20230404 Cong Dong Tham Luan – Than Vo Toc Viet
ANH-LINH THẦN-VÕ TỘC VIỆT (Q.IV: Hồi 131-140)
https://trandaisy.wordpress.com/2012/11/25/anh-linh-than-vo-toc-viet-q-iv-hoi-131-140/6/
ANH-LINH THẦN-VÕ TỘC VIỆT (Q.IV: Hồi 131-140)
Posted on November 25, 2012 by Lê
Thy
Hồi thứ một trăm ba muơi sáu
***
Trong tài liệu nầy có
những khúc mắc không giải đáp được là:
Vùng đất Bắc biên chính
xác nằm ở đâu?
Các vùng đất như
Trường Sinh, Lạng Châu, Phong Châu, Thượng Oai cổ trong khu vực nào?
Dưới thời đại nhà Lý
những vùng đất nầy dĩ nhiên không nằm trong các vùng đất thuộc Bắc phần hiện
nay.
Dưới đây trong những
phân đoạn tài liệu, chúng tôi đã chú thích xen kẻ trong tài liệu sử nầy những
gì chúng tôi đã tìm được từ Google Earth hay tài liệu trên internet do một số
người ẩn danh thực hiện dưới dạng wikipedia.
Tài liệu chính xác hay
không còn phải tùy thuộc vào sự nhận định của đọc giả.
***
Đạo
Phong Châu
21°16′54″N
105°26′31″E
21°14'22.55"N
105°25'30.41"E
https://vi.wikipedia.org/wiki/Phong_Ch%C3%A2u
21°17'14.77"N
105°26'43.81"E
Thần Võ Tộc Việt
Khắp bốn tiểu quốc Trường-sinh, Lạng-châu, Phong-châu, Thượng-oai dân chúng treo đèn kết hoa để chuẩn bị lễ
sinh nhật của vua bà Bình-Dương. Tuy vua bà còn trẻ, nhưng dân chúng coi như
một vị mẫu nghi chung. Quan Lễ-bộ thượng thư của Bắc-biên đệ thư mời toàn thể
võ-lâm đồng đạo, cùng bách quan triều đình bốn tiểu quốc. Vua bà lại mời thêm
quan Thái-úy phụ quốc nước Đại-lý là Trấn Nam vương Đoàn Trí-Minh, phò mã
Hoa-sen (đúng danh tự Xiêm là U-bon. U-bon nghĩa là hoa sen, nên chúng tôi
chuyển sang tiếng Việt) quận vương lĩnh Trấn Bắc đại tướng quân Xiêm-quốc Lê
Văn cùng công chúa Nong-Nụt. Vua Bà còn sai sứ đệ thư mời Kinh-lược An-vũ sứ
Quảng Tây là Vương Duy-Chính, Kinh-lược An-vũ sứ Quảng-Đông là Dư-Tĩnh, cùng
các biên thần Nam thùy lưỡng Quảng, như Ky Mân, Dương Điền, Tôn Miễn, Tô Giàm,
Tiêu Chú.
Các biên thần Tống đều gửi thư cảm tạ, lấy lý
do rằng không có phép của triều đình, nên không dám đi dự. Vua Bà sai sứ đem quà
sang tặng cho tất cả các biên thần, lễ nhiều, ít có thứ bậc khác nhau.
Triều đình Đại-Việt cử Thái-tử đại-diện duy
nhất đi dự. Tuy nhiên Khai-Quốc vương Lý Long-Bồ; Cổ-loa hầu Tạ Đức-Sơn cùng đi
dự với tư cách Thuận-Thiên thập hùng. Quan thái phó Dương Bình đi với tư cách
chưởng môn phái Sài-sơn. Long-thành ẩn-sĩ Tôn Đản và phu nhân Cẩm-Thi cầm đầu
Tân-quy ngũ hùng gồm Bình Tây đại tướng quân Trần Anh, Trấn Bắc đại tướng quân
Tôn Mạnh, Bình Nam đại tướng quân Tôn Trọng, trấn võ đại tướng quân Tôn Quý.
Về võ phái, chưởng môn phái Đông-a Trần
Phụ-Quốc dẫn một phái đoàn cực kỳ hùng hậu tham dự, gồm Côi-sơn tam anh, thêm
hai đô đốc Đoàn Thông, Phạm Tuy. Phái Tiêu-sơn thì chính chưởng môn Huệ-Sinh
cùng các cao tăng trong Tỳ-Ni Đa-lưu-chi đường, Vạn-Hạnh đường, Tự-Viễn đường
đi dự. Phái Mê-linh thì thái-thượng chưởng môn Tịnh-Tuệ, Tịnh-Huyền dẫn cả
nghìn đệ tử theo. Phái Tản-viên thì chính tiên cô Bảo-Hòa cùng cửu đại cao thủ
hạ sơn dự.
Vua Bà truyền mở cửa biên giới Hoa-Việt, cho
người Hoa được tự do sang Đại-Việt chơi trong vòng một tháng. Mọi thứ hàng Tống
bán sang Đại-Việt được miễn thuế ba tháng.
Thực là một lễ thời thanh bình. Trang nào,
động nào cũng đốt pháo. Vua Bà ban chỉ ân xá cho tất cả những người đã bị kết
án hay trong vòng điều tra. Ngược lại suốt thời gian lễ, quân sĩ không được
nghỉ, vì phải tuần tiễu giữ an ninh phòng cướp lợi dụng.
Sau ngày lễ chính thức, quan khách lục tục ra
về, có phái đoàn về trước, có phái đoàn về sau.
Trong khi đó…
Tại đại sảnh đường Phong-châu, trần thiết hết
sức trang nhã, với gần ba trăm ghế ngồi. Tuy sảnh đường rộng, nhưng chỉ có mấy
ngọn nến leo lét, thành ra những người ngồi cạnh nhau, cũng không nhìn rõ khuôn
mặt nhau ra sao. Bên ngoài hơn trăm chó sói canh phòng. Trên trời ba trăm chim
ưng bay lượn. Khi đã vào đêm, một số người từ khắp nơi âm thầm vào sảnh đường.
Tất cả đều im lặng. Đúng giờ Tuất đèn đuốc thắp sáng chưng. Bấy giờ người ta
mới nhìn rõ cử tọa.
Ngồi trên cao nhất là Khai-Quốc vương. Cạnh
vương là đại sư Huệ-Sinh cùng với Nùng-Sơn tử. Điểm qua thành phần, thì thấy
phái Đông-a có Côi-sơn tam-anh, Đô-đốc Đoàn Thông, Phạm Tuy. Thuận-Thiên thập
hùng vắng mặt Thanh-Mai, Tự-Mai. Tân-quy ngũ hùng đủ mặt, các chưởng môn nhân,
cùng bang trưởng các bang phái.
Khai-Quốc vương đứng lên hành lễ với quần
hùng, rồi chắp tay:
– Thưa chư vị anh hùng, sở dĩ Quốc-công
Thân-thiệu-Cực phải bầy ra lễ sinh nhật của công chúa Bình-Dương để khi chúng
ta tề tựu về đây, tế tác Tống không ngờ tới buổi họp hôm nay.
… Thưa các vị, hồi đại hội Thăng-long, các vị
ủy cho Bồ này làm minh chủ, hầu thống nhất tộc Việt, đòi lại đất tổ vùng lưỡng
Quảng. Lại cách nay mấy năm, chúng ta hội nhau tại Trường-sinh, định rõ phải
bình Chiêm, sau đó mới Bắc phạt. Việc bình Chiêm vừa xong. Hôm nay chúng ta họp
nhau đây để bàn về Bắc phạt.
Quần hùng vỗ tay vang dội.
– Hồi đi sứ Tống, Bồ này với Yên-vương đã kết
huynh đệ, phân định rõ ranh giới Tống-Việt: tất cả 207 khê động giữa hai nước
thuộc Đại-Việt. Ngược lại tộc Việt không đem quân đòi lại lưỡng Quảng. Hơn nữa
Đại-Việt với các nước thuộc tộc Việt gồm Đại-lý, Lão-qua, Xiêm-quốc,
Chiêm-quốc, Chân-lạp, rút trọng binh khỏi biên giới Tống, cam kết không xâm
phạm lãnh thổ Tống. Chính vì vậy mà Tống rảnh tay, rút quân về Bắc thắng
Tây-hạ, ngăn được Liêu. Thế nhưng các biên thần Tống nhất định không buông các
khê động. Mãi mấy năm gần đây, công chúa Bình-Dương thống lĩnh bốn tiểu quốc
vượt biên, mới đòi được hết.
Vương tiếp:
– Nhưng bốn năm trước đây, Yên-vương hoăng,
lại nhân Tần-vương Trần Tự-Mai thắng Tây-hạ, ngăn được Liêu. Nhờ vậy mà binh
lực Tống phấn chấn lên, đám đại thần hiếu chiến nảy manh tâm Nam xâm. Vì chúng
e ngại tai mắt của Ưng-sơn, nên hành sự rất kín đáo. Chúng mật lệnh cho An-vũ
sứ lưỡng Quảng gửi nhiều toán tế tác sang Chiêm-thành, xúi Chiêm đánh vào phía
Nam Đại-Việt. Một mặt chúng gây chia rẽ bốn tiểu quốc với triều đình. Mũi tên
quan trọng, chúng nhắm vào Trường-sinh. Chúng nghĩ như vậy ắt ta phải đem quân
đánh Chiêm, bình Trường-sinh. Bấy giờ chúng kéo Trường-sinh quy phục Tống. Ta
khó ăn nói với Tống.
Vương nói lớn:
– Trời không chịu đất, thì đất phải chịu
trời. Người Tống không để ta yên thì ta đánh lại. Tiên hạ thủ vi cường. Ta đánh
trước.
Quần hào vỗ tay vang dội hết tràng này đến
tràng khác.
Khai-Quốc vương tiếp:
– Tuy họ âm mưu như vậy, nhưng may mắn ta
biết trước, ta hóa giải một phần, thành ra Trường-sinh vẫn thuộc Đại-Việt. Ta
cũng vờ không biết ý đồ chúng, cứ đem quân bình Chiêm. Chúng tưởng ta bình
Chiêm xong ắt mệt mỏi. Nhưng chúng đâu ngờ ta không những không mệt mỏi, mà yên
tâm đem quân Nam thùy phòng thủ Đại-Việt, để quân Bắc-biên đánh Tống.
Vương ngừng lại chỉ Trần Bảo-Dân:
– Nhị sư huynh vừa từ bên Tống về, có thể cho
chư vị anh hùng biết rõ tình hình hơn.
Trần Bảo-Dân đứng dậy cung tay chào quần hùng
rồi nói:
– Sau khi Tần-vương tung toàn bộ quân Tống
đánh những trận long trời lở đất với Tây-Hạ. Cả hai bên đều tổn thất không biết
bao nhiêu mà kể. Nhưng Tống coi như thắng lớn vì chiếm lại phần đất bị Tây-Hạ
lấy trước đây. Những đạo quân tinh nhuệ nhất của Tống gần như phải tổ chức lại.
Vì vậy vương không thể xua quân diệt Tây-hạ. Tây-hạ sai sứ sang cầu hòa, xin
tiến cống.
Phò-mã Hà Thiện-Lãm lắc đầu:
– Chắc anh Tự-Mai không chịu!
– Sao phò mã biết tiểu sư đệ không chịu?
– Vì hồi trước Tự-Mai vây Linh-châu, bọn hủ
nho ăn tiền của Tây-hạ xin nhà vua bãi binh. Tự-Mai đành lui binh. Sau Tây-hạ
vi ước, đem quân đánh Tống. Nhà vua sai Tự-Mai đánh Tây-hạ. Tự-Mai đòi chém hết
đám nho thần xin tha cho Tây-hạ hồi trước rồi mới chịu ra binh. Nhà vua không
chịu, Tự-Mai sai lực lượng Ưng-sơn giết hết đám nho thần đó với vợ con, bố mẹ.
Vì vậy nay Tây-hạ thua, xin giảng hòa tất không ai dám tán thành.
– Phò mã chỉ đoán đúng một nửa. Nay chính
tiểu sư đệ tâu xin hòa, lấy lý do sau mấy trận, binh mã hao tổn quá nhiều. Nhà
vua đồng ý phong cho vua Tây-hạ làm Hạ-quốc vương, rồi cho bọn Tam-anh, Ngũ-hổ
ra trấn Tây-biên, còn phò mã với công chúa về triều.
Lạng-châu công Thân Thiệu-Cực lắc đầu:
– Như vậy tôi e có bọn gian thần nào đó nói
ra, nói vào, nhà vua mới làm như vậy. Bởi lẽ Hạ xin quy thuận là do dư uy các
trận đánh của Tự-Mai, thì dù sau khi nó hàng, cũng phải để Tự-Mai ở Tây-biên
hầu trấn áp chúng chứ? Có đâu lại đưa về triều? Tự-Mai là một đại tướng, mà cho
về triều thì là tướng không quân, ngồi chơi xơi nước.
– Đúng thế. Tiểu-sư đệ về triều, ngày ngày
cùng công chúa ngao du thắng cảnh. Nhưng bọn hủ nho vẫn sợ uy, vì họ nghĩ rằng
Ưng-sơn song hiệp là tiểu sư đệ với công chúa.
Bảo-Dân ngừng lại cho mọi người theo kịp, rồi
tiếp:
– Nhưng tại biên giới Liêu-Tống, quân Tống
thừa cơ đêm đến tràn sang đất Liêu cướp của, giết quan lại. Sứ Liêu sang Tống
thống trách. Nhà vua sai sứ điều tra, thì Phạm Trọng-Yêm chối rằng những nơi
xẩy ra cướp phá, hoàn toàn không có quân Tống. Yêm đổ vấy cho Liêu bầy ra để có
cớ gây sự. Sứ giả hai bên vừa chia tay, thì trên đường về nước, sứ Liêu bị quân
Tống giết chết cướp tài vật. Nam viện đại vương của Liêu xua quân đánh tràn
qua. Tống mất ba thành. Triều đình Tống phải cải phong Tần-vương Tự-Mai làm
Kinh-Nam vương, rồi để vương với công chúa trấn Bắc.
Ngồi dưới này, Tôn Đản hỏi sẽ Thuận-Tông:
– Em nghĩ sao?
– Còn sao nữa, chính ông nội Bảo-Dân cùng với
một số cao thủ tuân lệnh Tự-Mai giả làm quân Tống giết quan Liêu, gây chiến
tranh Liêu-Tống, hầu hút lực lượng Tống để chúng ta đánh lên cho dễ.
Thiệu-Cực hỏi:
– Hiện ai làm tể tướng Tống?
– Hoàng-hựu nguyên niên (Kỷ-Sửu, 1049) Trần
Chấp-Trung lĩnh Chiêu-văn quan đại học sĩ, giám tu quốc sử (tả tể tướng) cùng
các tể thần giữ chức Đồng trung thư môn hạ bình chương sự, Tập-hiền viện đại
học sĩ (hữu tể tướng), Khu mật viện sứ; Tham tri chính sự, khu mật viện phó sứ…
trước đây tâu xin tha cho Tây-Hạ, bắt Tự-Mai rút quân, đều bị Ưng-sơn giết cả
nhà. Tháng tám ngày Nhâm-Tuất lấy một số nho thần khác thay thế. Đó là Văn
Ngạn-Bác làm Chiêu văn quan đại học sĩ. Tống Tường làm Đồng trung thư môn hạ
bình chương sự, Tập-hiền-viện đại học sĩ, Bàng Tịch làm Khu mật viện sứ, Cao
Nhược-Nột làm Tham-tri chính sự, Lương Thương làm Khu mật viện phó sứ. (TS.
Nhân-tông kỷ)
– Tư cách năm người này ra sao?
– Văn-mô, vũ lược. Cả năm đều chủ trương
buông phía Bắc, mà mở rộng biên cương về phía Nam. Nhà vua nghiêng về phía mấy
tên này. Cho nên cả năm người đều âm thầm xui bọn Dư Tĩnh, Vương Duy-Chính,
Tiêu Chú, Ky Mân, Trần Thự, Dương Điền, Tôn Miễn tung tế tác sang bên ta xui
dục sao cho có nội loạn, nếu cần thì gây ra sự đã rồi. Bấy giờ Tống có cớ đem
quân Nam-chinh.
Khai-Quốc vương hỏi Thiệu-Cực:
– Tình hình Lưỡng-Quảng ra sao?
– Lưỡng-Quảng hiện có rất ít quân triều. Tại Ung-châu có bốn đạo quân 441, 442, 443, 444. Tại-Quảng-châu có các đạo quân 331, 332, 333, 334. Còn ngoài ra chỉ có quân của các trấn, các
châu mà thôi. Lương thảo họ thu được bao nhiêu đều cất vào những thành chính để
tải lên cho mặt trận phía Bắc, phía Tây. Tuy nhiên vượt ra ngoài Ngũ-lĩnh họ có
đạo kỵ binh với một hạm đội đóng ở hồ Động-đình. Tại Kinh-châu họ có hai hạm đội với 20 vạn
quân.
Khai-Quốc vương xoa hai tay vào nhau:
” Chúng muốn gây chiến thì được chiến tranh.
Ta nhân cớ chúng gây chiến, đánh chiếm lại Lưỡng- Quảng”
Mọi người vỗ tay.
Khai-Quốc vương hỏi Thiệu-Cực:
– Cháu trấn Bắc-biên, vậy cháu tìm lấy một cớ
nào lớn nhất để ta gây sự. Gây sự sao cho có lợi.
Thiệu-Cực chỉ Nùng Trí-Cao:
– Cớ lớn đã có từ lâu, đó là tế tác Tống ám
hại cha con Nùng hầu. Đúng thủ tục ra, khi có xích mích giữa hai biên thần, thì
Trí-Cao tâu về triều, rồi hai triều Tống-Lý nói với nhau. Bây giờ Trí-Cao làm
như nóng nảy, gửi thư cho Vương Duy-Chính, yêu cầu nộp Trần Thự cho Cao báo phụ
cừu. Tất nhiên Chính không chịu. Bấy giờ Trí-Cao lấy tờ giấy cung khai của Trần
Thự tấu về triều Tống. Phải tính sao đúng lúc sứ tới Biện-kinh, thì ta cho quân vượt biên. Trong khi triều
đình đang bàn tính về tờ biểu của Trí-Cao, thì biểu của Chính tới kinh tâu vụ
ta vượt biên. Như vậy ắt Tống triều cho rằng đây là vụ xung đột nhỏ, sẽ cử sứ
xuống hòa giải. Tổng số thời gian từ khi ta vượt biên, tới lúc sứ đến Quế-châu
mất hai tháng. Trong hai tháng, ta đã chiếm xong phân nửa Lưỡng-Quảng rồi. Nào
Trí-Cao sư điệt, cháu định cử ai đi sứ Tống đây? Ai đi sứ Quế-châu đây?
***
Biện
Kinh (960–1127) Giang Ninh (1129–1138) Lâm An (1138–1276)
Biện Kinh, phủ Khai Phong
34°47'50.14"N
114°18'26.32"E
Do Thái Khai Phong Hà Nam
34°47'15.03"N
114°20'25.04"E
Khai Phong, trước đây là Biện Lương (汴梁; Wade-Giles:
Pien-liang), là một thành phố trực thuộc tỉnh (địa cấp thị) ở phía đông tỉnh Hà
Nam, Trung Quốc. Thành phố này tọa lạc ở bờ nam của sông Hoàng Hà, giáp tỉnh lỵ
Trịnh Châu về phía tây, Tân Hương về phía tây bắc, Thương Khâu về phía đông,
Chu Khẩu về phía đông nam, Hứa Xương về phía tây nam, và tỉnh Sơn Đông về phía
đông bắc. Khai Phong là
một trong 7 cố đô Trung
Hoa
Bài viết đầy đủ
https://onggiaolang.com/17-tong-lieu-kim-tay-ha/
Giang
Ninh
31°57'9.58"N
118°50'24.07"E
Lâm
An
30°14'1.78"N
119°43'29.28"E
http://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0ng_Ch%C3%A2u
http://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFt_Giang
http://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A2m_An
***
Trí-Cao còn trầm ngâm thì Thiệu-Cực tiếp:
– Người đi sứ Tống cần phải có bằng này điều
kiện. Một là thuộc giới bút mặc văn chương, đủ để đấu khẩu với bọn nho thần
chuyên nhai văn nhấm chữ. Hai là phải có võ công cao, để lỡ có sự còn tự thoát
thân được. Ba là phải thấu hiểu tình hình Trường-sinh. Khi đi sứ, lời lẽ cần tỏ
ra ty tiện, hết sức phô trương lòng trung thành với Tống, lễ cực kỳ hậu. Sứ
thần sẽ mang theo thực nhiều vàng bạc hầu hối lộ bọn tham quan, bọn cung nga
thái giám, nhờ chúng kết tội bọn Dư Tĩnh, Vương Duy-Chính, Ky Mân, Trần Thự.
Trí-Cao suy nghĩ rồi hướng Hoàng-Giang cư sĩ:
– Thưa thầy, xét kỹ ba điều kiện sư bá đưa
ra, thì chỉ thầy mới có. Vậy con xin thầy đừng quản ngại giúp con việc này. Con
xin xuất ra một nghìn lượng vàng để thầy hối lộ cho bọn tham nhũng. Còn như cần
hối lộ ai, cung nào, điện nào, thì sư bá Phụ-Quốc sẽ cho biết.
Hoàng-Giang cư sĩ khẳng khái:
– Được, thầy đi.
Ông nói với vua Bà:
– Nội chúng ta đây, vua Bà nổi tiếng cử bút
thành văn, xin vua Bà soạn cho bài biểu.
Vua bà Bình-Dương cầm bút viết liền một hơi,
rồi trao bản nháp cho Phụ-Quốc:
– Xin sư huynh đọc xem có được không.
Phụ-Quốc cầm biểu đọc thực lớn:
Man-di biên thần là Nùng Trí-Cao xin rập đầu
chảy máu trước thánh Thiên-tử để đèn trời xét cho mối oan khuất.
Tộc Nùng của thần từ mấy đời trấn ở
Nam-thiên, tuy vạn dặm xa xôi, nhưng lúc nào cũng ngửa cổ trông về Thiên-triều
như con đỏ mỏi mắt chờ mẹ. Hằng năm, ông, cha thần đều có lễ, nhờ các bậc tể
thần Lưỡng-Quảng chuyển về dâng lên bệ hạ, cũng có hậu lễ đến các vị trấn thủ
Nam-thùy.
Mấy năm trước, phụ thân thần là Nùng
Tồn-Phúc, cùng huynh trưởng là Nùng Trí-Thông được biết rằng tất cả lễ cống gồm
châu báu, phương vật đều bị các biên thần dấu đi. Phụ thân thần đành cử sứ về
Biện-kinh cáo với triều đình. Nhưng khi sứ đi qua Quế-châu thì bị bắt giết,
biểu bị xé vứt đi. Như vậy các tể thần Nam-thùy chưa cho là đủ, lại sai
Chinh-di đại tướng quân Trần Thự đem một đoàn cao thủ sang ám hại phụ thân cùng
huynh trưởng của thần. Các vệ sĩ của thần đâu biết các vị là quan của
Thiên-triều, tưởng là gian tế, nên bắt giam và lấy khẩu cung. Bấy giờ thần mới
hay là ý của An-vũ sứ Lưỡng-Quảng. Vì vậy thần phải dâng lễ tạ Trần tướng quân
rồi đưa về.
Nghĩ phụ thân, huynh trưởng chưa từng phạm
lỗi mà bị giết, thần lớn mật gửi sứ tới cửa nhà trời khiếu oan, cùng dâng lễ
vật, cúi mong Thánh-hoàng xét cho để hai vong hồn của phụ thân, huynh trưởng
thần được siêu thoát.
Thần khép nép dâng biểu, lòng xiết bao kính
sợ.
Lễ dâng gồm:
1. Vàng khối năm trăm lượng.
2. Bạc khối một vạn lượng.
3. Ngà voi mười cặp.
4. Hương liệu mười cân.
5. Quế chi mười cân.
6. Voi lớn hai cặp.
7. Đính kèm bút tích cung khai của Chinh-di đại tướng quân Trần Thự.
Tôn Đản khen:
– Bài biểu này có tác dụng đổ cho bọn quan
Nam-thùy ăn chận cống phẩm, được dâng vàng bạc… Chắc chắn bọn tể thần Tống tin
thực, ghen ăn, sẽ xúm vào kết hàng vạn thứ tội lên đầu, rồi còn đòi chia chác
nữa.
Thiệu-Cực nói:
– Bây giờ tới sứ thần đi Quế-châu. Người này
không cần văn hay, phải tỏ ra hống hách, để bọn Vương Duy-Chính nổi giận, có
như vậy, sau này sứ Tống tới dàn hòa, y mới bật ngửa ra, nổi khùng lên. Ở đây chúng
ta đều đã xuất hiện, bọn Tống biết mặt cả rồi. Chỉ có một người khả dĩ đảm nhận
được, đó là Thường-Hiến, em Thường-Kiệt. Vậy Thường-Hiến đảm nhận vụ này. Còn
thư cho chúng, để Trí-Cao viết.
Công chúa Kim-Thành nói:
– Anh Thiệu-Cực này. Em nghĩ
rằng đi sứ Quế-châu không cần người ôn nhu văn nhã, mà cần người gàn bát sách,
ngang như cua như ghẹ mới xong. Em xin tiến cử một người có khả năng đó.
Tất cả phòng họp đều đờ người
ra suy nghĩ, không ai biết người mà Kim-Thành tiến cử. Cuối cùng Dương Bình bật
cười:
– Tôi đoán ra rồi. Người đó là
em sữa của Đông-cung đại học sĩ Thường-Kiệt tên Dư Phi, ái đồ của Long-thành
ẩn-sĩ.
Dư Phi tuy ít xuất hiện, nhưng
chàng thường ôm đàn cùng bầy hạc, bầy chó ngao du khắp nơi tấu cho dân xem, nên
cả nước, ai cũng biết tiếng. Hôm nay chàng theo hầu sư phụ, sư mẫu lên họp, vì
không thích làm quan, nên gục xuống bàn mà ngủ. Bây giờ bị sư mẫu lôi cổ ra,
chàng bật cười:
– Thưa các vị, thầy còn hơn bố,
cô còn hơn mẹ. Nay thầy cô bảo gì Phi này thành hữu thì Phi cũng phải tuân.
Việc nói ngang, nói gàn, thì là võ công mà Phi này giỏi nhất. Nhược bằng chúng
chặt đầu, thì Phi sẵn sàng đục nhau với chúng.
Trí-Cao nói với Dư Phi:
– Em không có tài viết văn gây
sự. Nhờ anh viết dùm.
Không đắn đo, Dư Phi cầm bút
viết liền:
Chưởng-quản
anh hùng tộc Nùng là Thái-tử thiếu bảo, Trường-sinh hầu, lĩnh Trấn-viễn đại
tướng quân nước Đại-Việt, thư cho bẩy tên cẩu tặc Vương Duy-Chính, Dư Tĩnh, Ky
Mân, Dương Điền, Tôn Miễn, Tô Giám, Tiêu Chú biết rằng:
Năm
trước đây chúng mày gửi tên Trần Thự sang sát hại phụ thân cùng huynh trưởng
tao. Nay tao thư cho bọn cẩu tặc chúng bay hay: Kể từ khi nhận được thư này,
chúng mày phải thân tới trướng của tao rập đầu tạ tội, lại trói tên Trần Thự
đem nộp. Hẹn trong mười lăm ngày, mà chúng mày không tuân lệnh, thì ông cố nội
mẹ mày sẽ đem binh giết hết chúng mày cùng bố mẹ, vợ con, tôi tớ, trâu bò, lừa
ngựa, chó mèo, gà vịt, chim muông.
Ông
tổ nội mẹ chúng mày.
Cả hội trường cùng bật cười,
cười lăn cười lộn.
Dư Phi nói:
– Cao này. Khi đi Quế-châu, anh
sẽ mang theo một đàn chó, với một đàn hạc. Anh không cỡi ngựa, mà cỡi bò. Như
vậy anh mới có cớ cà khịa với bọn chúng. Nhân đó anh dò la quân tình chúng một
thể.
Thiệu-Cực khen:
– Giỏi, thư gây sự như vậy mới
khiến cho chúng tức, mà không nộp Trần Thự. Lại thêm lối nói như cua của Dư Phi
thì tuyệt.
Khai-Quốc vương nói gằn từng
tiếng:
– Xin các vị nghe.
***
Dưới đây là kế sách của Khai Quốc Vương Lý Long Bồ.
***
Hội trường có tới mấy trăm
người, mà không một tiếng động.
– Ta chia lực lượng làm bốn: hăm dọa, phòng thủ nước, Bắc-tiến và ngoài biển.
– Thứ nhất, lực lượng hăm dọa gồm toàn bộ quân Đại-lý dồn lên phía Bắc làm như chuẩn bị vượt Độ-khẩu đánh vào Thục. Thục tất gửi biểu tâu về triều Tống. Tống sẽ điều quân Tây-xuyên, Đông-xuyên trợ Thục. Như vậy ta cầm chân được quân Lưỡng-Xuyên không
tiếp cứu mặt trận Tây-Hạ. Thành ra Tống không dám đưa quân từ Tây-Hạ về Nam.
***
Bản đồ Tứ Xuyên
https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/9/9b/Sichuan.png
https://vi.wikivoyage.org/wiki/T%E1%BA%ADp_tin:Sichuan_prfc_map.png
https://vi.wikivoyage.org/wiki/T%E1%BB%A9_Xuy%C3%AAn
Số (1) Garzê Tây Tứ
Xuyên
Ở tây Tứ Xuyên, một
châu tự trị người Tạng
Số (2) Ngawa Bắc Tứ
Xuyên
Trong khu vực phía bắc
trung tâm của Tứ Xuyên, nó là một châu vực tự trị người Tây Tạng tự trị và
người Khương
Số (20-21) Nam Tứ Xuyên
Gồm Lương Sơn của
người Di và Phàn Chi Hoa
Số (3-19) Đông Tứ Xuyên
Gồm thủ phủ Thành Đô
và các thành phố lớn khác của Tứ Xuyên
https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/8/8c/Sichuan_prfc_map.png
20230404 CDTL TVTV 01
https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/thumb/9/9b/Sichuan.png/932px-Sichuan.png
https://vi.wikivoyage.org/wiki/T%E1%BA%ADp_tin:Sichuan.png
***
Trấn-Nam vương Đại-lý Đoàn
Trí-Minh đứng dậy nhận lệnh.
– Thứ nhì, lực lượng trừ bị, gồm mười đạo Thiên-tử binh. Lực lượng này quan Thái-phó Dương Bình tổng chỉ huy để phòng thủ
và tiếp ứng nếu cần.
Dương Bình đứng lên nhận lệnh.
– Thứ ba, lực lượng ngoài biển, gồm ba hạm đội Âu-Cơ, Bạch-đằng, Động-đình do đô đốc Đoàn Thông tổng chỉ huy, nhiệm vụ phòng duyên hải. Sẵn
sàng chở quân trừ bị đổ lên Khâm-châu, nếu quân Bắc-tiến thất thế.
Đoàn Thông đứng lên lĩnh mệnh.
Khai-Quốc vương trao thanh
Thượng-phương bảo kiếm cho công chúa Bảo-Hòa:
– Thứ tư, lực lượng Bắc tiến do Trưởng đại-công- chúa Bảo-Hòa tổng chỉ huy.
Công chúa Bảo-Hòa đứng dậy nhận
kiếm, rồi bước lên trướng:
– Chủ lực chính Bắc-tiến là quân Trường-sinh. Vậy Trường-sinh hầu cho biết lực lượng có bao nhiêu?
Nùng Trí-Cao cung tay:
– Thưa sư phụ, về bộ binh có năm vạn chia ra ba vạn nam, hai vạn nữ.
Kị có một vạn với bẩy nghìn ngựa. Thú có ba trăm voi, ba trăm báo, ba trăm hổ, ba trăm sói, với một vạn người. Lực lượng pháo có hai trăm xe bắn đá, một vạn người và năm vạn người vận tải.
– Vậy quân Trường-sinh
phát xuất thình lình từ Tả-giang lên phía Bắc, dùng voi, xe bắn đá, nhanh chóng chiếm các phủ huyện, sao cho
tới Quế-châu trong vòng một tháng.
***
Quân số Trường Sinh ước tính tương đương 200 tiểu đoàn
(1 tiểu đoàn trung bình là
400 lính, có thể coi quân số nầy là đơn vị “trừ” tức là thiếu quân số)
Tất cả đệ tử Tản-viên đều theo
giúp trong đạo Trường-sinh.
Công chúa đứng dậy cung tay
hướng đại sư Huệ-Sinh, sư thái Tịnh-Tuệ, Tịnh-Huyền:
– Đệ tử đã cho chuẩn bị hơn
nghìn bằng sắc tăng ni Tống. Xin các vị trao cho các đệ tử Tiêu-sơn, Mê-linh ẩn
thân vào dân chúng, vào các chùa dọc biên giới tới Quế-châu. Mỗi khi quân
Trường-sinh đánh tới đâu, thì đoàn cao thủ của ta từ trong thành làm nội ứng.
Như vậy quân Trường-sinh tiến mau hơn.
Huệ-Sinh, Tịnh-Tuệ, Tịnh-Huyền
mỉm cười nhận lệnh.
Công-chúa hướng Trần Phụ-Quốc:
– Nhiệm vụ phái Đông-a rất
nặng. Vì Côi-sơn tam anh ở trên đất Tống lâu, thông thạo đường lối, xin đem đệ
tử phục dọc đường ngoài các thành từ biên giới tới Biện-kinh, hễ thấy ngựa trạm
báo tin là giết chết. Như vậy tin tức giữa các châu, các thành với triều đình
bị gián đoạn. Họ sẽ không nắm được tình hình.
Phụ-Quốc cung tay nhận lệnh.
Trí-Cao hỏi:
– Kính sư phụ, nếu đệ tử tiến
thẳng lên Bắc như vậy, e hở hai hông, chúng đánh ép thì mất đường tiếp tế lương
thảo .
– Con hỏi vậy thực phải. Sư phụ
đã tính trước rồi.
Công chúa hướng phò mã Lê Văn:
– Lực lượng em có bao nhiêu?
– Vì đường xá xa xôi, em mang
theo hai vạn bộ và năm trăm thớt voi. (*** Ước tính tương đương 50 tiểu đoàn trừ ***)
– Võ công em cực cao, hiện chỉ
có đại cao tăng Thiếu-lâm, với Hoa-sơn tứ lão mới đương nổi em. Vậy em đi kế
đạo quân Trường-sinh. Khi đạo Trường-sinh chiếm được Quế-châu rồi dừng lại, thì
em tiến lên chiếm núi Ngũ-lĩnh và trấn tại
đây, không cho viện quân từ Đàm-châu tiến xuống.
Công chúa hỏi phò mã Lê Thuận-Tông và công chúa Kim-Thành:
– Hai vị cho biết lực lượng Phong-châu.
Công chúa Kim-Thành cung tay:
(*** Quân số ước tính 100 tiểu đoàn ***)
– Lực lượng Phong-châu gồm có bộ binh ba vạn, kị binh một vạn; voi một trăm thớt, hổ hai trăm con, báo hai trăm con, sói năm trăm con.
– Công chúa với phò mã đem quân vượt biên chiếm Khâm-châu, tẻ sang Đông, tiến chiếm vùng Liêm-giang,
rồi Quảng-châu, Khúc-giang, bảo vệ sườn phải cho Trường-sinh.
Công chúa hướng phò mã Hà Thiện-Lãm, với công chúa Trường-Ninh:
– Xin hai vị cho biết lực lượng
Thượng-oai.
Công chúa Trường-Ninh cung tay:
(*** Ước tính tương đương 125 tiểu đoàn ***)
– Lực lượng Thượng-oai
không có hổ, báo, sói binh. Bộ binh có ba vạn, kị binh hai vạn, tượng binh ba trăm thớt.
– Công chúa với phò mã đem quân
vượt biên, tiến sau quân Trường-sinh, trấn nhậm thành trì cho quân Trường-sinh tiến lên Bắc, sẵn sàng tiếp
cứu quân Trường-sinh.
Công chúa hướng Lạng-quốc công
Thân Thiệu-Cực:
– Anh hai! Quân của Lạng-châu ra sao?
– Bộ ba vạn, kị
hai vạn, voi, hổ, báo, sói mỗi loại ba trăm. (***Ước tính 125 tiểu đoàn***)
– Anh tiến quân theo Thuận-Tông, Kim-Thành; trấn giữ thành trì
do quân Phong-châu chiếm được, sẵn sàng tiếp ứng cho đạo này. Anh là tổng
chỉ huy hai đạo Phong-châu, Lạng-châu.
Phò-mã Thân Thiệu-Thái hỏi:
– Còn anh, anh ngồi chơi ở nhà
sao?
Công chúa phì cười:
– Nhiệm vụ của anh với Bình-Dương
cực kỳ quan trọng là tổng chỉ huy ba đạo Trường-sinh, Thượng-oai,
và Hoa-sen.
Công chúa tiếp:
– Bây giờ tới các đại tướng. Trần Anh, Tôn Trọng theo giúp
đạo Trường-sinh.
Tôn Mạnh theo giúp đạo Phong-châu, Tôn Quý theo giúp đạo Thượng-oai.
Công chúa tính toán một lúc rồi
tiếp:
– Về cao thủ, như trên đã phân
phối. Côi-sơn tam anh giúp đạo Trường-sinh.
Anh Thiệu-Thái với Bình-Dương giúp đạo Phong-châu. Đại sư Huệ-Sinh, đạo sư Nùng-sơn-tử giúp đạo Thượng-oai.
Công chúa nhìn Thiệu-Cực:
– Anh hai có cần cao thủ không?
Thiệu-Cực cười tủm tỉm:
– Anh chỉ xin sư thái Tịnh-Tuệ, Tịnh-Huyền với ông bà Long-thành ẩn-sĩ Tôn
Đản là đủ rồi. Trong khi ta đánh
nhau, thế nào Thiên-trường ngũ kiệt, với Đại-Việt ngũ long nghe tin ắt ngứa chân, ngứa tay không chịu được, cũng phải xuất
hiện trợ chiến.
Trí-Cao bàn:
– Không biết thầy đồ Bắc-ngạn
nay ở đâu, nên mời ông ấy theo giúp thì bố tướng Tống cũng chết dí hết.
Thiệu-Cực gõ tay lên đầu
Trí-Cao:
– Con nói thế có ngày thầy đồ
đánh con què dò con có biết không? Hôm ấy, con bàn về việc đòi cố thổ Lĩnh-Nam
với thầy, rồi đưa đến cuộc thảm sát. Như vậy rõ ràng thầy với con cùng một chí
hướng. Thầy ở trong bóng tối, nhất cử nhất động của ta với Tống thầy biết hết.
Thầy chẳng từng hứa với con rằng: ngày mai con đánh tới đâu, thì đêm trước thầy
giết tướng giữ thành cho con là gì đấy? Không chừng thầy có mặt trong phòng họp
này cũng nên.
Trí-Cao mỉm cười:
– Đa tạ sư thúc dạy khôn cho.
Khai-Quốc vương đứng lên nói:
– Về thời gian hành sự, Bồ này
đã tính trước. Chúng ta tiến quân vào tháng chín. Như vậy tin tới triều là
tháng mười. Họ sai sứ xuống giảng hòa vào tháng mười một. Nghị hoà thất bại, sứ
về tới là tháng chạp. Nếu Tống triều khẩn cấp phản ứng thì quân từ Tây, Bắc
khởi hành phải vào đầu tháng hai. Nhanh ra, họ tới nơi vào tháng ba, tư là
tháng nóng bức, thấp nhiệt bao phủ không gian Ngũ-lĩnh. Quân Tống từ Bắc xuống
khí hậu nóng nực, bệnh thời khí tràn lan, binh sĩ, lừa ngựa phía Bắc không chịu
nổi. Nếu họ chấp nhận giao chiến ắt bị thua. Còn như họ án binh chờ cuối Thu,
thì ta có thêm sáu tháng củng cố cai trị, như vậy là một năm. Bấy giờ họ có
phản công cũng vô ích. Nào, bây giờ quý vị về chuẩn bị ngay thì vừa. Khi có
lệnh, tất cả cùng hành động.
Vương hỏi Bảo-Hòa:
– Tổng hành doanh Bắc tiến của
cháu theo đạo binh nào?
– Cháu tùy cơ ứng tiến.
Hoa-sen quận vương Lê Văn hỏi:
– Có một vấn đề tế nhị đặt ra là hiện bốn tiểu quốc Trường-sinh, Phong-châu, Thượng-oai, Lạng-châu đều thuộc Bắc-biên. Nếu như chiếm lại lưỡng Quảng, thì đất đó do ai cai trị, cơ chế tổ chức ra sao?
***
Khu vực
nước Đại-lý, Quảng Tây, Quảng Đông.
https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/e/e9/Guangxi_in_China_%28%2Ball_claims_hatched%29.svg
20230404 CDTL TVTV 02
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BA%A3ng_T%C3%A2y
20230404 CDTL TVTV 03
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BA%A3ng_T%C3%A2y
***
Khai-Quốc vương hỏi đại sư Huệ-Sinh:
– Sư phụ trí tuệ bao la, xin sư phụ dạy cho
đệ tử.
Huệ-Sinh đứng lên nói:
– Trước khi lên đây họp, hoàng thượng với
thái sư ủy cho bần tăng nghiên cứu vụ này. Nay bần tăng quyết định như sau:
trong hơn ba
mươi trang động thuộc Trường-sinh thì hầu hết thuộc sắc dân Nùng. Người Nùng nói tiếng Việt lẫn tiếng Quảng. Trong hai lộ Quảng, thì phân nửa dân phía Nam biết nói
tiếng Việt. Riêng
nửa vùng phía Tây
của Quảng-Tây nói tiếng Thái.
Đại sư hỏi Trấn-Nam vương Đoàn Trí-Minh:
– Vậy ta chia Quảng-Tây làm ba phần. Một phần
ba phía Tây, dân nói tiếng Thái ta tổ chức thành nước nhỏ, đặt trực thuộc hoàng đế Đại-lý. Không biết ý kiến Đoàn vương gia nghĩ sao?
Đoàn Trí-Minh là em ruột hoàng
đế Đại-lý. Ông đi dự đại hội chỉ với mục đích sao cho Việt mạnh, Tống yếu, để
Tống không xâm lăng Đại-lý. Nay tự nhiên được chia một phần ba Quảng-Tây, ông
mừng lắm:
– Thưa đại sư, hiện Đại-lý chia làm sáu Chiếu (ghi chú: chiếu có nghĩa như một vùng). Mỗi Chiếu có một vị vương.
Nếu nay sắc dân Thái thuộc Quảng-Tây được
thống nhất với Đại-lý, thì chúng tôi chia vùng này
thành ba Chiếu nữa là chín. Về tên ba chiếu này, chúng tôi xin lấy lại những
tên thời Lĩnh-Nam. Ba tên đó là Tượng-quận, Bồ-lăng, Thiên-sơn.
Quần hào vỗ tay vang dội.
***
Đoạn văn bên dưới cho thấy sự
phân chia lảnh thổ theo sắc dân cùng ngôn ngữ của nhà Lý đã khiến vùng đất Bắc
biên trở lại thời cổ sử nước Lĩnh Nam của Vua Trưng khi ngài dựng nghiệp.
Củng từ đây cho chúng ta hiểu
các vùng đất:
Thượng Oai có thể coi như bao gồm đất Cao
Bằng cho đến Hà Giang và một phần ba của miền Nam Quảng Tây.
Lạng Châu bao gồm cả một phần Đông Nam đất Quảng Tây
bao gồm cả Khâm Châu.
Khâm Châu
21°58'46.91"N
108°39'15.40"E
Trường
Sinh gồm cả
phần đất miền Bắc Quảng Tây, Nam Quế Lâm, Bắc Quảng Đông
thuộc Nam Hải củ.
Phong Châu bao gồm cả một phần của miền
Nam Quảng Đông, Liêm Châu thuộc phần đất Nam Hải củ.
Liêm Châu Hửu Giang
21°36'33.50"N
110°17'12.54"E
Như thế
chúng ta phải hiểu vùng đất Phong Châu nầy không ở trong khu vực đất
Hà Nội hiện nay!
Mà ở trong
vùng đất thuộc Nam Hải củ.
Nếu đúng
như thế những bộ sử Việt đều phải được xem xét lại trên bình diện địa dư và địa
danh.
Chúng ta
đi mang theo quê hương! Nhớ không? Nếu không tại sao có tiểu Sài-gòn ở
khắp nơi trên thế giới hiện nay?
Địa danh củng thế, đã theo chân dân Việt ra đi khắp mọi nơi.
***
“Huệ-Sinh tiếp:
– Một phần ba phía Nam của
Quảng-Tây đặt trực thuộc Thượng-oai, chập hai vùng làm một, mà vẫn giữ tên Thượng-oai. Còn một phần ba phía Bắc đặt trực
thuộc Trường-sinh. Vùng này xin lấy tên thời Lĩnh-Nam là Quế-lâm. Về Quảng-Đông, một phần ba
phía Bắc cũng được đặt trực thuộc Trường-sinh, phần này giữ nguyên tên thời
Lĩnh-Nam là Nam-hải. Một phần ba phía Đông-Nam đặt trực thuộc
Phong-châu, chập hai vùng làm một mà vẫn giữ tên Phong-châu. Một phần ba phía Tây-Nam đặt
trực thuộc Lạng-châu, vẫn giữ nguyên tên Lạng-châu. Đến bấy giờ thì Trường-sinh gồm ba vùng
lớn: Trường-sinh, Quế-lâm, Nam-hải, nên đặt tên nước là Đại-Nam. Nước Đại-Nam được kể như một
nước lớn bằng Xiêm-quốc, Đại-lý, Bắc-biên.”
Dưới đây là bản đồ thuật lại cuộc “nổi loạn” của Nùng Trí Cao (từ ngữ “nổi loạn” của tầu trong giai đoạn sử nầy)
Nong
Zhigao rebellions
https://en.wikipedia.org/wiki/Nong_Zhigao_rebellions
20230404 CDTL TVTV 04
https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/9/9c/Nong_Zhigao_Expedition_map.gif
https://en.wikipedia.org/wiki/File:Nong_Zhigao_Expedition_map.gif
https://en.wikipedia.org/wiki/Nong_Zhigao_rebellions#/media/File:Nong_Zhigao_Expedition_map.gif
***
– Khi quân hầu chiếm xong các vùng Nam-hải,
Quế-lâm, tổ chức cai trị hoàn hảo rồi hãy đăng quang. Bây giờ thì vẫn
giữ nguyên thân phận hầu tước.
Trí-Cao cúi đầu:
– Đa tạ Quốc-sư dạy dỗ.
Hoa-sen quận vương hỏi:
– Trường hợp quân Tống ở vùng Trường-sa, hồ Động-đình yếu quá, em có
nên xua quân tiến chiếm nốt vùng Nam Trường-giang không? Sau khi chiếm rồi, em trao vùng
này cho ai?
Khai-Quốc vương đáp:
– Về mặt trận từ Ngũ-lĩnh lên Bắc, em toàn quyền quyết định. Nhưng em ơi, vuốt mặt phải nể
mũi một chút, vì vùng này Tống gọi là Kinh-Nam. Dường như Tự-Mai mới được cải phong làm Kinh-Nam vương. Không lẽ em chiếm nước của Tự-Mai? Không lẽ em với Tự-Mai đánh
nhau, coi sao được?
Vương cười tủm:
– Ừ, nếu em có gan thì cứ đánh
Kinh-Nam, nói thực, anh không muốn đụng tay vào cái tổ ong bầu này. Ngại lắm.
Lê Văn vỗ ngực:
– Của Tự-Mai, chứ của anh cả em cũng chiếm. Em biết rõ: tiếng rằng
Tự-Mai được phong Kinh-Nam vương, mà có bao giờ đến Kinh-Nam đâu? Em cứ chiếm,
chiếm xong em trả cho Tự-Mai, để Tự-Mai trấn khu hồ Động-đình, Trường-giang,
thì tổ bảo tụi tướng Tống cũng không dám vượt sông chiếm lại. Nếu chúng cả gan
đem quân đánh Tự-Mai thì chúng sẽ thành ma không đầu hết.
Quần hào vỗ tay vang dội hoan
hô. Khai-Quốc vương mỉm cười tỏ vẻ tán thành ý của Lê Văn. Vương ghé tai sư đệ
nói nhỏ mấy câu, rồi hai anh em cùng cười.
Bảo-Dân đứng lên nói:
– Trước khi chấm dứt buổi họp,
tôi xin lưu ý các vị về các nhân vật bên Tống có thể được cử làm tướng đối phó
với chúng ta. Về tài dùng binh, hiện cả Tống, Việt, không ai địch lại tiểu
sư đệ Tự-Mai, vì y thấu hiểu phương
pháp dùng binh của công chúa Thánh-Thiên lẫn Tôn-Ngô binh pháp. Nhưng ta không sợ y, vì không bao giờ y đánh ta. Trường hợp bị
Tống ép quá, y sẽ bỏ quan cùng vợ ngao du thắng cảnh.
Ông tiếp:
– Người có tài dùng binh bậc nhì là Phạm Trọng-Yêm, Văn Ngạn-Bác, Địch Thanh, Trương Ngọc, Tôn Tiết. Nhưng Yêm với Bác đều là tể thần, chắc họ không xuất chinh. Rút
cục chỉ còn Tam-anh. Tài dùng binh bậc ba là bọn tướng trẻ Quách
Quỳ, Triệu Tiết, Diêu Tự, Yên Đạt, Tu Kỷ, Khúc Chẩn, Đào Bật. Bốn tướng trong Ngũ-hổ cũng
có tài dùng binh, kém Địch Thanh một chút. Về khả năng dùng binh bên ta, xin để
Khai-Quốc vương phán quyết.
Khai-Quốc vương đứng dậy nói:
– Trận Bắc-chinh, ta ra quân có bằng này yếu tố thuận lợi. Một là bất ngờ,
ngay bọn quan lại địa phương cũng không biết. Hai là yếu tố lợi dụng thời gian;
Tống ở xa, ta ở gần. Khi họ phản ứng thì đã trễ. Ba là yếu tố địa thế, khí hậu. Quân mã ta là quân mã sống ở Lĩnh-Nam, chịu khí hậu đã
quen, cùng tiếng nói với dân, lại thông thạo địa thế. Tống đem quân từ Bắc
xuống, tiếng nói với dân không cùng, khó chịu nổi khí hậu, không thông thạo địa
thế. Nhưng ta phải công nhận Tống
cũng có nhiều ưu điểm hơn ta.
Thứ nhất quân, tướng ta bây giờ mới xuất trận
lần đầu, không thể kinh nghiệm bằng quân, tướng Tống đã đánh hàng trăm trận với Liêu,
Hạ. Ta tiến lên Bắc là tấn công, trong khi họ ở thế thủ trong các thành. Công dễ bị thất bại hơn thủ.
… Về tài dùng binh, thì hiện Phụ-Quốc, Trung-Đạo, Bảo-Hòa, Tôn Đản, Dương Bình, Lê Văn đứng hạng
đầu. Thứ đến, Lê Phụng-Hiểu, Lý Nhân-Nghĩa, Đoàn Thông, Phạm Tuy, Nùng Trí-Cao, Lý Thường-Kiệt, Thân Thiệu-Cực. Loại thứ ba là Lê Thuận-Tông, Hà Thiện-Lãm,
Trần Anh, Tôn Mạnh, Tôn Trọng, Tôn Quý. Nhưng bàn về mưu trí, kể cả Tống lẫn Việt không ai bằng
Thiệu-Cực, Thanh-Nguyên.
… Về võ công, khi chiến trận
xẩy ra, thì e các phái Thiếu-lâm, Võ-đang, Nga-mi, Không-động, Côn-luân,
Hoa-sơn đều nhập cuộc. Ngoài ra bang Hoàng-Đế cũng khó đứng ngoài. Bên ta thì
khỏi bàn, các đại môn phái, các bang đều đã tham dự.
Buổi họp chấm dứt.
Hai sứ đoàn Trường-sinh cùng
khởi hành một ngày. Sứ đoàn của Hoàng-Giang cư sĩ gồm mười người, thì mất hai
người làm quản tượng. Một người điều khiển chim ưng. Hoàng-Giang cư sĩ làm
chánh sứ. Còn lại sáu người đều lĩnh nhiệm vụ chăm sóc voi, mang cống vật.
Nhưng thực sự mười người thì năm là đệ tử Sài-sơn võ công cực cao. Năm là đệ tử
của Trần Phụ-Quốc đều đã ở Biện-kinh lâu năm, biết hết tình hình triều
Tống.
Sứ đoàn đi theo đường liên Liễu-châu, Quế-châu, vượt Ngũ-lĩnh đến Trường-sa, sau đó dùng thuyền sang Kinh-châu rồi đi Biện-kinh.
Liễu
Châu
24°19'31.89"N
109°24'55.65"E
Quế
Châu (Lâm)
25°15'43.32"N
110°18'35.71"E
Trường
Sa, Đàm Châu thời nhà Hán
28°13'40.01"N
112°56'19.89"E
Kinh
Châu
30°20'5.24"N
112°14'26.49"E
Biện
Kinh, phủ Khai Phong
34°47'50.14"N 114°18'26.32"E
Còn sứ đoàn của Dư Phi thì chỉ có mình chàng, với con bò tót kéo xe. Trong xe chở nào trống, nào đàn, nào chiêng, nào thức ăn cho hạc, cho chó. Trên trời hai mươi con hạc bay theo. Dưới đất bầy chó năm mươi con. Vì đi bằng xe bò, nên Phi tiến rất chậm, hai ngày sau tới Ninh-châu (hay Ung-châu, nay là Nam-ninh thuộc Quảng-Tây). Ninh-châu hồi ấy là lỵ sở của Tổng-trấn Nam-thùy nhà Tống, dân cư đông đúc.
Nam
Ninh Ung Châu
22°49'0.23"N 108°22'0.84"E
Lúc đoàn chó cùng Phi đến cửa Nam Ninh-châu,
viên quan coi thành thấy báo có sứ đoàn, thì y vội ra ngoài đón tiếp. Khi nhìn
lá cờ, bất giác y nổi giận cành hông. Đúng theo thủ tục hồi đó, cờ phải là mầu
xanh với hàng chữ: Sứ đoàn Trường-sinh thượng tiến kinh lược an-vũ sứ Quảng-Tây
lộ. Nhưng nay không phải là cờ xanh, mà cờ trắng, lại là một chiếc quần lót,
treo trên một cành củi mục mốc meo. Trên cờ viết nguệch ngoạc mấy chữ: Sứ đoàn Trường-sinh
giá lâm Quế-châu. Chữ giá lâm nguyên chỉ dùng cho vua chúa đến nơi nào.
Nhưng y cho rằng Dư-Phi là phường man mọi, không hiểu văn tự Trung-nguyên, nên
kiên nhẫn hỏi bằng tiếng Quảng:
– Người đến yết kiến An-vũ sứ có việc gì?
Dư Phi chỉ ngón tay vào tai, rồi lắc đầu, trả
lời bằng tiếng Việt:
– Cái lày, cái lày ngộ muốn gặp tên Vương
Duy-Chính lể lưa thư của Trường-sinh hầu. Lỵ mau cho ngộ vào thành, pằng không
ngộ lói lắm dồi.
Viên quan giữ thành biết tiếng Việt. Y vội
báo cho viên phủ lại là Vĩnh Cơ. Vĩnh Cơ là quan văn, y kiên nhẫn truyền lệnh:
– Man dân không lễ nghĩa, là chuyện thường. Cho nó vào nghỉ trong thành.
Cổng thành mở lớn, Dư Phi
nghênh ngang đánh xe đến một tửu lâu thực lớn mang tên Ninh-châu đại tửu lầu.
Chủ tửu lầu ra đón. Dư Phi thấy trên nút áo y có sợi chỉ đỏ, tím tréo nhau, thì
biết là người của phái Đông-a làm việc cho Khu-mật viện Đại-Việt. Chàng vờ hất
hàm hỏi:
– Này chủ tửu lầu, ông là Tầu
hay Việt?
– Hoa hay Việt thì cũng là con
cháu vua Thần-Nông.
– Ông nói nghe được quá. Tôi
tấu tặng ông một bản nhạc.
Không đợi chủ tửu lầu trả lời,
Dư Phi lấy dùi đánh trống. Khi tiếng trống nổi lên, lập tức đàn chó dàn hàng
cùng nhảy múa, tru tréo, gầm gừ. Trên trời đàn hạc vỗ cánh bay lượn hót véo
von. Tiếng chó, tiếng hạc hòa thành điệu nhạc rất êm tai, khiến thực khách
trong tửu lầu bỏ cả ăn ra ngoài xem. Dân chúng tụ lại đông nghẹt, người người vỗ
tay theo điệu nhạc. Tấu xong bản nhạc Dư Phi đứng lên trên xe nói lớn bằng
tiếng Việt:
– Hay không bà con.
– Hay thực. Cho nghe bản khác
đi.
Dư Phi lấy đàn bầu ra đánh, đàn
chó xếp hàng ngay ngắn thè lưỡi im lặng. Nhưng đàn hạc thì khoan thai vỗ cánh
bay tít trên trời cao. Bản nhạc dứt, Dư-Phi nói:
– Này ông chủ tửu lầu. Tôi có
năm mươi con chó, hai mươi con hạc. Xin ông cho tôi năm mươi đĩa mì xào dòn với
thịt bò. Lại cho hai mươi lăm con gà hấp ngũ vị hương, mỗi con chặt làm hai.
Đấy là phần chó. Còn hạc thì cho tôi hai mươi cân tôm hấp nấm hương.
Y chỉ con bò tót:
– Cho tôi mười cân rau tươi cho
con bò này.
Y tiếp:
– Còn tôi ư? Xin cho tôi một
phần chả cá Thăng-long với một bát rượu tăm. Tôi ăn trên xe này.
Ăn xong Phi nói với tửu bảo:
– Người cho ta mười phòng ngủ
cho chó. Mỗi phòng năm con. Nếu chó làm dơ bẩn phòng, dường chiếu, người cứ
tính tiền. Còn hạc của ta, chúng ngủ trên cây được rồi.
Thế là cái tin sứ thần
Trường-sinh tiêu tiền như nước, chó được ăn mì xào dòn, gà hấp ngũ vị hương.
Hạc được ăn tôm hấp nấm hương. Bò được ăn rau tươi, đồn khắp huyện. Họ còn nói:
sứ thần là người văn nhã, tấu nhạc hay vô cùng. Người người đến trước tửu lầu.
Dư Phi lên lầu cao ngồi tấu đủ thứ nhạc, nào trống, nào đàn, nào tiêu cho chó
nhảy, hạc múa hót, đến khuya mới đi ngủ.
Hôm sau Dư Phi lên đường sớm,
chiều tới Khâu-dương. Y lại diễn ra những gì ở Ninh-châu. Ba ngày
sau y mới tới Liễu-châu. Liễu-châu là châu trị của Quảng-Tây lộ. (1)
Thực tế, Lạng-châu công Thân
Thiệu-Cực đã nhân đó phá hết tai mắt của y. Nhưng y dấu diếm không dám nói vụ
mình bị bắt nhục nhã ra. Hàng ngày y chỉ thu nhận tin tức lặt vặt của đám
thương gia trình cho Vương Duy-Chính. Duy-Chính đâu biết rằng đám thương gia đó
đều là người của Khu-mật viện Đại-Việt. Họ tuân lệnh Thiệu-Cực loan báo tin bịa
đặt. Cho đến nay, Vương vẫn tin rằng 207 khê động hoàn toàn hoạt động biệt lập,
mỗi nơi có mấy người dùng gậy gộc canh phòng trộm cướp, rồi lại hay gây sự đánh
nhau. Còn Đại-Việt, sau khi trúng kế của Tống triều, đánh Chiêm, binh lực hao
tổn chín phần mười. Y yên tâm ôm gối mà ngủ. Hoá cho nên đến nay Tống triều
cũng như Vương Duy-Chính không biết những chuẩn bị vĩ đại của tộc Việt.
Khi nghe báo có sứ của
Trường-sinh tới, Vương Duy-Chính cho rằng Nùng Trí-Cao xin phụ thuộc Tống. Y bỏ
Quế-châu xuống Liễu-châu. Hằng ngày y tiếp tin tức báo cáo về việc làm của Dư
Phi, thì y cho rằng đó là tên man dân ngu dốt, làm chuyện lẩm cẩm. Y vội sai
Cao Nhất, nguyên là viên Tiến-sĩ xuất thân, nổi tiếng về thi phú thời đó, trước
làm quan ở triều bị biếm; tổ chức tiếp đón thực nồng hậu.
Cao Nhất ra ngoài thành
Liễu-châu cùng một đội kị binh đón sứ. Nhưng khi nhìn lá cờ, thì y muốn điên
lên được. Dư Phi hất hàm, không hành lễ:
– Ông có phải là Cao Nhất đó
chăng?
– Phải. Ta được lệnh ra đón
huynh đệ đây.
– Ông có biết chữ không?
– Ta xuất thân tiến sĩ thì
kinh, sử, tử, tập, cùng Bách-gia, Cửu-lưu, Tam-giáo đều thông, lọ là chữ? Huynh
đệ có chỗ nào không thông thì cứ hỏi, ta chỉ cho.
– Vậy thì được rồi. Tôi nhớ
không lầm, thì Khổng-tử ngao du khắp các chư hầu, không ai biết dùng đạo của
ngài. Đi đến đâu ngài cũng mang đàn theo. Chính ngài nói: ba ngày không
nghe nhạc Thiều thì ăn không biết mùi vị có đúng không?
– Đúng thế. Huynh đệ cũng đọc
sánh của nho gia đấy ư?
– Ông tự xưng là tiến sĩ, vậy
có biết tấu nhạc Thiều không?
Cao Nhất luống cuống:
– Ta không học cái nghề mọn đó.
– Mọn thế chó nào được. Nghề đó
là của Khổng-tử. Chính Khổng-tử có sang nước tôi học nhạc. Khi về nước ngài
viết kinh Nhạc. Nhưng sau kinh này thất truyền. Nếu ông muốn học nhạc, tôi dạy
cho ông. Cam đoan giỏi hơn Khổng-tử.
Vì khinh thường, Cao Nhất bị
thua Dư Phi một keo. Y nói:
– Khổng-tử tấu nhạc, soạn nhạc
kinh là có. Nhưng ngài sang Nam-man học nhạc là bịa đặt, không có chứng cớ.
– Nhất định có. Bên nước Việt
tôi có bộ Văn-lang cảo lục, phần nghệ văn chí chép rõ ràng. Tôi xin đọc cho ông
nghe.
Nói rồi y xuất trong bọc ra
quyển sách, đọc lớn lên:
”
Thời vua Hùng thứ bốn mươi ba, năm thứ tám, một học trò nước Lỗ sang Phong-châu
xin thọ giáo với ngài Dư Minh. Y tên là Khổng Khâu. Dư tiên sinh dạy y về lễ
nghĩa, cùng nhạc. Mười năm sau y về nước Lỗ, làm quan tới Đại-tư-khấu. Y soạn
ra các bộ Kinh-thư, Kinh-xuân-thu, Kinh-lễ, Kinh-nhạc”.
Đọc xong Dư Phi đưa sách cho
Cao Nhất. Nhất tiếp lấy xem, thì ra sách chép bằng văn tự Khoa-Đẩu.
Y nổi cáu:
– Sách này bịa đặt.
– Bịa thế nào. Bây giờ cứ việc
này mà suy là trong nước tôi, con nít cũng biết tấu nhạc. Kể cả chim muông, chó
mèo. Ông không tin ư, để tôi chứng nghiệm cho ông coi.
Nói rồi Dư Phi cầm dùi đánh
trống. Đàn chó của y nhảy múa, xủa theo nhịp điệu. Trong khi trên trời, đàn hạc
tung cánh nhào lộn, cùng hót véo von. Hết bản nhạc, y hỏi Cao Nhất:
– Ông có biết bản nhạc vừa rồi
tên là gì không?
Cao Nhất nổi điên:
– Nhạc này là thứ chó múa, chim
kêu có gì hay đâu?
– Hừ! Ông dốt bỏ mẹ đi í. Tác
giả của nó là Khổng-tử đấy. Bản nhạc này là bản nhạc tấu khi vua Lỗ thiết
triều. Ông nói thế thì ra vua Lỗ, quan Lỗ kể cả Khổng-Tử là chó, là mèo ư?
Bây giờ Cao Nhất mới biết rõ
rằng Dư Phi không phải là man dân, mà là người bác học. Y đến đây để khiêu
khích. Biết có đấu khẩu cũng không lại, y dẫn Dư Phi vào thành.
Vương Duy-Chính ra công đường,
cùng các quan của Quảng-Nam lộ xếp hàng chờ khách. Dư Phi hiên ngang đi vào,
không hành lễ. Duy-Chính hỏi:
– Sứ đoàn có bao nhiêu người?
– Năm mươi con chó, hai mươi con
hạc, một con bò tót.
– Tại sao không đem người theo
mà lại đem chó theo?
– Đi gặp bọn chó má thì phải
mang chó theo để cho chó chơi với nhau.
Duy-Chính gận cành hông, nhưng
y vẫn cố nhịn:
– Trường sinh nghèo quá, không
có vải làm cờ ư, mà phải lấy quần lót?
– Khổng-Tử đứng nhìn giòng nước
chảy mà đưa ra thuyết tùy thời. Nùng hầu sai tôi đến đây nói chuyện với mấy con
rận, thì phải dùng quần lót chứ có gì lạ đâu.
Duy-Chính nạt:
– Này gã họ Dư kia, đến tên Lý
Đức-Chính (tên vua Lý Thái-tông) có đến đây cũng phải biết điều, còn mi chỉ là
tay sai của gã mọi Nùng Trí-Cao, mà dám vô lễ ư? Bộ mi chê gươm ta không sắc
sao? Ta muốn biết tên ôn con Nùng Trí-Cao muốn gì?
Dư Phi cười sằng sặc:
– Này! Đừng có đe dọa. Phi này
đéo có sợ mi đâu. Mi chỉ là cái thây ma mà đòi dọa ta ư?
Y chỉ vào mặt Duy-Chính:
– Bọn bay mặt người mà dạ thú.
Bay âm mưu chiếm nước tao bằng cách gây chia rẽ Trường-sinh với Đại-Việt. Bay
tưởng chúa tao không biết ư? Được tao nói cho bay nghe hết.
Rồi y thuật lại những gì Trần
Thự sang sát hại cha con họ Nùng, cùng âm mưu của Vương Duy-Chính một lượt.
Vương Duy-Chính và đám biên thần càng nghe càng kinh hãi đến đờ người ra.
Phi nghiến răng:
– Bây giờ ta đọc thơ của chúa
ta cho bọn mi nghe.
Nói rồi y móc thư trong bọc ra
đọc lớn lên. Y đọc xong rồi mà bọn Duy-Chính còn điếng người ra. Dư Phi quát:
– Một là mi trao tên Trần Thự
cho ta. Hai là chúa ta sẽ đem quân giết hết bọn mi. Tống triều sẽ tru di tam
tộc bọn mi. Đồ bẩn thỉu.
Nói rồi y tụt quần cầm cò đái.
Vì y vận nội lực, nên nước đái vọt trúng giữa trán Vương Duy-Chính đến bộp một
cái. Thuận tay, y kéo cò cho nước đái trúng vào các quan. Vương Duy-Chính giận
quá, y phóng tay chụp Dư Phi. Phi vờ như không biết võ để y chụp. Duy- Chính
gọi võ sĩ:
– Đem tên mọi này ra chặt đầu.
Cao Nhất can:
– Tuyên-vũ sứ bớt nóng. Dù tên
Nam man này có vô lễ, ta cũng không thể giết y, mà chỉ nên giam lại mà thôi.
Vương Duy-Chính truyền giam Dư
Phi vào ngục, rồi họp các quan thuộc quyền. Cao Nhất nói:
– Triều đình bắt ta hành sự
thực mật. Hoàng thượng dặn rằng hiện nay ta chưa thể chỉnh bị binh mã Nam
chinh. Mỗi hành sự của ta mà bị lộ, người sẽ coi như ta tự ý làm. Nay Trần Thự
bị lộ hình tích, mà y dấu diếm, khiến bấy lâu nay ta không biết gì cả. Sự này
mà triều đình hay được thì chúng ta bị giáng là chắc. Vậy tôi nghĩ ta nên thả
tên này ra, rồi cho người tới Trường-sinh tạ lỗi với Trí-Cao rằng: Thự tự ý làm
lếu, đã tấu về triều để trị tội.
Vương Duy-Chính đành nghe theo.
Hôm sau y sai Cao Nhất đãi tiệc Dư Phi, rồi sai tiễn y về. Cao nói:
– Huynh đệ về thưa với Nùng hầu
rằng chúng tôi tuyệt không ngờ Trần Thự lại tự ý hành sự như vậy. Vương đại
nhân đã khẩn cáo về triều. Nay mai người sẽ sai sứ sang Trường-sinh tạ lỗi với
Nùng hầu cùng điếu tang người quá cố. Mai này tôi sẽ thân tiễn huynh đệ về.
Hôm sau Dư Phi thủng thẳng đánh
xe bò trở về Trường-sinh. Y về đến nơi, đúng lúc sứ đoàn Hoàng-Giang đến Biện-kinh.
Ghi chú
(1)Theo tổ chức hành chánh thời Bắc-Tống vùng Nam
Ngũ-lĩnh được gọi là Quảng-Nam lộ, lớn như một nước. Nhưng vì lớn
quá, nên chia ra làm Quảng-Nam Tây-lộ và Quảng-Nam Đông-lộ,
thường gọi tắt là Quảng-Đông, Quảng-Tây. Phần Bắc Ngũ-lĩnh
lên tới hồ Động-đình gọi là Kinh-Nam, tiếng bình dân là Giang-Nam.
Cả hai vùng được coi như một nước nhỏ. Riêng khu hồ Động-đình, Trường-sa
gọi là Đàm-châu.
Về quan lại, thì Quảng-Đông,
Quảng-Tây mỗi nơi có một Kinh-lược An-vũ sứ lớn nhất coi về quân sự. Về hành
chánh thì có một viên Chuyển-vận sứ. Hai người ngang quyền nhau, không ai trên
ai. An-vũ-sứ Quảng-Tây bấy giờ là Vương Duy-Chính. Trong khi An-vũ sứ Quảng-Đông
là Dư Tĩnh. Nhưng Vương kiêm nhiệm chức Tuyên-vũ sứ là chức quan lớn nhất về
quân sự coi toàn bộ Quảng-Nam. Vì phải kiêm nhiệm, nên Vương trao quyền quân sự
Quảng-Tây cho Trần Thự, trong khi thực tế Thự coi về tế tác (so với ngày nay
gồm công-an, cảnh sát, phòng nhì, tình báo quốc ngoại). Quảng-Đông, cũng như
Quảng-Tây chia ra làm nhiều châu. Mỗi châu lại có nhiều phủ, huyện.
Trị sở của lưỡng Quảng đặt tại Quế-châu,
trị sự của Quảng-Tây đặt tại Liễu-châu. Khi Dư Phi tới biên cảnh, thì
quan lại ở đây đã cho phi ngựa về loan báo với Vương Duy-Chính. Hàng ngày, Phi
đi tới đâu, làm gì, phủ, huyện phải nhất nhất báo về.
Bấy giờ Trần Thự coi về tế tác.
Khi y ám sát cha con Nùng Tồn-Phúc bị bắt, dù được cứu ra. Nhưng trong khi bị
thẩm vấn, y phải cung khai hết tổ chức, cùng người của y cài vào các cơ sở
Đại-Việt. Thế nhưng trở về y tâu láo với triều rằng chính y giết cha con
Tồn-Phúc, làm cho triều đình Đại-Việt và Trường-sinh nghi kị nhau, bất cứ lúc
nào cũng có thể đánh nhau. Bấy giờ Tống sẽ sai người sang dụ Trí-Cao đem
Trường-sinh phụ thuộc Tống. (Ung-châu kỷ sự, Hy-Ninh hận sự)
https://trandaisy.wordpress.com/2012/11/25/anh-linh-than-vo-toc-viet-q-iv-hoi-131-140/6/
Đã tìm ra tọa độ của các dãy núi Ngủ Lĩnh nhưng vẩn
chưa vừa ý với độ chính xác của những tọa độ.
Khu vực Ngũ Lĩnh
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C5%A9_L%C4%A9nh
Việt Thành
lĩnh Yuecheng Ling
26°12'38.00"N
110°53'26.00"E
https://vi.wikipedia.org/wiki/Vi%E1%BB%87t_Th%C3%A0nh_L%C4%A9nh
Đô Bàng Lĩnh Dupangling
25°30'0.00"N 111°15'0.00"E
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%B4_B%C3%A0ng_l%C4%A9nh
Manh Chử
Lĩnh Mengzhu Ling
24°52'60.00"N 111°41'60.00"E
https://vi.wikipedia.org/wiki/Manh_Ch%E1%BB%AD_L%C4%A9nh
Kỵ Điền
Lĩnh Qitianling
25°24'52.37"N
112°50'24.55"E
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C5%A9_L%C4%A9nh
Đại Dữu
Lĩnh Dayuling
25°18'51.53"N
114°18'38.96"E
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C5%A9_L%C4%A9nh
20230404 CDTL TVTV 05
No comments:
Post a Comment