20190720 Hương Tràm Trà Tiên Không Ảnh Bài 06.
“Hương Tràm Trà Tiên”
Bài 6: “Giang Thành Dạ Cổ” – hoànglonghải
*** Vietnam Topographic Maps 1:50,000, U.S. Army Map
Service, Series L7014
Dam Nuoc Man
10°24'19.04"N 104°30'28.96"E
Xa Thuan Yen area
10°20'50.81"N 104°32'10.47"E
Dong Ho area
10°24'10.53"N 104°30'47.15"E
Hon Chong
10°
8'48.60"N 104°35'58.93"E
Chùa Hang
10°
8'21.71"N 104°38'23.90"E
Tra Tien Phu My area
10°25'16.18"N 104°42'1.83"E
Lình Quỳnh
10°
9'9.17"N 104°51'26.66"E
Hon Trem
10°
8'33.91"N 104°37'42.12"E
Giang Thanh area
10°28'1.21"N 104°40'24.91"E
HTTTKA 00
Hà Tiên thập cảnh gồm có:
1)-Kim dự lan đào
2)-Bình san điệp thúy
3)-Tiêu tự thần chung
4)-Giang Thành dạ cổ
5)-Thạch Động thôn vân
6)-Châu nam lạc lộ
7)-Đông hồ â`n nguyệt
8)-Nam phố trừng ba
9)-Lộc trĩ thôn cư
10)-Lư khê nhàn điếu
Trước khi kể chuyện mật khu Trà Tiên, xin nói qua một chút về đất Hà Tiên. Chỉ
một chữ Tiên thôi, người ta cũng đoán rằng có gì liên hệ giữa Hà Tiên và Trà
Tiên?
Xem Kien Luong
Hà Tiên là nơi mấy bà tiên xuống tắm ở bến sông? Có lẽ ông Mạc Cửu hay đệ tử
của ông bày chuyện ra để đặt một cái tên nghe cho hay, chớ đi khắp Hà Tiên, đố
ai tìm được một con sông! Đó là vùng đất cao, không hẳn có nhiều núi như ở xã
Thuận Yên, bên nầy Đông Hồ, trên đường Rạch Giá đi Hà Tiên. Mấy năm quân đội
Việt Nam Cộng Hòa hành quân tấn công Việt Cộng bên Miên, công binh có bắt một
cây cầu nổi từ Thuận Yên sang thị trấn Hà Tiên để việc chuyển quân và tiếp tế
được mau lẹ, dễ dàng.
Dong Ho Thuan Yen
Xem Kien Luong
Nói sơ về lịch sử (độc giả thông cảm, tôi là người dạy môn lịch sử ở bậc trung
học, không phải là nhà nghiên cứu gì cả, và tôi cũng không dạy gì có liên quan
tới ông Mặc Cửu cả) thì xứ Hà Tiên, trước thế kỷ 18 là vùng đất thuộc Miên.
Trước nữa, lâu lắm là đất của nước Lâm Ấp, nước nầy có một nền văn minh khá
cao, sử gọi là văn minh Ốc-Eo, (Một khu vực thuộc Long Xuyên ngày nay). Người
Khmer cướp đất của Lâm Ấp khi nước nầy rụi tàn. Cướp đất của người ta nhưng
người Miên cũng chẳng làm gì để cho vùng nầy khá lên.
Ba The Oc Eo
Xem Ba The Oc Eo Rach Gia
Trước khi có tên Hà Tiên, có lẽ nó có vài ba cái tên gì đó, tên Lâm Ấp hay tên
Miên, tôi không biết và cũng chưa đọc sách sử nào nói tới. Tên Miên, ở vùng
nầy, nếu còn lại thì cũng chỉ một vài nơi, vài người mà thôi. Ví dụ sát biên
giới Việt Miên, có một ngôi chùa Miên lớn lắm, tên là chùa Xà Xía (tên Miên).
Chùa của ông đại đức Công-Xa-Phan (cũng tên Miên). Ông nầy quản lý về đạo Phật
của người Miên kể từ bên phía Miên, phía Kampot tới Sóc Trăng.
Ông đại đức Công-Xa-Phan tuy còn trẻ nhưng
có nhiều cái hay, sống đơn giản, có xe hơi nhưng đi đâu cũng nhờ người ta chở
đi bằng xe Honda cho tiện, ai tới nhờ cậy gì ông cũng ừ, lại cất công đi xin
giùm. Sau 1970, chiến tranh bên Miên càng ngày càng dữ, dân Miên chạy loạn tới
dựng lều tạm trú quanh chùa ông, ông cấp phát quần áo, gạo mền rất đàng hoàng.
Dân Miên qua Việt Nam, không giấy tờ, đi lớ ngớ, bị bắt, ông đi xin cho họ được
tha. Người có của (thường là vàng, đồ trang sức, và hồng ngọc, – một sản phẩm
của Miên), sợ bị mất, gởi cho ông cất giùm, ông cất giữ rất cẩn thận. Biết ông
là người có uy tín với dân chúng, chính quyền miền Nam tôn trọng ông, giải
quyết những gì ông xin xỏ hay can thiệp. Trong chiến tranh, Việt Cộng cũng
không đụng gì tới ông vì đụng tới ông, không có lợi. Tới 30 tháng Tư, Việt Cộng
thấy sự có mặt của ông ta thêm “phiền”, bèn cho ông ta đi … “học tập cải tạo”.
Ông cũng tưởng là “học tập” thiệt nên vui vẻ ra đi, “học” 5 năm mới được “tha ra khỏi trại cải tạo.” Ông cũng ngây thơ, nói với
một người quen của tôi nhà ở gần cổng Tam Quan, cửa ngõ thị xã Rạch Giá: “Học tập mãn khóa thì về, sao lại có câu “tha ra khỏi trại cảo
tạo?” Ông không hiểu được… Việt Cộng, có phải vì ông là người
Miên. Không chỉ ông, cũng lắm người Việt không thể hiểu được Việt Cộng, nếu
chưa từng “…ai có qua cầu”. Không ở được ở Việt Nam, ông vượt biên qua Thái
Lan.
Khi ông được cho đi “học tập”, tài sản tín đồ gởi ông cất giữ, Việt Cộng “giữ
giùm” hết. Vậy cũng còn “khoan hồng nhân đạo” hơn so với bọn Pol Pot. Dân Miên
ở chùa Xà Xía cũng hú hồn.
Thấy ông là người hiền từ, hay đi đây đó, lại đệ tử đông nên tôi thường đến
thăm ông để kiếm… tin tức. Đúng ông là người thật thà, thấy sao nói vậy, biết
sao nói vậy, nhưng vì ông là người tu hành nên chẳng biết gì về… tình hình
địch. Tôi có cái lợi khác, người Miên biết tôi với ông hay chuyện trò với nhau,
nên không ngần ngại gì khi tôi nói chuyện với họ, qua đó tôi cũng biết vài điều
hữu ích cho công việc của tôi.
Có hai lần tôi lên chùa Xà Xía ăn với ông trong dịp vía Phật hay lễ tết gì đó
của Miên. Chùa Miên không ăn chay, họ ăn mặn và người nấu ăn cho đại đức là cô
chủ một hiệu ăn ở Rạch Giá. Vậy thì món ăn nấu theo kiểu Việt Nam, không phải
kiểu Miên, không có mắm Bò-hóc. May phước!
Có lần ông ta đến thăm tôi, cho tôi một
cái nanh heo gởi. Ông kể là hồi còn trẻ, ông qua tu ở bên Lào và được cái nanh
heo gởi. Con heo rừng khi già, cái nanh heo mọc dài ra, đâm lên hàm trên, làm
cho con heo đau lắm. Nó tìm một gốc cây, cắn mạnh vào thân cây, vặn đầu cho cái
nanh heo gãy ra, không còn đâm vào hàm được nữa. Cái nanh heo mắc vào thân cây,
gọi là “nanh gởi”, linh lắm. Ai đeo vào tránh được súng đạn.
Được cái nanh, tôi khoái chí kể cho một
người bạn thuộc Thiết Đoàn 16 Kỵ Binh nghe. Anh bạn nói: “Năm ngoái, tôi yểm trợ cho một đại đội của Lon Nol vào mục tiêu ở
Kompong Trach. Trước khi tấn công, thằng đại đội trưởng cũng lấy cái nanh heo,
đọc kinh, rồi ngậm cái nanh heo vào mồm mà chỉ huy. Chỉ một lúc, tôi thấy thằng
đại đội trưởng bị bắn toác họng mà chết. Ông cứ tin là tôi nói thiệt đi!”
Câu chuyện của người bạn làm tôi mất hứng
về chuyện cái nanh heo của ông đại đức Công-Xa-Phan cho. Nhưng rồi vợ tôi cũng
đem cho thợ tạc thành tượng một ông Phật, cùng làm sợi giây chuyền để tôi đeo
vào cổ. Ngày “trình diện đi học tập cải tạo”, tôi để tượng Phật ở nhà. Bị đánh
tư sản, vợ tôi hoảng hồn không biết để cái nanh heo thất lạc về đâu? Đến khi
tôi đi “tù học tập” xong, cũng được “tha ra khỏi trại cải tạo” như ông Công Xa
Phan, thì ông đại đức hiền hậu của tôi đi một đường, cái nanh heo ông cho lại
đi một nẽo. Đó cũng là một chuyện buồn trong cuộc đời nhiều buồn hơn vui.
Trở lại chuyện ông Mạc Cửu; ông là người Tàu Quảng Đông, theo phái “Diệt Thanh
Phò Minh” nhưng thất bại nên chạy qua Việt Nam như người Tàu Minh Hương hoặc
Dương Ngạn Địch, Trần Thắng Tài vậy. Mạc Cửu không ghé đất Sài-Côn (Saigon năm
xưa) như hai ông vừa nói mà xuống tuốt Hà Tiên. Có lẽ trước đó, ông cũng ghé
lại chầu chúa Nguyễn ở miền Trung. Bấy giờ chúa cũng cần người khai phá vùng
đất hoang ở Nam Bộ, vả cũng không muốn một ông Tàu có đủ binh tướng ở sát bên
mình, kinh lắm, tai họa đến dễ như không nên cho ông vào Nam.
Mạc Cửu đến Hà Tiên và mở sòng bài, trở nên giàu có. Có tiền và có binh lính,
ông bình định cả vùng Hà Tiên, tới gần Rạch Giá (Vùng Lình Quỳnh). Xong, ông
đem vùng đất nơi ông cai trị và mở mang mà dâng cho chúa Nguyễn. Chúa mừng lắm
và đãi ông vào hạng “Khai Quốc Công Thần.”
Linh Quynh Vam Ray 01
Những năm Việt Nam và Xiêm La giành nhau cai trị Kampuchia, vua Campuchia qua
lánh nạn ở Hà Tiên. Để tránh hậu họa, Xiêm La bèn đem quân đánh phá Hà Tiên.
Bấy giờ Mạc Cửu đã qua đời, con là Mạc Thiên Tích nối nghiệp cha, đánh bại quân
Xiêm, đuổi chúng ra khỏi nước. Thành ra cả hai cha con ông đều có công lớn với
chúa Nguyễn nói riêng hay với nước ta nói chung. Trước 1975, lăng mộ hai cha
con vẫn còn, nằm bên sườn đồi, ngó xuống biển, rất đẹp và hùng vĩ. Ngày nay,
dòng họ Mạc ở Hà tiên không còn ai, coi như tuyệt tự, lăng mộ không biết còn
mất như thế nào?!
Biết chuyện ông Mạc Cửu mở sòng bài làm giàu, tôi cứ suy nghĩ hoài. Vùng đất Hà
Tiên trở nên giàu có là về sau nầy, kể từ khi Tây qua cai trị nước ta, chứ
trước đó, xứ nầy có tài nguyên gì đặc biệt đâu, ngoài nghề đánh cá biển, nuôi
đồi mồi. Ruộng rẫy thì ít, không có đồng chó ngáp hay ruộng cò bay thẳng cánh.
Nhờ ở vào địa thế biên giới Việt Miên, nên việc buôn lậu phát triển, chẳng hạn
như sau Hiệp Định Paris 1973, việc giao thông trên Liên Tỉnh Lộ 80 Hà Tiên –
Rạch Giá trở nên tiện lợi, nên hàng lậu từ Thái Lan tới Hà Tiên rồi chuyển lên
Saigon ì xèo, việc buôn bán ở Hà Tiên rất phát đạt, nhiều người giàu có và cũng
không ít người trở thành nạn nhân của bọn buôn lậu, kể cả mạng người.
Mua hàng trả bằng vàng. Vàng và máu lộn
vào nhau giống như trong tiểu thuyết trinh thám Vàng và Máu của Thế Lữ. Người
đáng thương nhứt chính là đại úy Thành, cựu đại úy Nhảy Dù, chỉ huy trưởng Cảnh
Sát Hà Tiên, vì cần mẫn với nhiệm vụ nên bị bọn buôn lậu + Việt Cộng + Khmer Đỏ
+ Khmer Lon Nol phục kích bắn chết ở ấp Việt Nam 1, Hà Tiên. Chuyện nầy không
nói không được nhưng xin kể lại sau.
Xứ sở không giàu, vậy tại sao ông Mạc Cửu, như người ta nói, mà sách sử cũng
ghi vậy, ông ta mở sòng bạc mà giàu.
Dễ hiểu thôi, cứ đi với dân, vào với dân, nghe dân nói, dân kể chuyện, hiểu
ngay.
Vùng vịnh Thái Lan là vùng nổi tiếng cướp biển mấy trăm năm nay, trước cả thời
kỳ người Bồ, người Hà sang buôn bán ở Châu Á, Đông Nam Á nầy. Bây giờ cũng là
vùng cướp biển nổi tiếng nhứt thế giới, hung bạo nhứt thế giới.
Người dân Hà Tiên cố cựu, – không riêng gì ở thị trấn Hà Tiên mà nguyên cả vùng
chùa Hang, Hòn Chông, Vàm Rầy, Lình Quỳnh thuộc tỉnh Hà Tiên cũ, thời Pháp
thuộc, cũng có người kể cho tôi nghe chuyện cướp biển ngày xưa. Bọn cướp biển
khi giàu có, không đem của về xứ được – Phần đông là người Tàu gốc đảo Hải Nàm,
nổi tiếng đi biển giỏi – bèn chôn dấu tài sản ở các hòn đảo hoang trong vịnh
Thái Lan như hòn Lại Sơn, hòn Tre, hòn Đầm, hòn Nghệ (hòn Minh Hoa), hòn Heo,
hòn Ngang, v.v… Khi giải nghệ, vì già hay vì chán cảnh đâm chém, dân hải tặc
nầy không dám về xứ, tụ tập ở vùng Hà Tiên, lấy vợ, sinh con và cũng có sẵn của
tiền để đi đánh… bạc. Chỉ có đám hải tặc giải nghệ nầy mới có nhiều tiền để cờ
bạc, và cũng nhờ đó mà ông Mạc Cửu mau giàu.
Linh Quynh Vam Ray 02
Xem Xom Tri Ton
Chuyện gì chớ nói tới việc buôn bán thì
tất cả nhân loại nầy đều thua người Tàu, như ông Lã Bất Vi, còn buôn cả vua,
huống chi với đám hải tặc nầy, Mạc Cửu lấy tiền của chúng dễ như không! Nói
chuyện nầy với mấy cụ già đất Hà Tiên, họ cho rằng tôi nói có lý đấy. Đây cũng
là vấn đề lịch sử, xã hội; hy vọng ngày sau các nhà nghiên cứu lịch sử sẽ không
bỏ qua.
Ở Hà Tiên còn có dòng họ Lâm (Họ Lâm và họ Mạc là hai họ lớn nhứt hồi xưa ở
đây) nay cũng chẳng còn ai. Họ Mạc thuộc võ tướng, họ Lâm thuộc văn học, ông
Đông Hồ Lâm Tấn Phác là một nhà thơ nổi tiếng hồi đầu thế kỷ 20. Năm 1945, ông
sợ Việt Minh, chạy lên Saigon, ở miết trên ấy, dòng tộc nay chẳng còn ai!
Ông Đông Hồ có tập “Hà Tiên Thập Cảnh”, xuất bản khoảng đầu thập niên 60, tôi
không nhớ chắc, có mười bài thơ tả 10 cảnh đẹp ở Hà Tiên. Mười cảnh đẹp đó là
hòn Phụ Tử (Nay Phụ chết rồi, chỉ còn có Tử mà thôi). Có người bạn, khi nghe
tin hòn Phụ bị đổ, nói với tôi: Phụ của bọn chúng đổ rồi thì chúng chỉ có tử mà
thôi – Tử đây không phải là con mà là chết, Chùa Hang (chùa thờ Phật), bãi Hòn
Trẹm, (trước 1975, nhiều bà lớn ở Saigon như tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng,
v.v… về đây giành đất để xây biệt thự, việc chưa thành thì miền Nam bị
mất về tay Cộng Sản. Bây giờ muốn có đất ở bãi Hòn Trẹm thì mấy bà phải mua lại
của Việt Cộng, Hang Tiền, Đông Hồ (là cái vũng biển lớn, ăn sâu vào trong đất
liền), Giang Thành… Giang Thành là cái đuôi của Đông hồ, nằm trên đường Hà Tiên
đi Châu Đốc, qua kinh Vĩnh Tế, có ngôi chùa, có cái trống lớn lắm. Đêm nằm ở Hà
Tiên, thi sĩ Đông Hồ nghe tiếng trống chùa mà cảm tác bài thơ “Giang Thành Dạ
Cổ” – Đêm nghe tiếng trống ở chùa Giang Thành – (Dạ là đêm, cổ là cái trống,
tương tự như trong câu thơ của Đặng Trần Côn: “Cổ bề thanh động Tràng An
nguyệt” – Bà Đoàn Thị Điểm dịch là: “Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt.”
Dong Ho Giang Thanh
Xem Kien Luong
Sau khi chiếm được đất Miên, vua Nguyễn muốn ngăn chận người Miên nổi lên quấy
rối, bèn định rõ ranh giới hai nước. Đất đai hai bên liền nhau, dân nổi loạn chạy
qua chạy về dễ dàng nên khi ông Nguyễn Văn Thoại, tức Thoại Ngọc Hầu trấn thủ
vùng nầy, bèn cho đào kinh Vĩnh Tế, nối liền Châu Đốc với Hà Tiên, đi ngang
Giang Thành. Kinh đó là con đường phân chia hai nước Việt Miên ở vùng nầy.
Kinh Vinh Te Canal
Kinh đào năm 1819, cuối đời Gia Long. Dĩ nhiên muốn đào kinh phải huy động dân
chúng đi làm. Kinh khá rộng, 30 mét bề ngang, sâu chừng 5 mét, dài gần 100 cây
số, ghe thuyền đi lại dễ dàng. Có lẽ hồi đó, người Việt định cư vùng nầy chưa
đông; cả hai bên bờ kinh, phần nhiều là người Miên nên họ bị bắt đi “dân công”
đào kinh. Người Miên chống lại việc đào kinh, dĩ nhiên. Bên nầy kinh là người
Miên, bên kia kinh cũng là người Miên, có khi là bà con họ hàng, nay bỗng phân
ly thành dân hai nước, ai chịu được! Vả lại, việc đào kinh không phải là việc
đi du lịch mà gian khổ vô cùng, vậy nên nhiều người Miên chống đối, bằng nhiều
cách khác nhau. Đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến người Miên ưa “Cáp
Duôn” để trả thù. Cáp là chặt đầu, Duôn là người Việt. Từ lâu lắm, có lẽ sau
khi bị mất vùng đất Khmer Krom, người Duôn trở thành cơn ác mộng của người
Khmer (Miên). Trẻ em Miên khóc đêm, mẹ nó dọa “Nín đi! Coi chừng Duôn đứng rình
ngoài vách.”
Đó cũng là động lực của việc “Thổ dậy” năm 1945 mà nhà văn Lê Xuyên có thuật
lại trong “Chú Tư Cầu”, “Kinh Cầu Muống”, v.v… (Tôi sẽ thuật lại việc nầy khi
nói nói tới ấp Xà Ngách ở Ba Hòn và xóm Vàm Rầy của ông Chủ Ry (Henry), thân
phụ “Chị” Tư Nết (tên Tây là Annette).
Khi Khmer Đỏ nắm quyền cai trị xứ Chùa Tháp, để chống lại Cộng Sản Hà Nội, bọn
chúng thường khơi dậy lòng hận thù dân tộc (Cộng Sản và Hận Thù là song sinh)
giữa hai dân tộc Việt Miên. Trong cuốn sách “Brother Enemy”, ông Nayan Chanda
có thuật lại việc Khmer Đỏ tuyên truyền về cái ác của “quan Việt Nam” trong
việc đào kinh Vĩnh Tế. Quan Duôn bắt mấy người Miên chống việc đào kinh lại,
đem chôn sống, chỉ chừa ba cái đầu làm ba ông táo, làm bếp nấu nước sôi. Lửa
nóng là cho người bị chôn sống nhúc nhích cái đầu, quan Việt Nam la mắng:
“Không được nhúc nhích làm đổ nước của quan.” Chuyện thật hay bịa? Cộng Sản, kể
cả Khmer Đỏ, có cái gì mà không bịa (Cộng Sản và Dối Trá cũng là song sinh).
Chuyện tàn ác, nếu có chăng thì cũng chỉ là “Ít xít cho nhiều” mà thôi.
“Hồi chánh Viên Hoàng Thị Vân” kể:
– “Từ mật khu cháu phải chèo xuống ba ngày mới về tới núi Trầu.”
Xem Kien Luong
Xem qua bản đồ, tôi biết mật khu nầy, tức cục R nằm bên Miên, không thể nằm bên
phía Việt Nam.
Kể từ ngày tướng Trưởng về làm Tư lệnh
Quân Khu 4, ông đưa ra một chiến thuật mới để săn lùng Việt Cộng, gọi là “Chiến
Thuật Diều Hâu.” Chiến Thuật Diều Hâu chỉ là việc vào tận hang hùm bắt cọp,
kiểu như ngày xưa có nói trong Chinh Phụ Ngâm: “Quày ngang ngọn giáo vào ngàn
hang beo”. Tàu thì gọi là “Bất nhập hổ huyệt, an đắc hổ tử”. Dịch nôm là không
vào hang cọp sao bắt được cọp con.” Cách của tướng Trưởng là hễ biết chỗ nào có
Việt Cộng thì cho lính từ trực thăng nhảy xuống đó. Ban đầu thả xuống một, hai
toán. Hễ đụng với địch thì tăng cường thêm lính. Đụng trận lớn nữa thì đổ thêm
quân. Việc nầy sẽ nói thêm về sau.
Kỷ sư Lê Hữu Phước, giám đốc nhà máy xi
măng Hà Tiên, bê nguyên một két Hennessy cổ đen mà cho tôi cũng là nhờ chiến
thuật nầy, do công của anh em chúng tôi mà suốt một năm Việt Cộng không dám tới
đánh phá nhà máy xi măng Hà Tiên ở Kiên Lương.
Sau nầy, khi tướng Nam làm Tư Lệnh vùng 4, ông áp dụng trở lại chiến thuật nầy.
Việt Cộng sợ muốn chết, bưng nguyên mật khu qua Miên xin tạm trú, đâu dám ở bên
phía Việt Nam. Vì vậy Hồi Chánh Viên Hoàng thị Vân phải chèo xuống ba ngày, bất
kể ngày đêm, mới về tới quê của con nhỏ ở núi Trầu.
Tôi hỏi:
– “Cháu có biết cháu qua kinh Vĩnh Tế lúc nào không?”
– “Không! Cháu không biết. Nhưng cháu có chèo xuồng qua đoạn phía trên Giang
Thành. Trong mật khu có phổ biến, lưu ý khi qua chỗ nầy phải cẩn thận, dễ bị
mắc cạn. Bị mắc cạn lại nhằm lúc máy bay trực thăng quốc gia tới thì chỉ có
chết. Trực thăng bắn róc-két dữ lắm.”
– “Vậy cháu đi theo đường giây 1-C.” Tôi hỏi.
– “Cái chi? Cái chi mà Một Xê. Cháu không biết.” Nó trả lời.
Biết là hớ, làm sao nó biết Một Xê với Hai Xê. Tôi điều chỉnh:
– “Đường bộ đội di chuyển đó!”
– “Không! Cháu không đi ngay đường đó, sợ gặp du kích gác đường. Cháu đi hơi xa
xa một chút để tránh du kích.” Nó trả lời.
– “Cháu không sợ lạc?
– “Sau một ngày đi theo hướng đông, cháu
theo hướng khói nhà may ximăng Hà Tiên mà tới. Tới chỗ trống, cháu tìm khói của
nhà máy rồi nhắm theo, chắc ăn.” Con nhỏ giải thích.
Tôi lại hỏi:
– “Cháu không sợ máy bay?”
– “Trên máy bay, họ biết cháu chỉ có một
mình, cho là dân làm đồng, họ không bắn. Vã lại cháu đi ban ngày. Họ chỉ đi ban
đêm, vì đi ban ngày, qua chỗ trống, họ sợ máy bay lắm.”
Ngày nay, nhớ lại chuyện cũ, tôi vẫn
thường nghĩ rằng, Nguyễn Tấn Dũng chắc cũng sợ xanh máu mặt mỗi khi y đi từ mật
khu về Tà Keo, xứ sở của y, vào ban ngày. Cũng may cho y chớ không thì trực
thăng đã cho y về chầu “già râu” từ khuya rồi!
hoànglonghải
(xem tiếp bài số 7)
No comments:
Post a Comment