20190722 Bản tin biển Đông.
Why China and Vietnam Can’t Stop Clashing With Each
Other
Vietnam demands China end violations at sea
China says U.S. criticism over South China Sea is
slander
Why China Is In Love with Buying Russia's Killer Su-35
Fighter Jet
Huawei secretly helped build North Korea's wireless
network, leaked documents suggest
Trump says China's Xi has acted responsibly on Hong
Kong protests
China's Huawei spy risks threaten U.S diplomacy abroad
US warns of ability to take down Chinese artificial
islands
Quocviet V' via Conduongvui
‘Bẫy nợ ngoại giao’ cùng rủi ro mà các nước
gánh chịu và cái giá Bắc Kinh phải trả khi triển khai Sáng kiến Vành đai, Con
đường
05
Hình minh hoạ
Các nhà phê bình lo ngại rằng Trung Cộng đang sử dụng những
khoản vay để tạo ra sự phụ thuộc và đạt được tầm ảnh hưởng về chính trị từ kế
hoạch này. Chưa dừng ở đó, Bắc Kinh còn phải đối mặt với sự chỉ trích gay gắt
từ chính quê nhà.
Trung Cộng là một trong những quốc gia có dấu ấn phát triển lớn
nhất trên thế giới. Đây là quốc gia duy nhất có lưu lượng tài chính quốc tế
chính thức lớn hơn Mỹ. Tuy nhiên, Washington đã chi nhiều gấp 4 lần vào Hỗ Trợ
Phát Triển Chính thức (ODA) so với Trung Cộng. Trong khi đó, dòng tiền của
Trung Cộng chủ yếu được chi cho các khoản vay đối với những dự án về cơ sở hạ
tầng, năng lượng và truyền thông. Các dự án này là một phần của Sáng kiến Vành
đai và Con đường (BRI) – phương tiện chính của Trung Cộng nhằm thúc đẩy sự phát
triển cả ở trong và ngoài nước.
Thông qua đầu tư cơ sở hạ tầng, Bắc Kinh đặt mục tiêu kết nối
Trung Cộng hiệu quả hơn với các khu vực khác trên thế giới và tăng cường giao
thương dọc con đường này. 5 năm sau khi Chủ tịch Tập Cận Bình công bố về kế
hoạch cho BRI, Trung Cộng đã chi khoảng 25 tỷ USD cho những dự án cơ sở hạ tầng
có liên quan.
Tuy nhiên, câu hỏi được đặt ra là các nước được hưởng lợi từ
những khoản đầu tư của Trung Cộng ở mức độ nào? Có ít nhất 8 quốc gia đang phải
hứng chịu rủi ro “ôm” nợ từ những khoản vay liên quan đến các dự án của BRI,
theo báo cáo vào phát hành tháng 3/2018 của Trung tâm Phát triển Toàn cầu
(CGD). Các nhà phê bình lo ngại rằng Trung Cộng đang sử dụng những khoản vay để
tạo ra sự phụ thuộc và đạt được tầm ảnh hưởng về chính trị.
“Bẫy nợ ngoại giao” của Trung Cộng
Paul Haenle, cựu cố vấn của chính phủ Mỹ và giám đốc Trung tâm
Carnegie-Tsinghua, nhận định về những ý kiến chỉ trích: “Một số tin rằng Trung
Cộng đang sử dụng ‘bẫy nợ ngoại giao’ thông qua BRI, buộc các nước đang phát
triển phải phụ thuộc vào nợ và chuyển sự phụ thuộc đó thành tầm ảnh hưởng về
địa chính trị.”
Ông giải thích: “Những mối quan tâm đặc biệt xung quanh các động
thái của Trung Cộng tại Sri Lanka, Pakistan, Malaysia là trọng tâm của các cuộc
tranh luận về bẫy nợ. Trung Cộng đã có được 99 năm điều hành tại cảng
Hambantota ở miền nam Sri Lanka sau khi chi phí cho dự án này đã vượt ngoài tầm
kiểm soát, buộc Colombo phải bỏ quyền kiểm soát cảng để đổi lấy một gói cứu trợ
từ Trung Cộng.”
06
Tìm ra giải pháp thay thế để trả nợ khi các quốc gia không đủ
khả năng thanh toán những khoản vay trước đó không phải là một chiến lược mới
của Trung Cộng. Trở lại năm 2011, Trung Cộng đã xoá nợ cho Tajikistan, đổi lấy
1.158 km2 lãnh thổ tranh chấp, theo báo cáo của CDG. Nhưng năm ngoái, “tranh
luận về bẫy nợ đã nhận được sự đồng tình nhiều hơn nữa sau khi Thủ tướng
Malaysia huỷ các dự án BRI trị giá 23 tỷ USD và cảnh báo không trở thành ‘con
mồi’ của chủ nghĩa thực dân phiên bản Trung Cộng”, theo Haenle.
Một số quốc gia phương Tây cũng nhanh chóng đồng tình với quan
điểm này. Rex Tillerson, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, đã cảnh báo về phương thức
tiếp cận của Trung Cộng tại Đại học George Mason bang Virginia. Theo Tillerson,
chiến lược của Trung Cộng “khuyến khích sự phụ thuộc bằng cách cho vay và các
thoả thuận tham nhũng khiến các quốc gia mắc nợ và phải cắt giảm chủ quyền,
ngăn cản quá trình phát triển lâu dài và tăng trưởng tự bền vững của họ.”
Frans-Paul van der Putten đã nghiên cứu về Trung Cộng suốt 12
năm tại Clingendael – một trung tâm nghiên cứu quan hệ quốc tế tại Hà Lan. Ông
cho rằng việc tạo ra nợ giữa những bên tham gia BRI là một chiến lược có chủ
đích của Trung Cộng, với ý định đổi nợ lấy tài nguyên hoặc sự hỗ trợ về ngoại
giao sau này. Nhưng Bắc Kinh lại không làm điều gì để ngăn chặn việc này xảy
ra. Điều này phù hợp với lối tiếp cận vốn thực dụng của Trung Cộng, theo van
der Putten. Ông nói: “Không có vấn đề nghiêm trọng nếu các quốc gia đó có thể
trả nợ sau này, bởi nếu không thể thì họ sẽ tìm ra một cách khác để hưởng lợi.”
Trung Cộng không ngại sử dụng nợ làm đòn bẩy và họ giải quyết các nước mắc nợ
theo những cách thức đặc biệt và theo từng trường hợp cụ thể.
Trung Cộng luôn thắng
Với ý tưởng về sự hợp tác “đôi bên cùng có lợi”, Bắc Kinh luôn
có thể gặt hái được điều gì đó từ những khoản tài trợ của họ. Nếu đòn bẩy chính
trị là một “tác dụng phụ” hữu ích, thì Trung Cộng phải làm gì để kiếm được hàng
tỷ USD mà họ chi cho cơ sở hạ tầng ở nước ngoài?
Mô hình phát triển của Trung Cộng là dựa vào thương mại. Cơ sở
hạ tầng tốt hơn có nghĩa là thúc đẩy thương mại cũng là thúc đẩy phát triển.
BRI nhằm mục đích kết nối và phát triển các khu vực phía tây Trung Cộng, nhưng
cũng nhắm đến phát triển các thị trường khác để có được lợi thế riêng. Phương
Tây đã đạt được tiềm năng tăng trưởng và họ sẽ không nhận thêm điều gì từ Trung
Cộng. Nhưng châu Âu, với dân số đông, trẻ và ngày một nhiều hơn, là lục địa có
tiềm năng phát triển thực sự. Bằng cách thúc đẩy sự phát triển tại các nước
châu Phi, Trung Cộng muốn phát triển và mở rộng một thị trường mới ở lục địa
này.
07
Hơn nữa, các dự án cơ sở hạ tầng là “một khoản đầu tư để xây
dựng mối quan hệ tốt đẹp hơn giữa chính phủ Trung Cộng và chính phủ của các
nước tiếp nhận”, van der Putten giải thích. Ông cho hay: “Bằng cách cung cấp
những khoản vay, Trung Cộng đã có được lợi ích ngoại giao bởi họ sẽ thắt chặt
mối quan hệ với quốc gia cụ thể. Đó là điều mà Trung Cộng đạt được và nó không
thể hiện bằng tiền.”
Những gì có thể thể hiện bằng tiền là việc mà Trung Cộng cung
cấp cho các công ty xây dựng của mình qua những dự án BRI. Thông thường các
ngân hàng chính sách của Trung Cộng cung cấp tiền cho một dự án cụ thể ở một
quốc gia vay nợ với điều kiện những công ty của họ sẽ được thực hiện dự án. Van
der Putten nói: “Bởi vậy, phần lớn dòng tiền từ các ngân hàng chính sách của
Trung Cộng sẽ đến với những công ty xây dựng của họ. Đường sắt đang được xây
dựng, đường cao tốc cũng vậy. Có thể nó sẽ không bao giờ được sử dụng, nhưng
những công ty ấy đã đạt được mục tiêu của họ.”
Lấp đầy khoảng cách về cơ sở hạ tầng
Tuy nhiên, việc Trung Cộng hưởng lợi không có nghĩa là những
nước tham gia không nhận được điều gì. Các dự án cơ sở hạ tầng của Trung Cộng
đang đáp ứng nhu cầu cấp bách của họ – Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) ước
tính chỉ riêng châu Á cần khoảng 26 nghìn tỷ để đầu tư vào cơ sở hạ tầng cho
đến năm 2030 nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng hiện tại. Theo IMF, thiếu cơ sở hạ
tầng đầy đủ là một trong những rào cản lớn nhất đối với tăng trưởng và phát
triển ở châu Á, cũng như Mỹ Latinh. Bởi vậy, theo Haenle, việc BRI tập trung
vào phát triển cơ sở hạ tầng có thể mang đến tình thế rõ ràng “đôi bên cùng có
lợi.”
Haenle lập luận: “Không có gì sai về việc đầu tư vào cơ sở hạ
tầng hay thúc đẩy sự kết nối toàn cầu ở các nước đang phát triển.
“Có một khoảng cách rất lớn về số tiền cần thiết cho sự phát
triển và số tiền hiện có, đặc biệt là về cơ sở hạ tầng”, Marina Rudyak nhận
định. Rudyak đã nghiên cứu về quá trình phá triển trong nhiều năm và đang hoàn
thành chương trình tiến sĩ về hợp tác phát triển của Trung Cộng tại Đại học
Heidelberg ở Đức. Các tổ chức đa phương và những bên tài trợ không thể hỗ trợ
cho tất cả những dự án phát triển cần thiết, do đó vẫn còn nhiều cơ hội cho
Trung Cộng làm điều đó. “Vấn đề không phải là tiền từ Mỹ hay Trung Cộng, châu
Âu hay Trung Cộng, mà là châu Phi cần tất cả số đó.”
Van der Putten giải thích rằng các ngân hàng phát triển quốc tế
như African Development Bank và World Bank có nguồn vốn hạn chế, không đủ để
tài trợ cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng cần thiết. Các ngân hàng thương
mại phương Tây cũng không thể cung cấp các khoản vay rủi ro kể từ khủng hoảng
tài chính. Ông nói: “Vai trò của Trung Cộng ở đây rất quan trọng. Không chỉ là
một nguồn tài chính thay thế, mà còn là nguồn rất dồi dào.”
Các ngân hàng phát triển của Trung Cộng, ví dụ như China
Development Bank và China Exim Bank, cung cấp tài chính cho các dự án dựa vào
mức thuế bình thường. Ông cho hay: “Đây không phải là viện trợ cho phát triển,
mà nó có một số điểm khác biệt. Đây là những khoản vay rủi ro cho các nước phát
triển, có mục đích cải thiện cơ sở hạ tầng của họ.”
Mô hình cho vay của Trung Cộng
Tiền của Trung Cộng lấp đầy một khoảng trống trong tài trợ cơ sở
hạ tầng quốc tế. Vậy tại sao nó lại gây ra nợ nần và những ý kiến trái chiều?
Thứ nhất, hầu hết khoản tài trợ từ BRI được dựa trên cấu trúc quan hệ giữa hai
nhà nước. Điều này có thể tạo ra những thách thức đối với nợ chính phủ, với
những tác động có thể xảy ra với các mối quan hệ song phương.
Thông thường, các khoản vay được thực hiện theo những tiêu chuẩn
xác định bởi các tổ chức đa phương như WB, IFM hay các cơ chế đa phương như Câu
lạc bộ Paris. Nhưng Trung Cộng lại không phải thành viên của Câu lạc bộ Paris,
bởi vậy họ không cần phải thông báo cho các thành viên về hoạt động tín dụng và
cũng không tuân theo bất kỳ tiêu chuẩn nào.
Báo cáo của CDG kết luận: “Không có khuôn khổ đa phương hay
khuôn khổ nào khác để xác định cách tiếp cận của Trung Cộng đối với các về đề
về nợ bền vững, chúng ta chỉ có bằng chứng mang tính giai thoại về những động
thái đặc biệt mà Trung Cộng thực hiện làm cơ sở để mô tả cách tiếp cận chính
sách của quốc gia.”
08
Thay vì những tiêu chuẩn phổ quát, “Trung Cộng nhìn chung lại
tuân theo luật địa phương khi tài trợ cho các dự án phát triển”, Scott Morris –
một trong những tác giả của báo CDG này, giải thích. Ông nói: “Điều này có thể
có nghĩa là tiêu chuẩn cao khi luật địa phương chặt chẽ và tiêu chuẩn thấp khi
luật lỏng lẻo.”
Morris nhận định, sự khác biệt với các khoản vay từ các tổ chức,
như WB, là những tổ chức này đánh giá về luật địa phương và sẽ áp đặt các biện
pháp bảo hộ nếu luật pháp địa phương quá lỏng lẻo. Trung Cộng để lại phần trách
nhiệm này cho chính phủ đối tác và “tuân thủ theo bất kỳ luật lệ địa phương
nào”.
Ông cho biết thêm: “Trung Cộng cũng không nhạy cảm với các vấn
đề về tính bền vững của nợ, chẳng hạn như các điều khoản cho vay không hoàn
toàn phù hợp với rủi ro nợ của quốc gia đó.” Do đó, các quốc gia tiếp tục hưởng
lợi từ các khoản vay của Bắc Kinh sẽ phụ thuộc rất nhiều vào tiêu chuẩn của
chính họ.
Cái giá mà Bắc Kinh phải trả
Những vấn đề nợ giữa các nước tham gia BRI cũng gây ra hậu quả
cho Trung Cộng. Giữa khoảng thời gian năm 2000 và 2014, Bắc Kinh chi 13 tỷ USD
cho các hoạt động liên quan đến nợ. Với nợ khó đòi, họ giảm thiểu rủi ro bằng
cách mở rộng các điều khoản cho vay.
Theo Morris, Trung Cộng cũng phải gánh chịu rủi ro đáng kể khi
những bên đi vay vỡ nợ. Mặc dù “các khoản nợ là cần thiết cho đầu tư cơ sở hạ
tầng, nhưng một khoản nợ lớn cũng mang đến rủi ro đáng kể, cần được bên cho vay
và đi vay giám sát cẩn trọng.”
Quan trọng nhất, những ý kiến chỉ trích cũng đang gây ra một
“vấn đề rất lớn ở Trung Cộng”, Rudyak cho hay. “Công chúng Trung Cộng đang chỉ
trích rất gay gắt những khoản viện trợ và khoản vay của Trung Cộng.” Họ không
thể lấy lại được tiền và đang bị cộng đồng quốc tế chỉ trích. Do vậy, ngày càng
nhiều người Trung Cộng đặt ra câu hỏi, tại sao Bắc Kinh không sử dụng số tiền
này cho những người nghèo ở chính đất nước của họ?
Hương
Giang
Quocviet V' via Conduongvui
Trung Quốc phản đối
tuyên bố của Mỹ về vụ Tư Chính
Thanh Hà Đăng ngày 22-07-2019 Sửa đổi ngày
22-07-2019 15:48
Ảnh chụp các đảo
Trường Sa từ trên không, ngày 21/04/2017.Ted ALJIBE / AFP
Phát
ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc, Cảnh Sảng, ngày 22/07/2019 chỉ trích
Mỹ "vu khống" Trung Quốc qua việc Washington lên án
Bắc Kinh cản trở các hoạt động khai thác dầu khí của Việt Nam ở Biển Đông.
Họp
báo sáng nay tại Bắc Kinh, ông Cảnh Sảng chỉ trích Mỹ "thóa mạ" Trung
Quốc về sự cố tại bãi Tư Chính. Theo phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc,
việc chỉ trích Bắc Kinh ngăn cản các quốc gia trong khu vực khai thác năng
lượng tại Biển Đông là nhằm mục đích đổ thêm dầu vào lửa, trong lúc mà Trung
Quốc và các nước láng giềng đang "nỗ lực san bằng những bất
đồng" về tranh chấp chủ quyền.
Ông
Cảnh Sảng kêu gọi Washington ngưng đưa ra những tuyên bố "vô trách
nhiệm" như trên và nên "tôn trọng những nỗ lực của
Trung Quốc cùng các nước ASEAN giải quyết bất đồng bằng đối thoại, vì hòa bình
và ổn định tại Biển Đông".
Hãng
tin Anh, Reuters nhắc lại, hôm 20/07/2019 bộ Ngoại Giao Mỹ ra thông cáo bày tỏ
quan ngại về những "hành động khiêu khích liên tục" của
Bắc Kinh, đặc biệt là trong vùng biển mà Việt Nam đã tuyên bố chủ quyền. Hoa Kỳ
yêu cầu Trung Quốc "ngưng các hành vi quấy nhiễu và đe dọa các
quốc gia trong khu vực".
Ngoại
trưởng Mike Pompeo đầu năm 2019 từng trực tiếp lên án Trung Quốc "cưỡng
bức, ngăn chận các quốc gia thành viên ASEAN tiếp cận với các nguồn năng lượng
trị giá hơn 2.500 tỷ đô la".
Hà
Nội hôm 19/07/2019 cáo buộc một tàu khảo sát của Trung Quốc cùng các tàu hộ
tống đã vi phạm chủ quyền của Việt Nam khi tiến vào vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa của Việt Nam ở phía nam Biển Đông. Tàu của Trung Quốc đã tiến hành
thăm dò ở bãi Tư Chính, quần đảo Trường Sa. Tàu hải cảnh Trung Quốc còn đe dọa
các tàu Việt Nam bảo vệ giàn khoan do tập đoàn Nga Rosneft khai thác ở lô dầu
06-1.
No comments:
Post a Comment