20220507 Cong Dong Tham Luan
Chiến dịch toàn cầu đòi tự do cho Nguyễn Bắc
Truyển
Phát động phần truyền thông để chuẩn bị cho
Hội Nghị Thượng Đỉnh
Mạch Sống, ngày 6 tháng 5, 2022
Hôm nay, BPSOS cùng với một
số tổ chức bạn phát động phần truyền thông của Chiến Dịch Toàn Cầu Đòi Tự Do
Cho Nguyễn Bắc Truyển với phát biểu của cựu Ngoại Trưởng Thái Lan Kasit
Piromya.
“Như một Phật tử tốt, tôi có thể thực hành tôn giáo của tôi. Trong ý nghĩa đó, tôi mong muốn mọi công dân của cộng đồng ASEAN ở khu vực Đông Nam Á cũng đều được hưởng đặc quyền này,” Ông nói. “Tôi mạnh mẽ hối thúc chính phủ Việt Nam trả tự do cho Ông [Nguyễn Bắc Truyển] ngay lập tức.”
Theo Ts. Nguyễn Đình Thắng,
Tổng Giám Đốc kiêm Chủ Tịch BPSOS, chiến dịch toàn cầu này sẽ kéo dài và leo thang
cho đến khi đạt mục đích là tự do cho tù nhân lương tâm tôn giáo Nguyễn Bắc
Truyển.
“Chiến dịch sẽ được chính
thức công bố tại Hội Nghị Thượng Đỉnh về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế, tổ chức tại thủ
đô Hoa Kỳ cuối tháng 6 này,” Ts. Thắng nói. “Phần truyền thông được khởi động sớm
để tạo sự chú ý của tất cả các tham dự viên trước khi họ đến hội nghị.”
Ban tổ chức hội nghị,
trong đó có BPSOS, uước lượng sẽ có trên một nghìn người tham dự. Xem thêm
thông tin: https://irfsummit.org/
Chiến Dịch Toàn Cầu cho Các Tù Nhân Lương Tâm Tôn Giáo, bao
gồm các hồ sơ tiêu biểu ở nhiều quốc gia, là bộ phận quan trọng của hội nghị
thượng đỉnh.
“Chúng tôi sẽ chọn 10 tù
nhân lương tâm tôn giáo ở nhiều quốc gia để giới thiệu tại hội nghị; mỗi hồ sơ
sẽ là tâm điểm để tạo sự chú ý của quốc tế đến hiện trạng đàn áp tôn giáo nói
chung ở các quốc gia này,” Ts. Thắng giải thích. “Nguyễn Bắc Truyển là một
trong số 10 người này.”
Ts. Thắng là người phối hợp toàn bộ chiến dịch toàn
cầu này của hội nghị thượng đỉnh.
Chiến dịch toàn cầu sau đó sẽ được giới thiệu
tại Hội Nghị Cấp Bộ Trưởng về Tự Do Tôn Giáo hay Niềm Tin tổ chức vào tuần đầu
của tháng 7 ở London, Anh Quốc, và rồi được luân lưu đến các hội nghị về tự do
tôn giáo ở nhiều quốc gia và khu vực trên thế
giới.
Theo Ts. Thắng, chiến dịch
được thiết kế để mọi người dù bất kỳ ở đâu cũng có thể dễ dàng tiếp tay.
“Đối với chiến dịch đòi tự
do cho Ông Nguyễn Bắc Truyển, ngay lúc này xin quý đồng hương tiếp tay bằng
cách phổ biến thật rộng rãi bản tin này.”
BPSOS cũng vận động mạng
lưới các nhân sĩ và tổ chức thân hữu toàn cầu tiếp tay trong phần truyền thông.
Cựu Ngoại Trưởng Piromya là một thân hữu như vậy. Ông đã tham gia nhiều hội nghị về tự do tôn giáo hay niềm tin do BPSOS đồng tổ chức ở Đông Nam Á.
Tháng 7 năm 2020, Cựu Ngoại Trưởng Piromya đã viết
trên báo The Diplomat lời kêu gọi tự do cho Ông Nguyễn Bắc Truyển.
Các tổ chức chủ xướng chiến dịch đòi tự do cho Ông
Nguyễn Bắc Truyển gồm có: Liên Minh Chống Tra Tấn -- Việt Nam, Chiến Dịch Bài
Trừ Nạn Tra Tấn ở Việt Nam, CSW (Anh quốc) và BPSOS.
Thông tin
liên quan:
Vận động cho tự do
tôn giáo ở Việt Nam: Kêu gọi sự hợp tác của giới truyền thông
Cuối tháng 6: Vận động cho Việt Nam ở thủ đô Hoa Kỳ
Phiet Pham thephiet_2002@yahoo.com
Sat, May 7 at 11:23 AM
(Ngô Thế Vinh) Sài Gòn, bi kịch những ngày sau Tháng Tư, 1975......
Sài Gòn, bi kịch những ngày sau Tháng Tư, 1975
(phần 1)
Những tháng ngày của giới văn nghệ sĩ, sau khi
miền Nam sụp đổ, trích hồi ký Ngô Thế Vinh
22 tháng 4, 2022
29 Tháng Năm 1975, Sài Gòn.
1975 - Bùi Giáng và Dương Nghiễm Mậu
Sau 30 tháng 4, 1975 các văn nghệ sĩ không đi
thoát, hoặc chọn ở lại như Dương Nghiễm Mậu, nếu không phải đám nằm vùng thì ai
cũng chờ cái ngày đi vào nhà giam, các trại tù cải tạo. Giữa những ngày căng
thẳng và ảm đạm ấy, có một người vẫn nhởn nhơ, đi tìm thăm bạn bè văn nghệ cũ.
Không ai khác hơn đó là nhà thơ Bùi Giáng Lá Hoa Cồn.
Trung niên thi sĩ lúc nào cũng gầy và già hơn
tuổi, râu tóc sơ sác như từ bao giờ. Giữa một Sài Gòn thảng thốt, không biết
anh đã lượm ở đâu trên đường mà có được bộ quân phục nguỵ với quân hàm Đại tá,
Bùi Giáng đem vận ngay vào người, chân thấp chân cao đi nghêu ngao như diễn binh
trên hè phố. Có lẽ đây là hình ảnh tuyệt đẹp cuối cùng của cuộc chiến
tranh Việt Nam, với một tân binh tình nguyện gia nhập đạo quân đã hoàn toàn rã
ngũ.
Rồi Bùi Giáng cũng tới được khu nhà thờ Ba
Chuông, nơi có căn nhà Dương Nghiễm Mậu. Bùi Giáng hồn nhiên đi sâu vào con hẻm
chật chội ấy đã thấp thoáng màu cờ đỏ. Anh vẫn tỉnh táo nhớ đúng nhà, tới đập
cửa rầm rầm đòi vào thăm cho được cố tri. Trầm tĩnh và bản lãnh như Nghiễm, mà
trước tình huống ấy cũng vẫn như gái ngồi phải cọc; được cái lúc ấy chòm xóm
còn là thân quen, mạng lưới công an chưa đủ dầy đặc để gây nỗi phiền hà. Ra
khỏi nhà Dương Nghiễm Mậu, không biết Bùi Giáng còn đi gõ cửa tới thăm những ai
khác, hay anh lại ra nơi đầu cầu Trương Minh Giảng như một người tỉnh táo đứng
làm cảnh sát công lộ chỉ đường “trên dòng luân lưu hỗn mang của lịch
sử” và để rồi sau đó nếu anh không bị đám “cách mạng 30” hay bọn công
an đánh tả tơi sưng mặt mũi thì rồi cuối cùng chắc anh cũng lại tìm về với “mẫu
hậu” Kim Cương, ngồi trước cửa phóng bút làm thơ tặng nàng.
1975 - Toà Soạn Bách Khoa và anh Lê Ngộ Châu
Tuần lễ trước 30 tháng 4, 1975, nhân viên Đài
Mẹ Việt Nam và những cây viết cộng tác đã được Mỹ lên kế hoạch di tản khỏi Việt
Nam – để tránh bị trả thù. Trước ngày lên tàu ra đảo Phú Quốc, nhà văn Võ Phiến
tới thăm toà soạn Bách Khoa, nơi vùng “xôi đậu” có Võ Phiến Bắt Trẻ
Đồng Xanh ngồi chung với Vũ Hạnh Bút Máu; cũng là nơi mà
Võ Phiến đã gắn bó suốt 18 năm cùng với tuổi thọ của tờ báo. Anh Lê Ngộ Châu
chủ nhiệm Bách Khoa kể lại: Võ Phiến thì phải đi, nhưng linh cảm không có ngày
về, vẻ mặt buồn thảm, anh chỉ ngồi khóc lặng lẽ không nói nổi lời giã từ và rồi
đứng dậy bước ra khỏi toà soạn.
Trước một ngày mất Sài Gòn, thì hầu như toàn
bộ nhân viên Đài Mẹ Việt Nam trong đó có gia đình Võ Phiến Giã Từ,
Lê Tất Điều Phá Núi, Viên Linh Hoá Thân, Tuý Hồng Tôi
Nhìn Tôi Trên Vách, Thanh Nam Bóng Nhỏ Đường Dài từ Phú
Quốc đã được đưa lên con tàu lớn Challenger đậu sẵn ngoài khơi. Khi bờ biển Phú
Quốc xa mờ trong tầm mắt, lần này thì Lê Tất Điều thấy Võ Phiến khóc. Cùng với
những con tàu thuộc Đệ Thất Hạm đội, họ lênh đênh trên Biển Đông trong cuộc hải
trình nhiều ngày để tới đảo Guam. Guam đã từng là căn cứ xuất phát của các đoàn
phi cơ B52 trong cuộc chiến tranh Việt Nam với những trận mưa bom trải
thảm/ carpet bombing có sức tàn phá của một cơn địa chấn. Đảo
Guam chỉ rộng 550 km2 sau tháng Tư 1975, là chặng dừng chân đầu tiên của hàng trăm
ngàn người Việt ỵ nạn trước khi vào đất Mỹ. Vũ Khắc Khoan Thần Tháp Rùa,
Nghiêm Xuân Hồng Người Viễn Khách Thứ 10, Mặc Đỗ Siu
Cô Nương nhóm Quan Điểm cũng đi thoát và trước sau đặt chân tới các
trại tỵ nạn trên đất Mỹ.
Chưa đến một tuần lễ sau, ngày 5 tháng 5, 1975
một trong những cây viết lâu năm của Bách Khoa, Phạm Việt Châu Trăm
Việt Trên Vùng Định Mệnh đã tuẫn tiết tại tư gia khi cộng sản hoàn
toàn chiếm Miền Nam. Cái chết rất sớm và tức tưởi của một tác giả có viễn kiến
về lịch sử dân tộc, sức sáng tạo đang sung mãn mới bước vào tuổi 43, đã như một
hồi chuông báo tử cho bao nhiêu tang thương diễn ra sau đó.
1975 - Chiến Dịch Đốt Sách
Những ngày sau 30 tháng 4, 1975, hai đứa con
Vũ Hạnh trong bộ bà ba đen, tay cuốn băng đỏ, tới toà báo Bách Khoa cũng là nơi
cư ngụ của anh chị Lê Ngộ Châu. Trước khách lạ, đứa con gái nói giọng hãnh
tiến: “Tụi con mới từ Hóc Môn về, cả đêm qua đi kích tới sáng.” Người
dân lành nào vô phước đi lạc trên đường ruộng đêm đó có thể bị tụi nó coi là
nguỵ.
Những tên nằm vùng cùng với đám “cách mạng 30”
này chỉ như phó bản đám Hồng vệ binh của Mao nhưng lại sau cả thập niên. Cũng
chính những đám này là thành phần kích động chủ lực trong chiến dịch lùng và
diệt tàn dư văn hoá Mỹ Nguỵ, chúng dẫm đạp những cuốn sách, nổi lửa đốt từng
chồng sách rồi tới cả tới những kho sách. Những cuốn sách mà đa phần chúng chưa
hề đọc, trong đó có cả một tủ sách “Học Làm Người”. Sách của những
“tên biệt kích văn nghệ” còn được trưng bày trong toà nhà triển lãm Tội ác Mỹ
Nguỵ cùng với vũ khí chiến tranh và chuồng cọp, dĩ nhiên có sách của Dương
Nghiễm Mậu, có cả cuốn Vòng Đai Xanh của người viết.
Cảm khái với câu thơ Nguyễn Du trong Độc Tiểu
Thanh kí: văn chương vô mệnh cũng tro than/ văn chương vô mệnh luỵ phần
dư. Hơn hai ngàn năm sau, chẳng ai quên chuyện “đốt sách chôn
nho/ phần thư, khanh nho” của Tần Thuỷ Hoàng, nhưng không biết chỉ 100
năm tới đây, các thế hệ tương lai có ai còn giữ được“bộ nhớ” Đã Có Một
Thời Như Thế – tên một bài viết của Nhật Tiến, về giai đoạn người Cộng
sản Việt Nam đốt sách giam tù cả một thế hệ văn nghệ sĩ của Miền Nam?
1975 - Nhà hàng Givral và Phạm Xuân Ẩn
Trước 1975, La Pagode, Brodard, Givral là nơi
tôi, Phạm Đình Vy [chủ nhiệm Tình Thương] và các bạn y khoa thỉnh thoảng có dịp
lui tới kể cả khi đã ra trường. Givral cũng là nơi thường gặp gỡ các nhà báo
như Phạm Xuân Ẩn, Cao Giao, Nguyễn Tú, Như Phong Lê Văn Tiến… Phạm Xuân Ẩn, là
bạn đồng môn với nhà văn Sơn Nam thời trung học Cần Thơ, Ẩn gốc người Nam dáng
chân quê mộc mạc.
Trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam, Phạm
Xuân Ẩn chỉ được biết tới như phóng viên của Reuters, sau đó chuyển sang tuần
báo Times, trụ sở trong Continental Palace bên kia đường. Cũng không thể không
nhắc tới khách sạn Caravelle, gần toà nhà Quốc hội cũ, nơi tập trung đông đảo
nhà báo ngoại quốc, nơi đặt văn phòng của các hãng thông tấn và truyền hình Mỹ
như ABC, NBC, CBS…
Cũng chính Morley Safer trong một buổi phát
hình CBS Evening News ngày 5 tháng 8, 1965 chiếu cảnh lính
Thủy Quân Lục Chiến Mỹ trong cuộc hành quân xua dân ra khỏi làng và sau đó bật
quẹt Zippo đốt nhà của họ, những hình ấy đã làm rúng động Toà Nhà Trắng và cả
nước Mỹ như một vết hằn sâu của một cuộc chiến bắt đầu thất nhân tâm. Bảy năm
sau, Nick Ut phóng viên AP với bức hình “Napalm Girl” chụp
trong trận giao tranh Trảng Bàng Tây Ninh ngày 8 tháng 6, 1972, cũng
là thời điểm Quốc Hội Mỹ dứt khoát cắt viện trợ quân sự cho Miền Nam.
Đội quân báo chí hùng hậu ấy, trong suốt cuộc
chiến tranh Việt Nam, có khả năng điều kiện hoá dư luận với “những tin
tức xấu từ một phía”, đủ làm nản lòng dân Mỹ, cùng với đám GI’s đang
cầm súng từ phía bên kia nửa vòng trái đất; truyền thông Mỹ có phần công lao
không nhỏ gián tiếp đưa tới mất Miền Nam Tự Do và cũng là một thất trận đầu
tiên trong lịch sử các cuộc chiến tranh của Hoa Kỳ. Và rồi, tất cả bọn họ cũng
đã kịp tháo chạy trước khi Sài Gòn đổi chủ.
Và rồi mấy ngày đầu tháng 5, 1975, Givral lại
như điểm hẹn của những người bạn còn kẹt lại, tới đó để biết ai ở ai đi và nghe
ngóng tin tức. Từ những chiếc bàn nhìn qua khung kính trong suốt ấy, tình cờ
gặp lại Phạm Xuân Ẩn. Ẩn cũng đã từng tới thăm toà soạn báo sinh viên Y khoa
Tình Thương trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm ngày nào. Vợ con Phạm Xuân Ẩn đã được
tuần báo Times cho di tản trước đó nhiều hôm, nhưng Ẩn thì ở lại. Với hơi chút
ngạc nhiên và vẻ quan tâm, Ẩn hỏi tôi: “Vinh, tại sao toa không đi?”
Lúc đó chỉ như một câu hỏi xã giao, nhưng phải
sau này, khi đã ở trong vòng rào các trại tù cải tạo, tôi mới thấm thía vỡ lẽ
được câu hỏi ấy của Phạm Xuân Ẩn, nó đã như lời báo bão về những năm tháng tù
đầy từ một chính sách mà Ẩn thì biết rất rõ. Trong vỏ bọc của một nhà báo làm
cho tuần báo Times danh tiếng của Mỹ, thực chất trước đó nhiều năm Phạm Xuân Ẩn
là một điệp viên chiến lược đơn tuyến của Cộng sản Hà Nội. Sau này cũng chính
Phạm Xuân Ẩn tâm sự với Morley Safer chương trình 60 Minutes của
CBS rằng khi Sài Gòn xụp đổ không dễ gì để nói với đám “cách mạng 30” đeo súng
AK lúc đó rằng, tôi là đại tá quân đội của họ, không phải CIA. Có thể tôi bị
tụi nó giết và cả con chó của tôi cũng bị nướng sống. [Flashback,
Vietnam Revisited 1989, The Spy in Winter]
1975 - Nhà báo Như Phong
Chỉ sau cụ Hoàng Văn Chí Trăm Hoa Đua
Nở Trên Đất Bắc, người hiểu rõ cộng sản sau này không ai hơn nhà báo Như
Phong Lê Văn Tiến. Cô Thần cũng là bút hiệu khác của Như Phong Khói
Sóng trên nhật báo Tự Do, một chuyên mục viết về cộng sản Miền Bắc.
Hiểu cộng sản như vậy, với biết trước những tháng năm tù đầy, vậy mà anh vẫn
chọn ở lại. Gặp lại anh tại nhà luật sư Mai Văn Lễ, trước bệnh viện Sùng Chính
trên đường Trần Hưng Đạo. Anh Mai Văn Lễ có một thời làm Khoa trưởng Luật khoa
Huế thời Phật giáo Tranh đấu, bây giờ chỉ còn lại mình anh, chị và hai con thì
đã đi trước đó một tuần lễ.
Trưa ngày 30 tháng 4, ngay sau khi lệnh đầu
hàng được phát đi, có thể thấy từ mấy tầng lầu cao là một cơn mưa confetti, chỉ
một màu trắng của những mảnh vụn giấy tờ tuỳ thân của quân cán chính cần được
xé huỷ trước khi cộng quân hoàn toàn kiểm soát Sài Gòn. Không kể những giày nón
quân phục được cởi bỏ vội vàng vứt tả tơi trên đường phố.
Là người đi trước thời cuộc, anh Như Phong
tiên đoán đúng những gì sắp diễn ra: chiến dịch đánh tư sản, kế hoạch đổi tiền
cho mỗi hộ khẩu và rồi những cuộn giấy bạc sau đó trở thành rẻ rách và rồi sẽ
là quần đảo ngục tù / Gulag Archipelago một tên sách của
Solzhenitsyn. Dư tiền cũ thiên hạ đổ xô đi mua vàng, đôla chợ đen không dễ gì
có trong thời điểm này. Anh Như Phong thì chỉ gợi ý mua những cuộn len quý nhồi
trong các bộ nệm sa lông giống như ngoài Bắc, sau này khi cần có thể gỡ dần ra
bán để kiếm sống. Nói vậy thôi chứ thái độ của cả mấy anh em vẫn là “chờ
xem”.
Và rồi vang lên tiếng xích sắt nghiến trên mặt
nhựa, nhìn qua khung cửa là những chiếc tăng T54 treo cờ giải phóng hối hả chạy
về phía trung tâm Sài Gòn.
Sài Gòn, bi kịch những ngày sau Tháng Tư, 1975
(phần 2)
Những tháng ngày của giới văn nghệ sĩ, sau khi
miền Nam sụp đổ, trích hồi ký Ngô Thế Vinh
Ngô Thế Vinh
22 tháng 4, 2022
Sài gòn, những ngày sau 1975
1980 - Cũng đừng tới thăm
Ra tù ba năm sau, trở về một Sài Gòn đã đổi
khác. Nếu còn chút gì thân quen thì là mấy người bạn, không nhiều còn ở lại.
Anh ấy là một trong những cố tri đầu tiên tôi nghĩ tới thăm. Là giáo sư đại
học, anh tốt nghiệp ở Mỹ, trở về Việt Nam từ cuối thập niên 1960, đầy lý tưởng,
ôm mộng lớn về một cuộc cách mạng xã hội – theo anh công bằng xã hội/
social justice phải là giải pháp rốt ráo cho một cuộc chiến tranh bế
tắc đang diễn ra khốc liệt giữa hai miền Bắc Nam.
Tôi cũng đã từng gặp anh ở Mỹ và cả những năm
sau này ở Việt Nam. Sự xụp đổ mau chóng của Miền Nam với anh là cả một “giấc
mộng lỡ”. Tuy không phải chịu những năm tháng tù đầy, nhưng cuộc sống gia đình
anh, cũng như cả Miền Nam rõ ràng là khó khăn. Từng bước, anh đã bán những bộ
tự điển quý lúc đó rất có giá, cho đám học giả đói sách từ Bắc vào mua; tiếp
đến là đồ đạc tranh tượng, cuối cùng là còn lại là một tủ sách
khoa-học-xã-hội đồ sộ mà anh đem từ Mỹ về thì nay trở thành vô giá
– no value, chỉ có thể đem cân ký bán lạt-son để làm bột giấy. Vợ
anh là cô giáo cũng phải ra giữa chốn chợ trời tần tảo kiếm sống. Anh thì quá
nhậy cảm để thấy nỗi đau và nhục.
Gặp lại anh, vẫn nét mặt trí thức và đôn hậu
như ngày nào, nhưng trong ánh mắt thì lộ rõ vẻ bất an. Thoáng nét vui mừng
nhưng anh kịp kìm hãm, vừa nói vừa canh chừng nhìn ra cửa : “Biết toa được
ra trại thì mừng nhưng cũng xin toa đừng tới thăm”. Sự thẳng thắn rất
trực tiếp của anh, thoáng như một gáo nước lạnh, nhưng tôi cảm thông và vẫn rất
thương anh.
Gia đình bên vợ anh ở Mỹ đang làm thủ tục bảo
lãnh, nghĩ rằng việc có liên hệ với lính nguỵ với tù cải tạo có thể là cản trở
cho cuộc hành trình hy vọng của gia đình anh tới bến bờ tự do ấy. Anh phản ứng
theo hoàn cảnh, không chút phán đoán tôi vẫn dành cho anh sự kính trọng, và mai
mốt đây nếu có ngày gặp lại anh thì chắc chắn phải là trên một lục địa khác.
Rất sớm trên toàn Miền Nam đã bắt đầu có một mạng lưới tai mắt tổ dân phố và
công an đủ để gây hoài nghi và cả sự sợ hãi.
Ra khỏi nhà anh, có lại được niềm vui ấm lòng
khi gặp người bạn tấm cám Nghiêu Đề. Nghiêu Đề cho biết mới gặp Sao Trên Rừng
đi xe gắn máy từ Đà Lạt xuống, ngạc nhiên thấy Nguyễn Đức Sơn lần đầu tiên ăn
vận đồ lớn complet cravate, hỏi tại sao thì Sơn cười giọng khinh mạn: “có
vậy mới khỏi lẫn với tụi nó”.
1980 - Trần Phong Giao ngoài chợ
Trần Phong Giao dáng vạm vỡ, da sậm có vẻ công
nhân lao động ngoài nắng hơn là người làm việc chữ nghĩa văn phòng. Nổi tiếng
là thư ký toà soạn báo Văn trong 8 năm từ 1963 tới 1971, một tờ báo có vị trí
đặc biệt trong sinh hoạt văn học Miền Nam với phát hiện những cây bút mới và
không ít sau này đã trở thành những tên tuổi. Sau Văn, anh thử làm nhiều công
việc khác cũng trong lãnh vực báo chí, xuất bản, rồi thủ thư nhưng đã không để
lại nhiều dấu ấn như ở Văn.
Không lâu sau 30 tháng 4, cả hai anh chị đã
phải chạy chợ kiếm sống với chiếc xe ba bánh, đậu trên đường Lê Thánh Tôn đứng
bán từng bó củi, mấy nải chuối hay những bó rau tươi để nuôi đàn con. Ngày ra
tù, tới thăm anh, vẫn ở trong con hẻm gần Cầu Kiệu, bên Tân Định, anh gầy sút
đi nhiều hai chân đã rất yếu. Gia tài của anh đáng giá vỏn vẹn còn một tủ sách,
quý nhất là trọn bộ báo Văn đóng bìa da, một sự nghiệp của Trần Phong Giao
nhưng rồi anh cũng đã không giữ được và phải đem bán cho một Việt kiều từ Mỹ về
để có tiền chạy gạo và thuốc men. Trần Phong Giao mất trong sự túng quẫn và bạo
bệnh (2005), anh cũng bước qua được ngưỡng tuổi cổ lai hy.
1981 - Và những bữa cơm gia đình
Ngôi nhà Nghiễm (Dương Nghiễm Mậu) trong con
hẻm với mặt tiền hẹp nhưng khá sâu. Nghiễm mặc quần soóc, áo thun trắng, đôi
mắt rất tinh anh lúc nào cũng như mỉm cười, trông trẻ hơn tuổi của một người
sinh năm 1936.
Tuy sống gần khu Chợ Cũ, sẵn những quán ăn vỉa
hè và nhà hàng, rất tiện cho nếp sống cơm hàng cháo chợ, nhưng thường sau một
ngày làm việc, thay vì về nhà tôi ghé nhà Nghiễm, được chị Trang vợ Nghiễm cho
thêm chén thêm đũa với những bữa ăn đạm bạc nhưng ngon miệng vì là bữa cơm hạnh
phúc gia đình. Trong tù, tôi và Nghiễm thì đã quen với những bữa ăn đói ngày
đêm, ra ngoài tuy rau đậu nhưng cũng là bữa tạm no. Người lớn thì không sao,
nhưng với trẻ nhỏ đang tuổi “mau ăn, chóng lớn” thì khẩu phần ấy phải xem là
suy dinh dưỡng.
Nếu không là ngày phải ra trễ, tôi ghé qua chợ
mua một món ăn gì đó, đem tới bày thêm vào mâm cơm gia đình. Có thêm món thịt,
thêm chút chất đạm thì hôm đó với hai đứa nhỏ như là bữa tiệc. Những lần gặp
nhau, tôi và Nghiễm đều ít nói. Hình như Nghiễm có viết ở đâu đó là những điều
không cần nói ra nhưng cũng đã hiểu nhau rồi. Chỉ có cô giáo Trang vợ Nghiễm
sau một ngày dạy học mệt nhọc nhưng lúc nào cũng có đôi chuyện vui từ trường
đem về gia đình. Miền Nam tài nguyên thì vẫn nguyên vẹn, nhưng đã có chính sách
bần cùng hoá kiểm soát từng bao tử của người dân qua khẩu phần và sổ lương thực
của họ.
1982 - Dương Nghiễm Mậu và một Thanh Tâm Tuyền
khác
Đã gặp Thanh Tâm Tuyền ở những ngày 30 tháng
Tư 1975 nơi một căn nhà nhỏ bên Gia Định. Vợ Tâm lúc đó cũng vừa sinh đứa con
trai út trong cảnh tán loạn bệnh viện Nguyễn Văn Học. “Một Chủ Nhật
Khác” cuốn tiểu thuyết cuối cùng của “một thời để yêu một thời
để chết” cũng vừa mới in xong, chưa kịp phát hành.
Ra tù 1982, gặp lại Thanh Tâm Tuyền của Bếp
Lửa, bằng tuổi Dương Nghiễm Mậu nhưng trông anh già hơn nhiều, da sậm đen
sắc diện của một người bị bệnh sốt rét kinh niên. Khó có thể tưởng tượng với
vóc dáng mảnh mai ấy anh sống sót qua suốt bảy năm tù đầy ngày nào cũng đói
lạnh nơi những vùng sơn lam chướng khí ấy ở các trại giam Miền Bắc. Bảy năm đốn
tre trảy gỗ trên ngàn, bị tre nứa đâm xuyên đùi không giải phẫu thuốc men nhưng
anh vẫn sống sót, trong tù chống rét anh tập hút thuốc lào, không giấy bút anh
vẫn làm thơ qua trí nhớ nhưng là những bài thơ trở về với các thể thơ truyền
thống. Thơ ở Đâu Xa là tập thơ cuối cùng làm trong tù TTT cho
xuất bản ở bên Mỹ (1990).
Trong chỗ rất riêng tư, anh tâm sự: Thái Thanh
bạn anh đã dứt khoát không hát từ sau 1975. Khi biết Thanh Tâm Tuyền vừa ra tù
đến thăm, cô ấy cầm đàn và hát lại những bài thơ phổ nhạc của anh: Đêm
màu hồng, Nửa hồn thương đau, Lệ đá xanh… tuy ấm lòng gặp lại cố
tri nhưng rồi anh đã không còn nguyên vẹn cảm xúc để nghe lại những thanh âm
ngày cũ. Anh đã nói không với những người mới muốn gặp anh. Anh vẫn giữ thái độ
đó khi sang định cư ở Mỹ. Sự khép kín ấy khiến Mai Thảo đôi khi cũng phản ứng
giận lẫy.
Rồi cũng có một buổi gặp gỡ cuối 1982, từ nhà
Nghiễm có Doãn Quốc Sĩ, Thanh Tâm Tuyền và tôi cùng đi bộ tới một quán cóc cũng
trên đường Trương Minh Giảng nơi gần đường xe lửa. Thức uống của Nghiễm bao giờ
cũng là một chai bia. Nhắc tới Tô Thuỳ Yên Trường Sa Hành thì
vẫn còn ở trong tù. Rồi chẳng ai nhắc tới nỗi khổ hiện tại mà câu
chuyện lại xoay quanh những người bạn may may mắn ở phương xa.
Những người đi thoát trước 1975, vài tên tuổi
được nhắc tới: Thanh Nam Tuý Hồng, Vũ Khắc Khoan, Mặc Đỗ, Võ Phiến, Lê Tất
Điều, Viên Linh… Nhưng rồi tên Mai Thảo Bản Chúc Thư Trên Ngọn Đỉnh
Trời vẫn như điểm hội tụ của những tin tức. Anh là nhà văn duy nhất
hiếm hoi thoát các vụ ruồng bắt của cộng sản trong suốt hai năm sống lẩn lút ở
Sài Gòn. Vẫn có nhiều người liều mạng che chở cho anh. Trần Dạ Từ Tỏ
Tình Trong Đêm cùng với rất nhiều nhà văn nhà báo thì đang trong tù,
Nhã Ca Giải Khăn Sô Cho Huế ra tù sớm phải cưu mang một đàn
con nhỏ nhưng cũng chính mấy mẹ con Nhã Ca đã bất chấp hệ luỵ cất dấu bác Mai
Thảo trong nhà, một căn phố lầu trên góc đường Tự Do, đây cũng là chặng ẩn náu
cuối cùng của Mai Thảo cho đến khi anh vượt biển rất sớm thoát được tới đảo
Pulau Besar Mã Lai đầu tháng 12, 1977.
Hai năm sau Mai Thảo 1979, phải kể tới chuyến
đi thừa sống thiếu chết của 81 thuyền nhân trong số đó có Nhật Tiến Người
Kéo Màn và thầy Từ Mẫn Lá Bối, vợ chồng ký giả Dương Phục
Vũ Thanh Thuỷ… và con tàu đã gặp nạn hải tặc Thái Lan trên biển rồi trên đảo
Kra, và cũng rất sớm qua ngòi bút của người chứng Nhật Tiến đã ghi lại những
thảm cảnh ấy và bắt đầu làm rúng động lương tâm thế giới. Cũng khởi đầu cho
phong trào Cứu Người Vượt Biển về sau này.
Sau lần gặp gỡ nơi nhà Nghiễm, Thanh Tâm Tuyền
chuẩn bị đi Mỹ theo diện HO, cho dù “tâm thái” – chữ của TTT, vẫn gắn bó với
một quê hương mà anh không muốn xa rời, riêng tác giả Ba Sinh Hương Lửa lại
vào tù tổng cộng 14 năm trước khi đi định cư 1995 và gặp lại Mai Thảo ở Quận
Cam.
Trên đường đi, tôi không thể không có ý nghĩ
nếu làm một con toán cộng những năm tù đầy của mỗi văn nghệ sĩ Miền Nam, con số
ấy phải vượt trên nhiều thế kỷ. Không phải chỉ có oan nghiệt giam cầm huỷ hoại
những thân xác, họ còn giết chết sức sáng tạo của văn nghệ sĩ trong khoảng thời
gian sung mãn nhất. Một nỗ lực huỷ diệt cả một nền văn hóa đến tận gốc: trước
lịch sử, ai phải nhận lãnh trách nhiệm cho những tội ác thiên thu ấy?
Ba mươi hai năm sau 1975, qua liên lạc vận
động của nhà thơ Nguyễn Quốc Thái, [cũng là người giới thiệu Phạm Duy đến với
Công ty Phương Nam], nhà xuất bản Phương Nam đã tái bản 4 tập truyện ngắn của
Dương Nghiễm Mậu (Đôi Mắt Trên Trời, Cũng Đành, Nhan Sắc, Tiếng Sáo
Người Em Út), và truyện dài Nguyệt Đồng Xoài của Lê Xuyên.
Ngay sau đó, Vũ Hạnh, tuổi đã ngoài 80, như một đao phủ đã không nương tay viết
bài đấu tố Dương Nghiễm Mậu, Lê Xuyên, và quy tội Công ty Phương Nam.
Vũ Hạnh viết: “Sách của Dương Nghiễm
Mậu thì nổi bật tính phản động tha hóa lớp trẻ hầu đưa đẩy họ vào sự chống phá
cách mạng, chống lại sự nghiệp giải phóng đất nước khỏi sự thống trị của bọn đế
quốc xâm lược, còn sách của Lê Xuyên là tính đồi trụy.” Vũ Hạnh viết
tiếp: “Vì những lẽ đó, rất nhiều bức xúc, phẫn nộ của các bạn đọc khi thấy
Công ty Phương Nam ấn hành sách của ông Dương Nghiễm Mậu… Đem những vũ khí độc
hại ra sơn phết lại, rêu rao bày bán là một xúc phạm nặng nề đối với danh dự
đất nước.” Và rồi cũng Vũ Hạnh kể lể: “các tác giả Dương
Nghiễm Mậu, Lê Xuyên sống lại ở thành phố này vẫn được đối xử bình đẳng, không
hề gặp bất cứ sự quấy phiền nào.” [Sài Gòn Giải Phóng, 22/4/2007].
Tưởng cũng nên ghi nhận ở đây, trước 1975 đông
đảo thế hệ văn nghệ sĩ Miền Nam không thiếu lòng nhân ái đã hơn một lần cùng
vận động ký tên yêu cầu thả Vũ Hạnh. Vũ Hạnh cũng được Văn Bút Việt Nam che
chở, và khi bị kết án tù thì chính linh mục Thanh Lãng, Chủ tịch Văn Bút đứng
ra bảo lãnh, để rồi sau đó Vũ Hạnh lại công khai ra ngoài họat động.
Sau 1975, nhiều nhà văn nhà báo miền Nam ấy đã
chết rũ trong tù như Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Hoàng Vĩnh Lộc, Nguyễn Mạnh Côn,
Phạm Văn Sơn, Trần Văn Tuyên, Trần Việt Sơn, Vũ Ngọc Các, Anh Tuấn Nguyễn Tuấn
Phát, Dương Hùng Cường… hay vừa ra khỏi nhà tù thì chết như Hồ Hữu Tường, Vũ
Hoàng Chương. Nếu còn sống sót, đều nhất loạt phải gác bút: Dương Nghiễm Mậu
sống bằng nghề sơn mài, Lê Xuyên ngồi bán thuốc lá lẻ ở đầu đường, Trần Lê
Nguyễn tác giả kịch Bão Thời Đại thì phải đứng sạp bán báo để
độ nhật, Nguyễn Mộng Giác Đường Một Chiều làm công nhân sản
xuất mì sợi, Trần Hoài Thư Ngọn Cỏ Ngậm Ngùi ba năm ở tù ra
trở thành Người Bán Cà Rem Dạo.
Nghiễm vốn tâm lành, nếu có ai nhắc đến chuyện
Vũ Hạnh thì anh chỉ cười, giọng vẫn bao dung, anh tin trên đời người tốt nhiều
hơn kẻ xấu, kẻ xấu như vậy rốt cuộc họ cũng tự thấy sai. Nghiễm có lạc quan quá
không vì đã hơn 40 năm chịu khổ ải do họ gây ra, nay đã tới tuổi gần đất xa
trời mà sao họ vẫn“chưa tự thấy sai” chưa hề biết sám hối. Một
người bạn rất quen biết Vũ Hạnh nhận định: sự hung hãn ấy chỉ như tấm bình
phong – một thứ raison d’être, biện minh cho sự hiện hữu của Vũ
Hạnh còn như một người cộng sản.
“Ngày Xưa Vũ Hạnh” cộng sản nằm vùng vẫn được sống thênh
thang, vẫn được đối xử như một nhà văn [Lý Đợi, talawas 10.5.2007] “Ngày
Nay Vũ Hạnh” bên thắng cuộc – tên bộ sách của Huy Đức, thì vô cảm vênh váo, là
tiếng nói hung hãn nhất trong Hội đồng đánh giá Văn Học Miền Nam tại Thư Viện
Quốc Gia. Vẫn một cliché, vẫn một khẩu hiệu tung hô không suy
xuyển: “tác giả là gốc ngụy, nội dung tác phẩm là nô dịch phản động đồi
trụy”.
Vũ Hạnh xấp xỉ tuổi Võ Phiến, nay sắp bước vào
cái tuổi 90 vẫn cứ nhân danh “đảng ta, chèo lái con thuyền chở
đạo” vẫn không ngừng truy đuổi cả những thế hệ nhà văn trẻ nối tiếp có
khuynh hướng tự do, điển hình qua bài viết phê phán Nhã Thuyên và Nhóm Mở Miệng
với hai cây bút nổi trội là Lý Đợi và Bùi Chát [Thấy gì từ một luận văn
sai lạc, Văn Nghệ 29/2013].
Có lẽ tấn thảm kịch của Vũ Hạnh cũng như những
người cộng sản tha hoá bước vào Thế Kỷ 21 là sự “nguỵ tín/ mauvaise
foi” họ sống với hai bộ mặt, vẫn không ngừng hô hào cổ võ cho điều mà
họ không còn chút tin tưởng. Vũ Hạnh vẫn không ngưng nặng lời chửi rủa Mỹ,
nhưng rồi vẫn gửi con cái đi du học rồi trưởng thành sống ở Mỹ; Vũ Hạnh vẫn
được ra vào nước Mỹ như một con người tự do.
Nguồn:
https://saigonnhonews.com/nhin-lai-lich-su/sai-gon-bi-kich-nhung-ngay-sau-thang-tu-1975-phan-1/
https://saigonnhonews.com/nhin-lai-lich-su/sai-gon-bi-kich-nhung-ngay-sau-thang-tu-1975-phan-2/
Phiet Pham thephiet_2002@yahoo.com
Sat, May 7 at 11:24 AM
Thơ Bùi Giáng: ĐÁNH CHO CHẾT MẸ ............!!!
ĐÁNH CHO CHẾT MẸ ĐỒNG BÀO MIỀN NAM!
- Thơ Bùi
Giáng -
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho
Ngụy nhào,
Đánh cho chết mẹ đồng bào Miền Nam!
Đánh cho khoai sắn thành
vàng,
Đánh cho dép lốp phải mang
thế giày.
Đánh cho Nam Bắc đọa đày,
Đánh cho thù hận giờ này chưa
tan!
Đánh cho cả nước Việt Nam,
Áo ôm khố rách, xếp hàng xin
cho.
Đánh cho hết muốn tự do,
Hết mơ dân chủ, hết lo quyền
người.
Đánh cho dở khóc dở cười,
Hai miền thống nhất kiếp
người ngựa trâu.
Đánh cho hai nước Việt Tàu,
Không còn biên giới cùng nhau
đại đồng.
Đánh cho dòng giống Tiên
Rồng,
Ô sin, nô lệ, lao công xứ
người.
Đánh cho chín chục triệu
người,
Thành dân vô sản, thành người
lưu vong.
Đánh cho non nước Lạc Hồng,
Tiến lên thời đại mang gông
mang cùm.
Đánh cho cả nước chết chùm,
Đánh cho con cháu khốn cùng
mai sau.
Đánh cho bác, đảng, Nga, Tàu,
Hết quần hết áo thì tao ở truồng!
Thơ Bùi
Giáng
No comments:
Post a Comment