20200610 Ban tin bien Dong
Australia, China Clash Over COVID-19 Racism Claims
https://www.malaysiasun.com/news/265371510/australia-china-clash-over-covid-19-racism-claims
Pressures increasing on Indonesia and Malaysia in the
South China Sea
https://www.cnn.com/2020/06/07/asia/china-malaysia-indonesia-south-china-sea-intl-hnk/index.html
Phiet Pham thephiet_2002@yahoo.com
Mon, Jun 8 at 10:49 AM
Mỹ vừa gởi công hàm
tới LHQ, phản đối việc Trung cộng đang hung hãn lấn chiếm biển Đông; Việt
cộng có dám nhân cơ hội này mạnh mẽ kiện Tàu cộng không? Mong lắm thay
"Chiến lược phòng thủ" trong
hồ sơ VN kiện TQ ra sao? Đến nay "trời biết"
Trương Nhân Tuấn - Việc “leo thang” lý lẽ mấy hôm rày trong
nội dung các công hàm giữa VN và TQ gởi Tổng thư ký LHQ làm “căng thẳng” khu
vực Biển Đông. “Tiếng súng” có thể thay “tiếng nói” bất cứ lúc nào. “Leo thang”
trong ngôn từ sẽ đưa “bàn cờ Biển Đông” vào thế “triệt buộc”.
Việc này làm "nóng" lại công hàm 1958 của
Phạm Văn Đồng. TQ gởi công hàm ngày 17 tháng 4 năm 2020, vịn nội dung công hàm
1958 để khẳng định chủ quyền của TQ ở HS và TS.
Công hàm 1958 có giá trị pháp lý như lập luận lâu nay
của TQ hay không? Nếu có thì làm thế nào để "hóa giải" hiệu lực?
Giữa VN và TQ không đơn thuần chỉ có tranh chấp về
chủ quyền lãnh thổ HS và TS mà còn có những yêu sách đối nghịch như về
"quyền lịch sử" của TQ ở biển Đông. VN còn gặp nhiều khó khăn, một
mặt đối thủ là "đại cường", có thể sử dụng vũ lực để "cả vú lấp
miệng em". Còn có việc yêu sách vùng biển và thềm lục địa sinh ra từ các
đảo. Việc này cũng đặt VN vào tư thế bất lợi.
Các đảo HS và TS hiển nhiên thuộc VN. Nhưng nếu VN
yêu sách vùng biển và thềm lục địa phát sinh từ các đảo này rộng 200 hải lý như
đất liền, thì VN có thể bị "gậy ông đập lưng ông". Nếu công hàm 1958
có hiệu lực, VN có thể mất cả chì lẫn chài, mất chủ quyền HS và TS là một. Mất
vùng biển và thềm lục địa phát sinh chung quanh các đảo là hai.
VN cũng kẹt nếu hủy bỏ yêu sách “vùng biển phát sinh
từ đảo”. Bởi vì, nếu đảo đó của mình, thì rõ ràng là phi lý, chuyện này không
ai làm.
Ta thấy rõ sự lúng túng của VN trong các tuyên bố của
VN về chủ quyền lãnh thổ và yêu sách hải phận.
Thí dụ năm 1977 VN ra bản đồ (gọi là bản đồ bụng
chữa). VN yêu sách vùng nước và thềm lục địa chung quanh HS và TS, theo đó các
đảo HS và TS có đầy đủ hiệu lực “đảo”, theo điều 121 Luật biển 1982.
So sánh ta thấy “bản đồ bụng chữa” của VN không khác
mấy bản đồ chữ U chín đoạn của TQ.
Tuyên bố của VN ở các năm sau thông thường là
"thả nổi", hiểu sao cũng được, kiểu "Luật Quốc tế về Biển 1982
là cơ sở pháp lý duy nhứt, toàn diện và triệt để, về phạm vi quyền được hưởng
vùng biển giữa VN và TQ".
Theo tôi lựa chọn này là "thông minh". Bởi
vì VN có thể bị vướng nguyên tắc "estoppel", nguyên tắc "không
được nói ngược". VN không thế phản bác yêu sách đường chữ U của TQ trong
khi VN cũng có yêu sách “bản đồ bụng chữa” tương tự. Ngay cả khi VN tuyên bố
hủy bỏ yêu sách vùng biển 1977 thì việc bài bác yêu sách "đường chữ
U" của TQ, trước một tòa quốc tế, cũng có thể làm VN phạm nguyên tắc
"estoppel".
Anh không thể cấm người khác có quan điểm y chang như
anh.
VN còn có tranh chấp do chồng lấn vùng biển kinh tế
độc quyền và thềm lục địa, bề rộng 200 hải lý phát sinh từ đường cơ bản ven
bờ.
Ngoài ra, làm như chưa đủ phức tạp, lại có vụ “thềm
lục địa mở rộng”, theo điều 76 của Luật quốc tế về Biển. Quốc gia nào có thềm
lục địa “có thể mở rộng được”, thì có thể mở ra đến 350 hải lý. Việc chống lấn
vì vậy, ngoài vùng biển và thềm lục địa 200 hải lý, còn có chồng lần “thềm lục
địa mở rộng”.
Hiển nhiên câu hỏi cần phải đặt (mà không thấy ai
đặt) là VN "phác họa" chiến lược tranh tụng với TQ ra sao?
Nếu kiện TQ thì kiện về cái gì? Kiện ở đâu?
Ải đầu tiên nếu VN muốn đi kiện TQ, là phải chắc chắn
tòa “có thẩm quyền phân xử”. Việc này có hai cái khó. Thứ nhứt, hai bên phải ký
nhận thẩm quyền của tòa. Thứ hai, nội dung phân xử không bị “loại trừ” do việc
“bảo lưu” của một bên.
Vụ Phi đơn phương kiện TQ ra Tòa Trọng tài thường
trực ở La Haye (Hòa lan). Tòa tuyên bố có thẩm quyền và ra phán quyết ra ngày
14 tháng 7 năm 2016. Theo nội dung “giải thích và cách áp dụng Luật Biển khu
vực nam Biển Đông”, Phi thắng kiện. Vấn đề là TQ không tham gia, vì cho rằng
Tòa không có thẩm quyền. TQ không nhìn nhận và dĩ nhiên không tuân thủ phán
quyết.
Hoc giả VN luôn “lên gân” muốn VN “kiện” TQ. Nếu có
ai đó hỏi “sách lược kiện tụng của VN ra sao, kiện ở đâu, kiện cái gì”? Câu trả
lời coi bộ khó!
Tuy nhiên, nói vậy là “hạ thấp” trình độ của học giả
VN. Lâu nay học giả VN cũng rất siêng năng, rất chuyên chú ở việc tìm kiếm bản
đồ.
Làm như khi ra tòa, VN ôm một chồng bản đồ TQ trong
đó không có vẽ HS và TS là đủ chứng minh TQ không có chủ quyền ở HS và TS
vậy.
Vụ
“hiệu
lực các bản đồ” từ 10 năm trước tôi đã có bài nghiên cứu, cho
thấy là trước tòa, bản đồ không hề là một “bằng chứng”. Bản đồ chỉ có giá trị
“thông tin”, giúp tòa làm rõ một vấn đề (còn mù mờ) nào đó.
Ngay cả việc bất nhất trong lập luận, về tư cách pháp
nhân các thực thể VNDCCH, VNCH, CPLTMTGPMN... các học giả vẫn lọng cọng. Trong
khi việc lựa chọn “tư cách pháp nhân” của VNCH và VNDCCH mới là điều quan trọng
nhứt, là “yếu tố nền tảng”, quyết định VN “thắng” hay “thua” trong vụ
kiện.
Chưa nói tới nội dung các “sách lược” phòng thủ và
tấn công (vì đâu ai biết nó hình dáng ra sao?). Các học giả VN hiện nay hầu hết
có quan niệm VNCH và VNDCCH là hai “quốc gia, độc lập có chủ quyền”.
Việc này tôi có nói (vô số lần) là “nguy hiểm”. Làm
vậy là toàn bộ lịch sử VN, kể cả giai đoạn 1954-1975, đều được xét dưới ánh
sáng của luật quốc tế.
Tôi
có viết nhiều bài cảnh báo, trong đó có bài “Công
hàm 1958: một vấn đề thuộc phạm vi công pháp quốc tế” và bài “Nếu
công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng không hiện hữu”. Rõ ràng ý kiến của
tôi trong hai bài này khó lòng phản biện. Vì những gì tôi viết chỉ phản ảnh
luật lệ, hay giải thích luật lệ.
Tức là khi đặt nền tảng hồ sơ kiện, với VNDCCH và
VNCH là “hai quốc gia”. Bất kể lập luận ra sao, bằng chứng “chắc như bê tông”,
tôi nghĩ rằng VN thua kiện 99%, ở bất kỳ một mục đích nào ghi ở trên.
Hồ sơ do tôi đề nghị từ nhiều năm nay, theo đó VNCH
và VNDCCH là hai thực thể chính trị thuộc về một quốc gia “duy nhứt”, theo định
nghĩa của hiệp định Genève 1954, khẳng định lại qua hiệp định Paris 1973. Tức
là VN có tư cách pháp nhân là “quốc gia bị phân chia - divided state”. VNCH và
VNDCCH là hai “quốc gia chưa hoàn tất”. Đây là cách nói khác của pháp nhân
“quốc gia hai chế độ”.
Nếu ta xét thực tế lịch sử, từ 1954 tới 1975, VNDCCH
chưa bao giờ là thành viên của bất cứ một định chế, một tổ chức nào thuộc LHQ.
VNDCCH không có ghế đại diện LHQ đã đành. VNDCCH cũng không phải là thành viên
của bất kỳ một công ước quốc tế nào hết cả. Không phải là VNDCCH “không muốn”
gia nhập. Mà bởi vì VNDCCH không có “tư cách pháp nhân” để gia nhập.
Thực tế lịch sử nó là như vậy. VNDCCH không phải là
đối tượng của công pháp quốc tế. Điều này không thể phản bác.
Tức là tất cả những hành vi, thái độ bất kỳ của
VNDCCH, trước một vấn đề “quốc tế” thể hiện từ 1954 đến 1975, hiển nhiên không
thể soi sáng bằng luật pháp quốc tế.
Cũng nên nhắc lại chi tiết, sau khi TQ xâm lăng Hoàng
Sa của VN tháng giêng 1974, VNCH vận động Hội đồng bảo an LHQ can thiệp cũng
như lập hồ sơ “sách trắng” tung ta Đại hội đồng LHQ để kiện TQ lên tòa Công lý
Quốc tế. Ngay cả có hay không có sự “chống lưng” của Mỹ, VNCH bất lực, thất bại
trong tất cả các cuộc vận động.
Không quốc gia nào can thiệp, hay tỏ thái độ với
VNCH, ngoại trừ các tuyên bố phản đối của LX và các quốc gia khác lên án việc
sử dụng vũ lực của TQ.
Đơn giản vì VNCH không có tư cách pháp nhân của “Quốc
gia”. VNCH cũng như VNDCCH không phải là đối tượng của luật quốc tế.
Cả hai bên, VNCH và VNDCCH, đều không phải (hay chưa
phải) là “quốc gia độc lập có chủ quyền”.
Nhưng trước một tòa án, các học giả VN vẫn có thể
khẳng định rằng VNDCCH là “quốc gia”, như ý muốn. Vì từ khi “lập quốc” lãnh đạo
VNDCCH đã nói như vậy rồi. Hệ quả ra sao? Thì thử làm rồi sẽ biết.
Khi các học giả VN không phản biện được hai bài viết
tôi dẫn trên, ý kiến của một “tay mơ” về luật, thì các học giả đỉnh cao vô
phương “cãi” lại lập luận các học giả TQ.
“Chiến lược” phòng thủ của tôi hết sức đơn giản. Biết
mình biết người.
Biết mình đuối lý, không thể cãi với TQ bằng luật
quốc tế. Thì mình kéo địch thủ qua một “mặt trận” pháp lý khác, mà trong đó
luật quốc tế không thể áp dụng được, trong khoảng thời gian 1954-1975. Đâu ai
có thể cấm mình được? Thực tế lịch sử nó là như vậy mà!
Tức là, chỉ cần “điều chỉnh” lại lập trường một chút,
học giả đỉnh cao và đảng viên CSVN bớt “lên gân một chút”, khiêm nhượng một
chút, can đảm một chút để nhìn thực tế lịch sử. Thì công hàm 1958 của Phạm Văn
Đồng không có hiệu lực trước công pháp quốc tế.
Đơn giản chỉ có vậy.
Nhưng sau khi tôi đăng lại hai bài viết về “giá trị
pháp lý” của công hàm 1958, khối người phản biện bằng những lý do hết sức buồn
cười. Có người hỏi rằng khi TQ ra công hàm 1958 khẳng định chủ quyền và hải
phận 12 hải lý thì VNCH phản ứng ra sao? Điều tương tự cũng thường thấy, đặc
biệt trên BBC. Khi không thể phản biện được các lập luận của TQ bèn đỗ thừa
trách nhiệm VNCH làm mất HS.
Cũng có người không thấy rằng các bài viết của tôi,
các bài nói về hiệu lực pháp lý của công hàm 1958, có thể xem như là một hai
miếng “puzzle” trên một tấm hình to lớn là “hồ sơ” chủ quyền lãnh thổ, hải phận
và vùng biển của VN ở Biển Đông. Họ dẫn một vài đoạn trong bài viết đó rồi cho
rằng đó là lập trường của tôi. Hiển nhiên là lấy chữ bỏ miệng người!
Trong khi chờ đợi công hàm của VN sẽ gởi tổng thư ký
LHQ để phản biện các yêu sách của TQ. Tôi viết tóm lược ý kiến của tôi trong
bài này. Hy vọng bộ ngoại giao VN tiếp nôi lập luận phản biện như đã thấy trong
nội dung các công hàm năm 2016. Các học giả đỉnh cao cũng làm ơn bớt “lên gân”.
Quí vị nói sướng cái miệng nhưng hệ quả có thể làm cho TQ có lý do trả lời bằng
súng.
24.04.2020
Lac Viet lacviet2109@gmail.com
Sat, Jun 6 at 11:43 PM
20200610 BTBD 01PHONG TRÀO VẬN ĐỘNG BẢO VỆ
HOÀNG SA & TRƯỜNG SA và HÒA BÌNH THẾ GIỚI
PO. Box 362057, Milpitas, CA 95036-3057
Điện thoại : 408-771-5146.
Email : HOANGTRUONGSA@googlegroups.com
Số 01/PTVD/-
06/05/2020
Trích yếu: v/v Thành Lập Phong Trào Vận Động Bảo Vệ Hoàng Sa
& Trường Sa và Hòa Bình Thế Giới
Kính gởi:
- Quí Vị Lãnh Đạo Tinh Thần Các Tôn Giáo
- Quí Vị Đại Diện Các Cộng Đồng, Các Tổ
Chức, Hội Đoàn
- Quí Vị Đại Diện Các Cơ Quan Truyền
Thông Báo Chí
- Quí Đồng Hương và Anh Chị Em Thanh Niên
Sinh Viên
Kính thưa Quí Vị:
Để trả món nợ khổng lồ của Trung Cộng
giúp để đánh chiếm Miền Nam, Đảng Cộng Sản Việt Nam (VC) ngay từ thời Hồ chí
Minh đã cam kết chuyển nhượng chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Cộng
(TC). Vì VC không dám công khai thực thi sự chuyển nhượng này, nên để Trung
Cộng đánh chiếm với sự ủng hộ của chúng.
Kể từ 1956, TC đã chiếm khu Tuyên Đức,
phía Đông quần đảo Hoàng Sa, và 1974, phần còn lại là Nguyệt Thiềm của quần đảo
này, rồi chúng thiết lập căn cứ quân sự trên đó.
Đến 1988, chúng đánh chiếm 6 bãi ngầm của
Trường Sa và một số khác sau đó. TC tiến hành nhiều hoạt động để hỗ trợ việc áp
đặt chủ quyền của chúng trên Biển Đông qua bản đồ hình lưỡi bò. Chúng ban hành
luật lệ, hoạt động tuần tra, ngăn cấm và trấn áp ngư dân Việt hành nghề, thiết
lập cơ cấu hành chánh như Huyện Tam Sa và gia tăng các hoạt động quân sự nhẳm
chính thức sát nhập vùng Biển Đông của Việt Nam vào lãnh thổ, lãnh hải Trung
Hoa. Hiện nay chúng đã xây xong 8 bãi đá ngầm hay rặng san hô vùng Trường Sa
thành các đảo nhân tạo, trên đó chúng đã xây dựng một hệ thống căn cứ hải quân
đồ sộ với các kiến trúc kiên cố làm tiền đồn quân sự để làm bàn đạp bành trướng
thế lực. Chúng đã phối trí 3 không đoàn phản lực cơ chiến đấu trên các đảo
Subi, Vành Khăn và Chữ Thập, và thiết lập các dàn hoả tiễn, hệ thống radar, các
hệ thống viễn thông, các kho dự trữ tiếp liệu với các hải cảng, sân bay rộng
lớn, doanh trại... Hàng ngàn quân trú phòng đã được đưa tới để đồn trú tại 2
quần đảo này.
Trước các hành vi xâm lăng trắng trợn đó,
VC không có một động thái gì đáng kể để bảo vệ chủ quyền biển đảo, kể cả chủ
quyền trên lãnh thổ. Đã thế, những tổ chức, đồng bào yêu nước chỉ lên tiếng
khẳng định Hoàng Sa & Trường Sa là của Việt Nam, đều bị chúng cấm chỉ, bị
đàn áp thô bạo dã man, bị kết án cầm tù. VC huy động cả hệ thống
chính quyền, gồm công an cảnh sát, toà án, nhà tù, quân đội, và cả toàn thể hệ
thống đảng, đoàn để trấn áp và huỷ diệt mọi nỗ lực chống đối kẻ xâm lăng.
Bá Quyền Bắc Kinh ngày nay còn là mối đe
doạ toàn cầu. Hoa Kỳ là mục tiêu cuối cùng chúng muốn triệt tiêu để chúng thống
trị thế giới, thực hiện giấc mơ “Thế kỷ của người Tàu” vào năm 2049 do Tập Cận
Bình đề ra.
Qua chiến lược “Một Vành Đai và Một
Con Đường” mà Tập Cận Bình đề ra năm 2013, TC dự định thực hiện “Giấc Mơ”
ấy. Một Con Đường là Đường Biển bắt đầu từ Biển Đông của Việt Nam.Từ đó chúng
chiếm Đông Nam Á để chiếm trọn Á Châu, và đi xa hơn là chiếm Tây Thái Bình
Dương. Không phải chỉ giới hạn sự bành trướng đến Tây Thái Bình Dương, TC còn
chuẩn bị thực hiện mưu đồ chiếm các Châu Lục khác. Cũng từ Biển Đông, vào thập
niên 2000, chúng đã phác hoạ một lộ trình tiến về phía Tây với “một chuỗi ngọc
trai”, là các hải cảng, chạy dọc theo Thái Bình Dương sang Ấn Độ Dương đến Phi
Châu, bắt đầu từ cảng Sihanouvile dọc theo Mã Lai đến Kyauk Pyu của Miến Điện,
vòng vào Chittagong của Bangladesh, ra Hambantotan của Srilanka, đến các đảo
Cocos rồi Maldives của Ấn Độ Dương, vòng vào Gwadar của Pakistan, đến Djibouti,
Phi Châu. Nay, chiến lược Một Con Đường mà Tập cận Bình phác hoạ ra còn
phát triển rộng lớn hơn Chuỗi Ngọc Trai vì lẽ bao gồm toàn thể quốc gia quanh
các hải cảng nằm trên con đường này. Một Con Đường còn đi sâu vào lục địa Âu
Châu mà Ý Đại Lợi là điểm dừng chân, một căn cứ để bành trướng ra khắp Âu Châu.
Mỗi trạm trên lộ trình là một căn cứ mà ở nơi đó TC đưa công nhân đến đó để
kiến tạo các công trình, và cũng còn góp phần vào công tác di dân. Dân TC
lập nghiệp sẽ nằm vùng ở nơi đó chờ thời cơ. Tuy vậy, mục tiêu cuối cùng cần
thanh toán là Hoa Kỳ. Trung Cộng tấn công Hoa Kỳ bằng võ khí sinh hoá. Khi Hoà
Kỳ bị đánh bại, thì cả Tây Âu đầu hàng và sẽ kéo theo sự quy hàng của phần còn
lại của thế giới..
Vì tầm quan trọng của âm mưu này, GS
Nguyễn văn Canh và nhóm nghiên cứu của Ông đã soạn thảo cuốn Hồ sơ Hoàng Sa và
Trường Sa và Chủ Quyền Dân Tộc, bao gồm các nội dung trên, nhằm cung cấp thêm
các dữ kiện cần thiết cũng như gửi lời cảnh giác nhằm mục đích gây suy tư cho
các người làm chính sách trên thế giới. Cuốn sách này đã được dịch ra Anh ngữ,
hoàn tất in ấn vào cuối tháng 5, 2020 và dùng làm tài liệu căn bản cho công tác
trên. Một khi họ, nhất là Hoa Kỳ hiểu thêm được tầm quan trọng của
vấn đề an ninh của thế giới và của chính họ qua tài liệu này, chúng ta tin rằng
họ sẽ phải có biện pháp đối phó hữu hiệu nhằm ngăn chận tận gốc nguy cơ, thì cơ
may chúng ta bảo vệ được chủ quyền dân tộc và lấy lại được Hoàng Sa và Trường
Sa. Đó là nhiệm vụ lớn và cũng là vinh dự của chúng ta trong công tác này đối
với quê hương.
Kính thưa Quí Vị:
Để thực hiện công tác chuyển tải
tài liệu trên trong giai đoạn 1 và tiến hành một số công tác trong giai đoạn 2
như:
-
Vận động hành lang thông qua Dự Luật " East China Sea & South China
Sea Sanctions Act of 2019" nhằm trừng phạt Trung Cộng về các hành vi bất
hợp pháp trên Biển Hoa Đông và Biển Đông. Dự Luật này đã được Thượng
Nghị Sĩ Marco Rubio, TNS Ben Cardin và 13 TNS đồng viện đệ trình Thượng Viện HK
ngày 23 tháng 5 năm 2019 và A Goup of Concerned Citizens với trên 100 Hội Đoàn,
Tổ Chức tại Bắc Nam CA và nhiều nơi khác đã gởi Thỉnh Nguyện Thư và
tài liệu China Expansionism đến 100 TNS và 435 DB trong tháng 9 & 10 năm
2019 để vận động.
-
Vận động chống âm mưu Trung Cộng chiếm nốt các đảo của Việt Nam tại Trường Sa
-
Thành lập Toán Công Tác Đặc Biệt hoạt động tại Washington DC để tiếp xúc với
các văn phòng Tòa Đại Sứ của một số Quốc Gia để xin trao tài liệu Hoàng Sa
& Trường Sa đến các vị nguyên thủ quốc gia của họ, đồng thời cũng xin gặp
gỡ một số chính khách đặc biệt của HK để trực tiếp trình bày với họ về vấn đề
Hoàng Sa & Trường Sa và Chủ Quyền của Dân Tộc Việt Nam cùng những vấn đề
liên quan khác.
Phong Trào Vận Động Bảo Vệ Hoàng Sa &
Trường Sa và Hòa Bình Thế Giới đã được thành lập với thành phần nhân sự sau đây
được mời và được đề cử:
Hội Đồng Quản Trị:
· Dr.
Nguyễn Văn Canh
· Nguyễn
Huy Trụ, MD
· Ms.Nguyễn
Thị Ngọc Dung, Ex-Prof, National Administration Institute
Hội Đồng Cố Vấn:
· BS
Hoàng Cầm
· BS
Mã Xái
· BS
Trần Công Luyện
· BS
Trần Quyền
· BS
Đỗ Văn Hội
· TS
Trần Huy Bích
· Counsel
Nguyễn Bích, Esq.
· Giáo
Sĩ Huỳnh Quốc Bình
· Ông
Lý Ký Hoàng, Retired DEA Supervisory Special Agent
· Ông
Nguyễn Như Được, Tổng Thư Ký
Ủy Ban Giám Sát:
· Ông
Nguyễn Trung Châu, Tổng Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị
· Ông
Phan Tấn Ngưu, Tổng Hội CSQG VNCH
· Ông
Lạc Việt, Hội Đồng Liên Kết Đấu Tranh Dân Chủ Nhân Quyền Cho VN
· BS
Phạm Đức Vượng, Tập Thể Chiến Sĩ VNCH Hải Ngoại
· Ông
Cao Gia, Tổng Thư Ký
Ủy Ban Điều Hành:
· Chủ
Tịch: Ông Thái Văn Hòa
· Phó
Chủ Tịch ĐT Công Tác: Ông Nguyễn Tấn Lực
· Phó
Chủ Tịch ĐT Tài Chánh: Ông Nguyễn Trung Cao
· Tổng
Thư Ký: Ông Nguyễn Văn Dzũng
· Thủ
Quỹ: KS Nguyễn Văn Khôi
· Phụ
Tá Thủ Quỹ: Ông Lê Văn Thụy
· Ban
Tài Chánh: Ông Thomas Huỳnh
· Ban
Thông Tin: Ông Huỳnh Lương Thiện - Ông Duy
Văn
· Ban
In Ấn Label, Mua và Phân Phối Sách: Ông Nguyễn Ngọc Thụy - Ông Đinh Công Thuận
Ban Vận Động:
· Vùng
Tây Nam HK: Ông Nguyễn Doãn Hưng - Ông Nguyễn Ngọc Tuấn - Bà Nguyễn Tâm An
· Vùng
Tây Bắc HK: BĐQ Trần Song Nguyên - Ông Đinh Văn Hạp - Ông Trần Quốc Nại - Ông
Trần Đức Túc - Ông Trần Bửu Giao - Ông Nguyễn Văn Sáu - Ông Nguyễn Hinh
· Vùng
Hoa Thịnh Đốn và Phụ Cận: Ông Hà Văn Sang - Ông Hồ Văn Tâm - Ông Đỗ Như Thạch
· Vùng
Houston và Phụ Cận: Ông Lê Văn Thao - Bà Trương Quế Hương
· Vùng
Dallas/Forworth và Phụ Cận: Ông Đoàn Tống
· Tiểu
Bang Hawaii và Tòa Tổng Lãnh Sự Các Quốc Gia Vùng Thái Bình Dương: Bà Nina Nguyễn
· Miền
Tây Canada: Ông Lạc Việt - Ông Nguyễn Hữu Ninh
· Miền
Đông Canada: Ông Nguyễn Như Thành
· Âu
Châu: Ông Võ Văn Phước - Ông Nguyễn Văn Đáng
Các Cơ Quan Truyền Thông, Báo Chí Hỗ Trợ:
· Truyền
Hình VIETTODAY (Ông Lê Đình Bì)
· Radio
Tiếng Mõ Bắc CA, Tuần Báo Mõ San Francisco/Oakland (Ông Huỳnh Lương Thiện)
· Hệ
Thống Truyền Thông CaliToday (Ông Nguyễn Xuân Nam)
· Đời
Mới ONLINE (Ông Duy Văn)
· Truyền
Hình Nét Việt Chanel 16.6 (Phóng Viên Nghê Lữ)
· Việt
Vùng Vịnh (Ông Mỹ Lợi)
..............................................................................
Các Hội Đoàn, Tổ Chức Tham Gia, Hỗ Trợ:
· 1-Tổng
Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị
· 2-Tổng
Hội CSQG/VNCH
· 3-Tập
Thể Chiến Sĩ VNCH Hải Ngoại
· 4-Hội
Đồng Liên Kết Đấu Tranh Dân Chủ Nhân Quyền Cho VN
· 5-Liên
Minh Dân Chủ VN
· 6-Hội
Đồng Liên Kết Quốc Nội Hải Ngoại VN
· 7-Phong
Trào Hưng Ca VN
· 8-Liên
Hội CSQG/VNCH Âu Châu
· 9-Hội
Ái Hữu Lực Lượng CSQG Bắc CA
· 10-Hội
Ái Hữu CSQG/VNCH Nam CA
· 11-Hội
Ái Hữu CSQG/VNCH San Diego
· 12-Hội
Thân Hữu CSQG/VNCH Vùng Hoa Thịnh Đốn & Phụ Cận
· 13-Hội
Cựu Sinh Viên Sĩ Quan Học Viện CSQG Bắc CA
· 14-Hội
Ái Hữu Đồng Hương Quảng Ngãi Hải Ngoại Bắc CA
· 15-Hội
CSQG/VNCH Houston và Phụ Cận
· 16-Hội
Ái Hữu CSQG/VNCH Massachusetts
· 17-Hội
Địa Phương Quân và Nghĩa Quân
· 18-Hội
Nữ Quân Nhân San Jose và Hậu Duệ VNCH
· 19-Nhóm
Cựu Nhân Viên CSQG Tỉnh Quảng Ngãi
· 20-Nhóm
Phụng Sự Cộng Đồng
· 21-Tập
Hợp Quốc Dân Việt
· 22-Thành
Bộ Việt Nam Quốc Dân Đảng San Jose
· 23-Liên
Minh Việt Nam Độc Lập Dân Chủ/Milpitas
· 24-Hội
Biệt Động Quân Bắc CA
· 25-Hội
Phụ Nữ Việt Nam Hải Ngoại Bắc CA
· 26-Khu
Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Montreal, Canada
· 27-Gia
Đình Cựu SVSQ Trừ Bị Thủ Đức Montreal, Canada
· 28-Gia
Đình Hội Ái Hữu Thiết Giáp Binh Montreal, Canada
· 29-Khu
Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Oklahoma
· 30-Khu
Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị New Orleans
· 31-Khu
Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Orlando
· 32-Trung
Tâm Sinh Hoạt Văn Hóa Việt Nam Vancouver, Canada
Kính thưa Quí Vị,
Vì đây là vấn đề của cả dân tộc, Phong
Trào ước mong sự tiếp tay của tất cả quí vị, mọi người tị nạn để có phương tiện
chuyển tải tài liệu này đến 535 Nghị Sĩ, Dân Biểu Hoa Kỳ, các người đứng đầu cơ
quan Hành Pháp như Tổng Thống, các Bộ Trưởng Ngoại Giao, Quốc phòng và vài yếu
nhân khác của Hoa Kỳ, và của khoảng gần 20 quốc gia trên thế giới.
Vì thì giờ eo hẹp, vả lại trong tình
trạng đại dịch Vũ Hán nên Phong Trào đã không liên lạc được với nhiều tổ chức,
hội đoàn để vận động mời gọi tham gia, hỗ trợ Phong Trào trước khi ra thông báo
này. Kính mong Quí Vị thông cảm.
Trong tinh thần cùng chung vai gánh vác,
chia xẻ trách nhiệm, thể hiện tinh thần đoàn kết, tăng thêm sức mạnh để cùng
hoàn thành mục đích công tác, Phong Trào rất vinh
hạnh được đón nhận quyết định tham gia, hỗ trợ Phong Trào của nhiều tổ chức,
hội đoàn & cá nhân sau khi phổ biến Thông Báo này.
Phong Trào xin trân trọng cám ơn Quí Vị
Đại Diện Các Tổ Chức, Hội Đoàn, Các Cơ Quan Truyền Thông Báo Chí và Cá Nhân đã
nhiệt tình hỗ trợ việc thành lập và mục đích hoạt động của Phong Trào Vận Động
Bảo Vệ Hoàng Sa & Trường Sa và Bảo Vệ Hòa Bình Thế Giới.
Trân trọng.
San Jose ngày 05 tháng 06 năm 2020
TM. Phong Trào Vận Động Bảo Vệ Hoàng Sa
& Trường Sa và Hòa Bình Thế Giới
Chủ Tịch Ủy Ban Điều Hành
Thái Văn Hòa
Điện thoại liên lạc:
- Thái Văn
Hòa: 408-771-5146
- Nguyễn Tấn
Lực: 408-828-4894
- Nguyễn Trung Cao: 510-529-1665
- Nguyễn Văn Dzũng: 408-806-3700
- Huỳnh Lương Thiện: 415-720-5247
Phiet Pham thephiet_2002@yahoo.com
Mon, Jun 8 at 10:48 AM
Liên Âu hay cộng đồng
quốc tế lên án Việt cọng, nhưng rất tiếc chẳng làm gì được băng đảng CSVN
này. Chúng sắp đem dân Đồng Tâm ra xử! Cọng sản còn, Công Lý
mất!
Quốc tế lên án vụ Đồng Tâm, gây sức ép lên EU trước đối thoại nhân quyền VN
OTHER Một số bạn
trẻ ở Đài Loan phản đối vụ đàn áp ở Đồng Tâm tháng 1/2020
Các tổ chức nhân quyền quốc tế kêu gọi EU yêu cầu chính phủ VN
chấm dứt đàn áp xã hội dân sự trước đối thoại dự kiến diễn ra giữa EU và VN
ngày 19/2.
Liên
minh Nhân quyền Quốc tế (FIDH) cùng tổ chức thành viên là Ủy ban Nhân quyền
Việt Nam (VCHR) khẳng định trong thông cáo phát đi hôm 17/2 rằng EU cần tận dụng cơ
hội cuộc thảo luận nhân quyền với chính phủ Việt Nam để yêu cầu chấm dứt đàn áp
xã hội dân sự, trả tự do ngay lập tức những người bất đồng chính kiến hiện đang
bị giam cầm.
Lên án vụ Đồng Tâm
20200610 BTBD 02Đồng Tâm: 'Đại diện sứ
quán Mỹ đã trao đồi gì với tôi?'
Đề
cập đến sự kiện Đồng Tâm, thông cáo của FIDH viết:
"Nhiều vi phạm nhân quyền ở Việt Nam được thực
hiện trong bối cảnh tranh chấp đất đai." Và rằng "chính quyền Việt
Nam đã liên tục áp dụng cách tiếp cận độc ác và bạo lực để giải quyết các tranh
chấp này", với "ví dụ mới nhất của xu hướng này là sự cố Đồng Tâm,
dẫn đến cái chết của ít nhất một thường dân vào tháng trước."
Trong
một diễn biến liên quan, tổ chức Theo dõi Nhân quyền
(HRW), trong thông cáo
phát đi hôm 18/2, cũng thúc giục EU kêu gọi chính phủ Việt Nam "khởi
động một cuộc điều tra công bằng và minh bạch về vụ đụng độ Đông Tâm ngày 9/1
và buộc những người sử dụng bạo lực phải chịu trách nhiệm".
HRW đề nghị EU kêu gọi chính phủ Việt Nam "cho
phép các nhà báo, nhà ngoại giao, cán bộ Liên Hiệp Quốc và các nhà quan sát
được tiếp cận Đồng Tâm mà không bị cản trở, để đánh giá những gì đã xảy ra và
theo dõi cuộc điều tra của chính phủ."
Trước đó nữa, ngày 14/2, Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Hà
Nội, trong email trả lời BBC News Tiếng Việt, cho biết:
"Chúng tôi theo dõi sát sao tất cả các diễn biến
của sự việc này và hiện đang thu thập thông tin từ nhiều nguồn để hiểu rõ hơn
về các biến cố ở Đồng Tâm. Chúng tôi đặc biệt lo ngại về tổn thất sinh mạng ở
cả hai phía trong cuộc đụng độ giữa lực lượng an ninh và người dân Việt Nam.
Điều quan trọng là tất cả các bên tìm cách giải quyết tranh chấp một cách cởi
mở, ôn hòa và minh bạch."
20200610 BTBD 03
Bốn
người trong gia đình ông Kình hiện 'vẫn chưa có tin tức gì', bà Dư Thị Thành
nói
'Sáu lĩnh vực VN vi
phạm nhân quyền'
Về mặt tổng quan, FIDH nêu ra các quan ngại chính về
nhân quyền ở Việt Nam trong sáu lĩnh vực, gồm: Leo thang đàn áp người bất đồng
chính kiến; các luật về "an ninh quốc gia" mang tính đàn áp; quyền
cho người lao động; tranh chấp đất đai; điều kiện vô nhân tính trong nhà tù và
chết trong tù, án tử hình.
Kể từ cuộc đối thoại năm ngoái tổ chức vào ngày 4/3,
chính quyền Việt Nam tiếp tục đàn áp, quấy rối, tấn công và giam giữ những
người bảo vệ nhân quyền, những người bảo vệ quyền lao động, những người bảo vệ
đất đai và môi trường, các blogger, nhà báo, nhà phê bình chính phủ và những
người theo tôn giáo, thông cáo viết.
Và nêu rõ: Từ ngày 5/3/2019 đến ngày 2/2/2020, chính
quyền Việt Nam đã bắt giữ 29 nhà hoạt động nhân quyền (bao gồm ba phụ nữ) và
kết án 42 người (bao gồm năm phụ nữ) với án tù lên tới 12 năm.
Chính phủ Việt Nam giải thích các cuộc đáp áp này là
do những người liên quan đã vi phạm Bộ Luật hình sự 2015 vốn hình sự hóa các
hoạt động bị coi là "đe dọa an ninh quốc gia". Các điều khoản mơ hồ này,
sáu trong số đó kèm theo mức án cao nhất là tử hình - không phân biệt giữa các
tội phạm bạo lực và các tội do thực thi quyền tự do ngôn luận một cách ôn hòa.
Tù nhân chính trị cần được trả tự do 'lập tức'
Mặc dù tham gia Công ước chống tra tấn và Các Hình
phạt hay Đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp khác, Việt Nam đã thất bại
trong cải thiện các điều kiện giam giữ. Các báo cáo về tra tấn, ngược đãi và tử
vong trong đồn cảnh sát vẫn tiếp tục ghi nhận các vụ việc này năm 2019. Một số
tù nhân đã chết năm ngoái là kết quả của các điều kiện giam giữ khắc nghiệt,
thậm chí có thể họ đã bị tra tấn hoặc ngược đãi, thông cáo của FIDH nhận định.
Vẫn theo FIDH, Việt Nam cũng tiếp tục áp dụng án tử
hình đối với một loạt các tội không đáp ứng các tiêu chí về "tội ác nghiêm
trọng nhất", trong khi thống kê về án tử hình tiếp tục được xếp vào dạng
bí mật nhà nước.
Tổ
chức Theo dõi Nhân quyền (HRW) liệt kê trong thông cáo tên những
nhà bất đồng chính kiến hiện đang bị giam giữ trái phép như kỹ sư Nguyễn Ngọc
Ánh (bị tuyên 6 năm tù), thầy giáo Nguyễn Năng Tĩnh (11 năm tù), nhà báo độc
lập Phạm Chí Dũng (hiện chưa được xét xử)...
HRW chỉ đích danh một số trường hợp mà EU cần kêu gọi
chính phủ Việt Nam "trả tự do ngay lập tức", bao gồm nhà hoạt động
ủng hộ dân chủ Hồ Đức Hòa, Nguyễn Trung Tôn, Nguyễn Văn Túc, Hoàng Đức Bình,
Nguyễn Trung Trực, Trương Minh Đức... Ba người nêu tên sau hiện đang có những
vấn đề nghiêm trọng về sức khỏe, HRW nhấn mạnh.
HRW cũng thúc giục EU buộc Việt Nam phải thừa nhận
công đoàn độc lập và đảm bảo rằng họ hoạt động mà không bị chính phủ can thiệp.
Ngoài ra, EU cần hối thúc VN đảm bảo rằng các nhà hoạt động xã hội dân sự và
học giả độc lập có thể là một phần của Nhóm tư vấn trong nước (DAGs) được Hiệp
định thương mại tự do Việt Nam - EU thừa nhận, đồng thời đảm bảo rằng họ có thể
thực hiện vai trò của mình một cách tự do và không sợ bị bắt giữ hoặc đe dọa.
Bộ Ngoại giao Việt Nam
nói gì?
Ngày 14/3/2019, Bộ Ngoại giao Việt Nam phản hồi lại báo cáo nhân quyền hàng năm của Bộ ngoại giao của Hoa Kỳ ra một ngày trước đó.
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, bà Lê Thị Thu
Hằng nói:
"Tuy đã ghi nhận những thành tựu về bảo vệ quyền
con người của Việt Nam, báo cáo này vẫn còn một số nhận định thiếu khách quan,
dựa trên những thông tin không chính xác, không phản ánh đúng tình hình thực tế
đang diễn ra tại Việt Nam.
"Những quyền tự do cơ bản của công dân Việt Nam
được quy định rõ trong Hiến pháp và pháp luật Việt Nam, phù hợp với các Công
ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên, được tôn trọng và bảo
đảm thực thi trên thực tế."
Báo cáo thường niên của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ vẫn gọi
Việt Nam là "nhà nước độc đoán", và rằng bầu cử quốc hội gần nhất năm
2016 "không tự do, chẳng công bằng, mặc dù có cạnh tranh hạn chế từ các
ứng viên do Đảng Cộng sản duyệt".
No comments:
Post a Comment