Phiet Pham thephiet_2002@yahoo.com
TÔI BIẾT GÌ VỀ TRUNG QUỐC? (phần 1)
Sau 17 năm nghỉ việc ở Bộ Xây dựng, tôi đã cố bù lại những lỗ hổng mà lớp trí thức ở lứa tuổi của tôi đã mắc phải. Lúc này tôi đã có nhiều thời gian để hiểu rõ trong cấu trúc phong thuỷ địa mạch của nước ta có một thứ mà nhà cầm quyền Trung Quốc rất thèm muốn. Họ thèm muốn vì họ không có và họ hiểu rằng làm chủ được cái đó là họ chiếm được nước ta và chiếm được nước ta là họ làm chủ được cả thế giới. Tôi nói nhà cầm quyền Trung Quốc thèm muốn chứ không phải nhân dân Trung Quốc, bởi vì thực hiện mộng bá quyền, người dân lương thiện Trung Quốc không hề được hưởng lợi gì, có khi còn bị thiệt thòi hơn.
HỆ ĐỊA MẠCH NƯỚC TRUNG HOA: CHIẾC BÁNH SANDWICH.
Một đất nước rộng lớn mà các lớp đất, đá, núi, sông...chồng xếp thành từng lớp như cái bánh sandwich.
Theo phân tích và tổng kết hệ thống đã công bố tháng 5/2005 của KTS Lý Thái Sơn, thì đó là một thứ liên kết rời rạc của hệ Tam đại Càn Long sẽ bị trôi tuột đi bất cứ lúc nào, đó là một nước Trung Hoa có các khu vực Bắc Hoàng Hà, khu kẹp giữa Hoàng Hà và Trường Giang, khu Nam Trường Giang, tạo thành một quẻ Chấn gồm hào một liền và hào hai gãy, hào ba gẫy có nghĩa là sấm sét, không ổn định, dễ vỡ tung; cũng như khu Đông và khu Tây là hai vệt thẳng đứng, không có mối quan hệ về kinh tế, phong tục tập quán, sắc tộc và có thể tách ra thành 4 hoặc 5 quốc gia độc lập.
Mặt khác, ngay cả đến dân tộc Đại Hán cũng là kết quả của một quá trình chiến tranh và đồng hoá lẫn nhau, vì người Hán nguyên gốc rất ít, nhưng người ta có chính sách cưỡng chế người dân tộc khác biến thành người Hán, nên họ bị phản đối và ở nước Trung Hoa chưa bao giờ hết nội chiến. Ở Trung Hoa không có hai chữ "ĐỒNG BÀO" và trên đất nước này không có cụm từ sức mạnh đoàn kết toàn dân. Hiện nay không chỉ Đài Loan là quốc gia độc lập mà Tây Tạng, Tân Cương, Hồng Kông, Ma Cao,... đang như các quốc gia bị Bắc Kinh đô hộ. Nếu tách được ra thì các quốc gia đó sẽ giầu có và trù phú hơn nhiều. Còn Bắc Kinh thì luôn phải dùng biện pháp đàn áp. Họ đàn áp ở ngay giữa Thủ đô như sự kiện Thiên An Môn năm 1989 và đàn áp dã man các vùng xa xôi như Tây Tạng, Tân Cương trong năm 2008 và 2009.
Tuy vậy, các thế hệ cầm quyền Trung Hoa từ thời cổ đến nay đều đã nghiên cứu kỹ phong thuỷ địa mạch và họ ý thức được rằng có một cách vãn hồi được yếu điểm cấu trúc trượt của chiếc bánh sandwich là phải làm chủ đường kinh mạch lợi hại đi từ đỉnh Everest cao gần 9000m của dãy Himalaya trên Cao nguyên Tây Tạng*, qua Cao nguyên Vân Nam**, qua Đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, xuống Vịnh Hạ Long rồi đi đến đáy đại dương sâu nhất thế giới gần 11km ở Vịnh Mindanao, Philippines. Đó cũng là mạch đất độc đáo nối từ "Cổng Trời" đầy thiên khí đến "Địa Huyệt" đầy của cải có độ cao chênh nhau ngót 20km và là đường kinh mạch quan trọng nhất thế giới. Nếu họ làm chủ được đường kinh mạch này thì không những họ có gọng kìm xiết chặt chiếc bánh sandwich đó không cho nó trôi trượt đi, mà họ có thể mau chóng làm chủ cả thế giới. Bởi vậy, lúc này họ đang cố sức "Củng cố nơi họ đã là chủ và chiếm thêm nơi họ chưa chiếm được" để thực hiện ước nguyện bá chủ toàn cầu.
(**) Sau hàng ngàn năm với nhiều thủ đoạn, Cao nguyên Vân Nam rộng 390.000 km², có 26 dân tộc đến nay đã bị họ khống chế hoàn toàn, người dân tộc Di, dân tộc Choang mỗi ngày một ít, người Hán đã di cư về đây trên 20 triệu và thành phố Côn Minh hiện đại hơn ba triệu dân ngày nay là thành phố của người Hán (người Hán thật thì ít, người Hán mới bị đồng hoá thì nhiều).
(*) Ngược lại, khu tự trị Tây Tạng, nóc nhà của thế giới và là Thủ đô của Đạo Phật, vốn là một quốc gia độc lập văn minh, đã bị chính thức lệ thuộc vào Trung Hoa từ năm 1914 đến nay. Thật xấu hổ và nhục nhã cho một cho một chính thể, một Nhà nước suốt ngày hô hào "đoàn kết các dân tộc" lại đang đàn áp và huỷ diệt người Tây Tạng, đập phá chùa chiền đến mức người đại diện cho Đạo Phật và là linh hồn của dân tộc Tạng là Đức Đa Lai Lạt Ma phải đi lưu vong, việc đó đã khiến Ấn Độ và các quốc gia Tây Á không thể làm ngơ và đang ở bên dân tộc Tạng. Điều đó cũng có nghĩa là Nhà nước Trung Quốc sẽ không thể đạt được cái họ muốn.
Wed, Apr 22 at 11:29 AM
Bài rất hay, cả nội
dung lẫn lời văn.
Mời các bạn
rĩ rã đọc trong thời gian rãnh rỗi vì CÔ VY nầy.
TÔI BIẾT GÌ VỀ TRUNG QUỐC? (phần 1)
Trần Thanh Vân
MỞ ĐẦU.
Lâu nay mọi người vẫn
nghĩ rằng tôi là một Kiến trúc sư cảnh quan có hiểu chút ít về phong thuỷ Thăng
Long, âu cũng là chuyện bình thường, cho nên những vấn đề gì liên quan đến
phong thuỷ của kinh đô Thăng Long xưa và Hà Nội mở rộng ngày nay thì họ hay hỏi
tôi, ngoài ra tôi không biết điều gì khác. Tôi cũng tự nghĩ như vậy, nên không
muốn chen vào những lĩnh vực nhậy cảm mà tôi không thông thạo như kinh tế, xã
hôị, đặc biệt là các vấn đề an ninh, chính trị và thời sự quốc tế!
Cách đây vài tháng, khi
xây dựng chương mục Địa linh của Chương trình văn hoá
1000 năm Thăng Long, một nhóm nghiên cứu của Ban khoa giáo Đài truyền hình
trung ương đến gặp tôi để lấy tài liệu về Địa mạch và Hồn cốt Thăng
Long. Giữa chừng câu chuyện, họ hỏi tôi: "Chị nghiên cứu đề tài này
lâu chưa?". Tôi lưỡng lự giây lát, rôì trả lời họ: "Khoảng chừng đã
55 năm".
– Cái gì? 55 năm?
– Vâng! từ ngày còn là con bé con.
Thế rồi tôi kể cho họ nghe những câu chuyện khiến tôi phải chứng kiến, phải tìm hiểu từ ngày tôi còn nhỏ. Vào đại học, tôi làm đơn thi Bách khoa Vô tuyến điện hoặc Tổng hợp Lý Toán, nhưng lại bị phân công theo ngành Kiến trúc. Sau này, tôi học phong thuỷ cho biết để hành nghề kiến trúc sư, càng ngày tôi càng ý thức được đó là cái nghiệp đời người của tôi. Vâng, đúng là nghiệp đời người đặt tôi vào tình huống liên tiếp phải va chạm với những sự thật và tôi không thể không theo đuổi đến cùng sự thật đó. Xin nhắc lại rằng kiến thức của tôi bắt nguồn từ những sự thật, từ những điều mắt thấy tai nghe, không phải từ lý thuyết.
– Cái gì? 55 năm?
– Vâng! từ ngày còn là con bé con.
Thế rồi tôi kể cho họ nghe những câu chuyện khiến tôi phải chứng kiến, phải tìm hiểu từ ngày tôi còn nhỏ. Vào đại học, tôi làm đơn thi Bách khoa Vô tuyến điện hoặc Tổng hợp Lý Toán, nhưng lại bị phân công theo ngành Kiến trúc. Sau này, tôi học phong thuỷ cho biết để hành nghề kiến trúc sư, càng ngày tôi càng ý thức được đó là cái nghiệp đời người của tôi. Vâng, đúng là nghiệp đời người đặt tôi vào tình huống liên tiếp phải va chạm với những sự thật và tôi không thể không theo đuổi đến cùng sự thật đó. Xin nhắc lại rằng kiến thức của tôi bắt nguồn từ những sự thật, từ những điều mắt thấy tai nghe, không phải từ lý thuyết.
SỰ THẬT VÀ TRẢI
NGHIỆM.
Tôi xin mở đầu câu
chuyện nghiêm túc này bằng mối "quan hệ" của tôi với vấn đề Trung
Quốc mà tôi sắp kể ra, đó là lý do thôi thúc tôi phải đi sâu tìm hiểu bản chất
của mối quan hệ hữu nghị Việt Nam – Trung Hoa này. Có thể có những nhà nghiên
cứu chiến lược lâu năm có cách nhìn khác và chưa công nhận những điều tôi sắp
nói, nhưng với trách nhiệm của một công dân, một người con đất Việt, tôi như là
một nhân chứng có thể khẳng định rằng ít có ai có cơ hôị để "hiểu"
Trung Quốc hơn tôi. Cho nên, dù đã có thời gian dài tôi tránh nhắc tới những chuyện
đó, nhưng càng tránh tôi càng thấy phải nói ra hôm nay để mọi người cùng biết.
Đúng vậy, tôi không chỉ từng có kỷ niệm 5 năm du học ở Thượng Hải, cái thời mọi người hay hát "Việt Nam – Trung Hoa núi liền núi, sông liền sông/ Chung một Biển Đông, thắm tình hữu nghị..." trước đó tôi đã có hai kỷ niệm sâu đậm và rất hãi hùng liên quan đến Trung Quốc.
Đúng vậy, tôi không chỉ từng có kỷ niệm 5 năm du học ở Thượng Hải, cái thời mọi người hay hát "Việt Nam – Trung Hoa núi liền núi, sông liền sông/ Chung một Biển Đông, thắm tình hữu nghị..." trước đó tôi đã có hai kỷ niệm sâu đậm và rất hãi hùng liên quan đến Trung Quốc.
KỶ NIỆM THỨ NHẤT: CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT NĂM 1953.
Ngày ấy tôi còn nhỏ lắm. Vùng quê ngoại Đức Thọ, Hà Tĩnh, nơi
chúng tôi theo mẹ tản cư về đã hết yên ổn của vùng tự do thời kháng chiến và
bắt đầu chiụ cảnh máy bay bắn phá. Nhưng, cuộc "bắn phá" tàn khốc hơn
lại chính là những cuộc đấu tố địa chủ và Việt gian phản động trong mọi làng xã
ở Hà Tĩnh lúc bấy giờ. Ông ngoại tôi là một thầy thuốc Đông Y giỏi có tiếng,
chuyên nghề xem mạch bốc thuốc và ông tôi đã cứu sống nhiều người nên được dân
trong vùng nể trọng gọi bằng thầy. Tiền bạc chắc chẳng có nhiều, nhưng mùa nào
thức nấy, trong nhà ông tôi ngoại không bao giờ thiếu của ngon vật lạ do gia
đình bệnh nhân mang đến tạ ơn cứu mạng như rổ lạc đầu mùa, cân đỗ xanh, thúng
gạo nếp, mớ khoai lang, nải chuối chín, có khi còn có cả con gà sống thiến hay
chục trứng tươi...Nhà chỉ có hơn một mẫu ruộng, ông ngoại tôi giao hẳn cho mấy
người bà con trong họ trồng cấy và không thu tô, nhưng trong Cải cách ruộng
đất, ông tôi vẫn bị quy là địa chủ, mà là địa chủ cường hào.
Mẹ tôi nguyên gốc là cô gái làng dệt lụa Tùng Ảnh ở Đức Thọ, đã
theo ông ngoại ra sinh sống ở Hà Nội nhiều năm và có cửa hàng bán tơ lụa ở Hà Nội.
Đêm toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, mẹ tôi đã bỏ lại hết nhà cửa và tài sản,
đưa chúng tôi tản cư về Đức Thọ Hà Tĩnh, vận động nhiều nữ thanh niên bỏ nghề
dệt lụa, xây dựng một nghề mới là xe sợi, nhuộm sợi và đan áo rét cho bộ đội.
Cặm cụi làm việc đó, mẹ tôi vừa nuôi sống cho gia đình và bản thân, vừa đóng
góp tích cực cho kháng chiến. Tôi còn nhớ bài hát "Áo mùa
đông" của nhạc sĩ Đỗ Nhuận sáng tác vào những ngày đó:
"Gió bấc heo may/ xào xạc rung cây lá lá bay/ một mùa đông bao người đan
áo..." chính là nói về công việc của mẹ tôi và các chị, các cô
trong Hội Phụ nữ Kháng chiến cứu quốc. Vào những ngày đó, ở vùng tự do nghèo
nàn Thanh Nghệ Tĩnh làm gì có len để đan áo, sáng kiến xe sợi bông, nhuộm sợi
thành các mầu xanh, mầu nâu, mầu cỏ úa rồi đan thành áo gửi ra chiến trường, đã
được ca ngợi như một chiến công lớn.
Nhưng trong Cải cách ruộng đất thì công cũng thành tội, có một
người bạn thân hồi nhỏ của mẹ tôi là Bí thư chi bộ xã đã treo cổ tự tử vì bị
truy bức quá, lập tức mẹ tôi bị gán tội là trùm Quốc dân Đảng, đã giết ông Bí
thư đó để bịt đầu mối hoạt động gián điệp và mẹ tôi liền bị lôi ra đấu tố. Cay
đắng hơn cả là người được Đội Cải cách bồi dưỡng để đứng lên đấu tổ mẹ tôi hăng
nhất lại là một bà bạn cũng tản cư từ thành phố về và đã được mẹ tôi đưa vào tổ
đan áo binh sĩ.
Cha tôi đang ở vùng ATK của chiến khu Việt Bắc nghe tin đó thì
hoảng hốt, vội vào Hà Tĩnh đón chị em tôi lên Việt Bắc để lánh nạn. Vừa đặt
chân đến Chợ Chu – Định Hoá – Thái Nguyên thì tôi được nghe câu chuyện họ vừa
xử bắn bà Nguyễn Thị Năm ở thôn Đồng Bẩm, huyện Đại Từ. Một vụ xử bắn oan
nghiệt đối với một người phụ nữ từng có công lớn mà đến nay mọi người vẫn còn
nhớ.
Trong các xó xỉnh của Việt Bắc hồi đó, người ta bàn tán về hoạt
động của các chuyên gia Trung Quốc sang giúp ta kinh nghiệm phát động quần
chúng đấu tranh giảm tô và đòi ruộng đất về chia cho dân cày mà Việt Bắc và
vùng tự do Liên khu 4 được chọn làm điển hình.
Sau này, khi ông ngoại tôi đã mất rồi, đại gia đình có dịp gặp nhau ôn lại chuyệncũ, mọi người đều bảo nhau hãy nén lòng quên nỗi đau buồn đó đi.
Sau này, khi ông ngoại tôi đã mất rồi, đại gia đình có dịp gặp nhau ôn lại chuyệncũ, mọi người đều bảo nhau hãy nén lòng quên nỗi đau buồn đó đi.
KỶ NIỆM THỨ 2: TRỜI PHẠT.
Chưa hết hoang mang về chuyện bức hại chém giết lẫn nhau trong Cải
cách ruộng đất, thì chúng tôi được ném vào "Trận đồ bát quái" của
tháng hữu nghị Việt – Trung – Xô.
Liên Xô thì ở tận đẩu tận đâu xa xôi lắm, nhưng Trung Quốc thì ở
ngay bên cạnh. Suốt ngày hễ gặp nhau ngoài đường là dù chưa quen biết người ta
cũng liền nắm tay nhau hát múa rộn ràng. Hoà Bình lập lại, Chính phủ về tiếp
quản Thủ đô, thì trên đường phố Hà Nội cũng xuất hiện rất nhiều chuyên gia
Trung Quốc. Còn nhỏ xiú nhưng tôi dễ dàng nhận ra họ vì cái áo kiểu Tôn Trung
Sơn rộng thùng thình dài đến gần đầu gối, cái quần xanh công nhân cũng rộng
thùng thình và cái mũ lưỡi trai bằng vải cũng mầu xanh như vậy. Toà dinh thự hoành
tráng của Hoàng Trọng Phu trước Vườn hoa Canh nông và các biệt thự kế tiếp trên
phố Hoàng Diệu và phố Khúc Hạo trở thành Đại sứ quán và khu dành riêng của
người Trung Quốc. Mỗi buổi sáng sớm họ đứng kín nửa Vườn hoa Canh nông tập thể
dục và hô "I, ơ, xan, xư" ầm vang khu phố Cột cờ.
Ngày đó gia đình tôi ở gần kề các Đại sứ quán. Là con bé mới học
đến cấp 2, tôi không thể hiểu nổi những chuyện đã xẩy ra, nhưng tôi có thói
quen ghi nhật ký. Đến tận bây giờ tôi vẫn còn giữ được những trang nhật ký trẻ
thơ ghi tỉ mỉ kỷ niệm về lễ mít tinh ngày 01/01/1955, nhân dân Thủ đô chào đón
TW Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc trở về, đặc biệt trong cuốn nhật ký cũ ấy, tôi
có ghi lại kỷ niệm về một người con gái Trung Quốc tên là Khương Nãi Tuệ, chị
ta được tôi tặng hoa và tặng khăn quàng đỏ trong buổi chiêu đãi Đoàn văn công
Tề Tề Cáp Nhĩ do chủ tịch UBND thành phố Trần Duy Hưng tổ chức tại Cung thiếu
nhi Hà Nội tối hôm 10/9/1955 và cả câu chuyện chiều hôm sau, ngày 11/9/1955,
chị Văn công Khương Nãi Tuệ bị chết trong cơn lốc Hồ Tây, khi chị ta đang đóng
vai Sen Chúa trong điệu Múa Hoa Sen, trên chiếc sân khấu ghép tạm cạnh Đầm Trị
– Phủ Tây Hồ.
Khương Nãi Tuệ chết, mang theo chiếc khăn quàng đỏ do tôi tặng.
Cùng chết trong tai nạn đó còn có nghệ sĩ thổi sáo Phùng Tử Tồn và hai người nữa.
Mộ của họ mai táng ở Nghĩa trang Bất Bạt, huyện Ba Vì.
Sau cơn lốc khủng khiếp đó, tôi hay rơi vào tâm trạng ngẩn ngơ vì
luyến tiếc chiếc khăn quàng đỏ thì ít và vì sợ hãi như thể tôi có liên can tới
con lốc làm lật úp ba chiếc thuyền và hại chết cô nghệ sĩ múa thì nhiều, nên
tôi hay đi lang thang nghe ngóng chuyện người lớn. Rất nhiều câu chuyện nhỏ to đập vào tai tôi
về một âm mưu yểm huyệt Hồ Tây nhưng bất thành và những người tham gia vào âm
mưu đó đã bị Trời phạt. Ngày đó Trung Quốc
và Việt Nam thân nhau lắm, nên người ta chỉ dám xầm xì nửa kín nửa hở và một cô
bé con như tôi không sao hiểu nổi thứ tình hữu nghị quái gở gì mà "người
bạn lớn thân thiết" lại tìm mọi cách làm hại "đứa em tội nghiệp"
vừa thoát khỏi chiến tranh chống Pháp và đang rơi vào cuộc chiến tranh chống
Mỹ?
Mấy chục năm sau, để giải toả tâm lý cho tôi quanh chuyện chiếc
khăn quàng đỏ, nhà ngoại cảm Phan Oanh ở làng Xuân Đỉnh tặng tôi một bài thơ
dài, trong đó có mấy câu: "Tâm con trẻ hồn nhiên không xấu/ Dấu
nhà Trời ai thấu được đâu/ Một dải khăn đào kết một cái cầu/ Để hồ thẳm nước
sâu/ Bà là nhịp cầu giữ yên non nước...".
DU HỌC Ở TRUNG QUỐC..
Tuổi trẻ hồn nhiên với nhiều ham thích đã có lúc cuốn hút tôi,
khiến tôi tạm quên đi cảm giác hoang mang lẫn sợ hãi hồi nhỏ.
Năm 1960 tôi tốt nghiệp phổ thông trung học, được miễn thi đại
học, tôi được cử đi học ngoại ngữ để sang Trung Quốc theo học ngành Kiến trúc.
Niềm háo hức khiến tôi và các bạn cùng lứa sung sướng trong cảnh được "ăn
cơm Bác Mao", được chăm sóc dậy giỗ ân cần, lúc ốm đau được đầu bếp nấu
những món ăn theo ý thích rồi mang đến tận phòng riêng phục vụ tận tình.
Những năm tháng đó, mọi sinh hoạt vật chất và tinh thần của chúng
tôi đều được chăm sóc đặc biệt. Học Kiến trúc thì được học vẽ mỹ thuật trong 3
năm đầu, học kỳ nào chúng tôi cũng được thầy giáo là một hoạ sĩ danh tiếng dẫn
đi vẽ dã ngoại ở các khu danh lam thắng cảnh cách Thượng Hải hàng trăm cây số,
như các thành phố Hàng Châu, Vô Tích, Tô Châu và ở hẳn đấy vài tuần. Ông hoạ sĩ
già thì hai bàn tay bôi mầu nhem nhuốc tận tình hướng dẫn chúng tôi cầm bút
lông chấm phá các mảng mầu xanh đỏ, còn vợ ông thì đi theo chăm sóc chồng và
cần mẫn gọt những trái lê trái táo bê đến từng góc vườn chia cho đám học trò
chúng tôi. Ngoài ra, những ngày ở trong trường chúng tôi luôn luôn được hưởng
ưu đãi hơn người, riêng tôi vì ham thích âm nhạc nên còn được giữ chìa khoá một
căn phòng có chiếc piano sang trọng để tự do luyện tập. Đó là những thứ mà khi
ở nhà với cha mẹ, tôi chưa bao giờ dám mơ tới.
Chưa bao giờ tôi tự đặt cho mình câu hỏi "Có phải họ đang vỗ
béo chúng tôi để sau này về nước chúng tôi sẽ trở thành hạt giống cho họ reo
mầm bành trướng phá hoại đất nước mình hay không?". Chưa bao giờ tôi tự
hỏi như thế cả, nhưng trong lòng không thể không gợn lên những thắc mắc vô cớ.
Tôi biết Trung Quốc ngày đó còn nghèo lắm, các bạn sinh viên Trung Quốc phải ăn
ở chen chúc trong những căn phòng chật chội của ký túc xá, bữa cơm của họ chỉ
có chiếc bánh bao không nhân, một bát cháo hoa loãng và vài miếng ca-la-thầu.
Ngược lại tôi và chị bạn gái người Sài Gòn tập kết thì được hai cô
bạn người Thượng Hải nữa ở cùng trong một ngôi nhà giành riêng cho giáo viên và
trợ giảng. Đó là một toà nhà 2 tầng có nhiều phòng, chúng tôi ở tầng hai cùng
các giáo viên nữ, còn tầng một dành cho giáo viên nam. Đã là giáo viên và trợ
giảng đại học, nhưng họ còn rất trẻ và đều chưa có gia đình riêng. Tôi hay lui
tới thăm nom họ và ái ngại thấy họ sống rất đạm bạc. Hoá ra họ phải nhịn ăn
nhịn mặc để nuôi chúng tôi?. Tôi phát hiện biết có một thầy giáo bị bệnh gan
thận gì đó rất cần ăn đường nhưng tiêu chuẩn tem phiếu không đủ cung cấp, thầy
luôn luôn bị ngất xỉu, thấy vậy tôi hay đi mua đường mang đến biếu thầy. Chúng
tôi trở thành người thân của các thầy cô giáo. Có những buổi chiều ngày thứ 7,
khi hai cô bạn Thượng Hải đã về nhà, tôi và chị bạn Sài Gòn xuống ghế đá trên
vườn hoa ngôì hóng gió, thì các thầy cô giáo lân la đến bên chúng tôi, họ tâm
sự, chuyện trò và cho chúng tôi biết rất nhiều chuyện bí mật trong trường và
trong xã hội, tôi có cảm giác như đất nước này sắp có đại loạn.
Rồi đại loạn đến thật, cách mạng văn hoá nổ ra, đại đa số học sinh
trung học và sinh viên đều bỏ học, xuống đường tham gia Hồng vệ binh. Chúng tôi
phải chứng kiến cảnh suốt ngày Hồng vệ binh đi phá phách, hò hét, rạch quần áo,
cắt tóc người qua đường và báo chữ to xuất hiện khắp mọi nơi. Thê thảm hơn là
chính mắt chúng tôi được chứng kiến các giáo sư trong trường đã từng giảng dậy
chúng tôi, bị làm nhục ngay trong sân trường bằng cách phải đeo các biểu ngữ
bằng giấy báo dán trên lưng hoặc đội những chiếc mũ có chóp nhọn, ghi những
dòng chữ tục tĩu.
Là một đứa con gái xuất thân trong một gia đình có giáo dục truyền
thống ở Việt Nam, tôi không sao chấp nhận nổi thứ triết lý cách mạng cho phép
học trò đấu tố thầy, hành hạ và sỉ nhục thầy như vậy. Nhận thức về một nước
Trung hoa có truyền thống văn hoá lâu đời, hơi phong kiến một chút, nhưng rất
nề nếp và rất có kỷ cương đã hoàn toàn sụp đổ trong tôi. Đây là lần đầu và cũng
là lần duy nhất tôi phải chứng kiến hiện tượng vô đạo và bất nhân đáng sợ đó.
Tôi không sao chấp nhận nổi, những người bị hành hạ là những giáo sư đáng kính
của chúng tôi, những người hành hạ các giáo sư lại là những bạn sinh viên đã
từng học tập ca hát bên chúng tôi. Trong số đó, tôi biết, có người không muốn
hành xử đê tiện như vậy. Nhưng nếu họ đi ngược lại phong trào chung, thì chính
họ bị lôi ra đấu tố.
Chúng tôi rất sợ bị liên luỵ nên nín lặng quan sát và nhìn nhau
thầm hỏi: "Họ đang cắn xé nhau, đến bao giờ thì họ cắn mình đây?"
Đó là giữa năm 1966, đúng lúc chúng tôi làm xong đồ án
tốt nghệp, trường học gần như không hoạt động, chúng tôi không được bảo vệ luận
án tốt nghiệp mà chỉ được cấp bằng có đóng dấu nhưng không có chữ ký, chúng tôi
khăn gói vội vàng rút về nước. Tất cả bạn học và thầy giáo đã bị đưa đi ra khỏi
trường, một số đi lao động quản thúc ở vùng nông thôn nào đó, một số khá đông
đang là Hồng vệ binh ngày ngày đi đập phá hò hét hoặc đả đảo ai đó. Cảnh trường
Đại học Đồng Tế, ngôi trường được xếp loại nhất nhì Trung Quốc, do người Đức
thành lập đã gần 100 năm trở nên hoang vắng buồn thảm đến lạnh sống lưng. Giáo
sư nổi tiếng Lý Đức Hoá, người từng được nhiều giải thưởng Quốc tế và bà vợ bác
sĩ người Đức của ông không biết đã trôi dạt đi đâu? Lúc chúng tôi lên xe để ra
ga về nước, chỉ có mấy ông bà cấp dưỡng từng chăm sóc bữa cơm hàng ngày lặng lẽ
gật đầu đưa tiễn chúng tôi, mắt họ rơm rớm lệ.
Đến lúc đó thì tình cảm trong tôi hoàn toàn mất phương hướng và
tôi thực sự hiểu rằng người dân lao động Trung Quốc rất tốt, giới trí thức
Trung Quốc cũng thật tốt, các bạn học của tôi cũng tốt lắm. Nhưng các nhà cầm
quyền? Tôi không sao hiểu nổi các nhà cầm quyền và thứ "tình hữu
nghị" mà suốt ngày họ ra rả trên đài phát thanh và trên báo chí. Tôi rất
muốn tìm hiểu xem cái gì là động lực thúc đẩy họ? Nhưng điều đó nằm ngoài khả
năng của tôi.
Chúng tôi rời Thượng Hải buồn bã và vội vàng như ma đuổi.
Chúng tôi rời Thượng Hải buồn bã và vội vàng như ma đuổi.
THỜI KỲ ĐÃ TRƯỞNG THÀNH.
Chúng tôi về đến nhà đúng vào lúc máy bay Mỹ đang đánh phá Miền
Bắc ác liệt. Không khí cả nước có chiến tranh cuốn hút chúng tôi, khiến chúng
tôi tạm quên đi những cảm giác khó chịu của những ngày cuối cùng sống trên đất
Thượng Hải. Ngày ấy sinh viên từ nước ngoài về vẫn chưa nhiều, nên hôm đầu tiên
về nhận công tác ở Bộ Kiến trúc, chúng tôi đã được Bộ trưởng Bùi Quang Tạo đón
tiếp ân cần. Bộ trưởng khuyên chúng tôi vứt bỏ lối sống cậu ấm cô chiêu ở nước
ngoài và sớm thích nghi với khẩu hiệu "Ba sẵn sàng" của thanh niên
thời chiến.
Sau đó, mỗi người đến nơi sơ tán ở các làng quê theo địa chỉ riêng của từng đơn vị công tác. Viện Quy hoạch đô thị của tôi ở huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên.
Sau đó, mỗi người đến nơi sơ tán ở các làng quê theo địa chỉ riêng của từng đơn vị công tác. Viện Quy hoạch đô thị của tôi ở huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên.
Vĩnh Tường của bà Hồ Xuân Hương rất đẹp, nhưng chỉ đẹp ban ngày.
Còn đêm đến, khi ngồi tư lự một mình bên ngọn đèn dầu trong nhà dân, những ký
ức thời trẻ thơ và những kỷ niệm ở Thượng Hải lại ập về khiến tôi suy nghĩ
nhiều lắm.
Lúc này đã đủ lớn để có những chính kiến của riêng mình, nhưng tôi
không thể nói ra với ai. Tôi ở cùng nhà với một chị tốt nghiệp ở thành phố Kiev
về, chúng tôi quý nhau và luôn giúp đỡ nhau, còn "Liên Xô xét lại" và
"Trung Quốc giáo điều" thì mặc kệ họ, miễn là họ vẫn đang giúp ta
những chiếc máy bay Míc bay trên bầu trời và những phong lương khô để chống
đói.
Dù sao, 5 năm ở Thượng Hải cũng để lại cho tôi nhiều kỷ niệm đẹp
hơn kỷ niệm xấu, tôi cố tự lý giải rằng sự cố đã xẩy ra là do sự quá đà của một
nhóm người hãnh tiến nào đó. Khoảng 10 năm tiếp theo, không thể liên lạc thư từ
với bạn học cũ, nhưng tôi theo dõi và nuôi trong lòng chút hy vọng đổi thay của
một đất nước đã nuôi tôi ăn học thời sinh viên, ở đó tôi từng có những thầy giáo
và bạn học thân thiết. Khi nghe tin ông Đặng Tiểu Bình được phục chức, tôi
những tưởng tình hình sẽ khá hơn, nhưng tôi chưa kịp mừng thì liền xẩy ra cuộc
tấn công biên giới đầu năm 1979 do ông Đặng Tiểu Bình chỉ huy để "Cho Việt
Nam một bài học". Không chỉ có thế, mười năm sau lại thấy cuộc tàn sát đẫm
máu nội bộ của sự kiện Thiên An Môn cũng do Đặng Tiểu Bình chỉ huy, tôi thực sự
thất vọng và hiểu rằng những người cầm đầu nhà nước Trung Quốc thời nào cũng
vậy, họ chống nhau, phá nhau chỉ vì tranh cướp quyền lực và càng lộ rõ thói
cường quyền, tàn bạo kiểu thời trung cổ của họ mà thôi.
TRUNG QUỐC HÔM NAY?
Sau 60 năm thành lập nước CHND Trung Hoa, chẳng tìm hiểu kỹ thì ai
cũng biết Trung Quốc đã thay đổi rất nhiều và rất đáng kính nể. Tuy vậy, khi tôi
trở lại thăm trường cũ, thăm thầy giáo và thăm bạn học cũ, thì tôi hiểu: ngoài
bộ mặt hào nhoáng đầy khí thế của một Trung quốc đại nhẩy vọt mà họ đang ra sức
quảng bá, vẫn còn có một Trung Quốc khác rất âm thầm, u uất và đau đớn của tầng
lớp trí thức và những người dân lương thiện ở trên khắp nước Trung Hoa đã từng
bị chà đạp, bị sỉ nhục và chịu nhiều đắng cay trong nửa thế kỷ qua. Tầng lớp
này không ít đâu, con số có thể đến hàng trăm triệu hoặc hơn và đang sống trên
khắp miền của đất nước họ. Chính quyền hiện tại đang áp đảo họ, khiến họ phải
câm lặng, nhưng chính quyền không thể thu phục được lòng họ và họ sẽ bùng lên
bất cứ lúc nào.
Đến Thượng Hải, tôi thấy Thượng Hải thay đổi rất nhiều. Nhưng khi
tôi về thăm trường cũ, đến thăm thầy cô giáo cũ vẫn đang sống trong "Đồng
tế tân thôn" bên cạnh trường và thăm nhà riêng một vài bạn học cũ, tôi
thấy một cuộc sống khác hẳn. Họ rất nghèo nàn và thật khắc khổ. Có bạn vừa gặp
tôi, liền ôm hai vai tôi và khóc nức nở. Đây không phải vì họ cảm động, vì mừng
vui hội ngộ sau nhiều năm xa cách. Họ khóc vì gặp lại chúng tôi là gặp lại nhân
chứng của một thời nhục nhã và đáng xấu hổ. Tôi đọc được tình cảm đó khi tôi
xem bộ phim truyện "Nghiệp chướng " nói về những éo le và mất mát đeo
đẳng suốt đời lớp thanh niên trí thức Thượng Hải, trong đó có rất nhiều người
từng là bạn tôi. "Nghiệp chướng" là cái giá rất đắt mà những người
cầm đầu đất nước này đã gây ra cho bao gia gia đình trí thức để rồi đến lúc họ
sẽ phải trả. Một người bạn tôi nói với tôi: "Tôi từng là Hồng vệ binh và
đang là nạn nhân của Hồng vệ binh suốt đời. Đó là lũ con tôi, cháu tôi hôm
nay."
Có trong tay cuốn địa chỉ và số điện thoại của bạn cũ ở khắp nơi,
chúng tôi đã giành ra gần hai tháng đi thăm bạn và để quan sát sự thay đổi của
nước Trung Hoa. Nhưng khắp Trung Quốc hôm nay, ngoài những người rất câm lặng,
rất đau khổ như tôi vừa nói, còn lớp người Trung Quốc thứ ba đang vừa là chỗ
dựa vừa là gánh nặng uy hiếp Nhà nước Trung Quốc: Bọn này đông lắm. Đó là lũ
lưu manh mạnh vì gạo bạo vì tiền. Đáng tiếc, các vị trong chính quyền Nhà nước
Trung Hoa đã từng có thói quen dùng bọn lưu manh này làm "chỗ dựa" để
đối phó với các lực lượng thù địch, nhưng khi không cần nữa hoặc không sử dụng
được nữa thì họ tiêu diệt "chỗ dựa" đó đi.
Tôi nhớ lại ngày chúng
tôi chuẩn bị về nước năm 1966, bà Giang Thanh nổi lên oai phong y như Võ Tắc
Thiên ngày xưa, cạnh bà có 3 kẻ thân cận là Vương Hồng Văn, Diêu Văn Nguyên và
Trịnh Xuân Kiều, tạo thành một "Bộ tứ trụ" điều khiển hơn một tỷ dân.
Sau khi đã biết quá rõ mục tiêu truyền kiếp
của nhà cầm quyền Trung Hoa suốt mấy ngàn năm là trấn áp nôi bộ, tranh chấp
quyền lực và chiếm bằng được đất nước ta. Tôi quyết định xin về hưu từ năm 1992
với nhiều lý do riêng, một lý do trong đó là muốn tập trung thời gian vào
nghiên cứu các lý thuyết về phong thuỷ địa mạch, thứ lý thuyết mà từ năm 1955
tôi đã "không may" bị tận mắt chứng kiến.
Chúng ta phải cám ơn các nhà truyền giáo Phương Tây, đặc biệt là các giáo sĩ Bồ Đào Nha có công đầu về việc xử dụng chữ gốc La Tinh để phiên âm tiếng Việt trong việc truyền đạo vào nước ta ở thế kỷ 16–17 như Francisco de Pina, đến người biên soạn cuốn từ điển Việt–Bồ–La đầu tiên là Alexandre de Rhodes (1651) và nhất là người có công hoàn chỉnh chữ quốc ngữ ở thế kỷ thứ 19 để trở thành chữ viết chính thống của nước ta đầu thế kỷ 20 là Bá Đa Lộc – Pierre Joseph Georges Pigneau de Behaine. Cám ơn các vị giáo sĩ đã góp phần giúp ta thoát ra khỏi ảnh hưởng của văn hoá nô dịch Trung Hoa. Nhưng đây cũng là một sơ hở khiến lớp trí thức trưởng thành trong thế kỷ thứ 20 đã lãng quên một số cơ sở quan trọng của khoa học Phương Đông, trong đó có Phong Thuỷ, Địa Mạch và Kinh Dịch.
Chúng ta phải cám ơn các nhà truyền giáo Phương Tây, đặc biệt là các giáo sĩ Bồ Đào Nha có công đầu về việc xử dụng chữ gốc La Tinh để phiên âm tiếng Việt trong việc truyền đạo vào nước ta ở thế kỷ 16–17 như Francisco de Pina, đến người biên soạn cuốn từ điển Việt–Bồ–La đầu tiên là Alexandre de Rhodes (1651) và nhất là người có công hoàn chỉnh chữ quốc ngữ ở thế kỷ thứ 19 để trở thành chữ viết chính thống của nước ta đầu thế kỷ 20 là Bá Đa Lộc – Pierre Joseph Georges Pigneau de Behaine. Cám ơn các vị giáo sĩ đã góp phần giúp ta thoát ra khỏi ảnh hưởng của văn hoá nô dịch Trung Hoa. Nhưng đây cũng là một sơ hở khiến lớp trí thức trưởng thành trong thế kỷ thứ 20 đã lãng quên một số cơ sở quan trọng của khoa học Phương Đông, trong đó có Phong Thuỷ, Địa Mạch và Kinh Dịch.
Sau 17 năm nghỉ việc ở Bộ Xây dựng, tôi đã cố bù lại những lỗ hổng mà lớp trí thức ở lứa tuổi của tôi đã mắc phải. Lúc này tôi đã có nhiều thời gian để hiểu rõ trong cấu trúc phong thuỷ địa mạch của nước ta có một thứ mà nhà cầm quyền Trung Quốc rất thèm muốn. Họ thèm muốn vì họ không có và họ hiểu rằng làm chủ được cái đó là họ chiếm được nước ta và chiếm được nước ta là họ làm chủ được cả thế giới. Tôi nói nhà cầm quyền Trung Quốc thèm muốn chứ không phải nhân dân Trung Quốc, bởi vì thực hiện mộng bá quyền, người dân lương thiện Trung Quốc không hề được hưởng lợi gì, có khi còn bị thiệt thòi hơn.
HỆ ĐỊA MẠCH NƯỚC TRUNG HOA: CHIẾC BÁNH SANDWICH.
Một đất nước rộng lớn mà các lớp đất, đá, núi, sông...chồng xếp thành từng lớp như cái bánh sandwich.
Theo phân tích và tổng kết hệ thống đã công bố tháng 5/2005 của KTS Lý Thái Sơn, thì đó là một thứ liên kết rời rạc của hệ Tam đại Càn Long sẽ bị trôi tuột đi bất cứ lúc nào, đó là một nước Trung Hoa có các khu vực Bắc Hoàng Hà, khu kẹp giữa Hoàng Hà và Trường Giang, khu Nam Trường Giang, tạo thành một quẻ Chấn gồm hào một liền và hào hai gãy, hào ba gẫy có nghĩa là sấm sét, không ổn định, dễ vỡ tung; cũng như khu Đông và khu Tây là hai vệt thẳng đứng, không có mối quan hệ về kinh tế, phong tục tập quán, sắc tộc và có thể tách ra thành 4 hoặc 5 quốc gia độc lập.
Mặt khác, ngay cả đến dân tộc Đại Hán cũng là kết quả của một quá trình chiến tranh và đồng hoá lẫn nhau, vì người Hán nguyên gốc rất ít, nhưng người ta có chính sách cưỡng chế người dân tộc khác biến thành người Hán, nên họ bị phản đối và ở nước Trung Hoa chưa bao giờ hết nội chiến. Ở Trung Hoa không có hai chữ "ĐỒNG BÀO" và trên đất nước này không có cụm từ sức mạnh đoàn kết toàn dân. Hiện nay không chỉ Đài Loan là quốc gia độc lập mà Tây Tạng, Tân Cương, Hồng Kông, Ma Cao,... đang như các quốc gia bị Bắc Kinh đô hộ. Nếu tách được ra thì các quốc gia đó sẽ giầu có và trù phú hơn nhiều. Còn Bắc Kinh thì luôn phải dùng biện pháp đàn áp. Họ đàn áp ở ngay giữa Thủ đô như sự kiện Thiên An Môn năm 1989 và đàn áp dã man các vùng xa xôi như Tây Tạng, Tân Cương trong năm 2008 và 2009.
Tuy vậy, các thế hệ cầm quyền Trung Hoa từ thời cổ đến nay đều đã nghiên cứu kỹ phong thuỷ địa mạch và họ ý thức được rằng có một cách vãn hồi được yếu điểm cấu trúc trượt của chiếc bánh sandwich là phải làm chủ đường kinh mạch lợi hại đi từ đỉnh Everest cao gần 9000m của dãy Himalaya trên Cao nguyên Tây Tạng*, qua Cao nguyên Vân Nam**, qua Đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, xuống Vịnh Hạ Long rồi đi đến đáy đại dương sâu nhất thế giới gần 11km ở Vịnh Mindanao, Philippines. Đó cũng là mạch đất độc đáo nối từ "Cổng Trời" đầy thiên khí đến "Địa Huyệt" đầy của cải có độ cao chênh nhau ngót 20km và là đường kinh mạch quan trọng nhất thế giới. Nếu họ làm chủ được đường kinh mạch này thì không những họ có gọng kìm xiết chặt chiếc bánh sandwich đó không cho nó trôi trượt đi, mà họ có thể mau chóng làm chủ cả thế giới. Bởi vậy, lúc này họ đang cố sức "Củng cố nơi họ đã là chủ và chiếm thêm nơi họ chưa chiếm được" để thực hiện ước nguyện bá chủ toàn cầu.
(**) Sau hàng ngàn năm với nhiều thủ đoạn, Cao nguyên Vân Nam rộng 390.000 km², có 26 dân tộc đến nay đã bị họ khống chế hoàn toàn, người dân tộc Di, dân tộc Choang mỗi ngày một ít, người Hán đã di cư về đây trên 20 triệu và thành phố Côn Minh hiện đại hơn ba triệu dân ngày nay là thành phố của người Hán (người Hán thật thì ít, người Hán mới bị đồng hoá thì nhiều).
(*) Ngược lại, khu tự trị Tây Tạng, nóc nhà của thế giới và là Thủ đô của Đạo Phật, vốn là một quốc gia độc lập văn minh, đã bị chính thức lệ thuộc vào Trung Hoa từ năm 1914 đến nay. Thật xấu hổ và nhục nhã cho một cho một chính thể, một Nhà nước suốt ngày hô hào "đoàn kết các dân tộc" lại đang đàn áp và huỷ diệt người Tây Tạng, đập phá chùa chiền đến mức người đại diện cho Đạo Phật và là linh hồn của dân tộc Tạng là Đức Đa Lai Lạt Ma phải đi lưu vong, việc đó đã khiến Ấn Độ và các quốc gia Tây Á không thể làm ngơ và đang ở bên dân tộc Tạng. Điều đó cũng có nghĩa là Nhà nước Trung Quốc sẽ không thể đạt được cái họ muốn.
Còn ở
Việt Nam chúng ta? Lịch
sử bốn ngàn năm của nước ta là lịch sử chống ngoại xâm. "Ngoại xâm"
đây là chỉ giặc Phương Bắc, bởi vì Phương Đông, Phương Tây và Phương Nam gần như
không có. Hơn hai ngàn năm qua thì giặc ngoại xâm đã bị chỉ đích danh những
nhân vật cụ thể như Triệu Đà, Mã Viện, Cao Biền,... Bởi thế ta rất cần biết tại
sao họ quyết chiếm nước ta và tại sao họ không thể chiếm nổi?
ĐỊA MẠCH VIỆT NAM: KHÚC QUAN TRỌNG TRONG ĐỊA MẠCH TOÀN CẦU.
Trong quá trình địa kiến tạo vỏ trái đất, có những nếp gấp lớn tạo ra dẫy núi cao đóng vai trò đường kinh mạch trọng yếu xuyên qua nhiều quốc gia như phần trên đã phân tích. Sau Tây Tạng, Vân Nam, thì Đồng bằng Bắc Bộ nước ta là phần rất quan trọng của mạch đất này (đọc Đại địa mạch quốc gia). Dãy Himalaya chạy vòng vèo như hình con rồng lớn, đoạn đến nước ta là dãy Hoàng Liên Sơn với đỉnh Fansipan cao 3143m, đến Việt Trì mạch đất lặn xuống, toả ra và qua sông Đà lại xuất hiện cụm Ba Vì cao 1226m, điểm nhấn của THĂNG LONG NÚI CHẦU SÔNG TỤ. Trước khi Vua Lý Thái Tổ chọn nơi này dựng kinh đô Thăng Long thì người Trung Hoa đã dòm ngó vùng đất kỳ bí này và Cao Biền Tấu Thư kiểu tự là một trong những kết qủa tìm kiếm công phu nhất. Theo báo cáo của Cao Biền, một người tài gioỉ gốc Mãn Châu thì vùng đất nhỏ bé này tụ hội rất nhiều linh khí đất trời và sản sinh ra nhiều hiền tài, ông ta tìm thấy 632 huyệt chính, huyệt phát đế và 1617 huyệt bàng, huyệt phát quan, nên một mặt ông ta theo lệnh vua Đương Y Tôn yểm phá các báu huyệt để tiêu diệt hiền tài của nước ta, mặt khác ông ta hiểu giá trị của vùng đất này, nên đã xây thành Đại La mưu đồ thực hiện mộng bá vương và đã bị vua Đường trị tội. Âm mưu yểm huyệt Thăng Long chưa bao giờ ngơi nghỉ trong đầu các nhà cầm quyền Trung Hoa và hành động thô bạo ngày 11/09/1955 mà tôi vô tình chứng kiến có làm cho họ thận trọng hơn.
Hiện nay họ biết không thể ngang nhiên đổ bộ vào Thủ đô, họ đi vòng vèo từ phiá Tây qua Lào, qua Cam-pu-chia và họ đang chiếm bauxite Tây Nguyên, còn tại Trung tâm Thủ đô, họ đang nhờ bàn tay nào phá Thủ đô của ta? Tinh ý, chúng ta sẽ biết.
ĐỊA MẠCH VIỆT NAM: VÙNG BIỂN ĐÔNG, YẾT HẦU CỦA ĐÔNG NAM Á.
Không phải ngẫu nhiên vô cớ mà trên Vịnh Bắc Bộ rộng lớn của chúng ta còn có Vịnh Hạ Long bao gồm 1969 hòn đảo lớn nhỏ, ngay sát Cảng Vân Đồn lại có Vịnh Bái Tử Long và ngoài khơi xa của Hải Phòng có đảo Bạch Long Vĩ, ngoài ra còn có nhiều đảo có tên liên quan đến Rồng như Hòn Rồng, Long Châu, thôn Cái Rồng,... Cái tên Long liên quan đến phần đuôi của con Rồng lớn xoè ra ở Đông Bắc Bộ, đi xuống nước ở Cảng Vân Đồn và kết thúc ở đáy đại dương thuộc Vịnh Mindanao thuộc Philippines. Có lẽ đây cũng chính là cái chốt trọng yếu khiến Trung Quốc quyết tâm xây dựng lực lượng hải quân hùng mạnh và ngang nhiên công bố đường lưỡi bò chín đoạn trên Biển Đông vào tháng 5/2009, vi phạm trực tiếp đến 5 quốc gia Đông Nam Á và nền an ninh cả thế giới. Đây là sản phẩm kế thừa của chính quyền Quốc dân Đảng từ năm 1947, điều đó cũng cho thấy thời nào cũng vậy, mưu đồ bá quyền của chính quyền nhà nước họ không thay đổi. Chắc hẳn lúc này không chỉ các nước Việt Nam, Philippines, Brunei, Indonesia và Malaysia ý thức được đường lưỡi bò này vi phạm đến chủ quyền của mình, mà gần như cả thế giới đã nhận ra mưu đồ chiếm cứ con Rồng lớn nhất thế giới của nhà nước Trung Hoa, bởi vì chiếm cứ được cái yết hầu này là họ chiếm được cả Châu Á và một khi chiếm được Châu Á rồi thì bước đi tiếp sẽ ra sao? Thế giới, trong đó có Mỹ, Nhật, Ấn Độ và các nước Châu Âu có để cho họ làm điều đó không?
ĐỊA MẠCH VIỆT NAM: CẤU TRÚC ÂM DƯƠNG HOÀN CHỈNH.
Đồng bằng Bắc bộ là cái nôi đầu tiên của Nhà nước Văn Lang, nhưng hình chữ S của Con Rồng đất nước Việt Nam ngày nay đã tạo nên một thế cân bằng Âm Dương rất hoàn chỉnh. Như sự ví von của nhà thơ Xuân Diệu, thì Đất nước ta như một con tàu/ Mũi thuyền ta đó mũi Cà Mau.
Cốt lõi Trục Phong thủy nước ta là:
ÂM DƯƠNG TƯƠNG ĐỒNG
Biển Đông Thái Âm
ĐỊA MẠCH VIỆT NAM: KHÚC QUAN TRỌNG TRONG ĐỊA MẠCH TOÀN CẦU.
Trong quá trình địa kiến tạo vỏ trái đất, có những nếp gấp lớn tạo ra dẫy núi cao đóng vai trò đường kinh mạch trọng yếu xuyên qua nhiều quốc gia như phần trên đã phân tích. Sau Tây Tạng, Vân Nam, thì Đồng bằng Bắc Bộ nước ta là phần rất quan trọng của mạch đất này (đọc Đại địa mạch quốc gia). Dãy Himalaya chạy vòng vèo như hình con rồng lớn, đoạn đến nước ta là dãy Hoàng Liên Sơn với đỉnh Fansipan cao 3143m, đến Việt Trì mạch đất lặn xuống, toả ra và qua sông Đà lại xuất hiện cụm Ba Vì cao 1226m, điểm nhấn của THĂNG LONG NÚI CHẦU SÔNG TỤ. Trước khi Vua Lý Thái Tổ chọn nơi này dựng kinh đô Thăng Long thì người Trung Hoa đã dòm ngó vùng đất kỳ bí này và Cao Biền Tấu Thư kiểu tự là một trong những kết qủa tìm kiếm công phu nhất. Theo báo cáo của Cao Biền, một người tài gioỉ gốc Mãn Châu thì vùng đất nhỏ bé này tụ hội rất nhiều linh khí đất trời và sản sinh ra nhiều hiền tài, ông ta tìm thấy 632 huyệt chính, huyệt phát đế và 1617 huyệt bàng, huyệt phát quan, nên một mặt ông ta theo lệnh vua Đương Y Tôn yểm phá các báu huyệt để tiêu diệt hiền tài của nước ta, mặt khác ông ta hiểu giá trị của vùng đất này, nên đã xây thành Đại La mưu đồ thực hiện mộng bá vương và đã bị vua Đường trị tội. Âm mưu yểm huyệt Thăng Long chưa bao giờ ngơi nghỉ trong đầu các nhà cầm quyền Trung Hoa và hành động thô bạo ngày 11/09/1955 mà tôi vô tình chứng kiến có làm cho họ thận trọng hơn.
Hiện nay họ biết không thể ngang nhiên đổ bộ vào Thủ đô, họ đi vòng vèo từ phiá Tây qua Lào, qua Cam-pu-chia và họ đang chiếm bauxite Tây Nguyên, còn tại Trung tâm Thủ đô, họ đang nhờ bàn tay nào phá Thủ đô của ta? Tinh ý, chúng ta sẽ biết.
ĐỊA MẠCH VIỆT NAM: VÙNG BIỂN ĐÔNG, YẾT HẦU CỦA ĐÔNG NAM Á.
Không phải ngẫu nhiên vô cớ mà trên Vịnh Bắc Bộ rộng lớn của chúng ta còn có Vịnh Hạ Long bao gồm 1969 hòn đảo lớn nhỏ, ngay sát Cảng Vân Đồn lại có Vịnh Bái Tử Long và ngoài khơi xa của Hải Phòng có đảo Bạch Long Vĩ, ngoài ra còn có nhiều đảo có tên liên quan đến Rồng như Hòn Rồng, Long Châu, thôn Cái Rồng,... Cái tên Long liên quan đến phần đuôi của con Rồng lớn xoè ra ở Đông Bắc Bộ, đi xuống nước ở Cảng Vân Đồn và kết thúc ở đáy đại dương thuộc Vịnh Mindanao thuộc Philippines. Có lẽ đây cũng chính là cái chốt trọng yếu khiến Trung Quốc quyết tâm xây dựng lực lượng hải quân hùng mạnh và ngang nhiên công bố đường lưỡi bò chín đoạn trên Biển Đông vào tháng 5/2009, vi phạm trực tiếp đến 5 quốc gia Đông Nam Á và nền an ninh cả thế giới. Đây là sản phẩm kế thừa của chính quyền Quốc dân Đảng từ năm 1947, điều đó cũng cho thấy thời nào cũng vậy, mưu đồ bá quyền của chính quyền nhà nước họ không thay đổi. Chắc hẳn lúc này không chỉ các nước Việt Nam, Philippines, Brunei, Indonesia và Malaysia ý thức được đường lưỡi bò này vi phạm đến chủ quyền của mình, mà gần như cả thế giới đã nhận ra mưu đồ chiếm cứ con Rồng lớn nhất thế giới của nhà nước Trung Hoa, bởi vì chiếm cứ được cái yết hầu này là họ chiếm được cả Châu Á và một khi chiếm được Châu Á rồi thì bước đi tiếp sẽ ra sao? Thế giới, trong đó có Mỹ, Nhật, Ấn Độ và các nước Châu Âu có để cho họ làm điều đó không?
ĐỊA MẠCH VIỆT NAM: CẤU TRÚC ÂM DƯƠNG HOÀN CHỈNH.
Đồng bằng Bắc bộ là cái nôi đầu tiên của Nhà nước Văn Lang, nhưng hình chữ S của Con Rồng đất nước Việt Nam ngày nay đã tạo nên một thế cân bằng Âm Dương rất hoàn chỉnh. Như sự ví von của nhà thơ Xuân Diệu, thì Đất nước ta như một con tàu/ Mũi thuyền ta đó mũi Cà Mau.
Cốt lõi Trục Phong thủy nước ta là:
ÂM DƯƠNG TƯƠNG ĐỒNG
Biển Đông Thái Âm
Đảo Hải Nam Thiếu Dương
Bán đảo Đông Dương Thái Dương
Biển Hồ Thiếu Âm
Điều đó cho thấy từ mấy ngàn năm trước, cái nôi Đồng bằng Bắc Bộ đã vững như bàn thạch, từ thế kỷ 16 trở lại đây, khi đất nước đã phát triển xuống phía Nam thì con thuyền đất nước đã đủ tư cách rẽ sóng ra khơi và điều đó cũng cho thấy đã là con thuyền thì các phần mũi thuyền, thân thuyền và đuôi thuyền không thể tách rời nhau. Bởi vậy hơn lúc nào hết, chúng ta cần ý thức được sự sống còn của vận mệnh đất nước, để xác định thái độ và hành động của mình.
LỜI CUỐI BÀI.
Để kết thúc bài viết, tôi muốn quay lại những dòng mở đầu, rằng tôi không có chút năng khiếu nào trong những vấn đề kinh tế, xã hội và an ninh chính trị, nhưng do nghề nghiệp và do số phận, tôi đã có dịp hiểu rất sâu vào cốt lõi của vấn đề kinh tế và chính trị trong mối quan hệ với Trung Quốc hiện nay. Bởi vậy tôi muốn khuyên tất cả mọi người, nhất là các vị sinh ra sau tôi và chưa có dịp trải nghiệm như tôi, là hãy tỉnh táo để thoát ra khỏi cõi u mê của sự hoang tưởng trong mối quan hệ với Trung Quốc. Cha ông ta đã trải qua hàng ngàn năm mới đưa ra được lời dậy bảo và bản thân tôi phải trải qua hơn 55 năm để chiêm nghiệm và thấm nhuần lời dậy bảo của cha ông.
Tôi biết, lúc này đã có rất nhiều người suy nghĩ như tôi hoặc sâu sắc hơn tôi, nhưng vẫn còn khá đông người đang lầm lẫn và ảo tưởng, không ít người còn rất sợ vía người bạn lớn vĩ đại Trung Hoa, tôi không trách họ vì đôi lúc chính tôi cũng tin ở sức mạnh Trung Quốc và nể sợ họ lắm. Nhưng xin mọi người hãy bình tâm và suy ngẫm xem cái gì tạo nên sức mạnh của họ và cái gì đang giết chết sức mạnh đó?
Đông dân là một sức mạnh.
Đúng vậy, ngày tôi đang học ở Thượng Hải thì Trung Quốc mới xây xong cầu Trường Giang, họ rất tự hào nói rằng, chỉ cần toàn dân Trung Hoa, mỗi người tiết kiệm một cái bánh bao là đủ xây một cái cầu Trường Giang. Đó là một việc làm tốt.
Trong thế vận hội 2008 ở Bắc Kinh, họ xây dựng Sân vận động tổ chim độc đáo hết 432 triệu USD, nếu chia cho 1,3 tỷ dân thì họ phải cắt xén của mỗi người 0,32 USD, việc đó có vẻ cũng vẫn tốt.
Hiện nay họ đang làm nhiều việc ghê gớm hơn như xây dựng đại hàng không mẫu hạm trên Biển Đông và các căn cứ hải quân... tôi nghĩ họ cũng sẽ làm được đủ để doạ nạt chúng ta và các nước trong vùng.
Có điều, một thảm hoạ đông dân mà Nhà nước không vì dân, thì Nhà nước sẽ khốn đốn vì sự phản ứng của dân. Có ai biết rằng trên đất nước Trung Hoa vĩ đại đang có 200 triệu người sống lang thang không nhà cửa và đặc biệt hệ thống băng đảng Mafia ở hầu hết các thành phố lớn như Thẩm Quyến, Thượng Hải, Quảng Châu... đang chia cắt quyền lực của đất nước họ hay không? Việc tầy trời này thiết nghĩ cũng không cần nhiều lời và chính là việc của các nhà chiến lược.
Vậy thì mọi nỗ lực của họ có thể có một kết thúc có hậu hay không?
KTS. Trần Thanh Vân
Bán đảo Đông Dương Thái Dương
Biển Hồ Thiếu Âm
Điều đó cho thấy từ mấy ngàn năm trước, cái nôi Đồng bằng Bắc Bộ đã vững như bàn thạch, từ thế kỷ 16 trở lại đây, khi đất nước đã phát triển xuống phía Nam thì con thuyền đất nước đã đủ tư cách rẽ sóng ra khơi và điều đó cũng cho thấy đã là con thuyền thì các phần mũi thuyền, thân thuyền và đuôi thuyền không thể tách rời nhau. Bởi vậy hơn lúc nào hết, chúng ta cần ý thức được sự sống còn của vận mệnh đất nước, để xác định thái độ và hành động của mình.
LỜI CUỐI BÀI.
Để kết thúc bài viết, tôi muốn quay lại những dòng mở đầu, rằng tôi không có chút năng khiếu nào trong những vấn đề kinh tế, xã hội và an ninh chính trị, nhưng do nghề nghiệp và do số phận, tôi đã có dịp hiểu rất sâu vào cốt lõi của vấn đề kinh tế và chính trị trong mối quan hệ với Trung Quốc hiện nay. Bởi vậy tôi muốn khuyên tất cả mọi người, nhất là các vị sinh ra sau tôi và chưa có dịp trải nghiệm như tôi, là hãy tỉnh táo để thoát ra khỏi cõi u mê của sự hoang tưởng trong mối quan hệ với Trung Quốc. Cha ông ta đã trải qua hàng ngàn năm mới đưa ra được lời dậy bảo và bản thân tôi phải trải qua hơn 55 năm để chiêm nghiệm và thấm nhuần lời dậy bảo của cha ông.
Tôi biết, lúc này đã có rất nhiều người suy nghĩ như tôi hoặc sâu sắc hơn tôi, nhưng vẫn còn khá đông người đang lầm lẫn và ảo tưởng, không ít người còn rất sợ vía người bạn lớn vĩ đại Trung Hoa, tôi không trách họ vì đôi lúc chính tôi cũng tin ở sức mạnh Trung Quốc và nể sợ họ lắm. Nhưng xin mọi người hãy bình tâm và suy ngẫm xem cái gì tạo nên sức mạnh của họ và cái gì đang giết chết sức mạnh đó?
Đông dân là một sức mạnh.
Đúng vậy, ngày tôi đang học ở Thượng Hải thì Trung Quốc mới xây xong cầu Trường Giang, họ rất tự hào nói rằng, chỉ cần toàn dân Trung Hoa, mỗi người tiết kiệm một cái bánh bao là đủ xây một cái cầu Trường Giang. Đó là một việc làm tốt.
Trong thế vận hội 2008 ở Bắc Kinh, họ xây dựng Sân vận động tổ chim độc đáo hết 432 triệu USD, nếu chia cho 1,3 tỷ dân thì họ phải cắt xén của mỗi người 0,32 USD, việc đó có vẻ cũng vẫn tốt.
Hiện nay họ đang làm nhiều việc ghê gớm hơn như xây dựng đại hàng không mẫu hạm trên Biển Đông và các căn cứ hải quân... tôi nghĩ họ cũng sẽ làm được đủ để doạ nạt chúng ta và các nước trong vùng.
Có điều, một thảm hoạ đông dân mà Nhà nước không vì dân, thì Nhà nước sẽ khốn đốn vì sự phản ứng của dân. Có ai biết rằng trên đất nước Trung Hoa vĩ đại đang có 200 triệu người sống lang thang không nhà cửa và đặc biệt hệ thống băng đảng Mafia ở hầu hết các thành phố lớn như Thẩm Quyến, Thượng Hải, Quảng Châu... đang chia cắt quyền lực của đất nước họ hay không? Việc tầy trời này thiết nghĩ cũng không cần nhiều lời và chính là việc của các nhà chiến lược.
Vậy thì mọi nỗ lực của họ có thể có một kết thúc có hậu hay không?
KTS. Trần Thanh Vân
No comments:
Post a Comment