.
Tiểu
đội Lao Công Chiến Trường đã hoàn thành những công trình này dưới sự chỉ huy
của Thiếu úy Huỳnh Kim Hoàng đại đội trưởng đại đội chỉ huy.
Tiểu
đoàn 82 có một tiểu đội Lao Công Chiến Trường. Họ là những cựu quân nhân
can tội khác nhau nên bị đày ra tiền tuyến làm những công việc hiểm nguy và cực
nhọc.
Tôi
đặc biệt lưu ý tới những người này, bố trí cho họ vào từng vị trí thích hợp với
khả năng của mỗi người. Dưới bàn tay tôi, những tội nhân đó đã trở về với vị
trí chuyên môn của họ, họ trở thành xạ thủ đại liên, xạ thủ cối 81 ly, trinh
sát viên, tiểu đội trưởng, toán trưởng toán thám sát, hoặc chuyên viên sửa chữa
vũ khí.
Ðể
tất cả binh sĩ chú tâm vào công tác tổ chức phòng thủ, tôi ra lệnh cho tất cả
thân nhân gia đình binh sĩ phải rời Pleime theo chuyến tiếp tế thường kỳ ngay
sau ngày phát lương cuối tháng 6 năm 1974. Ở Pleiku tôi vừa tiếp nhận doanh
trại của Ðại đội 2 Quân Y Biệt Ðộng Quân, doanh trại này rất đầy đủ tiện nghi,
nên những anh em có gia đình không phải lo lắng chuyện nơi ăn chốn ở của vợ con
họ.
Tôi
là dân Tình Báo Tác Chiến, nên ngày nào tôi cũng duyệt các bản tin A2 mà Ban
Truyền Tin của đơn vị trình lên.
Tôi
lấy làm lạ là ngày nào cũng vậy, cứ mình vừa gửi công điện báo cáo vị trí đêm
của các cánh quân về Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân /Quân Khu 2 thì chỉ hai giờ
sau bản tin A2 đã thông báo rằng Việt-Cộng vừa gửi cho nhau toàn bộ vị trí đóng
quân của quân bạn, chính xác tới độ y như nguyên văn!
Tôi
nghĩ rằng ở bộ chỉ huy có nội tuyến, hoặc là đặc lệnh truyền tin của bộ chỉ huy
đã bị tiết lộ nên mới có tình trạng này.
Ðể
phòng thân, tôi nghĩ ra một bản mã riêng, rồi photocopy ra 2 bản, ban truyền
tin của Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân giữ một bản, bản kia tôi đem về trao
tận tay cho Ðại tá Chỉ Huy Trưởng Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân /Quân Khu 2.
Mỗi
đêm tiểu đoàn tôi gửi về Pleiku bản tin đóng quân dưới bộ mã mới. Vì thế, từ
ấy, chỉ có một mình tiểu đoàn tôi là không bị địch phát giác vị trí đêm và các
vị trí dã ngoại.
Gần nửa thế kỷ sau ngày
đó, chú Hoạ Mi 82 tức Trung úy Nguyễn Công Minh, trưởng ban truyền tin của đơn
vị tôi vẫn chưa quên chuyện cái đặc lệnh truyền tin ngoại lệ này.
Và
40 năm sau chiến tranh, nhân một lần trò chuyện bằng điện thoại, cựu Chuẩn
tướng Phạm Duy Tất đã hỏi tôi,
–
Ngày đó Long có nghi thằng đại đội trưởng đại đội truyền tin của mình là
Việt-Cộng không?
Tôi
nói,
–
Ðúng là chuyện trời sập! Thuở ấy ai mà dám nghi cho nó! Nó là dân gốc Lực Lượng
Ðặc Biệt! Nó lại là đồ đệ ruột của Trường An! Trường An tin tưởng nó còn hơn ai
hết. Sau này có lệnh của trung ương bắt các sĩ quan không tác chiến phải ra đơn
vị hành quân, ít ra là sáu tháng, Trường An đưa nó đi tiểu đoàn nào vậy?
“Trường
An” là
biệt danh của Ðại tá (sau là Chuẩn tướng) Phạm Duy Tất. Ông Tất cười hì
hì,
–
Thì anh ta vẫn còn ở bộ chỉ huy chứ có đi đâu đâu! Ngày Pleiku di tản không rõ
anh ta núp chỗ nào? Mãi về sau mới nghe đồn rằng anh ta là nội tuyến!
Sơ đồ phòng thủ trại Pleime tháng 7 năm 1974
20200911 Pleime74 08Tôi
chợt nhớ ra, có một hôm anh đại úy này gặp tôi trong sân bộ chỉ huy, anh ta năn
nỉ tôi ghi tên cho anh ta giữ chức đại đội trưởng một đại đội của
Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân, nhưng chỉ trên giấy tờ thôi, còn bản thân thì
anh ta vẫn làm việc ở Pleiku. Chỉ khi nào có thanh tra của Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng
Quân Trung Ương hay Bộ Tổng Tham Mưu thì anh ta sẽ có mặt ở đơn vị.
Tôi
không đồng ý giúp anh ta diễn cái trò ma mãnh này nhằm hợp thức hóa tình trạng
chỉ huy tác chiến của anh ta; tôi khuyên anh ta hãy đi tìm người khác mà nhờ
vả.
Thật
là hú hồn! Nếu ngày đó anh ta không đòi hỏi được ở Pleiku mà vui vẻ tình nguyện
vào chỉ huy đại đội thì có khi tôi đã mất đồn vào tay anh ta rồi!
Ai
mà ngờ? Cả năm trước ngày Pleiku di tản, người cung cấp những đặc lệnh truyền
tin và mật mã hàng tháng của Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân /Quân Khu 2 cho
địch lại là ông đại úy đại đội trưởng Ðại đội Truyền Tin Biệt Ðộng Quân
/Quân Khu 2!
Vào
những năm sau Hòa Ðàm Paris, Việt-Cộng đã đẩy mạnh công tác xâm nhập từ chiến
lược tới chiến thuật.
Ở
cấp trung ương, đã có những gián điệp cấp cao của địch nằm trong Tổng Thống
Phủ, trong Bộ Tổng Tham Mưu.
Vì
thế ở Bộ Chỉ Huy Biệt Ðộng Quân /Quân Khu 2 Pleiku có một tên nội tuyến cấp đại
úy thì cũng không phải là chuyện lạ.
Thời
gian này Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân nằm dưới quyền giám
sát hành quân của Sư Ðoàn 22 Bộ Binh.
Bộ
Tư Lệnh Tiền Phương của Sư Ðoàn 22 đồn trú trong Căn Cứ Bình Tây 3 ở
Hàm Rồng. Căn cứ Bình Tây 3 vốn dĩ là Camp Enari cũ, nơi từng là bản doanh của
Sư Ðoàn 4 Hoa Kỳ.
Hầu
như cứ cách hai, hoặc ba ngày, Chuẩn tướng Phan Ðình Niệm, Tư Lệnh Sư
Ðoàn 22 Bộ Binh lại ghé Pleime thăm đơn vị tôi. Ông tướng này
đã chịu khó bỏ ra hàng giờ để tỉ mỉ quan sát công việc thiết trí công
sự phòng thủ, và điều quân trinh sát của tôi trong thời gian chuẩn bị cho một
trận chiến chắc chắn sẽ xảy ra trong tương lai. Ông lấy làm lạ là tại sao giao
thông hào của tôi lại đào sâu gần hai thước, cao quá một đầu, một với
của người thường? Tại sao dưới giao thông hào tôi lại cho moi rất nhiều hàm
ếch? Tại sao mặt đất lại rào thép gai chằng chịt khiến cho việc di chuyển
từ lô cốt này, tới lô cốt kia cứ phải đi dích dắc tới
chóng mặt?
Tôi đã
phải từ tốn giải thích với ông Tướng rằng:
“Thưa
Chuẩn tướng, sở dĩ giao thông hào phải đào sâu là để sự di
chuyển được an toàn khi giao tranh. Hào sâu thì người ngồi trong hào khi
bị pháo kích nghe tiếng nổ của đạn sẽ thấy nhỏ hơn, sẽ bớt
sợ hãi hơn. Hàm ếch giúp cho lính an toàn vì có che chở. Nếu rủi
có quả đạn delay (nổ chậm) rơi trúng hầm thì chỉ chết một người, không
chết chùm như trường hợp tác chiến lộ thiên. Còn hệ thống kẽm gai chằng chịt
là để chống Ðặc Công, lệnh của tôi là ban đêm nếu có tiếng súng
nổ thì ai ở yên vị trí đó, người nào đi trên mặt đất sẽ bị bắn chết. Thói
thường thì Ðặc Công sau khi xâm nhập sẽ chạy vòng vòng khắp nơi, ném bộc
phá vào các lô cốt và nhà cửa. Gặp thứ hàng rào chóng mặt của tôi thì Ðặc
Công chỉ có nước khóc ròng, làm sao mà chạy vòng vòng để ném bộc phá được nữa!”
Tướng
Tư Lệnh nghe xong thì thấm ý, gật gù.
Thời gian này
Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân được tăng cường thêm một
tiểu đoàn của Trung Ðoàn 42 Bộ Binh để đảm trách nhiệm
vụ phòng thủ vùng. Tiểu đoàn bộ binh này do Ðại úy Nguyễn Hữu Chấn chỉ
huy, Ðại úy Chấn xuất thân khóa 21 Võ Bị, là khóa đàn em của tôi.
Tôi
và Chấn cùng xuất thân từ Ðại Ðội B Sinh Viên Sĩ Quan Trường Võ-Bị Quốc-Gia
Việt-Nam. Tôi là một trong những đàn anh Khóa 20 đã huấn luyện chú Chấn, vì thế
anh em tôi rất thân thiết, thương yêu nhau.
Tôi
giao cho chú Chấn giữ an ninh vùng Bắc Pleime, còn tôi chịu trách nhiệm vùng
Tây và Nam của căn cứ này.
Người
chỉ huy trực tiếp của tôi và chú Chấn là Ðại tá Nguyễn Hữu Thông, Trung
đoàn trưởng Trung Ðoàn 42 Bộ Binh, Ðại tá Thông xuất thân từ Khóa 16 Võ Bị.
Mỗi
lần vào thăm Pleime bằng đường bộ, niên trưởng Thông đều than phiền,
– Chu
choa! Ði qua cái hàng rào “Bát Quái Trận Ðồ” của Long anh cứ chóng mặt muốn té!
Thấy
thế tôi không khỏi bật cười,
– Ngày
nào tôi cũng đi ra, đi vào cái trận đồ này mà vẫn còn bị chóng mặt, huống hồ gì
niên trưởng là người lâu lâu mới tới thăm Pleime một lần.
o
O o
Tri
kỷ tri bỉ (biết ta, biết địch)
Thế
rồi, vào một ngày cuối tháng 6 năm 1974, toàn bộ Trung Ðoàn 42 Bộ
Binh đột nhiên rút khỏi vùng Bắc Pleime, thay thế là Tiểu Ðoàn 81
Biệt Ðộng Quân và Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân trú đóng tại
Căn cứ Hỏa lực 711.
Thời gian này nếu tính cả hai khẩu 155 ly đặt trong chi khu Phú Nhơn, thì khả năng yểm trợ của Liên Ðoàn 24 Biệt Ðộng Quân chỉ mạnh bằng một nửa, so với hỏa lực cơ hữu của một trung đoàn bộ binh.
20200911 Pleime74 09Ðây
cũng là thời gian tôi bận rộn suốt ngày. Cả tháng trời
tôi không dám bỏ đồn về Pleiku thăm hậu cứ lần nào.
Về
phần an ninh khu vực trách nhiệm, lúc nào tôi cũng phải cảnh
giác đề phòng một cuộc tấn công với quy mô lớn của đối phương có thể
xảy ra bất thình lình.
Ðối
diện với Tiểu Ðoàn 82 Biệt Ðộng Quân của tôi là cả một
sư đoàn bộ binh, một sư đoàn vận tải, một trung đoàn pháo, và một
tiểu đoàn xe tank của địch.
Lực lượng hùng hậu và đáng sợ này của Cộng Quân ngang nhiên trú đóng trong vùng núi Chư Prong và thung lũng Ia Drang, chỉ cách Pleime hơn mười cây số đường chim bay.
20200911 Pleime74 10Tôi
ước tính, chỉ cần chưa tới hai giờ đồng hồ vận chuyển bộ, Cộng
Quân đã có thể cắt đứt Tỉnh lộ 6C và bắt đầu vây hãm Pleime rồi.
Nếu
so sánh tương quan lực lượng khi phải giao tranh thì Tiểu Ðoàn 82
Biệt Ðộng Quân sẽ phải đương cự với một địch thủ có quân
số đông hơn mình cả chục lần về nhân lực, chưa kể tới cơ giới và pháo
binh.
Nhiều
đêm, với điếu thuốc Lucky trên môi, một mình ngồi hàng giờ trên
nóc lô cốt, tôi tự hỏi:
“Nếu
địch tấn công Pleime thì mình sẽ đối phó cách nào đây?”
Sau
nhiều đêm vắt óc suy nghĩ và cân nhắc, tôi mới tìm ra giải đáp:
“Muốn
sống còn, tôi phải tránh bị đánh úp bất ngờ, phải biết khi nào
địch bắt đầu triển khai chiến dịch để xin thượng cấp dự trù quân tăng
viện. Phải cố gắng giữ đồn và trì hoãn chiến để chờ viện binh”.
(xem
tiếp kỳ tới)
https://bachvietnhan.blogspot.com/2020/09/20200905-pleime-1974-thai-son-vuong.html
https://bachvietnhan.blogspot.com/2020/09/20200912-tran-pleime-nam-1974-ky-3.html
https://bachvietnhan.blogspot.com/2020/09/20200913-tran-pleime-nam-1974-ky-5.html
https://bachvietnhan.blogspot.com/2020/09/20200914-tran-pleime-nam-1974-ky-7.html
https://bachvietnhan.blogspot.com/2020/09/20200915-tran-pleime-nam-1974-ky-9.html
https://bachvietnhan.blogspot.com/2020/09/20200917-tran-pleime-nam-1974-ky-cuoi.html
No comments:
Post a Comment