20200423 Ban tin bien Dong
China continues South China Sea military action
despite COVID-19
Despite the continuing
coronavirus pandemic, China has not slowed down military and research
activities in disputed areas of the South China Sea. Now, in an unusual move,
the Philippines is getting involved. Al Jazeera's Barnaby Lo has more from
Manila, the capital of the Philippines.
- Subscribe to our channel: http://aje.io/AJSubscribe
- Follow us on Twitter: https://twitter.com/AJEnglish
- Find us on Facebook: https://www.facebook.com/aljazeera
- Check our website: https://www.aljazeera.com/ #AlJazeeraEnglish #Coronavirus #China
Three ASEAN States Push Back on Beijing In South China
Sea
Gravitas: Trump threatens Beijing, German paper sends
a bill to China!
Germany sent China a bill for the cost of a pandemic disease,
CCP virus.
Coronavirus: New Facts about Infection Mechanisms -
NHK Documentary
Pr Luc Montagnier sur l’origine du COVID 19
SCANDALE Luc Montagnier homéopathe affirme que le
Covid est une fabrication.
Evidence mounts COVID-19 came from a lab in Wuhan
'More evidence' shows COVID-19 outbreak was due to 'an
accident' in a Wuhan lab
French Nobel of medicine reveal the #COVID19 had been
built in laboratory in Wuhan! (18 April 2020)
AIDS co-discoverer Virologist say Coronavirus Created
In A Lab using Mallaria & HIV
(translated)
Prof Luc Montagnier the Covid19 Modification HIV DNA laboratory Wuhan ce 17
avril 2020
•Apr 17, 2020
improved French translation for
other languages.
.. dans l'émission HDPros
présenté par Pascal Praud , le Professeur Luc Montagnier révèle que le
coronavirus a des séquences ADN du SIDA dans une seule partie de la longue
séquence ADN du Covid19 ce qui prouve que ce n'est pas naturelle 6:23 , il a découvert le Sida , a
reçu un prix Nobel ! 2:37 l'appareil génétique du virus
est un long ruban , dans ce ruban on a fixé des séquences de VIH a un endroit
prècis mais pas n'importe quelles séquences , celles ci ont un but antigénique
! 15:05 vous nous dites qu'il y a
plusieurs séquences artificielles dans ce virus , pourquoi personne d'autres ne
le dit ? alors il y a une réponse mauvaise la dessus c'est que ces séquences
sont courtes ,elles sont trop courte etc , mais on répond tout de suite parce
que ces longueurs sont quand même des longueurs qui portent une information
génétique , contrairement a ce qui est dit que c'est le hasard ,ce n'est pas
vrai ! 20:47 'peut on attraper le
coronavirus par transmission sexuel' je ne crois pas ... ce virus est un corona
donc respiratoire, les séquences du VIH dans le corona sont très petite
minoritaire si on travaille sur la protide de surface on peut modifier son
propisme , c'est dire qu'il va attaquer d'autres types de cellules au départ . 26:03 'ce virus aurait perdu toute
sa virulence' La nature aime les chose armonieuse ce qui est étranger, par
exemple, un autre virus venant d'un autre virus n'est pas bien toléré , les
séquences vont muter, la région qui porte les séquences du VIH mute plus vite
que les autres séquences du Covid19 parce que étrangère au coronavirus 31:09 "est ce que sa
contagiosité est lié a sa fabrication artificielle" Oui, c'est possible ,
parce que la transmission est lié a l'association entre une protéine du virus
et a un récepteur sur les cellules, plus le virus trouvent des récepteurs sur
ces cellules plus il va pouvoir se coller et pénétrer, transmettre l'information
! 33:03 la ville de Wuhan est très en
avance sur la 5G , les ondes ont pu contribué au pouvoir patogènes du Covid19 a
la fin de la vidéo le professeur Luc Montagnier découvreur du VIH en 1983 et
Prix Nobel de médecine en 2008 dit qu'il y a eu une erreur éthique d'avoir
associé des séquences du SIDA au Coronavirus
Sun, Apr 19 at 4:19 PM
Đối Phó Đại Dịch COVID-19
Apr 19, 2020
Chương Trình Đối Phó Đại Dịch
Bản Tin Số 3 -- Ngày 19 tháng 4, 2020
Tin tức cập nhật
Tính đến ngày 16/04:
- 70% trong số 30 triệu tiểu thương đã nộp đơn vay tiền PPP. Toàn bộ số tiền $349 tỉ đã được chấp thuận cho 1.6 triệu đơn vay tiền PPP; tiền vay trung bình là $240K. Các ngân hàng đã ngưng nhận đơn vay tiền PPP.
- 50% số tiểu thương đã nộp đơn vay tiền EIDL với tổng số là $383 tỉ, trong khi ngân sách chỉ có $17 tỉ cho khoản vay này.
- Số ngân hàng cho vay PPP tăng từ 1,800 trước đây lên gần 5,000 hiện nay.
- Quốc Hội đang soạn thảo luật tăng thêm $250 - $650 tỉ cho chương trình PPP, thêm $50 tỉ cho EIDL, và thêm $15 tỉ cho khoản tiền EIDL ứng trước mà không phải hoàn trả.
- 70% trong số 30 triệu tiểu thương đã nộp đơn vay tiền PPP. Toàn bộ số tiền $349 tỉ đã được chấp thuận cho 1.6 triệu đơn vay tiền PPP; tiền vay trung bình là $240K. Các ngân hàng đã ngưng nhận đơn vay tiền PPP.
- 50% số tiểu thương đã nộp đơn vay tiền EIDL với tổng số là $383 tỉ, trong khi ngân sách chỉ có $17 tỉ cho khoản vay này.
- Số ngân hàng cho vay PPP tăng từ 1,800 trước đây lên gần 5,000 hiện nay.
- Quốc Hội đang soạn thảo luật tăng thêm $250 - $650 tỉ cho chương trình PPP, thêm $50 tỉ cho EIDL, và thêm $15 tỉ cho khoản tiền EIDL ứng trước mà không phải hoàn trả.
Các buổi trình bày trực tuyến (webinar)
Để tránh cho đồng hương
người Việt hụt gói hỗ trợ tới đây, BPSOS bắt đầu loạt buổi trình bày trực tuyến
(webinar). Xem video thu lại và tài liệu trình bày ngày 16
tháng 4 về chương trình vay tiền PPP và EIDL. Các buổi webinar kế tiếp:
- Cách điền đơn vay tiền PPP và EIDL
- Xin tiền thất nghiệp
- Tác động về cảm xúc và tâm trí của đại dịch
- Những cống hiến của người Mỹ gốc Việt trong phòng, chống đại dịch
Hãy ghi danh để nhận thông báo về các webinar này.
- Cách điền đơn vay tiền PPP và EIDL
- Xin tiền thất nghiệp
- Tác động về cảm xúc và tâm trí của đại dịch
- Những cống hiến của người Mỹ gốc Việt trong phòng, chống đại dịch
Hãy ghi danh để nhận thông báo về các webinar này.
Tóm tắt 3 gói hỗ trợ kinh tế của chính quyền Hoa Kỳ
(1) Families First
Coronavirus Response Act (Gia Đình Trên Hết - Đối Phó Đại Dịch Coronavirus):
Chủ nhân phải cho nhân viên hưởng các ngày nghỉ bệnh và được hưởng lương, thử
nghiệm về Coronavirus được miễn phí, mở rộng chương trình trợ cấp thực phẩm và
trợ cấp thất nghiệp...
(2) Preparedness & Response Supplemental Appropriation Act (Ngân Sách Bổ Túc để Sẵn Sàng Đáp Ứng) với ngân khoản bổ túc là 8.3 tỷ dollars cấp cho các bộ để đáp ứng lại các chi tiêu cần thiết nhằm phòng chống đại dịch Coronavirus.
(3) Đạo Luật CARES Act (Coronavirus Aid, Relief, and Economic Security) cung cấp ngân khoản 2,200 tỷ dollars (2.2 trillions) để cứu vãn và phuc hồi nền Kinh Tế Hoa Kỳ, đồng thời trợ giúp các tiểu thương và gia đình người Mỹ.
(2) Preparedness & Response Supplemental Appropriation Act (Ngân Sách Bổ Túc để Sẵn Sàng Đáp Ứng) với ngân khoản bổ túc là 8.3 tỷ dollars cấp cho các bộ để đáp ứng lại các chi tiêu cần thiết nhằm phòng chống đại dịch Coronavirus.
(3) Đạo Luật CARES Act (Coronavirus Aid, Relief, and Economic Security) cung cấp ngân khoản 2,200 tỷ dollars (2.2 trillions) để cứu vãn và phuc hồi nền Kinh Tế Hoa Kỳ, đồng thời trợ giúp các tiểu thương và gia đình người Mỹ.
Quốc Hội dự định sẽ có
gói hỗ trợ thứ 4, tập trung vào phân bổ ngân sách đến các tiểu bang, và gói hỗ
trợ thứ 5, tập trung vào hồi phục kinh tế.
Mon, Apr 20 at 1:01 PM
Chỉ còn 10 ngày nữa
lại tới kỷ niệm ngày quốc hận 30 tháng 4 năm 1975! Mời đọc một bài viết
rất buồn này!
Thùy
Nhiên: Kỷ Niệm Ngày Quốc Hận
Kỷ Niệm Ngày Quốc Hận
Tôi tên Nguyễn Bá Quang, là một sĩ quan QLVNCH cấp bậc Đại Úy
thuộc đơn vị 101 P2/Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH. Ở tù CSVN tại trại tù Tiên Lãnh,
Quảng Nam, Đà Nẵng suốt hơn 12 năm. Qua Mỹ với diện HO.5 năm 1991. Hiện cư ngụ
tại Reda, Califonia.
Trong thời gian tôi ở tù chưa được thả, gia đình vợ con tôi vượt
biển tìm tự do tại Cà Mau tỉnh Minh Hải. Trong chuyến vượt biển hãi hùng ngày
22-2-1985 vợ và sáu người con trai của tôi đã bỏ xác trên biển cả vì bọn hải
tặc làm đắm thuyền. Ngoài ra còn có cả nhạc phụ của tôi và các em vợ cùng các
cháu đã chết một cách tức tưởi trên chuyến tàu đau thương ấy. Chỉ còn sống sót
người con gái yêu thương của tôi tên Thùy Nhiên và dì ruột của cháu là Phạm Thị
Sa.
Năm 1975 mất nước, con gái tôi mới có tám tuổi. Khi CS Bắc Việt
chiếm miền Nam chúng dọa nạt, đấy ải gia đình của các sĩ quan QLVNCH đi cải tạo
tại các trại lao động khổ sai. Vợ con tôi phải đi kinh tế mới tại Cà Mau, Minh
Hải, việc học hành khó khăn, cháu chỉ học tới lớp bảy rồi phải bỏ lỡ dở đi buôn
cá tại vùng ven sông thuộc Cà Mau để kiếm tiền nuôi gia đình và các em trai còn
nhỏ tiếp tục đi học, vì thế nên cháu chỉ có thể thuật lại Nỗi bất hạnh của đời
tôi một cách trung thực.
Là ba của cháu, tôi cũng chỉ sửa những lỗi văn phạm, chính tả.
Qua sự thúc bách của tôi, cháu mới có thể thuật lại câu chuyện thương tâm, vì
mỗi lần nhớ lại những cảnh đau thương tang tóc của gia đình thì cháu đâm thẫn
thờ, ngơ ngẩn hết mấy ngày, và lòng tôi cũng quặn đau vô vàn. Hiện cháu đã lập
gia đình và sống với chồng con tại Úc. Sau đây là câu chuyện của con gái tôi,
nỗi bất hạnh của cháu, cũng là nỗi bất hạnh của tôi.
(Nguyễn Bá Quang)
***** Dưới đây là bài viết *****
Thùy Nhiên (Tác giả)
Sau bao tháng ngày mẹ và các anh chuẩn bị ghe thuyền, từng can
dầu, tom góp từng gói lương khô như gạo sấy, thuốc men v....v...một cách bí
mật. Ông ngoại, gia đình bà dì ruột, gia đình của cha Liêm, từng tốp, từng tốp len
lỏi trong đêm tối lần lượt đến điểm tập trung tai bãi Đá Bạc Cà Mau thuộc tỉnh
Minh Hải.
Tất cả chúng tôi yên lặng lên thuyền, gồm có 22 người đã có mặt
đầy đủ. Tiếng nổ dòn của máy lướt sóng ra khơi, mọi người chúng tôi nín thở hồi
hộp.
Qua mấy giờ lầm lũi chạy trong đêm, trời đã sáng, ánh nắng chan
hòa, chúng tôi đã rời khỏi hải phận Việt Nam, mọi người thở ra nhẹ nhỏm, vui
mừng, bồi hồi xúc động vì đã thoát qua được chặng đường đầy nguy hiểm và bất
trắc nhất, vì nếu chẳng may mà bị VC bắt lại, thì bị tù tội, tịch thu tài sản,
tất cả đều mất sạch. Niềm vui thoát được khỏi bọn công an VC đang miên man
trong đầu óc mọi người, bỗng nhìn đằng xa có chiếc tàu lớn hiện ra, tim tôi
đánh thình thịch, tàu của ai đây? Của CS hay của thế giới tự do? Càng lại gần thì
càng hồi hộp, một thoáng chán nản và sợ sệt hiện rõ trên nét mặt mọi người khi
nhìn rõ màu cờ máu Liên Xô, Thuyền của chúng tôi cố ý lái chệch hướng chiếc tàu
lớn, cứ thế tiến thẳng, đã qua thêm một sự nguy hiểm, và cũng vì thế thuyền đã
chệch hướng đi như ban đầu đã định trước của mình. Chạy thêm vài giờ nữa thì
đằng trước hiện lên một chiếc thuyền đánh cá treo cờ VC (cờ đỏ sao vàng), bên
hông tàu thấy hai chữ Kiên Giang, giây phút trọng đại, mọi người như nín thở,
từ thuyền bên kia phát loa yêu cầu thuyền chúng tôi ngừng lại để cho họ kiểm
soát.
Không thể để bị bắt, rồi phải ngồi tù, tài sản bị mất sạch, nên
thuyền chúng tôi quyết định mở hết tốc lực. Một loạt đạn AK nổ dòn bắn về phía
chúng tôi, tài công lúc đó là anh Hai Liêm của tôi bị thương ở cánh tay, Mẹ bị
thương ở bả vai, ông Ngoại bị thương nhẹ ở đầu. Thuyền bắt buộc phải ngừng lại.
Tất cả bàng hoàng chờ đợi những gì xấu nhất sắp xảy ra.
Thuyền Kiên Giang là thuyền đánh cá nhưng có cán bộ VC, công an
mang theo súng, bọn chúng bước qua thuyền chúng tôi lục soát từng người một kể
cả những em bé 3, 4 tuổi, tịch thu một số vàng và tiền bạc (đô la) mà mọi người
mang theo, chúng lấy một máy lớn của thuyền chúng tôi và dọa sẽ đưa trở lại vào
bờ giao cho công an địa phương xử lý. Ông ngoại tôi là người lớn tuổi nhất
trong thuyền, ôm vết thương còn chảy máu trên đầu loang xuống mặt, cố gắng năn
nỉ giải thích:
- Các anh cho chúng tôi đi, nếu đưa chúng tôi trở lại bờ Việt
Nam thì các anh chẳng có lợi gì cả, chúng tôi bị tù tội, tiền, vàng của các anh
vừa tịch thu thì cũng phải giao nạp cho công an thôi.
Sau đó bọn họ cho chúng tôi đi, và chỉ hướng cho tàu chạy.
Còn lại một máy nhỏ, thuyền tiếp tục chạy một cách nặng nhọc, chậm chạp lướt sóng tiến về vùng biển Thái Lan. Chạy được một giờ đồng hồ nữa thấy có một chiếc thuyền giống thuyền đánh cá xuất hiện, khi chiếc thuyền này tiến lại gần không thấy treo cờ nước nào cả, nhưng dấu hiệu trên mạn thuyền được bôi lem, chạy với tốc độ nhanh rồi quay đầu chận ngang thuyền chúng tôi. Đã trải qua nhiều hiểm nguy, lần này tôi hồi hộp và lo sợ, tất cả như nín thở, những đứa nhỏ cũng biết được những gì quan trọng sắp xảy ra nên chúng ngồi thu mình vào thành ghe im re trông thật tội nghiệp. Tất cả không một tiếng động.
Còn lại một máy nhỏ, thuyền tiếp tục chạy một cách nặng nhọc, chậm chạp lướt sóng tiến về vùng biển Thái Lan. Chạy được một giờ đồng hồ nữa thấy có một chiếc thuyền giống thuyền đánh cá xuất hiện, khi chiếc thuyền này tiến lại gần không thấy treo cờ nước nào cả, nhưng dấu hiệu trên mạn thuyền được bôi lem, chạy với tốc độ nhanh rồi quay đầu chận ngang thuyền chúng tôi. Đã trải qua nhiều hiểm nguy, lần này tôi hồi hộp và lo sợ, tất cả như nín thở, những đứa nhỏ cũng biết được những gì quan trọng sắp xảy ra nên chúng ngồi thu mình vào thành ghe im re trông thật tội nghiệp. Tất cả không một tiếng động.
Tiếng nói ở thuyền bên kia là một tiếng lạ không ai hiểu gì, lúc
đó cha Liêm là người biết tiếng Anh nói xin họ giúp đỡ. Toán người kia như
không nghe biết, với cử chỉ hung hăng dữ tợn, cặp vào thuyền chúng tôi la hét
lục soát từng người một.
Một lần nữa vơ vét sạch những gì tàu Kiên Giang VC vơ vét còn
sót lại. Thấy kết quả lục soát chúng chẳng được là bao, chúng đi tìm từng bộ
mặt một, nhất là nhìn chằm chằm vào những người đàn bà con gái. Mẹ tôi còn trẻ
đẹp nhưng vừa bị thương mất máu co ro, mặt mày tái mét nên chúng bỏ qua không
để ý tới..
Chúng đến gần tôi và chị H, bạn gái của anh Hai, chúng liền nắm
áo chúng tôi kéo qua thuyền chúng nó.
Trước cảnh dã man này mấy anh tôi không kềm hãm được nên đã có
phản ứng binh vực em mình (tôi lúc đó mới được 18 tuổi, cô kia xấp xỉ tuổi tôi
hoặc lớn hơn một tuổi) nên đã la ó phản đối. Mẹ tôi cúi lậy xin chúng tha. Ông
ngoại, cha Liêm năn nỉ nài nỉ chúng chẳng nghe. Chúng đẩy chúng tôi qua thuyền
chúng. Phẫn uất trước hành động tàn bạo này, mấy anh tôi đánh trả lại chúng.
Chúng rút súng lục ra uy hiếp và chế ngự mấy anh. Lúc đó chúng lôi chúng tôi
xuống nhốt dưới hầm tàu tối đen. Từ đó không hay biết chi nữa những việc xảy ra
bên ngoài.
Sau khi bắt chúng tôi, chúng nổ máy cho tàu chạy, sau đó quay
trở lại đâm vào thuyền chúng tôi làm vỡ thuyền, thuyền chìm, chuyện xảy ra tôi
sẽ kể tiếp phần sau khi tôi gặp lại người dì ruột tại trại SongLa.
Ngồi trong hầm tàu tối đen mà lòng tan nát, tôi chấn tĩnh mình
bằng lời cầu nguyện với Đức Trinh Nữ Maria, hiện ra trước mặt tôi là hình ảnh
của mẹ, các anh, em tôi và ba tôi. Mẹ, các anh em tôi giờ đây trên biển cả mênh
mông đã trôi dạt về đâu rồi? Đã được tàu của thế giới tự do vớt chưa? Ba tôi
trong trại tù CS tại trại Tiên Lãnh, Quảng Nam Đà Nẵng, ba là sĩ quan QLVNCH ở
tù 10 năm rồi tương lai sẽ ra sao đây. Tôi nhớ hết những người thân thương, đầu
óc tôi rối bời như có trăm ngàn mũi kim nhọn đâm vào quả tim bé nhỏ của tôi tan
nát. Chưa bao giờ tôi nghĩ đến hoặc tưởng tượng ra hoàn cảnh mà tôi phải gánh
chịu như hôm nay. Nước mắt tràn đầy ra má mà chẳng hay biết gì, nước mắt đã làm
dịu cơn khủng hoảng của tôi. Một niềm hy vọng loé lên trong đầu, chắc mẹ và các
anh em của mình còn sống sẽ được tàu vớt, sẽ vượt qua nguy hiểm để đến bến bờ
tự do và mình sẽ được gặp lại.
Ở trên tàu của bọn cướp được vài hôm, chúng chuyển tôi qua tầu
đánh cá thứ hai, còn chị H. thì ở lại trên tầu của chúng nói tiếng Thái với
nhau tôi không hiểu một tí gì cả chỉ biết cảm nhận theo linh tính của mình,
thấy tàu này chuyên lo đánh cá, chắc là họ vừa đánh cá vừa làm hải tặc ăn cướp
chăng? Một tuần sau chúng lại chuyển tôi qua tàu khác, cứ thế lênh đênh trên
biển cả qua ngày thứ 51, ngày này chúng chuyển qua một tàu khác nữa, người trên
tàu có vẻ hung tợn dữ dằn hơn những chiếc tàu trước đây.
Vào khoảng nửa đêm một tên đàn ông vào kéo tôi dậy, nhìn cặp mắt
nó, thấy dễ sợ như muốn ăn tươi nuốt sống tôi. Người tôi run bần bật, miệng
thầm đọc kinh xin ơn trên phù hộ cứu giúp. Chúng nó sờ mó và bắt cởi hết quần
áo, chúng nói gì với nhau tôi không hiểu, chỉ biết kẹp hai chân cứng lại, hai
tay ôm chặt lấy ngực, và nhìn vào vết thẹo nổi đỏ trên cánh tay tôi. Lúc nhỏ
khoảng hai tuổi bị tai nạn phỏng dầu làm đường đến 50% khi chữa lành vẫn còn
vết thẹo luôn ửng đỏ. Không biết ai xui khiến cho tôi cứ nhìn vào vết thẹo ấy
và kêu la thảm thiết.. Bọn chúng nói với nhau những điều gì, tôi cảm nhận như
chúng e ngại về vết thẹo của tôi là bị bệnh phong cùi gì chăng? Sau khi bàn bạc
chúng đã xô tôi xuống biển không cho một vật gì có thể trôi nổi trên mặt biển.
Nước lạnh làm tỉnh hẳn người, tôi đã thoát qua những bàn tay con
quỷ dữ, cố gắng với hai chân để người mình nổi lên trên mặt nước (ở Cà Mau tôi
sống bên sông nên bơi lội cũng khá giỏi. Trên biển giữa đêm đen, có gì ghê rợn
bằng. Tôi cố sức mình chống chọi với bao ý nghĩ bi thương, bản năng sinh tồn
lại đến với tôi mãnh liệt, tôi kêu xin mẹ Maria bổn mạng hãy cứu giúp tôi. Một
lần nữa hình ảnh của mẹ, anh, em và Ba tôi ở trại cải tạo lại hiện ra như
khuyến khích tôi hãy ra sức cố gắng chống chọi với tử thần để ráng sống may đâu
có người cứu vớt. Vì thế mà đã qua được năm tiếng đồng hồ dưới biển lạnh.
Trời đã hừng đông, một tia hy vọng đến với tôi, nhưng người càng
ngày càng bị lạnh cóng, sắp sửa không chịu đựng nổi nữa rồi, thì may thay, nghe
có tiếng động cơ của thuyền chạy đến.
Tôi cố giơ tay lên nhưng thân hoàn toàn cóng cứng, rất may trên
thuyền họ nhìn thấy, dừng thuyền lại và vớt tôi lên. Nguyện xin đây là một
chiếc thuyền làm ăn lương thiện để tôi còn được sống an bình. Thật quả như lòng
mong ước, tôi được những người này săn sóc tận tình, cho quần áo để mặc, cho ăn
uống đàng hoàng và dùng máy vô tuyến gọi police (cảnh sát ) Thái cho tàu ra đón
tôi vào bờ và đưa đến trại Song La và đến trại Sikiew.
Hằng ngày ở trại, cô đơn lạc lõng, thân gái dặm trường, hằng đêm
nguyện cầu cho lòng vơi đi ít niềm đau. Mong chờ mẹ, anh em sẽ đến với mình,
nhưng càng ngày càng thấy bặt tăm vô âm tín, lòng buồn rười rượi. Mỗi khi có
người mới nhập trại tôi thường đến để cầu mong gặp người thân. Hôm nay bất thần
tôi thấy dì Sa, em của mẹ thất thểu bước vào trại, dì cháu gặp lại nhau, nước
mắt tuôn trào như mưa, và Dì đã kể lại những gì xảy ra kế tiếp khi tôi bị hải
tặc bắt qua tàu của chúng.
Sau khi bọn hải tặc bắt con và H qua tàu của chúng. Vì không
chịu nổi những uất ức các anh con đã phản ứng mãnh liệt đánh lại chúng nó. Nhưng
chúng có súng, nên các anh con đành thúc thủ. Chúng lồng lộn lên lục soát nát
bét trên tàu, bắt mọi người cởi bỏ hết quần áo chỉ cho mặc một quần lót mỏng,
lấy hết những gì còn lại trên tàu, rồi rú máy cho tàu chạy.
Mọi người chưa kịp hoàn hồn thì thấy tàu hải tặc quay đầu trở
lại, và chạy rất nhanh đâm thẳng vào hông thuyền của mình đánh rầm, thuyền vỡ
làm đôi, một số người văng xuống biển. Đồ vật nặng chìm xuống nước, những vật
nhẹ nổi lềnh bềnh. Trong lúc hỗn loạn, mỗi người đều bơi lội, vớ lấy can đựng dầu,
đụng nước làm phao. Các anh con, Chương, Long bơi vớt những tấm ván để kết làm
bè, kèm lên phần thuyền còn lại nổi trên mặt nước. Phần bè và thuyền nổi cho
mẹ, dì, con của dì và Đạt, Hoài, hai em con. Ông ngoại và anh Liêm đã ra đi
trong lúc thuyền bị đánh chìm vì cả hai đều bị thương.
Trời bắt đầu sập tối, nỗi kinh hoàng xâm chiếm lòng người.. Màn
đêm đem đến sự sợ hãi cho mọi người trong cảnh thập tử nhất sinh, lạnh đói và
khát, nhưng vẫn cố gắng bu lấy bên nhau, cùng nhau sống chết.
Thấy các em con vì đói khát và lạnh, quá tội nghiệp nên Chương
liều bơi, lặn xuống lòng thuyền may ra tìm được nước uống hoặc thức ăn. Nhưng
đã lâu không thấy Chương trở lại, mẹ và Dì kêu gào thật lâu chẳng có tiếng trả
lời. Hễ người nào chịu không nổi buông tay ra là đi vĩnh viễn. Thấy những người
thân lần lượt ra đi, lòng mẹ và dì tan nát nhưng biết làm sao đây hỡi trời, chỉ
biết đọc kinh cầu nguyện Chúa, Mẹ cứu giúp, hộ phù. Phía bên kia có Linh mục Hồ
Quang Liêm và người em Hồ Quang Lập cùng mấy người bà con của cha trong đêm đó
cũng ra đi.
Ngày thứ hai kể từ ngày đắm thuyền chỉ còn có dì, mẹ và mấy đứa
nhỏ vì được ngồi trên bè, nên chống được sự lạnh cóng. Mẹ con bị thương máu ra
nhiều, không ăn, không uống nên người mệt lả đi, hơi thở yếu dần, dì gọi mẹ không
trả lời nổi, mẹ tức tưởi ra đi. Đạt, Hoài hai em của con ôm mẹ khóc thảm thiết,
dì đứt cả ruột gan. Các cháu cứ muốn giữ mẹ lại bên cạnh không xa rời, dì
khuyên nhiều lần các cháu mới chịu để mẹ con xuống lòng đại dương. Còn lại con
Châu, con Xuân của dì mềm người vì đói khát lặng lẽ ra đi. Dì như người mất
hồn, không còn biết gì nữa, đặt con mình xuống nước cho dòng nước trôi xuôi,
đau đớn vô cùng.
Ngày thứ ba chỉ còn lại Dì, Em Đạt của con, mệt quá gục trên tấm
ván, bỗng nó ngồi nhổm dậy nói: Để con lấy nước cho dì, con thấy có dòng suối
trong xanh, nước ngọt lắm dì ơi nó định bước xuống nước để đi. Dì cầm tay nó
kéo lại: Con ơi không có đâu, đó chỉ là ảo ảnh mà thôi, con ngồi xuống đây đọc
kinh với dì xin ngài ban phước. Sau khi kinh nguyện, yên tĩnh được một lúc, nó
lại kêu lên khát nước quá dì ơi con chịu hết nổi rồi. Dì nói trong vô thức hay
con uống đại một hớp nước biển xem có chống chọi được không? Sau khi uống một
miếng nước vào bụng, tức thì cháu ôm bụng rên la khủng khiếp, nước bọt trào ra nơi
miệng, nước bọt giống như bọt xà phòng trào ra, trào ra, cháu lịm người dần và
nằm bất động, người cuối cùng ở bên cạnh dì cũng ra đi.
Còn lại một mình đang nằm chờ chết dưới ánh nắng như thiêu như
đốt bỗng thấy có đám mây đen kéo đến trời đột nhiên dịu xuống, một vài giọt mưa
rơi trên mặt dì, dì liếm từng giọt nước, nhưng người dì đã kiệt sức không còn
hay biết gì nữa cả. Khi tỉnh dậy thì thấy mình đang nằm trên thuyền đánh cá của
người Thái Lan. Theo tàu họ trên biển, 15 ngày sau thì được đưa vào trại
Batani, qua trại SongLa và dì gặp con tại đây.
Ôi ! Những biến cố đó trong đời làm tôi điên dại, sống dưới ánh
nắng mặt trời mà như trong hang âm u. Tôi đã mất mẹ, mất anh, mất em, mất ông
ngoại, cậu, cháu và những người thân yêu, 18 người đã chết tức tưởi, bỏ mình
trên biển cả ... Đó là tất cả NỖI BẤT HẠNH CỦA ĐỜI TÔI.
Mẹ ơi! Sao mẹ nỡ xa lìa con, xa lìa ba, ba đã chịu bao nhiêu
điều cay đắng tủi nhục trong ngục tù Cộng Sản. Các anh ơi! Các em ơi! Tất cả đã
xa lìa tôi, vĩnh viễn ly biệt tôi một cách tức tưởi: Khổ đau tột đỉnh, hận
thành non cao, Biển xa sóng lớn dạt dào, nhớ anh, em, mẹ có ngày nào nguôi.
Thùy Nhiên, viết từ Úc Châu
* Viết để kính dâng linh hồn mẹ Phạm Thị Khanh, Ông
ngoại Phạm Văn Đình, Cậu Phạm Văn Tiếng, các Anh: Nguyễn Bá Liêm, Nguyễn Bá
Chương, Nguyễn Bá Long, các em, Nguyễn Bá Phú, Nguyễn Bá Đạt, Nguyễn Bá Hoài,
Chú nguyễn Văn Dậu, các em con dì Nguyễn thị Minh Châu, Nguyễn thị Minh Xuân,
Nguyễn Minh Toàn và Linh mục Hồ Quang Liêm, chú Hồ Quang Lập và các anh bà con
với cha Liêm mà tôi không nhớ tên.
* Viết cho Ba là Nguyễn Bá Quang. Ba và con cùng chịu
NỖI BẤT HẠNH trên cuộc đời này.
Qua câu chuyện của thuyền nhân Nguyễn Thùy Nhiên, tôi mạn phép
viết thành thơ để tặng tác giả và những mảnh hồn thương đau trong giai đoạn
lịch sử Tháng Tư Đen 1975 đầy uất hận, bi thương.
(Xuân Mai)
***** VẾT SÂU XÉ LÒNG
*****
(Viết tặng Thuyền Nhân VN)
Tên tôi là Nguyễn Thùy Nhiên
Viết dòng dư lệ oan khiên để đời
Trăm năm trong kiếp con người
Những điều bất hạnh một đời cưu mang
Đời tôi như triệu người đang
Nỗi đau mất nước bàng hoàng xác thân
Sống đời lưu lạc tha nhân
Niềm đau uất hận quẩn quanh tháng ngày
Cõi lòng bao nỗi đắng cay
Quê hương đất nước đong đầy vai mang
Nỗi nhà canh cánh ngổn ngang
Con tim rạn vỡ nát tan cuộc đời
Ngược dòng quá khứ xa xôi
Viết lên tâm trạng phận người lưu vong
Trải qua bao những thăng trầm
Vết thương rỉ máu mà lòng chưa nguôi
Bao nhiêu câu chuyện đổi đời
Trăm bề nghìn nỗi khóc cười đớn đau
Đoạn trường trong cuộc bể dâu
Oan khiên gieo nỗi thảm sầu ai đong?
Quê tôi bên dòng Cửu Long
Những con sông chảy xuôi dòng phù sa
Làng quê yên ấm nếp nhà
Đến ngày ly loạn bóng ma mượn hồn
Bẩy Lăm bao nỗi đoạn trường
Niềm đau thống khổ tiếng buồn hờn căm
Chong đêm ruột rối tơ tằm
Cảnh nhà tan nát ruộng đồng xác xơ
Quê hương nhuộm đỏ mầu cờ
Người đi cải tạo kẻ chờ chung thân
Sĩ phu vùi chốn rừng xanh
Để quân cướp nước lộng hành tác tung
"Đổi đời" máu nhuộm thành sông
Anh hùng tuẫn tiết một lòng trung trinh
Gái trai già trẻ giữ mình
Nổi trôi vận nước mưu sinh kiếp người
Cha tôi "lính ngụy nợ đời!"
Mười năm cải tạo phương trời cách ly
Mẹ tôi đánh đổi xuân thì
Nuôi chồng gánh vác tiếc gì chiếc thân
Nuôi con bao quản nhọc nhằn
Vùng kinh tế mới tập tành mưu sinh
Trẻ thơ theo cuộc hành trình
Nông trường lao động quấn khăn cổ cò
Cha già nặng gánh con thơ
Tìm đường vượt biển huyễn mờ xác thân
Trải bao cay đắng nhọc nhằn
Đợi đêm trừ tịch liều mình vượt biên
Lòng đau tấc dạ ưu phiền
Ra công lèo lái con thuyền TỰ DO
Bao nhiêu giông tố vỡ bờ
Ra đi một mất mười ngờ rủi ro
Dấn thân đánh đổi mầu cờ
Dẫu không chết biển cũng vô nhà tù
Quyết lòng đành đoạn sầu tư
Hy sinh hai chữ tuyệt mù bóng đêm
Bao năm đau đáu nỗi niềm
Bước đi một bước dặm nghìn gian truân
Bờ lau bụi nứa ẩn mình
Lương khô nước uống trăm phần lo toan
Đến ngày đêm tối thuyền quang
Dìu nhau dắt díu rỡ ràng qua sông
Nín hơi thở gượm tấc lòng
Con thuyền không bến dòng sông mơ hồ
Nghẹn ngào tiếng khóc trẻ thơ
Bóng đêm trừ tịch sóng xô thét gào
Biển trời thân phận lao đao
Chắp tay khấn nguyện đón chào bình minh
Bóng đêm xua đuổi bóng hình
Thuyền chao sóng vỗ dập dềnh biển khơi
Lênh đênh góc bể chân trời
Thuyền trôi rẽ sóng ngỡ người tầm ngư
Giật mình giây phút thiên thu
Niềm vui dập tắt kể như tàn đời!
Công an cướp biển ngoài khơi
Tóm thu vàng bạc bắt người chuộc thân
Đối đầu thập tử nhất sinh
Đang treo mạng sống trên cành cây khô
Trời thương bọn cướp giả lơ
Sau khi lấy của cũng lờ cho qua
Thuyền trôi đi mãi phương xa
Thoát cơn thống khổ chưa qua ngặt nghèo
Dật dờ trong cảnh óc eo
Gặp ngay hải tặc thét gào hung hăng
Đánh nhào uy hiếp thuyền nhân
Khảo tra vàng bạc mặc tình kêu van
Lũ người dã thú lòng hoang
Lưỡi lê giáo mác ngang tàng hành hung
Chị em lâm cảnh khốn cùng
Chúng giam hãm hiếp thét gầm kêu la
Súng kề miệng cổ âm ba
Sẵn sàng nả đạn bước qua xác người
Con thuyền trồi sóng ra khơi
Lắc lư trong tiếng hét cười dã nhân
Bỗng dưng thuyền vỡ tan tành
Đứt lìa hai mảnh xác thân chia lìa
Tiếng người gào thét thảm thê
Mồ chôn tập thể thác về biển khơi
Mẹ tôi bám ván thuyền trôi
Xác anh em thả khoang đời nắng mưa
Ông tôi chìm dưới sóng xô
Trăm nghìn lớp sóng vỗ bờ đêm đen
Bầu trời ngập nỗi oan khiên
Ma vương quỉ dữ hát trên thảm sầu
Biển đen thăm thẳm một mầu
Nỗi đau chung cuộc theo nhau về trời
Chuyến tàu định mệnh than ôi!
Cướp đi tất cả những người thương yêu
Hồn tôi như khói sương chiều
Nỗi đau tuyệt vọng, tiếng kêu xé lòng
Đất trời tiếng gọi hư không
Đêm sâu thăm thẳm tận cùng bóng đêm
Đời tôi đi giữa miếu đền
Viết dòng dư lệ thắp đêm nguyện cầu
Cho người nay đến nghìn sau
Khúc quanh lịch sử thẫm mầu bi thương
Trăm năm cát bụi mù đường
Tình quê non nước người thương theo cùng
Mai về thăm lại dòng sông
Bên bờ Đá Bạc trải lòng mơ xa
Bạc Liêu, Một chốn Quê Nhà!
Nhìn con trăng tỏ hồn ta chín chiều
Thắp lòng ngọn lửa tin yêu
Mong sao xóa được vết sâu xé lòng??
Ai về nghe chuyện dòng sông
Biển Đông dậy sóng cõi lòng mang mang
Tôi đi trên cánh đồng hoang
Ngược dòng quá khứ về ngàn dâu xưa
Quặn lòng nghe tiếng ầu ơ
Lời ru của Mẹ năm xưa vọng về
Bao giờ cất bước đường quê
Tôi về với Mẹ trong khe đá nằm
Ru đời hết những hờn căm
Trăm năm chung cuộc kiếp tằm nhả tơ
Vần thơ gói trọn sầu mơ
Cuộc đời ly loạn tiếng thơ đã chùng
Thơ tôi như gởi tiếng lòng!
Xuân Mai
Mon, Apr 20 at 12:59 PM
Một chuyên nên đọc
trong hoàn cảnh "Stay at Home". Chuyện Thật như Đùa! Một
chuyện hấp dẫn người đọc, tuy rằng kết luận hơi buồn! Một cặp vợ
chồng CHÔN HAI CHẾ ĐỘ!
CHÔN MỘT CHẾ ĐỘ.
Tôi vào lính năm 18
tuổi. 12 năm 4 tháng làm lính. Chuyện cải tạo Vườn Đào và người tù về sớm nhất
có thật 100% là tôi".
Phi Hùng.
"Tượng nào cao bằng
tựơng Trần Hưng Đạo
Lính nào xạo cho bằng
lính Hải Quân".
Tôi sáu năm làm lính,
thêm sáu năm làm quan, binh chủng Hải Quân. Xạo là chuyện đương nhiên.
Xứ VNCH ta, Bộ Binh,
Không Quân chỉ có 4 vùng chiến thuật nhưng Hải Quân có vùng 5 Duyên Hải; Phú
Quốc, Côn Sơn. Như nhiều chàng lính biển khác, tôi có thừa tài xạo. Xạo như
thật. Xạo với gái bán bars, xạo cả với thượng cấp, nhưng không dám xạo với gái
nhà lành, vì tôi rất sợ vướng nợ giai nhân rồi dính lưới hôn nhơn. Đời lính
biển đầy những chuyến hải hành dài cả tháng mà có vợ thì xác suất nuôi con của
thiên hạ rất cao.
Thôi thì cứ xạo với mấy
em bán bar, mấy cô chịu chơi cho đời vui cái đã rồi tính.
Cùng dòng họ Trần Thiện
như tôi, có một ông Đại Tướng, 2 ông Đại Tá, mấy chục ông tá, ông uý.
Ông bà nội tôi là loại
điền chủ sau khi đã bị chánh phủ VNCH mua lại bởi luật người cày có ruộng; vẫn
còn 100 mẫu để canh tác và 15 mẫu ruộng hương hỏa. Cha tôi là một triệu phú có
đủ thứ, villas, nhà lầu 4 tầng với mấy chục phòng cho Mỹ mướn rồi sáu bẩy căn
phố. Tôi thằng con trưởng nam, vậy mà không được ai nuôi cho ăn học. Ngay khi
biết mình 18 tuổi, tôi tự nguyện vào lính hải quân dù chưa nhận được lược giải
cá nhân.
Làm lính chưa đầy 6 năm
tôi mang lon Thượng sĩ, năm chưa tròn 24 tuổi; đi đâu cũng bị quân cảnh xét
giấy tờ coi có mang lon giả hay không. Tôi chỉ mong hết 5 năm để giải ngũ,
nhưng rồi chiến cuộc leo thang nên bị lệnh lưu ngũ. Sau đó, tôi đi học làm
quan, thăng cấp từ chuẩn úy lên trung úy thì tự động.
Dù làm lính hay làm
quan, tất ba gai không bỏ. Gái đến cầu tàu rủ rê đi chơi thì dù đang gác cũng
đem súng giao cho sĩ quan trực và bỏ đi chơi 5 ngày sau mới về; vì đi 6 ngày bị
cho là đào ngũ nên chiều ngày thứ 5 là tôi về trình diện và vui vẻ nói lý do là
"Tại gái xuống tận cầu tàu rũ đi chơi" và vui vẻ đi tù.
Từ đầu tháng Tư 1975,
ngay khi thấy chộn rộn, nhiều người tìm đường ra đi, tôi đã chọn đã chọn ở lại.
Là sĩ quan hải quân, tôi mà muốn ra đi thì tàu nào cũng lên đi được hết. Tàu
nào cũng có bạn cùng khóa lính hay khóa quan hay cùng đơn vị khi xưa; Hơn nữa,
nơi tôi phục vụ là Trường Chiến hạm của Bộ Tư Lệnh Hạm Đội, chuyên huấn luyện
tác chiến và thanh tra các chiến hạm của hải quân nên gần như quen biết rất
nhiều. Những thường dân mang cả gia đình đứng lớ ngớ trước Hải Quân Công Xưởng
muốn vào phía trong để xuống tàu mà không vào được tôi còn dẫn dùm vào. Tôi xa
mẹ từ thuở nhỏ nay chỉ muốn được sống bên mẹ của tôi mà thôi. Tôi tự tin là dù
hoàn cảnh nào, mình cũng có thể xoay trở để sống còn.
Chiều 30 tháng Tư,
lần đầu tiên tôi đến nhà ba tôi. Đứng trên sân thượng của building 4 tầng trên
đường Chi Lăng, nhìn những chiếc T. 54 của Quân Bắc Việt từ bệnh viện ung thư
và tòa hành chánh tỉnh Gia Định quẹo qua đường Chi Lăng ngang bót Hàng Keo qua
trước nhà ba của tôi để tiến về Dinh Độc Lập. Tôi rơi nước mắt. "Thế là
hết; Tôi thua trận; Tôi bị mất Nước!"
Tôi rời bỏ Biên Hòa về
quê mẹ nhưng bị truy tìm nên phải về quê của Ông Ngoại và 15 ngày sau mới trình
diện ở Quận Chợ Gạo. Hai tháng sau khi trình diện, tôi được đưa đến tập trung ở
Đình xã Tân Lý Tây. Ngôi đình nầy được cho là linh thiêng vì không bị dấu vết
của bom đạn. Ở đây chúng tôi phải khai lý lịch chừng chục lần trong 2 tháng.
Ngay lần khai đầu tiên, tôi hiểu ngay đây là lúc phải xài tài ba xạo. Mấy ông
họ hàng Trần Thiện theo phe quốc gia không dính gì đến tôi. Bố mẹ, chú bác anh
em nhà tôi đều theo kháng chiến, có cả lô tử sĩ. Nhiều lúc đang ngủ bị dựng dậy
bắt khai lý lịch vì lệnh trên bắt khai lại. Lý lịch của tôi là lý lịch xạo thì
làm sao nhớ mà khai cho đúng y như nhau nên phải chép thật nhỏ giấu vào trong
bâu áo. Mỗi lần khai là lần lấy ra xào lại.
Sau đợt lý lịch, một
ngày Thứ Bảy gần tối, cả bọn trình diện được lùa lên một đoàn xe GMC và xe hàng
loại chở heo đến. Lệnh chỉ ngắn gọn, "chuyển trại", không cho biết sẽ
đi đâu. Xe chạy về hướng Cai Lậy, một bên lộ là con kinh. Một tên trên xe nói
tới Mỹ Phước Tây rồi.
Mỹ Phước Tây cái tên nầy
nghe quen quá. Tôi cố moi trí nhớ. Phải rồi, đây vùng nằm giữa Đồng Tháp Mười,
trên đường đi Mộc Hóa.
Qua Mỹ Phước Tây chừng 2
hay 3 km, xe dừng lại. Cán bộ coi tù cho biết đây là Trại Cải tạo Vườn Đào. Tên
Vườn Đào là vì ngày xưa có người lập vườn trồng đào lộn hột nhưng rồi bỏ hoang.
Trên chục dãy nhà lá dài hàng mấy chục thước. Vào trại, tôi được một số trại
viên cũ cho biết họ bị bắt trước ngày 30 tháng 4 và đưa về đây, lùa
đi đốn cây làm nhà cho trại. Chúng tôi được chia ra 25 người vô một tổ. Trải
nylon quấn mền ngủ qua đêm vì quá tối không thể tìm cách giăng mùng.
Trại cải tạo Vườn Đào
đúng là cái trại tù không giống bất cứ nơi đâu. Trong trại không ai nhìn ra
tôi. Tôi nhận ra một Thiếu úy ngày xưa ở quân trường Nha Trang tôi làm Đại đội
trưởng của hắn nhưng nay nhìn tôi hắn ta ngó lơ. Thế cũng là tốt.
Thời mới đến trại Vườn
Đào, tôi nhờ được Mẹ lên thăm vừa tiếp tế vừa dúi tiền cho, nên ăn no xài bảnh.
Nhưng những ngày tù “huy hoàng” cũng tới lúc kết thúc. Đổi tiền. 22 tây tháng
Chín, 1975, tôi còn trên 100 ngàn, phải chia cho bạn bè đổi dùm. Cán bộ đưa cho
mấy đồng còn bao nhiêu giữ lại. Vậy là hết thời vung vít.
Trong trại, ngoài màn
lao động còn đủ kiểu họp hành, bắt viết đủ thứ “tự khai” rồi “thu hoạch.” Anh
nào bị gọi lên “làm việc” là có chuyện vì bị báo cáo gì đó. Tự biết mình khai
lý lịch xạo, muốn yên tôi đóng luôn vai dữ, sẵn sàng đập lộn. Hăm he và thừa cơ
đánh vào chỗ yếu của thiên hạ là cách sống còn mà trường đời dạy tôi. Nhược
điểm là thằng nào cũng muốn được thả về sớm. Tôi thì tuyên bố tao không cần ra
sớm. Tiền bạc mẹ và em của tao đủ sống nhiều năm nữa; Tao không cần ra sớm vì
tao biết không thể nào ra sớm; Thằng nào cà chớn tao đập để cùng nhau ở trại tù
muôn năm cho vui.
Đòn phép này có vẻ hữu
hiệu, vậy mà yên được ít lâu, rồi cũng có ngày tôi bị gọi đi trình diện “làm
việc”. Chắc là bị báo cáo gì đây. Trước khi đi, tôi còn hâm he:
- Tao mà bị gì thì thằng
nào báo cáo nên trốn đi chứ không thì đừng trách tao nặng tay.
Người chờ “làm việc” với
tôi không phải tay cán bộ coi an ninh trại mà là một Trung Úy cán bộ người Miền
Nam nằm vùng Đồng Tháp Mười. Ngay khi gặp mặt, anh ta tự xưng là “chính trị
viên” và trấn an tôi ngay:
- Tôi gọi anh lên chỉ để
nói chuyện chơi cho biết thôi, không có gì quan trọng.
Sau đó, tôi còn được mời
ngồi, rồi chính viên trung uý cán bộ này đưa thuốc lá của anh ta ra mời hút.
- Tôi vừa đọc xong mấy bài
thu hoạch của anh. Anh là văn sĩ à?
À thì ra anh ta thích
đọc “văn xạo" của tôi. Trong tự khai rồi thu hoạch của tôi, mẹ tôi từng là
cán bộ huyện Giồng Trơm tỉnh Bến Tre từ thời Thanh Niên Tiền Phong chống Pháp
và cha tôi thì thời đầu kháng chiến từng là đồng chí của tướng Trần văn Trà.
(Thực sự thì Ba tôi có một thời tham gia kháng chiến, biết Trần văn Trà trước
khi ông rời khỏi chiến khu về thành) Chuyện trò lan man, anh ta còn hỏi làm sao
bài tôi viết đề cập tới nhiều người chính anh ta cũng chưa biết.
Sau hơn tiếng đồng hồ
được mời trà mời thuốc, trước khi ra về, viên Trung Uý còn bảo tôi cứ về trại
an tâm tin tưởng cách mạng luôn có tình có lý. Được thả về trại bình an, bạn tù
vây quanh thăm hỏi việc gì vậy, tôi trả lời:
- Trung Úy Chính Trị
Viên (thay vì nói là cán bộ) kêu tao lên hút thuốc nói chuyện chơi và khen bài
viết của tao có thể xuất bản thành sách cải tạo!
Tù cải tạo được cán bộ
gọi lên nói chuyện chơi mà không có gì hết thì đúng là “đáng ngờ." Saù đó
tôi thật là thoải mái dễ sống, không tên nào dám báo cáo gì hết.
Một hôm, vừa cơm trưa
xong tôi bị kêu lên gặp cán bộ. Vẫn viên trung uý chính trị viên lần trước,
nhưng lần này anh ta không ngồi văn phòng mà đứng sẵn trên bậc thềm khu cơ quan
đón tôi. Sau màn chào hỏi, anh ta vui vẻ dẫn tôi lại văn phòng thuộc khu của
trưởng trại, bảo tôi chờ phía ngoài. Anh ta vào phòng một lát rồi đi ra, bảo
tôi bảo “Hôm nay anh sẽ làm việc với đồng chí bí thư, tôi sẽ gặp anh sau.“ Nói
xong, viên trung uý ra dấu cho tôi đi tới phía văn phòng cửa mở sẵn rồi bỏ đi.
Tôi đứng lại tần ngần bên cửa, đang tự hỏi không hiểu chuyện gì thì từ trong
phòng, một giọng nữ miền nam vang ra:
- Anh vô đi.
Giọng nói có vẻ lạ. Tôi
bước vào phòng. Không thấy ai. Bàn làm việc ghế ngồi bỏ trống. Vẫn cái giọng nữ
ấy vang lên phía sau tôi.
- Anh ngó lui coi. Tôi ở
đây.
Giọng nói vang lên ngay
bên cửa, nơi tôi vừa bước qua. Không phải khăn rằn. Cũng không bà ba đen. Một
cô mặc áo sơ mi trắng ngắn tay bó sát chưa quá ba mươi tuổi đứng khoanh tay bên
cửa. Cô ta nhìn thẳng vào mặt tôi:
- Anh không nhớ tôi đâu
nhưng tôi biết anh. Tôi biết anh đánh lộn trong trại. Tôi biết anh khai lý lịch
xạo.
A, phút nguy hiểm đã
tới. Thì ra cái người mà viên trung uý gọi là “đồng chí bí thư” là cô này. Phải
coi cô ta là thứ người gì rồi mới liệu đường mà thoát hiểm. Ai đây? Động nào,
bars nào. Có phải mấy cô tôi từng gặp ở làng Cam Ranh hay ở bến bờ nào đây?
- Anh đang cố nhớ mà
không thể nhớ ra. Tôi không ở những nơi mà anh đang nghĩ đâu. Anh cứ nhìn tôi
coi có nhớ gì không?
Cô ta vẫn đứng yên bên cửa,
vẫn khoanh tay nhìn tôi và như đọc được ý nghĩ trong đầu tôi. Có vẻ thấy tôi
giống như con nai vàng ngơ ngác giữa trời mùa đông, cô ta nhắc lại điều vừa
nói:
- Anh đừng cố tìm tôi
trong những chỗ anh thường lui tới. Tôi không phải loại đó. Thong thả, tôi sẽ
nhắc cho anh nhớ. Chúng ta chỉ gặp nhau một lần.
Biết tôi không thể nhớ
ra gì hơn. Cô ta tiếp tục:
- Có lẽ chưa đầy 30
phút. Nhưng tôi biết về anh. Tôi đã coi tất cả hồ sơ của anh. Bao năm qua, tôi
vẫn quyết phải tìm cho ra anh. Đầu tháng Năm, sau khi ổn định tình hình; tôi
lên Sài Gòn vào Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Giấy tờ hồ sơ của hải quân còn đầy đủ cả.
Một người của chúng tôi nằm vùng ở phòng tổng quản trị đưa cho tôi danh sách
những người trình diện; còn anh ta thì tìm giúp tôi danh sách các quân nhân hải
quân trước 75. Có ba người trùng tên anh, tất cả đều là sĩ quan. Một Trung tá là
người Bắc di cư; một Trung úy người Nam và một thiếu úy người miền Trung. Tôi
biết anh người Nam. Trong danh sách sĩ quan hải quân trình diện, tôi tìm thấy
tên anh, một Trung úy người Nam, địa chỉ Tân Vạn Biên Hòa. Tôi lên ngay Biên
Hòa thì công an xã cho biết anh bỏ cây xăng trốn đi đâu không biết. Anh đâu có
trốn khỏi tay tôi.
À, đúng là một tay nguy
hiểm. Không hiểu mình gây thù chuốc oán gì mà bị săn lùng tới mức này. Chắc
phải giả ngây giả dại mới qua khỏi ải này, tôi nghĩ. Cô ta nói tiếp:
- Tôi biết anh đã trình
diện. Sau khi có lệnh tập trung cải tạo tôi tìm hầu hết các trại cải tạo miền
Tây và đến Mỹ Tho nầy thì thấy tên anh; Lý lịch anh khai ở trại này toàn là thứ
ba xạo, đúng chưa? Con trai độc nhất trong nhà như anh thì đào đâu ra mà có anh
ruột là Thương Uý tập kết tử trận ở Cà Mau. Anh muốn tôi kể thêm nữa không?
- Cô... Cán bộ. Cô...
Thấy “con mồi” đứng lơ
ngơ chịu trận, cô ta có vẻ hài lòng, thong thả rời chỗ đứng về lại bàn rồi bảo
tôi:
-Trong trại này anh còn
dám đánh lộn rồi còn tuyên bố chẳng cần được thả sớm. Anh “chì” lắm ma, sao nay
ú ớ vậy. Thôi, ngồi xuống đi. Bây giờ chú ý nghe tôi nhắc. Anh nhớ Năm Căn
không? Nhớ đi...
- Năm Căn Cà Mau?
- Còn Năm Căn nào nữa.
Ngày ấy anh chỉ là một anh thuỷ thủ quèn mà làm tàng... Nhớ đi. Rán coi. Tôi
nhắc thêm nghe. Thấy trên cánh tay bọn tôi có bốn dấu xâm, anh ba hoa giảng lung
tung rồi bảo chúng tôi đi đi, mau mau về nhà lo làm ăn mà kiếm tấm chồng...
....
À á. Năm Căn. Bốn vết
xâm. Tôi bắt đầu nhớ. Chuyện đã mưới mấy năm trước, hồi tôi mới vào lính. Sau 2
tháng được huyến luyện quân sự ở Nha Trang, tôi xuống chiếc tàu Há Mồm (HQ.500)
làm thủy thủ tập sự và được tham dự "Chiến dịch Sống Tình Thương" ở
quận Năm Căn, tỉnh Cà Mau. Đây là nơi mà khi tàu ủi bãi, có mấy đứa con nít
đến, dơ tay gõ vào thành tàu rồi la lên “bằng sắt thiệt tụi bây ơi"; Chúng
tôi thấy lạ kỳ nên hỏi vậy chớ các em nghĩ tàu làm bằng gì. Bọn nhỏ nói các ảnh
nói tàu làm bằng cạc tông.
Cũng trong chiến dịch
này, có bữa địa phương quân đưa xuống tàu chúng tôi ba nữ giao liên gửi cho hải
quân giữ chờ hải thuyền đến chở giao về tỉnh Cà Mau. Chiến dịch chấm dứt, tàu
tôi được lệnh phải đi công tác khẩn chuyển quân ra miền Trung. Chỉ huy tàu bảo
ba cô giao liên chỉ là bọn con nít, chẳng biết gì, cho lệnh phóng thích luôn.
Tôi đang phiên gác với một ông Trung sĩ nên được lệnh xuống phòng tạm trú dẫn
ba cô lên bờ thả cho đi. Đúng là cả ba đều con nít, hai cô 15 tuổi, cô lớn chắc
cũng chỉ 16, 17 tuổi. Thấy trên cánh tay các cô có 4 dấu xâm, tôi nói:
" Các cô có biết 4
dấu chấm xâm trên cánh tay ý nghĩa là gì không? Sinh Bắc Tử Nam là để cho người
miền Bắc vượt tuyến vào Nam thề chiến đấu cho đến chết vì Bác vì Đảng. Các cô
sinh ở miền Nam không lẽ Sinh Nam Tử Bắc hay Sinh Nam Tử Nam thì chống lại với
người Miền Bắc hay sao? Về xóa hết đi lo làm ăn kiếm tấm chồng mà sống cho bình
thường. Chuyện đánh nhau là chuyện của đàn ông, con trai đừng xía vào cho khổ
thân.”
Không lẽ chỉ nói chừng
đó mà thành mối hận để bay giờ phải trả. Thấy tôi nín thinh, cô cán bộ áo trắng
nhắc tiếp:
“Anh nhớ thêm đi. Lúc
anh bảo ba cô đi đi, tôi không chịu đi mà đòi anh đem giao chúng tôi cho tỉnh
Cà Mau. Anh hỏi tại sao thả mà không chịu đi mà đòi giao cho tỉnh. Tôi nói chứ
không phải thả đi để các anh bắn từ phía sau lưng hay sao? Anh phá ra cười rồi
hỏi ai bảo các cô vậy? Tôi nói nghe các anh lớn nói. Anh hỏi lại nếu thả để bắn
sau lưng thì còn ai sống mà kể lại cho các anh lớn biết. Rồi anh tiếp là chẳng
những hải quân mà tất cả các binh chủng khác cũng không có binh chủng nào thả
người rồi bắn sau lưng. Anh còn nói bắt người thì phải đưa ra tòa xét xử, nếu
có tội thì phạt tù chỉ khi nào giết nhiều người, làm hại nhiều người thì mới bị
kết tội tử hình công khai chứ không bao giờ bắn sau lưng cả. Anh nhớ ra chưa?
Thấy giọng cô ta bỗng
như dịu lại, không có vẻ gì là hằn thù, tôi làm bộ như vừa chợt nhớ ra và kêu:
- A...A... Cô có thể
cười cho tôi coi không?
- Có lẽ anh đang nhớ ra
rồi, vì ngày đó anh có khen tôi cười có hai núm đồng tiền nên dễ kiếm chồng
lắm.
Cô ta nhìn thẳng vào mặt
tôi và cười. Hai núm đồng tiền, bên phải sâu hơn bên trái.
- Đúng rồi. Đúng cái mặt
cười năm xưa. Tôi nhớ sau khi tôi khen cô bé còn nguýt tôi một cái thật dài.
Tôi nhớ hoài cái nguýt dài ấy.
- Ở đó mà cô bé, cô
bé....
Tức thì thêm một cái
nguýt dài trên mặt cô cán bộ. Đôi má núm đồng tiền bỗng như linh động hơn.
Sau cái cười và cái
nguýt dài của cô cán bộ áo trắng, tôi cảm thấy nhẹ người.
- Anh nhìn lại coi. Hơn
12 năm rồi. Đâu còn con bé nào ở đây.
Đến lượt tôi cũng nhìn
thẳng vào mắt cô ta và cười. Câu chuyện từ lúc này bắt đầu thấy dễ chịu. Tôi
nói:
- Sau khi đưa các cô tới
gần cái chợ nhỏ bên sông, thấy chỗ an toàn, tôi mới bảo các cô đi đi. Khi các
cô đi qua khu chợ, tôi còn đi theo một đoạn canh chừng. Không thấy cô ngó lui.
- Tôi không ngó lui
nhưng biết anh đi theo.. Chắc anh không thể ngờ là khi về nhà rồi,
ngay ngày hôm sau tôi còn trở lại khu bến sông ấy, nhưng tàu của anh
đã đi rồi.
- Tôi có nghe viên trung
uý vừa rồi gọi cô là đồng chí bí thư. Chắc cô đã là đảng viên lâu năm.
- Vậy là anh đã nghe.
Đúng là tôi đã 12 tuổi đảng. Ngay khi trở về, tôi được kết nạp đảng. Sau đó
được chuyển về làm công tác nội thành, theo dõi thầy cô và hiệu đoàn học sinh
trường trung học Cà Mau nên tôi học thi lại Tú tài 1 và năm 65, tôi đậu luôn Tú
Tài 2. Sau đó ít lâu, tôi chuyển về công tác nằm vùng tại đại học Long Xuyên
cho tới ngày giải phóng. Anh không biết là bao năm qua, tôi vẫn tin là sẽ có
ngày tôi gặp lại anh...
Tôi nói:
- Thì chúng ta đang gặp
nhau ở đây.. Hôm nay tôi đã là người tù. Cô là người thắng trận. Ngày ấy, thấy
trên cánh tay các cô có mấy vết xâm, tôi lỡ nói mấy câu gì đó. Mong cô không để
tâm.
- Anh khỏi cần phải
mong. Mấy câu anh nói ngày ấy tôi không bao giờ quên. Hôm nay tôi cố ý mang áo
sơ mi ngắn tay để anh thấy trên tay tôi không còn vết xâm nữa. Tôi đã xoá bỏ
chúng từ lâu. Anh thấy chưa, không còn dấu vết hay để thẹo gì cả.
Cô ta vừa nói vừa đưa
cánh tay ra. Thấy tôi im lặng, cô ta nói luôn:
- Anh không cần phải sợ
tôi. Hơn 12 năm trước, khi trở lại bến sông ở Năm Căn tìm anh, tôi chỉ muốn anh
biết là tôi cám ơn anh. Hôm nay cũng vậy. Trước đây, khi bắt đầu đi tìm tung
tích anh, tôi chỉ mong một lần gặp lại coi anh sống ra sao, vợ con dùm đề thế
nào. Khi coi hồ sơ, tôi đến địa chỉ ghi trong lý lịch thì ra là nhà của ông
ngoại anh chứ không phải nhà của mẹ anh. Tôi hỏi địa chỉ và đến thăm mẹ anh ở
xóm Tân Vạn. Chính bà than phiền với tôi là cho đến nay anh vẫn còn độc thân.
Nhìn hình trong nhà, tôi nhận ra anh ngay. Bao năm qua, tôi không thể quên ánh
mắt tinh nghịch nụ cười nửa miệng của anh. Mẹ anh kể là mấy cô bạn anh toàn là
gái giang hồ, bán bar. Anh sợ lập gia đình nên không dám quen gái nhà lành. Mẹ
anh nói có lần bà bảo anh cưới cô giáo nhà bên cạnh nhưng anh nói không muốn có
vợ vì sợ phải nuôi con thiên hạ. Anh biết vì sao mẹ anh kể tôi nghe mọi chuyện
về anh không?
- Vì cô hỏi thì bà kể.
Mấy chuyện đó có gì đâu mà mẹ tôi phải dấu.
- Không phải vì tôi hỏi
mà mẹ anh rất thương tôi, tự bà kể ra. Bà muốn tôi phải biết tất cả về anh. Tại
sao anh biết không? Tại tôi nói với mẹ anh rằng tôi là người anh thương của
anh. Anh đã tính đưa tôi về ra mắt mẹ nhưng chưa kịp làm. Tôi không chỉ nói mà
còn ở lại với mẹ anh hai ngày hai đêm. Bà nói với tôi không sót điều gì, từ ba
anh tới bà con chú bác dòng họ. Mẹ anh còn nói bà thiệt mừng khi thấy tôi tự
đến ra mắt bà. Hôm nay gặp lại anh, chúng ta không có nhiều thì giờ để vòng vo
nên tôi phải nói luôn với anh chuyện này. Tôi thật lòng muốn làm bạn với anh.
Một cô cán bộ 12 tuổi
đảng muốn làm bạn với tôi. Chuyện thật khó tin.. Tôi nói:
- Cám ơn cô nhưng tôi
chỉ là một tên tù không biết ngày nào về, làm sao có thể là bạn của cô được.
- Ngày xưa anh từng mang
tôi ra khỏi nhà tù, lần này, đến phiên tôi sẽ cứu anh ra khỏi nơi này.
Chuyện tưởng như đùa
nhưng cô ta nói nghe chắc như ăn bắp. Tôi từng nghe chuyện lý lịch với phía
cộng sản là sinh tử. Có nhiều cán bộ cao cấp tập kết ra Bắc nay thấy con cháu
đi tù cải tạo mà ngó lơ, không ai dám dỡn mặt với kỷ luật đảng. Tại sao cô cán
bộ này dám nói ra miệng là sẽ ra tay cứu mình. Cô ta là thứ bí thư gì vậy. Âm
mưu gì đây mà cô ta phải tìm đến ở với mẹ tôi mấy ngày đêm để nắm hết lý lịch
bí ẩn của tôi. Mẹ tôi vốn cả tin. Chưa bao giờ tôi mang bất cứ người cô nào về
nhà ra mắt mẹ. Nay thấy một cô gái có vẻ con nhà lành dễ thương tới xưng là
người tình của thằng con, bảo sao bà ta không tin ngay mà thương. Nhưng tôi đâu
có khờ như bà mẹ mình được. Tôi nói:
- Cô đã biết hết lý lịch
thật của tôi. Tất cả rồi sẽ bị phanh phui, chắc tôi sẽ khó sống. Cô tuy có 12
tuổi đảng nhưng dính đến tôi sẽ có ngày liên lụy. Xin cô tha cho tôi.
Cô ta cười to và nói:
- Anh khỏi lo dùm tôi.
Tôi đã hứa là sẽ làm. Anh cứ sống bình thường như mọi người trong trại là được
rồi.
Cô ta đưa cho tôi một
túi quà và nói:
- Đây là quà của riêng
tôi biếu anh. Mẹ anh cũng muốn gửi quà nhưng tôi nói bà cứ giữ đó. Tháng tới
tôi sẽ đưa bà lên thăm anh. Thôi, anh về đi. Trưởng Trại có lẽ sắp trở lại.
Tôi nhận gói quà, chào
cô ta ra về mà gần như người mất hồn. Về tới trại giam, tôi chỉ trả lời qua loa
trước những lời dò hỏi của bạn tù.
Đúng như lời hẹn, tháng
sau cô ta đi cùng với mẹ tôi lên thăm. Không phải thăm riêng mà bình thường như
bao người cải tạo khác. Cùng gặp một lúc tại nhà thăm nuôi, chỉ 15 phút... Mọi
lời lẽ tù nói với người thăm gặp phải diễn ra trước mặt viên cán bộ phụ trách.
Từ đó, cô ta tiếp tục đi cùng mẹ tôi đến thăm tôi hàng tháng. Chẳng thể nói gì,
tôi đành phó mặt cho số mệnh. Thấy cô cán bộ 12 tuổi đảng đóng vai phó thường
dân ngồi cười cười bên bà mẹ thăm nuôi, tôi nổi tánh lì, trò chuyện tự nhiên,
đôi khi còn chọc cười như ngày xưa ở các bars hay động. Tôi còn gì để mất? Cô
ta muốn gì ở tôi? Tôi có gì để mà lợi dụng? Thôi thì phó mặc cho số phận.
Tháng Một năm 1976, một
buổi chiều vừa ăn cơm xong, sắp tới giờ điểm danh vô chuồng, bỗng có cán bộ cầm
danh sách đến gọi đúng tên tôi bảo thu dọn gọn lẹ đồ đạc cá nhân mang theo ra
điểm danh.
Bất ngờ gọi tên lúc
chiều tối hẳn không phải lệnh tha. Thu dọn đồ đạc mang theo kiểu này chỉ có thể
là chuyện trại. Nơi tập họp điểm danh là sân trại. Số tù được gọi ra điểm danh
có hai mươi mấy mạng, trong số này có tên chỉ còn anh chỉ còn một chân. Một cán
bộ trẻ mang lon thiếu uý dẫn chúng tôi đi ra cổng. Không thấy xe cộ gì. Cả bọn
cuộc bộ, không thấy có quản chế súng ống kèm sát như khi đi lao động. Một tên
đánh bạo hỏi:
- Chúng tôi đi đâu đây
cán bộ?
- Đi tới nơi làm lệnh
tha.
- Tha về hả cán bộ?
- Bộ tha rồi không về ở
lại ăn hại à?
Cả bọn nửa tin nửa ngờ;
Trời bắt đầu tối. Thả vào giờ nầy, xe cộ đâu mà về?
Cả bọn được dẫn ra đến
nhà thăm nuôi. Đèn được thắp sáng. Có viên trung uý xưng là chánh trị viên tôi
từng gặp đợi sẵn. Thấy tôi trong đoàn người, anh ta cười ra vẻ “hồ hởi” bảo hôm
nay anh sẽ thấy cách mạng luôn có tình có lý. Các anh tập trung lại bàn thăm nuôi
khai lại địa chỉ và người nhà cho chính xác một lần, sau đó sẽ nghe đồng chí
trại trưởng tới nói chuyện.
Chừng nửa giờ sau, Đại
Úy Trưởng Trại ra tuyên bố:
- Các anh thuộc diện gia
đình cách mạng được bảo lãnh cho về; Kể từ giờ phút nầy tuyệt đối không được
liên lạc với những người trong trại; Từ đêm nay các anh ăn ngủ tạm tại nhà thăm
nuôi này. Cán bộ sẽ phát mền chiếu v, gạo và lương thực để các anh tự nấu
nướng. Ngày mai sẽ làm thủ tục nhận lại đồ ký gởi và lệnh tha. Sau đó chờ liên
lạc, gặp gỡ thân nhân bảo lãnh và làm lễ ra trại... Trong mấy bữa chờ làm lễ,
các anh tuyệt đối không được liên lạc với các trại viên cũ.
Hôm sau, cả bọn được tập
trung lên cơ quan nhận lệnh tha, tiền và đồ dùng ký gửi. Riêng phần tôi, kiểm
lại thấy còn vài trăm bạc mới. Ba ngày sau, đã thấy đoàn người thân nhân trong
đó có bà mẹ tôi có mặt tại nhà thăm nuôi. Hai mươi mấy tên tù được tha, kể cả
tôi, hầu hết đều do mẹ là người bảo lãnh.
Cán bộ ra đưa cho một số
tiền để mua thức ăn làm bữa tiệc chia tay. Một bà mẹ đến từ Cao Lãnh nghe nói
trước là chủ nhập cảng các loại máy ghe tàu, “xung phong” nhận sẽ “ủng hộ” thêm
tiền chợ và còn tình nguyện lãnh đi chợ dùm. Bà ta hỏi có thể cho một hay hai
người đi theo mang phụ thức ăn. Cán bộ nói:
- Bây giờ thì các anh có
thể đi tự do; muốn mấy người theo cũng được.
Thế là khu chợ gần Trại
Cải Tạo Vườn Đào được một buổi chợ trúng mối. Heo, gà, vịt, tôm càng, cá... rau
cải mua nguyên thúng, nguyên sàn, hỏi giá bao nhiêu là mua bấy nhiêu khỏi cần
trả giá; tiền chợ được bà chủ Cao Lãnh xuất hầu bao, mớ tiền chợ ít ỏi do trại
phát có lẽ được bà mẹ nầy cất riêng để làm kỷ niệm ngày con được ra tù.
Tiệc chia tay thức ăn ê
hề nào gỏi, nào ca ri, cá hấp, tôm càng nướng, thịt heo, gà, vịt luộc. Thế rồi
tiệc cũng bế mạt. Thức ăn gần như còn nguyên vì ai cũng chỉ nếm cho có vị và
cán bộ cũng không dám ăn bửa tiệc giá đáng mấy chục lần số tiền cho để làm
tiệc. Mấy Bà xin đem thức ăn cho mấy người trong trại thì cán bộ không cho bảo
phải đem chôn hết.
Ra khỏi trại mọi người
đứng chờ đón xe Mộc Hóa để về Cai Lậy. Từ phía hàng rào trại, thấy lố nhố người
đứng trông ra. Tôi quay lui, cũng không dám nhìn lâu không còn nhận được dáng
của đứa nào!.
Tôi nói với Má:
- Mình đi lần, bao giờ
có xe thì đón. Chứ đứng đây chờ nhìn vào các bạn trong kia nhìn ra, con thấy
bất an!
Tôi và má Tôi đi lần dọc
theo lộ. Tất cả gần như thấy vậy cũng đi theo.
*
Là người tù trại Vườn
Đào được về sớm, tôi biết thân ở yên với mẹ già. Chòm xóm không thấy làm khó
dễ.
Sau khi được trao trả
quyền công dân, tôi còn được cử ông Nông Hội Ấp đề nghị tôi làm trung đội
trưởng lao động ấp; mọi người vỗ tay táng thành. Thế là từ đó ai thấy tôi đến
nhà là biết bị gọi đi lao động không công cho XHCN, nào đào kinh, lấp kinh, rồi
nước đọng cây trái bị úng nước, ruộng lúa bị ngập nước không rút kịp lâu ngày
cây cối chết, lại phải đi phá đập, vác lúa thu thuế... Tôi không dám nhìn khi
thấy bà con nông dân ai cũng đầy nước mắt khi bồ lúa vơi đi hơn phân nửa để
đóng thuế. Nghe nói lúa thuế được chở tiếp tế cho Miền Bắc.
Mỗi tháng Cô Bí Thư đều
đem nhiều khô mắm từ Cà Mau lên thăm Tôi và ở chơi 3 hay 4 ngày. Cô ta ngủ
chung với mẹ tôi, vẫn có vẻ được bà thương mến, tin cẩn. Tôi cũng không nói hay
hỏi gì thêm ngoài việc cho mẹ biết là bà đã vô tình đem sói vào nhà vì cô ta là
tỗng bí thư trên 12 tuổi đảng.
Cũng có lần cô ta biệt
tăm luôn 3 tháng rồi một hôm đến thăm với nhiều quà từ miền Bắc. Cô cho biết
vừa đi tập huấn ở Hà Nội về. Tôi hỏi:
- Em sáng mắt ra chưa?
Cô ta lườm và nói:
- Anh chưa thấy quan tài
nên chưa biết đổ lệ!
Đầu năm 1980, Cô ta đến
thăm và tối hôm đó có mặt mẹ của tôi. Cô ta nói:
- Mẹ muốn em lo cho anh
ra đi nhưng em có điều kiện là anh phải nhận em làm vợ cho đến khi định cư rồi
sau đó tùy anh. Em cho anh một tháng để nghĩ suy và trả lời em.
Mẹ tôi khuyên tôi nên
nhận cô ta làm vợ vì cô ta thương tôi thật sự. Tôi thì nghĩ không hẳn. Cô ta bỏ
nhiều công phu tìm tôi, giúp tôi và nay muốn cùng tôi vượt biên với tư cách là
vợ một sĩ quan hải quân để làm gián điệp như bao trường hợp nằm vùng khác, có
người làm tài xế, người giúp việc trung thành tận tâm cả chục năm nhưng sau
tháng tư đen thì mới lòi mặt thật. Nhưng đâu còn đường nào khác để tính.
Chưa đầy một tháng sau
cô ta lên và bảo tôi chỉ đem theo một bộ quần áo gọn nhẹ để mai đi. Tôi hỏi:
- Em chưa biết anh có đồng
ý hay không mà bảo ra đi.
- Thông minh như anh thì
không bao giờ bỏ mất dịp may, vì anh không mất gì cả, kẻ mất nhiều nhứt là em
nhưng là em tự nguyện. Mọi chuyện ra sao sau này anh sẽ biết.
Tôi hỏi cô ta có an toàn
không.
- Anh có cần tàu Hải
Quân biên phòng hộ tống hay không? Nếu muốn em cũng có cho anh.
Tôi nghe mà khiếp. Chẳng
rõ cô ta nói đủa hay nói thật. Cỡ bí thư huyện ủy cung không thể có quyền vào
Bộ Tư Lệnh Hải quân xưa để tầm kẻ thù; Không hiểu cô ta là thứ gì? Không ra hải
ngoại để nằm vùng hay làm gián điệp thì còn gì nữa? Nghĩ vậy nhưng thôi kệ. Cô
ta làm gì hay là ai tính sau, cứ thoát ra khỏi nước cái đã. Thế là chúng tôi từ
giã mẹ ra đi.
Tàu vượt biên dài 12 mét
mới toanh, máy cũng mới và số người đi là 52 người do một cựu hàng hải thương
thuyền ngày xưa lái nhưng cuối cùng 26 người bị rớt lại vì ghe nhỏ chuyển ra
ghe lớn bị chận giữa đường mà trong đó có gia đình tài công. Cô bí thư hỏi:
- Anh lái được chứ?
- Lái được nhưng không
có bản đồ mà chỉ có la bàn thì phải chạy thẳng ra hải phận quốc tế rồi theo
hướng Tàu buôn mà lấy hướng đi thì sẽ sang Singapore hay tấp vào các đảo của
Indonesia.
Tôi lái suốt 5 ngày đêm
mới gặp một ghe đánh cá của Indonesian và hỏi thăm thì được chỉ cho một chỗ
cách đó không xa. Tôi lái vào và ở đó một ngày một đêm thì được tàu của Indo
đưa đến trại tỵ nạn Kuku. Một tháng sau chúng tôi được đưa sang trại Galang và
dĩ nhiên trong lý lịch của Hải quân Trung úy VNCH nay có thêm cô vợ bí mật
nhiều phần là gián điệp.
Trên bước đường lưu vong
quê người xứ lạ làm thân thất quốc, chúng tôi cô đơn lạc lõng như nhau. Ngày
qua ngày cả hai đứa đi học tiếng Anh về nấu cơm chung rồi chung mùng va thành
vợ chồng thật.
Ở Galang tôi gặp lại bạn
bè quân ngũ xưa; vì gần như mỗi tàu là có đôi ba hải quân xưa được đi không tốn
tiền để lái tàu. Quán Trùng Dương là nơi tụ họp để nhận ra nhau kể chuyện xưa
và bàn chuyện tương lai. Các cựu hải quân xưa làm sổ lưu niệm giống như thời
học trò viết lưu bút ngày xanh cho những tháng nghĩ hè. Lắm ông ghi cả số quân
đơn vị xưa và dán cả hình. Ôi các quan lính ơi Tôi mà đem cái sổ nầy về thì e
rằng cô bí thư mười mấy tuổi đảng sẽ lén ghi lại hết gởi về Bắc Bộ phủ thì gia
đình các ông cũng mà khó sống ở VN! Tôi từ chối viết sổ lưu niệm và cũng không
đến quán hội họp nữa.
Cũng tại trại Galang,
tôi có người bạn trước là thiếu úy ngành điện khí được mướn làm người gác máy
điện phụ cho một thợ điện người Indo. Anh Indo nầy khá am tường về tình hình VN
và có phân tích như sau:
- Các anh vượt biên nghĩ
rằng ra ngoại quốc rồi Mỹ sẽ giúp cho thành lập một đoàn quân để trở về dành
lại VN. Có lẽ các anh lầm rồi. Mỹ không bao giờ giúp các Anh đâu vì giúp các
Anh, Mỹ được lợi gì? Các anh đánh nhau mà nhiều nữ tính quá. Nhân đạo với kẻ
thù thì chỉ có con đường chết. Phải như chúng tôi kìa. Chỉ một đêm thôi không
một tiếng súng; toàn dùng dao, búa, mã tấu mà giết cho tuyệt giống cộng sản.
Chỉ một đêm là xong gần triệu mạng...
Sáu tháng sau chúng tôi
được đi định cư. Tôi không tham gia đoàn thể nào, không hội họp với cả hội đồng
hương nhưng lúc nào cũng canh chừng cô vợ bí thư đảng viên.
Cô ta cũng như tôi chẳng
quen ai, đến cả dùng điện thoại cô ta cũng không sử dụng. Mẹ tôi mất năm 83. Mẹ
cô ta mất năm 84. Năm 90 ba tôi và ba của cô ta cùng mất trong một năm. Chúng
tôi nhận thư nhưng không về và đến nay cũng chưa về. Chúng tôi đồng ý không có
con. Tôi 72 và vợ 70 tuổi; nếu còn ở Việt Nam, cô ta nay đã 52 tuổi đảng, không
biết làm tới chức gì.
Mất nước bốn mươi năm,
lưu vong hơn 35 năm, chúng tôi chưa bao giờ có ý định về thăm lại quê
hương... Trong lòng tôi đã chôn một chế độ và trong lòng vợ tôi cũng chôn một
chế độ. Chúng tôi không con nối dòng nên khi chúng tôi chết thì "cả hai
chế độ" cũng tan thành tro bụi. Với tôi, vậy là chôn xong hai chế độ. Ngày
ấy không xa.
Trần Thiện Phi Hùng
No comments:
Post a Comment