20220310 An Loc Chien Su 1972 Phan 31
324/421
20220310 ALCS1972P31 01
HAI THÁNG TỬ THỦ AN LỘC
Những ngày cuối tháng tư ở Boise khí hậu ấm lạ thường. Ánh nắng sáng chan hoà trên khắp vạn vật nhờ ở hiện tượng El Niño đã xoá đi khí lạnh của mùa Ðông, đây đó trong vườn những khóm hoa Locust, Daffodils, Tulips đã nở rộ khoe sắc thắm và lũ ong bướm đi về báo hiệu Xuân sang. Tháng tư trong tôi có nhiều kỷ niệm quá, kỷ niệm êm đềm cũng như những cay đắng ê chề của người lính Việt Nam Cộng Hoà vào ngày cuối của tháng tư năm 1975, hay nhớ xa hơn 3 năm nữa, vào tháng tư năm 1972 là ngày Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù chúng tôi tiến vào An Lộc để phản công và giải toả thành phố đang bị xâm chiếm bởi Việt Cộng.. Ðã 26 năm qua, tuổi đời dài theo năm tháng, tóc đã điểm muối tiêu, trên khuôn mặt đầy thêm những vết nhăn nhưng hình ảnh của trận chiến An Lộc vẫn không xoá nHoà trong tâm tưởng. Tôi xin được trở lại thời gian xa xưa ấy để viết lên vài giòng gửi đến các bạn, xin hãy cùng tôi nhớ về thành phố An Lộc để tưởng niệm đến những người dân, người lính đã nằm xuống trong thành phố nhỏ ấy, và nhất là 68 đồng đội của chúng tôi đã gác súng tại chiến trường với bia đề do cô giáo Pha cảm tặng:
An Lộc địa sử ghi chiến tích
Biệt Cách Dù vị quốc vong than
Ngày 16-04-1972 đơn vị chúng tôi còn đang hành quân xâm nhập toán thám sát ở vùng Ðầu Chó giáp biên giới Miên, căn cứ hành quân đóng tại phi trường Trảng Lớn, Tây Ninh. Các toán thám sát phát hiện nhiều chiến xa địch đang di chuyển trong vùng. Những điểm nóng đó được báo cáo về bộ chỉ huy quân đoàn 3 và Bộ Tổng Tham Mưu. Tại trung tâm hành quân, sau khi chấm toạ độ dừng quân của các toán trong rừng, tôi và mấy thằng bạn xin phép ra phố Tây Ninh ăn trưa và mua một vài vật dụng cá nhân. Ðang lang thang trong thành phố dưới cái nóng nung người đột nhiên một chiếc xe jeep ngừng ngay chỗ chúng tôi, trên xe có Ðại Uý Nguyễn Sơn. Lệnh của anh Sơn:
- Mấy anh lên xe về căn cứ gấp, có lệnh hành quân mới.
- Cho tôi mua thêm hai cuốn phim nữa, mà mình đi đâu vậy Ðại Úy? tôi hỏi.
- Về căn cứ sẽ biết.
Chiếc xe jeep đảo thêm vài vòng trên các con đường chính và gom được thêm vài ba đứa nữa, nhíp xe đã oằn xuống vì sức nặng và chỗ ngồi cũng chật cứng đại uý Sơn mới lái về phi trường Trảng Lớn. Tại đây các Ðại Ðội, Bộ Chỉ Huy, Liên Toán Thám Sát đang tập họp điểm danh quân số. Sau đó trong lều thuyết trình hành quân tôi được biết Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù sẽ vào An Lộc để giải vây. Theo dõi báo cáo hành quân tôi được biết Lộc Ninh đã thất thủ 9 ngày trước đó, quốc lộ 13 đã bị Việt Cộng kiểm soát từ phía Nam của Lộc Ninh và cắt đứt giao thông từ phía Nam của Thị Xã An Lộc. Tự nhiên tôi có cái linh cảm trước sự thử thách gay go, những gian nguy trước mặt. Ðơn vị chúng tôi là đơn vị được hành quân trong cuộc chiến bất quy ước gồm các toán nhỏ được thả vào các mật khu an toàn của Việt Cộng để thu thập tin tức, bắt cóc các Việt Cộng đi lẻ tẻ hay chỉ điểm cho các phi pháo, B52, v.v… Khi có đầy đủ tin tức và lượng sức mình, đơn vị sẽ mở cuộc đột kích chớp nhoáng, quân số đột kích có thể từ Trung Ðội, Ðại Ðội hay Tiểu Ðoàn Trừ như lần phục kích đoàn xe 8 chiếc của Việt Cộng ở thung lũng Ashau vào tháng 04 năm 1968. Nay đơn vị được chỉ định vào cuộc chiến đại quy mô nên tôi cũng phân vân, giao động đôi chút. Nhưng các bậc đàn anh của tôi đã dự trận Cây Quéo, Cây Thị ở Gia Ðịnh vào năm 68 với chiến thắng vẻ vang trong thành phố đã cho tôi niềm tin vững mạnh. Cũng ngày hôm ấy tôi được lệnh khỏi phải làm bảng tổng kết hành quân để gửi về Bộ Tổng Tham Mưu. Trung Sĩ 1 Trịnh Dân ở trại Bắc Tiến sẽ đúc kết công việc tôi đang làm. 8 toán Thám Sát đang hoạt động trong vùng địch được lệnh tìm bãi đáp để triệt xuất và sẽ vào An Lộc sau với Chỉ Huy Phó là Trung Tá Trần Phương Quế (ngày 20/04 khi các Toán này cùng Trung Tá Quế đến được Lai Khê, họ nhận được lệnh của Trung Tá Huấn chỉ thị cho các toán này trở về hậu cứ ở Trung Chánh). Căn cứ hành quân ở Trảng Lớn sẽ được Ðại Ðội Chỉ Huy Yểm Trợ tháo gỡ và chuyên chở về trại Bắc Tiến.
Chúng tôi được cấp phát thêm khẩu phần lương khô, đạn dược và mỗi toán 40 quân nhân được trực thăng vận bằng máy bay Chinook đến Lai Khê. Tìếng cánh quạt chém phần phật vào không khí, thêm vào những giao động của phi cơ đang chao đảo trên không, những nét mặt ưu tư của nguời lính chiến tạo nên một sự chờ đợi căng thẳng. Sự ngột ngạt ấy đã được đánh tan bằng một bãn nhạc quân hành do bạn nào đó cất giọng :”Ðây khúc ca vang nơi quân trường đầy hào hùng, vai ghé vai ta thi tài trong tình quân ngũ, đường còn dài nhưng chân cứng đá mềm, 1.. 2.. 3.. 4.. 1..2..3..4..” Ðã từ lâu lắm tôi mới được hát và nghe lại một nhạc khúc quân hành, những khuôn mặt khắc khổ và thân thương trong giây phút ấy được ghi nhận trong ánh mắt của người lính chiến và sẽ còn mang mãi cho đến ngày cuối đời. “Thao trường đẫm mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu, cố lên, cố lên dù nhọc nhằn đem mồ hôi pha máu hồng viết vào sử xanh…”
Tại phi trường Lai Khê chúng tôi lại chia thành toán 10 người rải dọc dài theo phi đạo dể chờ phi đoàn trực thăng Việt Nam bốc vào An Lộc. Cái nắng nóng không một ngọn gió vào 2 giờ trưa thật tai ác, nhìn phi đạo dài với hơi nóng hun hút bốc lên, mặt nhựa đường chảy dính và nhất là chẳng có một bóng mát khả dĩ nào cho mình tạm trú. Mở bi đông xấp nước ướt vào khăn mặt xong phủ lên đầu tôi cảm thấy dễ chịu hơn. Chợt hai tiếng nổ long trời và hai cuộn khói đen bốc lên cao bên kia rừng cao su. Qua máy truyền tin, tôi được biết kho đạn ở Lai Khê đã bị đặc công Việt Cộng phá huỷ. Tiếng rè rè ở ống liên hợp máy truyền tin ngưng bặt và có lệnh cho chúng tôi sẵn sàng, trực thăng sẽ đến trong vòng 10 phút nữa. Tôi mừng quá vì ít nhất mình sẽ hưởng được chút nào gió mát khi trực thăng cất cánh. Chúng tôi lên tàu rất nhanh vì đã quá quen thuộc với chiếc trực thăng UH1B này. Tôi và con nhà Lễ (Trung Sĩ 1) ngồi phía trái của trực thăng thả hai chân ra ngoài cho gió đong đưa thật thú vị. Ðoàn trực thăng bay ở cao độ thấp, 20 đến 30 mét trên đồn điền cao su dài và xanh thẫm. Có tiếng súng bắn lên trực thăng từ dưới rừng cao su, chúng tôi cố quan sát và lắng nghe hướng xuất phát ra tiếng nổ nhưng vận tộc nhanh của con tàu cùng tiếng ồn ào của động cơ đã không cho chúng tôi định hướng được để trả lễ vài hàng M16. Người xạ thủ đại liên trên tàu chúng tôi bắt đầu chong súng khạc đạn xuống những điểm khả nghi, chợt khẩu đại liên bung khỏi tay anh và gục xuống trên trụ súng lắc lư theo sức gió của con tàu. Ôm cánh tay bị thương anh nói :”ÐM. Trúng đạn rồi”. Nhờ có sợi dây an toàn nịt từ người vào khoen sắt trên trần nên anh đã không bị rơi xuống đất. Tôi và Lễ lấy dao xẻ tay áo anh lên để làm đai chỉ huyết, cánh tay bị bể xương phía dưới khuỷu tay còn dính lại với phần trên nhờ bắp thịt và da, chúng tôi chẳng có một vật gì dài cứng để cột cánh tay lại để tránh di động. Chẳng ai bảo ai chúng tôi phân định lại chỗ ngồi để nhường anh xạ thủ đại liên ấy một chỗ nằm hơi thoải mái trên sàn tàu. Bãi đáp là một thửa ruộng khô hướng Ðông của đồi Gió và đồi 169, đoàn trực thăng cùng lúc “hover” khoảng 1 mét trên bãi đáp, chúng tôi tức tốc nhảy xuống và tản nhanh vào bìa rừng trước mặt. Lúc này những quả súng cối nhỏ của Việt Cộng đã nổ quanh bãi đáp. Ðịch không ngờ chúng tôi đáp ở đó nên những trái đạn súng cối của chúng chưa chỉnh được mục tiêu nên không gây sự thiệt hại nào cho chúng tôi và phi hành đoàn trực thăng. Chúng tôi rải quân làm an ninh cho bãi đáp và báo cáo về cho toán còn lại ở Lai Khê để chọn bãi đáp khác. Trời đã về chiều, phi cơ phải tiếp tế thêm nhiên liệu nên phân toán còn lại sẽ đổ bộ trễ hơn dự định. Chúng tôi được lệnh chọn các cao điểm và phân tán mỏng để quan sát. Buổi chiều trong rừng vắng nghe tiếng đại bác Việt Cộng đều đều pháo vào An Lộc, lúc đó còn cách chúng tôi khoảng 5 km đường chim bay. Chúng tôi không còn nghe tiếng AK và súng cối quanh suối Ró nữa nên chúng tôi đoán chỉ có các đơn vị nhỏ của Việt Cộng thôi, hơn nữa có lẽ Việt Cộng đoán chúng tôi đã rời khỏi suối Ró và tiến xa khỏi vị trí. Nhìn con nhà Lễ ngồi hí hoáy ghi chép nhật ký hành quân phía trước mặt, thằng Khoẻ ngồi kế bên. Chúng tôi ngồi, tay ôm súng, ba lô còn đeo trên lưng dựa người vào những tảng đá xanh rêu, khung cảnh thật hữu tình, tự nhiên tôi quên đi cảnh chiến tranh. Tay quẹt quẹt trên khẩu M16 như đang chơi guitar, tôi hát nhỏ vừa đủ cho ba thằng nghe bản nhạc “Vó câu muôn dặm” của nhạc sĩ Văn Phụng: ”Anh em ta đi muôn phương xa, non xanh bao la, ta vui câu ca những đêm xa nhà cùng ngồi bên đá. Nhịp đàn vui hoà vang khắp nơi… đem chí trai can trường … “ Chúng tôi chuyền tay nhau hút điếu thuốc trong ngày sao ngon tuyệt. Một điều cấm kỵ của mùi hương nhưng làn gió nhè nhẹ thổi đúng về cái hướng Nam an toàn đã cho chúng tôi phì phà một cách thật thoải mái. Phần Liên Ðoàn còn lại từ Lai Khê được trực thăng vận cách chúng tôi khoảng 1 cây số và chúng tôi hẹn gặp nhau tại đồi 169. Chúng tôi lấy phương hướng và bắt đầu zulu đến điểm hẹn, hàng dọc tác chiến phân tán mỏng để tránh pháo. Trên lộ trình, chúng tôi bị một quả bom do Không Quân thả vào vị trí địch lại rơi gần đội hình di chuyển của đơn vị. Thiếu úy Lê Ðình Chiếu Thiện bị một mảnh xuyên qua bàn tay trái, báng súng bể được Thượng Sĩ Tụng trong Ban Quân Y băng bó. Sau đó chúng tôi tiếp tục vượt rừng để đến đồi 169.
Ðồi 169 nằm ở hướng Ðông Nam và cách Thị Xã An Lộc 4 cây số đường chim bay, đây là một ngọn đồi có cao độ 169 mét, trên đỉnh đồi gồm nhiều tảng đá nhỏ chen lẫn những cây cối mọc rất còi cọc, tầm quan sát rất rộng rãi. Tại đây chúng tôi bắt tay được một Ðại Ðội trực thuộc Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân đang ém quân ở đây. Ðại Ðội này đã chạm địch khoảng năm ngày trước đó, lương thực của họ đã cạn, năm sáu ngôi mộ của các chiến sĩ Biệt Ðộng Quân được chôn cách đỉnh khoảng 40 mét nơi có ít đá, những nấm mộ không bia nhưng mỗi đầu mộ đều có thập tự giá làm bằng cây rừng được giữ vững bằng những hòn đá nhỏ xếp dưới chân. Một số thương binh mình đầy thương tích được Bác Sĩ Châu và Thượng Sĩ Tụng chích thuốc và thay băng cho họ. Chúng tôi chia phần lương khô của mình cho đơn vị bạn. Họ đã không được tiếp tế thuốc men và lương thực trong nhiều ngày qua vì áp lực của địch quá mạnh. Vị Ðại Ðội Trưởng xin lệnh về Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân để cùng tháp tùng với Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù trở vào An Lộc. Thương binh của họ được tản thương về Lai Khê cùng với Thiếu Uý Thiện. Các thương binh của Biệt Ðộng Quân, những vết thương của họ được xoa dịu nhiều khi đoàn trực thăng khoảng 6 chiếc bay đến, hai chiếc gunship bay quanh đồi bắn phủ đầu vào đám du kích bắn sẻ, hai chiếc còn lại lao nhanh vào LZ (landing zone) chỉ định. Những thùng đạn, lương thực được thảy xuống tiếp tế thêm cho chúng tôi. đồng thời các thương binh được đưa lên trực thăng với thời gian nhanh kỷ lục, mọi diễn biến không hơn một phút. Vị Ðại Úy Biệt Ðộng Quân nói với Trung Tá Huấn: ”Ðơn vị của Trung Tá được yểm trợ ngon lành quá”, trong khi trước đó anh đã xin phi vụ tản thương ba ngày qua nhưng ưu tiên chưa đến lượt. Khoảng 50 quân nhân của đại đội Biệt Ðộng Quân ấy tháp tùng theo Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù để vào tái hợp với Liên Ðoàn 3 Biệt Ðộng Quân của họ.
Thị trấn An Lộc diện tích khoảng 4 cây số vuông nằm ở phía Nam Lộc Ninh, chung quanh thị trấn được bao bọc bởi rừng cao su xanh thẳm và con đường huyết mạch của thị dân là Quốc Lộ 13 (con đường định mệnh) được nối từ Lai Khê Bình Dương đến Chơn Thành, Tân Khai, An Lộc, Lộc Ninh. Từ đồi 169 chúng tôi đã nhìn thấy thành phố An Lộc đang hứng cơn mưa pháo của Việt Cộng từ Lộc Ninh, Quản Lợi và các cao điểm chung quanh rót về, từng đám bụi đỏ cùng tôn ván tung lên không hoà lẫn những cột khói đen mà tôi đoán là nhà hay các cây xăng đang bốc cháy. Nhịp độ pháo của địch tăng mạnh khi các phi vụ Hoả Long và AC130 Spectre Gunship rời vùng. Tại Ðồi Gió, nằm ở hướng Bắc của đồi 169 cách khoảng 3 km do đơn vị pháo binh và Tiểu Ðoàn 6 Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù đang lập tuyến phòng thủ cũng không may mắn gì hơn. Họ đang hứng chịu trận mưa pháo tập trung tới tấp khi hai chiếc trực thăng Chinook CH-47 đang cố tiếp viện cho họ hai khẩu đại bác 105mm. Tôi nhìn khẩu đại bác móc tòn ten phía dưới bụng của chiếc trực thăng đang cố đáp, tụi tiền sát viên pháo của Việt Cộng đã điều chỉnh những quả đạn khá chính xác vào ngọn đồi ấy, tưng bừng lửa, bụi đỏ tung lên dưới thân tầu lại làm cho hai chiếc trực thăng bốc lên cao hơn, pháo ngớt hai chiếc trực thăng lại từ từ hạ xuống thấp, cứ như thế trong vòng 15 phút hai chiếc trực thăng không thể nào thả hai khẩu đại bác xuống và đành phải bốc lên cao và bay về phía Lai Khê. Chúng tôi nhìn nhau trong nỗi thất vọng vô cùng.
Sau khi nghỉ ngơi và quan sát, chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình. Ðường rừng núi dầy đặc, đoạn đường còn lại như đi không đến, chúng tôi tiến quân rất chậm và đề cao cảnh giác vì không dám xem thường địch. Hạn chế sử dụng truyền tin tối đa, tuyệt đối di chuyển trong im lặng, nhìn màu áo hoa dù hoà lẫn với màu xanh lá cây rừng lúc hiện lúc mất lại càng tăng thêm cái bí hiểm của núi rừng u tịch. Khi chúng tôi đến gần một bản Thượng Srok Gòn thì đơn vị đi đầu dẫn về hai người Thượng tay đang bị trói sau lưng, về sau biết là họ là những người dân trong bản đang về nhà để lùa trâu bò đi, chúng tôi đã thả họ ngay.Trong bản Thượng hoàn toàn vắng lặng, người dân Thượng hiền hoà sống xa thành thị cũng đã chạy trốn quân đội tàn ác của Bác Ðảng. Chúng tôi cho haì người Thượng vài gói gạo sấy, sau đó họ lượm xác một con chó bị Việt Cộng bắn chết (tội báo động) ở đâu đó trong bản đem về thui. Con chó không được làm ruột quăng vào trong đống lửa, mùi lông chó cháy bay khét lẹt. Tôi lẵng lặng đeo ba lô súng đạn rời khỏi nơi họ nướng con chó xấu số đó. Chúng tôi hưởng một đêm an lành trong bản Thượng Srok Gòn.
Chúng tôi miệt mài di chuyển trong buổi sáng ngày hôm ấy, tiến quân chậm nhưng đoạn đường đã thâu ngắm thêm, rừng cây đã thưa thớt khi chúng tôi đền gần bìa rừng, những nương rẫy của nông dân và lác đác vài căn nhà tranh xuất hiện, lúc này chúng tôi tiến quân nhanh hơn. Căn nhà lá đầu tiên đập vào mắt tôi là xác một người dân chết bên cạnh lu nước trước cửa nhà, xác đã chương xình trong chiếc quần dài đen và cái áo trắng cũ không được ai chôn cất, mùi hôi thối xông lên nồng nặc. Càng tiến vào sâu, những mái nhà tôn vách ván nằm kề cận nhau hơn, từ con đường đất tôi nhìn xuyên qua khoảng sân trống, vài nấm mồ của những người dân xấu số mới được chôn cách đó không lâu, mùi nhang khói, tiếng khóc than của người còn sống hoà lẫn vài tiếng reo mừng :”Lính Dù tới, Lính Dù tới”. Tôi mỉm cười chào thân thiện, nhìn nét mặt hân hoan của họ, tôi biết họ đã đặt niềm tin vào chúng tôi, vào 550 lính 81 Biệt Cách Nhảy Dù đang âm thầm tiến sâu vào tuyến đầu lửa đạn.
Ðơn vị chúng tôi được lệnh vào bắt tay với Trung Ðoàn 8 Sư Ðoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà của Ðại Tá Mạch Văn Trường. Lúc này chúng tôi phân khoảng cách giữa mỗi quân nhân khoảng 30 mét chạy nhanh vào phố chính chứ không đi nữa, tiếng đạn pháo của địch vẫn liên tục xé gió bay trên đầu chúng tôi hướng về phía Tiểu Khu Bình Long, tôi hơi ớn khi vài quả nổ gần nghe chát chúa. Trên bầu trời, những cánh dù tiếp tế lương thực, đạn dược bay lơ lửng. Ba lô súng đạn trên người nhưng tôi không còn cảm thấy nặng nữa, những giọt mồ hôi nhễ nhại chảy dài trên khuôn mặt, lưng áo ướt đẫm, mồ hôi chảy vào mắt, xót quá tôi vội lấy khăn tam giác buộc ngang trán để thấm đi những giọt mồ hôi quái ác ấy. Chạy gần đến bệnh viện Bình Long, mùi tử khí xông lên nồng nặc. Bệnh viện hoang tàn, một phần mái đã bay mất bởi bị pháo, phần ngói còn lại nằm chồng chất lộn xộn, bức tường phía trước xụp đổ cho tôi nhìn thấy một dẫy giường chiếu với chăn màn bay nhẹ theo gió. Những bức tường vôi trắng còn lại lỗ chỗ dấu đạn pháo, và hàng cửa sổ với những cánh cửa bật tung nằm xiêu vẹo. Cái cảnh thương tâm hiện ra trước mặt làm lòng tôi quặn thắt, số người dân và người lính đã chết quá nhiều trong những ngày qua. Ðêm 13/04/1972 trong cuộc công kích vào Thị Xã An Lộc đạn pháo của đich đã giết hại hơn 800 bệnh nhân và một số nhân viên trong bệnh xá. Xác của họ được ném xuống hai cái hố lớn do xe ủi đất ủi sâu, hố dài khoảng 40 mét, trong đó đầy những xác người, dân có, lính có, trẻ em có. Những xác người nằm chồng chất hỗn độn, xác người mới chết chồng lên xác người đã chết từ nhiều ngày qua. Tôi vội ngồi bên vệ đường và ra dấu cho những người bạn sau tiếp tục chạy xuống phố, moi trong ba lô lấy máy chụp ảnh và chụp hai tấm về hố chôn tập thể ấy. Mặc dù đã cố hít đầy một buồng phổi không khí từ xa nhưng mùi hôi thối của xác chết đã khiền tôì muốn nôn oẹ, đám ruồi xanh bay vo ve nhặng xị và dòi bọ lúc nhúc trên thân xác người. Lần đầu tiên tôi được chứng kiến cảnh những người dân lành vô tội chết trong những nỗi thống khổ bàng hoàng, ngạc nhiên kinh dị. Không một tiếng khóc than, không một lời kinh cầu, không một tấm bia cùng nhang khói. Tôi lâm râm khấn cầu cho linh hồn họ mau được siêu thoát và linh thiêng phù hộ cho những người thân của họ còn đang khốn khổ trong binh lửa ngập trời.
4 giờ chiều ngày 17/04/72 An Lộc đã chào đón chúng tôi với nỗi tang thương của người dân và thành phố tiêu điều và đổ nát, xác dân lành, xác xúc vật, xác Việt Cộng nằm vương vãi trộn lẫn trong gạch ván. Những chiếc xe tăng T-54 bị bắn cháy nằm trơ xét rỉ trên đường phố. Ngay cả đến những con bò mình mang đầy thương tích vì bom đạn đang đau đớn bước chân nặng nề trong khu phố. Duy nhất chỉ có khu phố phía Tây Nam còn khá nguyên vẹn. Ðây là những nhà lầu hai tầng do Trung Ðoàn 8 Sư Ðoàn 5 tử thủ vào những ngày qua. Chúng tôi bắt tay với đơn vị bạn và được báo cáo đầy đủ về tình hình quân sự trong An Lộc. Một nửa thành phố đã bị địch chiếm đóng và đang cố thủ, địch hay bắn sẻ và thổi B-40 và B-41 từ những cao ốc còn sót lại phía Ðông Bắc và Tây Bắc. Chúng tôi được lệnh nghỉ ngơi trong vòng hai tiếng, sau đó sẽ tập họp để nhận lệnh hành quân mới. Trung Ðoàn 8 và những người dân còn lại trong phố đã tiếp đón chúng tôi rất niềm nở, họ chạy máy bơm nước giếng cho chúng tôi tắm, tiếp tế cho mỗi người lính vài gói thuốc lá quân tiếp vụ thơm. Ðây là phần thưởng rất quý giá vì đã ba ngày qua quần áo chúng tôi ướt đẫm mồ hôi, tóc tai bết bát. Nước giếng mát lạnh và mùi xà bông thơm làm cho tôi cảm thấy thoải mái, dể chịu. Ôi những mồ hôi và bụi phong trần từ những chốn đã đi qua được nguồn nước mát ở An Lộc tẩy sạch. Thay bộ quân phục sạch sẽ tôi cảm thấy nhẹ nhàng thơ thới. Tôi, Trung Sĩ 1 Luân, Trung Sĩ 1 Lễ, Trung Sĩ 1 Khoẻ, Hạ Sĩ Sấy rủ nhau ra sân trước hưởng chút ánh nắng còn sót lại vào buổi chiều, vừa hút thuốc vừa tán chuyện gẫu thì một quả B-40 nổ ngay trên balcon, nhìn cái đuôi đạn còn quay vòng vòng trên mặt đất chúng tôi lặng lẽ chuồn êm vào sau cánh cửa sắt. Cũng may chúng tôi đứng phía dưới balcon nên an toàn.
Chúng tôi mang ba lô súng đạn đến Bộ Chỉ Huy hành quân để tập họp. Tôi Trung Sĩ 1 Ban 3, Trung Sĩ 1 Lễ Ban 2, Trung Sĩ 1 Khỏe Ban 4, Hạ Sĩ Bông Ban 3, Trung Sĩ 1 Luân Ban 2 đuợc chia vào toán của Thiếu Uý Ðặng Văn Cẩm. Liên Ðoàn chúng tôi với quân số tham chiến lúc ấy là 550 kể cả Sĩ Quan, Hạ Sĩ Quan và Binh Sĩ. Với quân số quá khiêm nhường cho nhiệm vụ chiến trận quá lớn! Bộ Chỉ Huy gồm có:
- Trung Tá Phan Văn Huấn, Chỉ Huy Trưởng
- Thiếu Tá Nguyễn Văn Lân, Sĩ Quan Phụ Tá
- Ðại Úy Trần Văn Thọ, quyền Trưởng Ban 3
- Ðại Úy Nguyễn Văn Mai, Trưởng Ban 2
- Trung Sĩ 1 Phương, Ban 4 Tiếp Liệu
- Thượng Sĩ Phạm Văn Cấp, Trưởng Toán Truyền Tin và Mật Mã
- Trung Úy Lê Thanh Châu, Bác Sĩ Quân Y,
- Thượng Sĩ Nguyễn Văn Tụng, Y Tá Trưởng
- Trung Úy Lê Văn Lợi, Liên Toán Trưởng 4 Toán Thám Sát Lôi Vũ
- Ðại Úy Nguyễn Ích Ðoàn, Ðại Ðội Trưởng Ðại Ðội 1
- Ðại Úy Nguyễn Sơn, Ðại Ðội Trưởng Ðại Ðội 2
- Ðại Úy “Hổ Xám” Phạm Châu Tài, Ðại Ðội Trưởng Ðại Ðội 3
- Ðại Úy Ðào Minh Hùng, Ðại Ðội Trưởng Ðại Ðội 4
- Thượng Sĩ Jessi Yearta, Cố Vấn Mỹ
- Ðại Úy Charles Huggins, Cố Vấn Mỹ
- Trung Úy Cao Văn Cát, Sĩ Quan đề lô pháo binh tăng phái.
Dưới ánh sáng tù mù của ngọn đèn dầu và những ánh đèn pin chiếu vội vàng trên bản đồ để chúng tôi chấm toạ độ. Mục tiêu và tuyến xuất phát của các đơn vị bạn chúng tôi đã thuộc trong đầu. Sau đó chúng tôi được lệnh trở về tuyến xuất phát để chờ giờ G (Gay Go theo mã tự truyền tin) chưa được công bố. Ðã 8 giờ tối, thành phố đắm chìm trong bóng đêm dày đặc, sự yên tĩnh của đêm đen bị khuấy động bằng tiếng nổ của đại bác Việt Cộng pháo vào. Tiếng gạch ngói vỡ vụn rơi trên mái nhà tôn nghe loảng xoảng rồi chìm dần. Ðiệp khúc pháo của địch được lập đi lập lại mỗi 10 phút đồng hồ. Phía Nam tiếng đại bác ì ầm xa xăm vọng về từ các vùng Chơn Thành, Tân Khai. Trong khi ngồi trong bóng đêm chờ giờ G, tôi lẩm nhẩm đếm ba trăm lẻ một, ba trăm lẻ hai … khi nghe tiếng départ từ hướng Bắc cho đến khi quả đạn nổ. Tính nhẩm, trong đầu tôi đoán vị trí súng của địch được đặt ở Lộc Ninh và Quản Lợi. Ðúng 9 giờ tối từ máy truyền tin tôi được biết giờ G đã điểm, chúng tôi lay nhẹ vai nhau và bắt đầu tiến quân. Trên bầu trời cũng đã xuất hiện chiếc AC130 Spectre yểm trợ, một trái hoả châu được thả ra từ máy bay để chúng tôi quan sát những chướng ngại vật và làm quen với mục tiêu trước mặt. Khi ánh hoả châu tắt, chúng tôi bắt đầu mò mẫm tiến về hướng Bắc của thành phố. Cái khổ của đoạn đường này là gạch ngói, gỗ đinh, mái tôn móp méo nằm vương vãi, mặc dù cố mở mắt lớn nhưng chuyện bước nhầm lên miếng tôn hay miếng ván là điều khó tránh khỏi, chỉ một tiếng động khô khan đó là lập tức vài ba quả M79 thổi về ngay. Nghe tiếng súng M79 quen thuộc, chúng tôi vội liên lạc vô tuyến xác nhận điểm đứng của mình và yêu cầu con cái của Hùm Xám đừng ton đạn về hướng chúng tôi. Quân của Hùm Xám lúc ấy đang ở phía Ðông của chúng tôi, Hùm Xám xác nhận con cái của anh chưa lẫy cò và tiếng départ từ con đường bên kia khu phố, chính Ðại Ðội 3 của Hùm Xám cũng lãnh vài quả tương tự. Sở dĩ bọn Việt Cộng có được vũ khí của ta là do những chiếc dù tiếp tế bay lạc qua phần đất do chúng tạm chiếm. Chúng tôi lại dò dẫm từng bước chân đi, tôi đã bắt kịp con nhà Lễ ở phía trước, tôi thì thào hỏi: “Chuyện gì vậy?”
“Hàng rào kẽm gai”. Lễ trả lời. Một cái hàng rào kẽm gai cao khoảng 3 mét nằm ngay trước mặt. Hạ Sĩ Bông đã được Lễ đỡ cho leo qua, tôi vội vàng khoác súng trên vai chạy đến đỡ Lễ leo qua cho mau. Ðến lượt mình mới là khốn nạn vì là Toán Phó và cũng là người sau cùng nên tôi cố đặt chân vào sắt trụ rào bằng cây sắt nhỏ để giữ thăng bằng. Sợi kẽm gai đong đưa, thân mình tôi vắt vẻo, đang cố leo thì vài quả M79 nổ cách bức tường sau lưng, cái bản năng sinh tồn theo phản ứng tự nhiên cho mãi đến ngày hôm nay tôi vẫn chưa hiểu là làm cách nào mà tôi đã leo qua cái hàng rào một cái rột mà không bị một vết cào sướt trên thân thể.
Ðã gần 4 giờ sáng, toán tôi còn đang bì bõm dưới đường mương cống thì được lệnh dừng quân nằm chờ tại chỗ. Cái vị trí chúng tôi đang ở thật kinh khiếp trần đời, nước và sình thối cùng mọi thứ phế thải khác cao ngập đôi giầy trận, tôi hỏi anh Cẩm tại sao không tiến thêm về dẫy tường nhà trước mặt. Anh cho biết Ðại Ðội 2 đã đóng ở đó rồi. Tôi co giãn vài ngón chân để cảm nhận đôi vớ đã bị thấm nước, cái cảm giác lành lạnh từ từ thấm vào người từ hai ống quần đã bị thấm nước. Tôi cảm thấy mệt mỏi và buồn ngủ, nguyên một ngày lội quần quật từ đồi 169 cho đến giờ này tôi chưa được chợp mắt. Thần kinh tuy căng thẳng nhưng đã chịu thua cơn buồn ngủ chĩu nặng, dựa lưng ba lô vào vách đường cống tôi đã thiếp đi trong tư thế ngủ đứng. Còn đang say ngủ thì những loạt M60, M16, súng phóng lựu hoà lẫn tiếng AK nổ ran trong khu vực. Tôi thức tỉnh hoàn toàn, trời đã tờ mờ sáng, lúc này tôi mới có dịp nhìn rõ lại cái đường mương cống đầy rác rến đã cho tôi hơn một giờ ngủ ngon.
Chúng tôi đồng loạt tiến nhanh về hướng Ðông Bắc, địch đã không ngờ rằng đêm ấy chúng tôi nằm sát nách chúng. Những tiếng hô “Xung Phong”, “Sát, Sát. Sát” của các chiến sĩ 81 Biệt Cách Nhảy Dù cùng những tiếng nổ từ súng cá nhân tuôn xối xả vào vị trí địch, những toán quân bạn ở vị trí trước mặt tiến quân như vũ bão. Từ trong dẫy phố trước mặt Việt Cộng lố nhố chạy thục mạng lên phía Bắc đang làm bia bắn cho các chiếc trực thăng Cobra. Mùi thuốc súng quyện đặc trong buổi sáng sớm, trên không đạn khói đạn rocket được bắn ra từ chiếc O-2 đang nhào lượn. Tiếng đại bác 105 mm, 40 mm, 20 mm minigun từ AC130 Spectre bắn vào phòng tuyến địch nghe inh tai. Từ những cuộc hành quân thám sát xâm nhập trong lòng địch, giờ đây các chiến sĩ của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù lại chứng tỏ cho địch thấy sự can trường, oai hùng trong trận địa chiến, chúng tôi đã không nao núng trong trận chiến mở màn ngày 18/04/1972. Tại khu đồn Cảnh Sát Dã Chiến với phòng thủ quân sự rất kiên cố đã bị Bắc quân chiếm đóng, những thùng phi 200 lít được đổ đầy cát, xếp hai lớp chồng lên nhau, nóc hầm được che bởi hàng vỉ sắt quân sự và 3 lớp bao cát xếp dầy lên trên. Trục tiến quân của Ðại Ðội 2 đã khựng lại vì trước sự kháng cự mạnh của địch. Những trái đạn M79, M72 phóng vào phòng tuyến Cảnh Sát Dã Chiến không mảy may có kết quả, nhưng không sao, đã có anh mũi lõ Jesse Yearta cao bồi Mỹ đây rồi. Thường ngày tôi không mấy thân thiện với các anh mũi lõ mắt xanh, đánh giặc theo kiểu con nhà giàu. Nhưng tôi đã thán phục khi nhìn Yearta oai hùng đứng khơi khơi giữa đường phố ngay tuyến đầu lửa đạn với mình, không cầu an, chịu nguy hiểm để chỉ điểm cho đại bác trực xạ từ chiếc AC130 bắn vào khu Cảnh Sát Dã Chiến đang đầy Việt Cộng trong ấy, Tâm hồn Yearta lúc ấy chắc cũng như chúng tôi đang say men chiến thắng khi nhìn thấy lính cụ Hồ bương chạy. Từng chiếc hầm bị đạn 105 mm được bắn rất chính xác từ trên trời xuống, nắp hầm bung lên và không một địch quân sống sót chạy ra, những lỗ châu mai đã im lìm tiếng AK. Sau khoảng hơn 30 phút giao tranh, chúng tôi đã hoàn toàn đẩy lui Việt Cộng trong khu Tây Bắc thành phố. Chiến trường đã ngưng tiếng súng, những thương binh được các bạn đồng đội băng bó tạm và được chuyển về Bộ Chỉ Huy để bác sĩ và y tá săn sóc.
Nhìn khuôn mặt đẫm mồ hôi của Trung Sĩ 1 Sần A Nhì, tay trái cầm súng M16, tay phải ôm hai chân của người chiến sĩ tử trận, anh lúp xúp chạy và xác người chết nằm gấp trên vai, hai cánh tay và cái đầu đong đưa theo bước chân, các bạn gần đó đã nhanh chân chạy lại tiếp Trung Sĩ 1 Nhì đưa người bạn vắn số đó về Bộ Chỉ Huy. Sau đó lại một chiến sĩ tử trận khác đã được anh em cột tay chân lại và dùng đòn khiêng luồn vào để khiêng về Bộ Chỉ Huy, hình ảnh thật đau lòng, nhưng không biết làm sao hơn khi chúng tôi không có một cái băng ca để tải thương vào lúc ấy, chúng tôi phải rải quân ra để phòng thủ tuyến vừa chiếm được với sự hy sinh của anh, máu và thân xác của anh đã thấm vào lòng đất An Lộc, anh đã vĩnh viễn từ giã chiến trường và gia đình thân yêu. Chúng tôi những người còn lại phải gánh lấy trách nhiệm phần đất mà anh vừa chiếm lại được. Vong hồn của anh chắc không giận chúng tôi đâu vì anh cũng thông hiểu được tình huống của chúng ta lúc ấy, xác của anh đã được đem về và chôn cất trong nghĩa trang của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù. Chắc anh cũng mãn nguyện khi nhìn đồng đội đã chịu nhiều gian khổ, hiểm nguy trong đêm tối khi chôn cất anh. Anh biết đó trong đêm tối cạnh bến xe đò bên kia chợ, mặt nhựa đường đã không cứng hơn đôi bàn tay của người lính Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù. Những nhát cuốc nháng lửa trên mặt nhựa đường, lưỡi cuốc nhọn bung lên thốn vào đôi cánh tay người lính. Ðịch từ bên kia phố đã nghe được tiếng đào xới nên đã cố câu vào đó vài quả đạn súng cối 61 hay M79, người lính đồng đội vẫn không nao núng đứng đào huyệt cho người bạn vắn số của mình vào nơi yên nghỉ ngàn thu. 67 anh em khác cũng nằm chung với anh trong nghĩa trang lịch sử đó và tại đây tôi cũng đau buồn chia tay với Thiếu Úy Nguyễn Quang Khánh, người cựu toán trưởng toán 3 Delta của tôi.Trong một phiên gác đêm nhìn quanh nghĩa trang nghĩ đến anh tôi không khỏi chạnh lòng nhớ đến mấy câu thơ Chinh Phụ Ngâm mà tôi đã viết nghuệch ngoạc trên một vách tường đâu đó:
“Hốn tử sĩ gió ào ào thổi
Mặt chinh phu trăng sõi sõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt nào ai gợi hồn”!
Hãy tạm quên chiến trận để cho tôi được viết vài hàng về nghĩa trang của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù trong lòng phố An Lộc.
Những ngày hạ tuần tháng 5 cũng là những ngày chiến trận đã tương đối lắng dịu, nhìn lại nghĩa trang của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù đã được khang trang tu bổ do những bàn tay người lính 81 Biệt Cách Dù. Chính giữa là mộ bia chính với câu thơ bất hủ của cô Pha viết dưới bệ, chung quanh nghĩa trang là dẫy tường thấp bằng gạch sơn vôi trắng, phía chính diện hai câu thơ nổi tiếng của Vương Hàn trong bài Lương Châu Từ được viết bằng sơn: “Tuý ngọa sa trường quân mạc tiếu, Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”. Những người dân còn sót lại tại An Lộc đã an toàn sinh sống trong khu vực do chúng tôi trấn đóng, họ đã dạn dĩ ra trước cửa nhà để nhìn khung cảnh điêu tàn trong khu phố. Ðổ nát và đổ nát, cả một khu phố thân thuộc của họ, trước dây 1 tháng họ có ngờ đâu chiến tranh do Bắc quân mang lại gieo tang tóc thê lương. Thị Xã mang tên hai chữ thật hiền hoà : An và Lộc. Trong cảnh thê lương đổ nát tiêu điều ấy, họ đã ngạc nhiên và xúc động mạnh khi nhìn thấy một nghĩa trang khang trang của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù được xây phía bên kia đường trước căn phố của họ. Những xây dựng trước đó đã sụp đổ tan tành theo từng ngày đạn pháo tung bay. Một xây dựng mới âm thầm trong thành phố tang thương ấy bắt đầu vào ngày 18/04/1972 chính là nghĩa trang của những chiến sĩ Biệt Cách Dù vị quốc vong thân, vừa đánh giặc vừa xây dựng mộ bia cho những người nằm xuống để không quên ơn người đã cho ta thêm những ngày sống. Một bà già người Trung Hoa nói tiếng Việt hơi lơ lớ tay quẹt nước mắt nói: “Chồi oi ! Con cái dà ai lến lây chết nhiều quá zậy?” Nói xong bà vào nhà đốt một nắm nhang xong trở ra quỳ lạy trước mộ bia và cắm nhang từng nấm mộ. Lời khóc than chí tình ấy cũng là lời cám ơn Chơn Thành từ đáy lòng của người dân An Lộc, những người dân đã sát cánh với chúng tôi trong hai tháng bom lửa ngập trời ấy.
Xin trở lại buổi sáng ngày 18/04/1972. Ðang say men chiến thắng, tôi tưởng đơn vị mình sẽ dàn quân chiếm nửa khu phố còn lại nhưng lệnh trên cho án binh bất động. Vì Sư Ðoàn 5 Bộ Binh không còn đủ quân số để cùng tiến lên ngang hàng với chúng tôi, do đó chúng tôi đành bó tay và cuộc chiến đổi sang ngõ rẽ khác.
An Lộc bị cô lập hoàn toàn, quốc lộ 13 bị cắt đứt, trục tiến quân của Sư Ðoàn 21 và Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù bị kiềng, chốt của Công Trường 7 Việt Cộng ngăn cản bước tiến trong đồn điền cao su tại Chơn Thành, suối Tầu Ô, Tân Khai trong hai tháng ròng rã. Thuốc men, lương thực, đạn dược tiếp tế vào An Lộc bằng dù do các phi vụ C130 thả. Những cánh dù thả trên cao độ 1800 mét đã không rơi chính xác vào địa điểm mong muốn, độ giạt của gió đã đưa những chiếc dù ấy sang phần đất địch chiếm đóng. Chúng tôi đành chong súng lên bắn lên những kiện hàng trôi lơ lửng ấy. Việt Cộng cũng làm lại điều tương tự khi dù tiếp tế rơi vào vùng đất của chúng tôi (sau khoảng 3 tuần những chiếc dù biến cải với những lỗ thoát gió đã rơi nhanh và chính xác hơn vào bãi tiếp tế.)
An Lộc đang nằm trong sự vây hãm chặt chẽ của Bắc quân gồm các Công Trường (Sư Ðoàn) 5, 7, 9 và Sư Ðoàn Bình Long. Công Trường 5 gồm các Trung Ðoàn E6, Trung Ðoàn 174, Trung Ðoàn 275. Ðơn vị chủ lực Công Trường 7 gồm các Trung Ðoàn 141, 165, 209 và Trung Ðoàn 101 biệt lập. Công Trường 9 gồm có Trung Ðoàn 271, 272, 95C. Công Trường Bình Long bao gồm các đơn vị của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và các đơn vị chính quy 204 tùng thiết (tháp tùng chiến xa), 429 công sự phòng thủ. Sư Ðoàn Pháo 69 gồm có Trung Ðoàn 208 hoả tiễn, Trung Ðoàn 42 pháo, Trung Ðoàn 271 phòng không và các thiết đoàn chiến xa 202 và 203. Quân số tổng cộng của các đơn vị kể trên khoảng 50.000.
Chúng tôi lập ngay tuyến phòng thủ ở Bắc An Lộc mới tái chiếm. Rạng sáng 19/04 địch bắt đầu pháo mạnh vào thành phố An Lộc, đồi Gió và đồi 169. Sau đợt pháo, các đơn vị của Công Trường 5, 7 Việt Cộng tấn công Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù đang đóng ở đồi Gió và đồi 169. Hai cao điểm chiến lược bị tràn ngập (80 quân nhân nhảy dù mở đường máu thoát khỏi vòng vây sau đó được trực thăng bốc về Lai Khê). Cùng hai ngày sau đó, hai Ðại Ðội khác của Tiểu Ðoàn 6 Nhảy Dù rút được về An Lộc sau đó tái hợp với Tiểu Ðoàn 5 và 8 Dù). Từ hướng Ðông Quốc Lộ 13 Công Trường 9 là đơn vị chính tấn công vào thành phố, chúng đã bị đánh bạt ra khỏi tuyến phòng thủ trấn giữ do Sư Ðoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà, Tiểu Ðoàn 5 và 8 của Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù. Sự yểm trợ của Không Quân Hoa Kỳ với những phi vụ B52 dội vào các điểm tập trung của địch và những phi vụ Spectre AC130 rất hiệu quả. Bình minh vừa ló dạng, tiếng pháo địch rời rạc và địch đã đại bại trong trận công kích đợt hai vào An Lộc. Một chiếc T54 lọt vào hố bom không lên được và nhiều chiếc khác đã bị phá huỷ. Ðây là những chiếc T54 không có bộ đội tùng thiết chạy lơ ngơ trong đêm tối đã làm mồi ngon cho những khẩu M72, phi vụ Spectre AC130 … Phía phòng tuyến chúng tôi vô sự trong đêm ấy. Trong đợt công kích đợt hai này địch đã có lợi thế khi chiếm được đồi Gió và đồi 169. Sáu khẩu đại bác 105 mm để yểm trợ cho An Lộc của ta bị phá huỷ hoằn toàn. Từ những cao điểm này Việt Cộng đã theo dõi được hoạt động của đơn vị bạn trong khu vực Ðông và Nam của thành phố.
Sau cuộc tấn công đợt hai không có kết quả, đich bắt đầu chơi pháo vào An Lộc, hàng ngày cái thành phố với diện tích còn lại khoảng 1.5 cây số vuông ấy hứng hàng ngàn quả đạn đại bác của Việt Cộng. Lúc này phòng tuyến của chúng tôi đã vững vàng, những bức tường trong khu phố được chúng tôi đục thông từ nhà này sang nhà khác, những lỗ tường ấy cao khoảng 1 mét rộng độ nửa mét nên việc di chuyển bên trong khá dễ dàng và an toàn. Mỗi toán được chỉ định giữ an ninh cho tuyến của mình. Tôi được chỉ định về toán súng cối 81 mm đóng ở phía Nam Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn cách đó một con đường. Tôi xin viết vài hàng về tổ súng cối 81 mm và sự hiệu quả của nó. Thực ra trong bảng cấp số của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù không được trang bị súng cối 81 mm vì đơn vị luôn luôn hành quân thám sát ngoài tầm yểm trợ của pháo binh, các toán thám sát và Ðại Ðội xung kích được trang bị vũ khí nhẹ và được yểm trợ bằng trực thăng, phi pháo B52 …Nhưng trong trận địa chiến ở An Lộc chúng tôi đã uyển chuyển với cục diện mới.
Sau ngày 19/04, Ðại Ðội 1 của Ðại Úy Ðoàn nằm ngay tuyến đầu ở hướng Bắc khu vực khá trống trải nên tổ súng cối 60 ly bị địch thổi B40 vào dài dài, anh cho dời khẩu súng cối về khu phố toán tôi đang đóng. Tôi tình nguyện bắn yểm trợ súng cối 60 ly cho Ðại Ðội 1 và chính vì sự tình nguyện ấy mà sau này khẩu súng cối 81 mm đã dính với tôi trên những bước đường hành quân ở căn cứ Hoàng Ðế (King), Cổ Thành v.v… Những trái đạn súng cối 60 rất hạn chế của Ðại Ðội 1 đã cạn mau vào những ngày sau đó. Khui những thùng đạn tiếp tế toàn là đạn cối 81 ly nên khẩu 60 ly kể như vô dụng, đạn 81 ly chúng tôi có rất nhiều nhưng súng thì không. Ðại Úy Ðoàn liên lạc với Trung Ðoàn 8 và vác về một khẩu 81 mm, nhưng lại không có máy nhắm. Sau đó Thượng Sĩ Yearta liên lạc truyền tin xin được một máy nhắm M14 còn nguyên si trong hộp. Mở hộp ra, bảng chỉ dẫn bằng tiếng Anh, tôi lại càng mù mịt.Tôi mang máy nhắm lên cho Thiếu Tá Lân xem, máy nhắm quá tối tân so với những máy nhắm mà Thiếu Tá Lân đã học ở trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt. Sau đó Yearta, Huggins, Thiếu Tá Lân và tôi ngồi quanh chiếc máy nhắm để học hỏi. Yearta đọc Thiếu Tá Lân dịch và giảng cho tôi nghe công dụng của từng bộ phận. Tôi hiểu được đại khái hướng nhắm, chiều cao, độ giạt, tầm xa, đọc bảng xạ biểu, thuốc bồi, v.v… Tôi, Lễ, Bông, Khỏe và các bạn khác được giao trọng trách cho khẩu cối 81 ly đó. Sự yểm trợ chính xác của toán súng cối chúng tôi cho Liên Toán Thám Sát, Ðại Ðội 1, 2, 3, 4 nên được các bạn âu yếm gọi là B52 cầm tay. Tuy nhiên, một điều đáng tiếc đã xảy ra trong khi bắn súng cối yểm trợ cho Ðại Ðội 4 do Trung Úy Nguyễn Khoát Hải làm Ðại Ðội Trưởng (Ðại Úy Ðào Minh Hùng đã bị thương). Những quả đạn không thuốc bồi trong tầm đạn đạo gần đã làm cho Trung Úy Hải và một số binh sĩ Ðại Ðội 4 bị thương, Trung Úy Lê Ðắc Lực lên nắm quyền Ðại Ðội Trưởng từ ngày đó.
Hầm súng cối được đào sâu khoảng 0.8 mét ở sân sau nhà thuốc tây, quanh sân được bao phủ bằng bức tường gạch cao hơn đầu người. Hầm đạn cũng được đào cạnh hầm súng cối, phía trên được che đậy bằng các thùng gỗ chứa đầy cát. Thường thì trên đài quan sát (vị trí nhỏ trên tầng lầu Bộ Chỉ Huy được chất bao cát chung quanh), Thiếu Tá Lân làm sĩ quan tiền sát cho đội súng cối của chúng tôi. Sau hai ngày bắn súng cối, tôi đã quen thuộc với khẩu súng và máy nhắm M14. Ðộ chính xác của súng là 25 mét cho mỗi ly giác, thế nhưng đã có lúc, qua máy truyền tin Ðại Úy Ðoàn nói: “Từ tác xạ vừa rồi, Trái 3 mét” đã làm tôi chưng hửng.
- Mục tiêu là gì ? tôi hỏi.
- Hầm ve chai. Ðại Úy Ðoàn trả lời. Làm sao tôi chỉnh được bên trái 3 mét đây. Tay run run nhích vòng xoay ống nhắm với sự ước tính trong đầu, chỉnh bọt nước thăng bằng xong tôi liên lạc vô tuyến:
- Smoke sẵn sàng.
- Go.
Một tiếng nổ bụp nhỏ của đạn khói nghe vọng lại từ xa. “Ngay chóc” tiếng anh Ðoàn reo vui qua máy truyền tin PRC25.
- Cho anh ba delay.
Hạ sĩ Bông tay bóc thuốc bồi và vặn lại nút nổ chậm trên đầu trái đạn, chúng tôi bắn 3 trái đạn đi. Sau đó anh Ðoàn cho biết đạn đã đào sâu xuống đất trước khi nổ, hầm sụp chôn trong đó hai tên Việt Cộng và một tên khác bỏ chạy bị lính của anh dứt sữa cụ Hồ. Thế nhưng Việt Cộng đâu có để cho khẩu súng cối của chúng tôi tung hoành như thế được. Từ khu phố hướng Ðông, chúng đã biết vị trí súng của chúng tôi. Vì có nhiều mục tiêu chỉ cách hầm chúng tôi khoảng 400 mét, và những trái đạn không thuốc bồi bay lắc lư trên không làm cho chúng nhắm hướng và biết đích xác vị trí của chúng tôi. Vào một buổi trưa, Thiếu Tá Lân gọi máy cho toán tôi ra tác xạ. Nồi cơm và nồi canh rau đã chín trên bếp chúng tôi chưa kịp ăn. Tôi và các bạn ra hầm súng, nhận lệnh và chỉnh súng vào mục tiêu mới. Chờ gần 10 phút nhưng vẫn chưa có lệnh tác xạ. Tôi bốc máy vô tuyến gọi:
- Mạnh Ðiệp đây Kiều Giang.
- Mạnh Ðiệp nghe. Thiếu Tá Lân trả lời.
- Chừng nào tác xạ ?
- Chờ ở đó.
Vài ba quả đạn khói 82 ly của Việt Cộng bắn vào từ khu rừng phía Tây đã nổ ngoài tường rào. Chúng tôi đang đói bụng nên mang máy truyền tìn vào nhà ăn cơm vừa trực máy luôn thể. Lệnh Thiếu Tá Lân là lệnh sắt nên tôi cũng ớn bị xài xể, nhưng từ nhà sau ra hầm súng cối chỉ cách độ 15 mét, thuốc bồi đã bóc sẵn, súng đã chỉnh xong. Nếu có lệnh bắn chúng tôi sẽ tác xạ trong vòng nửa phút. Bưng nồi cơm và canh để trên sàn xi măng, thời gian chưa được ba phút, chúng tôi chưa sới được bát cơm đầu thì một tiếng oành, nổ ngay hầm súng cối chúng tôi, thêm một quả nữa nổ gần hầm đạn thứ hai. Qua khung cửa sổ, tôi nhìn thấy lửa đã bắt cháy ở đuôi đạn súng cối, những tiếng trái đạn cối của chúng tôi thi nhau nổ sau đó. Ðám thương binh nằm ở nhà sau với toán chúng tôi được các bạn khác lôi nhanh qua lỗ tường sang nhà khác. Lúc đó bọn tôi coi chẳng giống con giáp nào, mình khoác áo giáp, mặc quần xà lỏn chân đi dép vì buổi trưa nóng, vớt cái nón sắt móc vội lên đầu tôi phóng sang nhà bên cạnh giật máy bơm nước. Con nhà Khỏe giúp tôi liên lạc vô tuyến báo cáo về Bộ Chỉ Huy. Tay cầm ống nước tôi cố thu người bên này tường chỉ chừa cái nón sắt và đôi mắt trên đầu tường để chữa cháy, những trái đạn bung nổ nhưng chỉ nổ ở phần thuốc bồi chính trong đuôi đạn nhưng cũng đã cho tôi cái cảm giác thế nào là dựng tóc gáy, ai nào biết được những trái đạn vô tình ấy sẽ nổ ở phần nào. Việt Cộng chắc đang đắc chí khi nghe những tiếng nổ phụ và khói bốc lên ngùn ngụt từ hầm đạn chúng tôi. Sau khi chữa đám cháy xong, một cảnh thương tâm mà tôi chẳng bao giờ quên được. Tôi ra hầm súng để thu thập sự thiệt hại vừa qua, một con chó trắng vá đen đang ư ử rên rỉ nhìn tôi xin cầu cứu, đôi mắt của con vật đã nói lên tất cả sự van xin giúp đỡ, hai chân trước gẫy lìa xương lòi ra ngoài, mỗi lần cố đứng là một lần té quỵ xuống. Tôi chạy xuống bồng nó lên tay vỗ về, nó nằm yên trên đôi tay tôi rên khe khẽ, tôi đem vào khu nhà có nhiều dân ở trong đó để kiếm chủ nhưng không ai biết tông tích của nó. Con chó vào hầm súng của chúng tôi để ăn phần thịt hộp bạn nào ăn dở dang còn để lại trong ấy. Anh Tụng sau khi xem xét vết thương cho nó và lắc đầu, anh nói cho nó một phát đạn để nó khỏi bị đau đớn nữa. Tôi không đủ can đảm để kết liễu đời sống con chó đáng thương ấy khi ánh mắt nó đã in sâu đậm trong lòng tôi. Tôi quay trở lại hầm súng cối để dọn dẹp, sau lưng một tiếng súng nổ. Tôi bỏ luôn bữa cơm chiều hôm ấy.
Việc tải đạn súng cối cũng có nhiều chuyện nguy hiểm lý thú. Những viên đạn tôi bắn đi là mồ hôi nước mắt nhọc nhằn của toán tải đạn, đồng đội từ các Ðại Ðội trong Liên Ðoàn thay phiên nhau lên sân vận động (bãi thả dù tiếp tế) vác đạn về chất trong hầm súng của toán tôi. Mỗi khi có dù tiếp tế họ đã chịu nguy hiểm để lặn lội duới mưa pháo trên con đường dài gần hai cây số, lên xuống hai ba chuyến trong ngày. Nằm lâu một chỗ tôi đâm ra cuồng cẳng, ngoài giờ canh gác hay tác xạ, tôi, Khỏe, Lễ hay lên khu vực của Ðại Úy Sơn chơi. Qua khu bến xe lam ba bánh, Trung Sĩ 1 Khỏe nẩy ra ý định lấy một chiếc đem về cho toán tải đạn, xe phần nhiều bánh bị bể vì miểng pháo, có một chiếc vỏ xe còn nguyên vẹn, đạp máy thử thấy nổ ngon lành. Sau khi dọn sơ những chướng ngại để chạy xe ra, ngồi trước tay lái tôi rồ mạnh ga chờ hai thằng bạn lên xe thì một ông Trung Úy Bộ Binh án ngay trước mặt:
- Ê! Ăn cắp xe hả ?
- Không, tôi lấy xe về cho toán tải đạn súng cối của Liên Ðoàn 81. Tôi trả lời ông Trung Úy.
- Ðây là xe của dân thuộc khu trách nhiệm của tôi, anh không được quyền lấy với bất cứ lý do gì.
- Lúc này là tiêu thổ kháng chiến Trung Úy biết không ? Tôi không lấy cái xe này để làm của riêng mà là công ích chung. Nhà cửa đổ nát, người dân chết lên chết xuống bản thân Trung Úy còn chưa biết ngày nào về thì xá gì chiếc xe này. Tôi la lớn.
- ÐM. Anh không được quyền lấy xe của dân. Anh lấy xe tôi bắn! viên Trung Úy la lớn lại.
Lúc này thì máu nóng trong người tôi sôi lên, tôi nhẩy xuống ra khỏi xe đứng trước mặt người sĩ quan bộ binh đó và nói như thét lên:
- ÐM. Ngon ông bắn tôi đi, nói cho ông biết tôi nể cấp bậc của ông chứ không sợ ông đâu. Ðạn của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà phát cho ông để bắn Việt Cộng chứ hù tôi làm gì? ÐM. Ông không hiểu bốn chữ tiêu thổ kháng chiến mà mang lon Trung úy thì nhục nhã quá. Chúng tôi sẽ có người đến trưng dụng chiếc xe lam này.
Tôi giận dữ bước nhanh về phía khu vực của chúng tôi. Trên đường về bọn tôi gặp Ðại Úy Mai tôi vội trình bày cớ sự.
- Ðể tao qua đó. Ðại Úy Mai trả lời. Sau khi Ðại Úy Mai đi, khoảng 15 phút sau, chiếc xe lam chạy về đậu trước khu phố toán chúng tôi. Gặp tôi, ông cười hỏi:
- “ÐM. Mày nói gì nó mà nó nói thằng em của Ðại Úy lỗ mãng quá nên tui không giao xe?” À ra ông Trung Úy Bộ Binh ghét cái bản mặt và thái độ khiếm nhã của tôi nên chơi tôi cho bõ ghét. Anh Trung Úy bộ binh ơi! Nếu anh còn sống và đọc được những giòng này xin anh nhận nơi đây lời xin lỗi Chân Thành của tôi về thái độ lỗ mãng ngày hôm ấy.
Trung Sĩ 1 Khỏe lúc này đã làm trưởng nhóm tiếp tế đạn dược và lương thực cho Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù. Nhờ có chiếc xe lam 3 bánh đó mà tôi hay theo con nhà Khỏe lên khu sân vận động tải đạn và dịp đó tôi gặp được Trung Sĩ 1 Hùng bạn cùng khóa ở Ðồng Ðế năm 69. Gặp lại nhau tay bắt mặt mừng, Hùng lúc này làm trong ban 4 Tiếp Liệu ở Tiểu Khu Bình Long, gặp tôi nó chuồi nhanh cho một cây thuốc quân tiếp vụ thơm, hạnh phúc quá trời ơi! Những ngày qua bọn thằng ghiền thuốc lá như tôi đã lấy giấy báo cũ vê thuốc cẩm lệ còn sót lại trong các tiệm tạp hoá để hút cho đã cơn ghiền, dù những bánh thuốc rê, thuốc xỉa được chúng tôi ngâm nước cho bớt nặng, sau đó lại sao trên chảo cho khô phun rượu và mật ong để tăng thêm hương vị, nhưng mỗi khi hút vào là một lần khé cổ. Số phận chiếc xe lam ba bánh chạy trên lộ trình chông gai đó cũng chẳng được lâu. Mỗi lần chạy qua con dốc gần khu bệnh viện là mỗi lần Việt Cộng cố bắn vào chiếc xe cà khổ đó, một phần trên mặt đường đầy các chướng ngại vật, một phần Việt Cộng trên cao ốc khu phố hướng Ðông bắn vào, chiếc xe chở đạn nặng nề nhưng nhờ xuống dốc nên tốc độ cũng khá nhanh dần. Tóc! Tóc! Tóc! Tóc! Tiếng đạn AK trúng phần dưới ghế toé lửa, hộp số bị bể chiếc xe khục khặc giật lên giật xuống, Khỏe tay trái bóp bộ phận nhả số cho trớn chiếc xe chạy hết con dốc sau đó lủi xe vào gần bên bức tường của ngôi nhà. Máy xe còn nổ nhưng hộp số không còn sử dụng được. Bọn tôi bỏ lại chiếc xe về gọi đồng đội lên khiêng đạn về. Sau đó một thương gia trong khu phố đã tặng cho chúng tôi một chiếc xe LaDaLat mới tinh để thay thế chiếc xe lam ba bánh đó, chúng tôi cám ơn và o bế chiếc xe này rất kỹ, chúng tôi dọn một căn nhà có cửa sắt để đậu xe trong đó. Trung Sĩ 1 Khỏe chạy xe mới thích lắm vì tốc độ nhanh và dễ điều khiển nhưng số phận của chiếc xe này cũng không sống lâu hơn xe lam ba bánh là bao lâu. Trung Sĩ 1 Phương một hôm lấy xe đi tải lương khô và hỏi tôi muốn lên Tiểu Khu Bình Long không. Tôi đáp không vì đang cùng con nhà Lễ lên Ðại Ðội 2 thăm anh Sơn. Trên đường về qua nhà xe chưa thấy xe đậu trong đó tôi hơi lấy làm lạ vì thời gian đi lấy lương thực hay đạn dược thường không hơn một giờ rưỡi. Tôi và Lễ đi dọc xuống khu Trung Ðoàn 8 thì gặp Trung Sĩ 1 Phương đang lội bộ về. Tôi hỏi :
- Xe đâu?
- Hả?
- Xe đâu? Tôi hỏi lại.
- Hả? Thượng Sĩ 1 Phương đưa khuôn mặt lại gần mặt như không hiểu câu tôi hỏi. Tôi tưởng Thượng Sĩ 1 Phương đang đùa với tôi khiến tôi nổi cáu :
- Xe đâu?
- Pháo banh rồi.
Phương trả lời và ngoắc tay ra hiệu cho chúng tôi theo. Nhìn Trung Sĩ 1 Phương không bị thương dáng đi còn nhanh nhẹn tôi cũng mừng thay cho anh nhưng một bên tai đã bị điếc vì đạn nổ quá gần. Giữa con dốc cách không xa lắm với cái xe lam là chiếc LaDaLat nằm lật nghiêng bên phía tài xế, những thùng lương khô lăn đổ trên đường. Bên kia hông xe mang đầy lỗ thủng của đạn pháo, nhìn chiếc xe bằng sắt nằm chỏng gọng tôi đã không biết ơn trên nào đã che chở cho anh Phương trong quả đạn nổ ngay cạnh chiếc xe lúc ấy. Hết xe chở đạn các chiến sĩ 81 Biệt Cách Nhảy Dùi kiếm xe ba gác nhồi giẻ cứng vào vỏ bánh để sử dụng cho các chuyến tải đạn súng cối sau này.
Giữa các Ðại Ðội của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù và Việt Cộng mà giới tuyến cách nhau chỉ có một con đường, bắn sẻ, bắn tỉa, dùng súng cối để bắn vào đơn vị Việt Cộng bên kia đường. Chúng tôi đã chiến dấu trong cái cảnh đó nhiều tuần lễ sau này cho đến nửa đêm 11 tháng 05. Ðịch quân pháo như mưa bấc vào thành phố từ nửa đêm cho đến 4 giờ sáng khoảng 8,000 quả đại bác, nhịp độ khoảng 5 giây cho mỗi trái, chúng pháo cho chúng tôi không ngóc đầu dậy được để chuyển quân, đạn đại bác nổ vang rền chát chúa trong khu phố. Cách tôi hai căn phố khu nhà dân chúng trúng một quả pháo, có tiếng khóc la của các em nhỏ vì sợ hãi khi thấy người bị thương, sau này tôi nghe nói cô Pha bị thương trong đêm đó nhưng điều này tôi không dám khẳng định vì chỉ nghe nói lại thôi. Hình như còn bao nhiêu pháo địch bắn hết đêm nay hay sao mà tôi đã nghe có những quả đạn không ngòi nổ rơi xuống mặt đất rồi dội văng lên trúng vào tường nhà đập bể cả khối bê tông. Ðến 4 giờ rưỡi sáng tự nhiên tiếng pháo im bặt, sự yên lặng bao trùm ghê sợ, mùi thuốc đạn đại bác còn bay khét lẹt. Lại chiến thuật tiền pháo hậu xung, chúng tôi ngồi chong mắt chờ cuộc xung phong của con cháu bác Hồ. Ðến 5 giờ sáng Việt Cộng bắt đầu pháo lại như mưa, sau đó thêm vài phút chúng bắt đầu tấn công từ mọi mặt, nhưng trục tiến quân chính từ Bắc xuống Nam bên khu vực hướng Ðông do hai Ðại Ðội 3 và 4 của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù trấn đóng. Từ hướng Tây, địch chọc thẳng vào phòng tuyến của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù và Trung Ðoàn 8 Sư Ðoàn 5 Bộ Binh. Ðạn giao tranh nghe ác liệt, những phi vụ B52 thả bom chỉ còn cách thành phố khoảng một cây số rưỡi, trong ngày hôm ấy 30 phi vụ B52 thả quanh thành phố ì ầm vang dội, trên bầu trời lúc nào cũng có 2 phi tuần F-4 hay A37 với những quả bom hạng nặng và bom bi chống tấn công biển người (bom bi là hàng trăm trái bom nhỏ lớn hơn quả bida một chút và sơn đủ màu trông rất đẹp mắt nhưng công dụng của màu sắc là để đánh dấu thời gian ngòi nổ cháy, những quả bom nhỏ này được dồn vào một quả bom lớn, khi quả bom lớn nổ mới tung ra hàng trăm quả bom nhỏ đó trên diện tích rộng lớn rồi mới thi nhau nổ như pháo Tết). Việt Cộng gặp sức kháng cự dũng mãnh của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù và phi pháo đành phải rút lui để bổ sung quân số. Cũng trong ngày hôm ấy hai máy bay trực thăng Cobra và hai phi cơ quan sát O-2 bị hoả tiễn tầm nhiệt SA-7 bắn rơi bên phía Tây của phòng tuyến Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù. Ðịch đang đào công sự chiến đấu bên kia rừng, các Ðại Ðội của 81 Biệt Cách Nhảy Dù theo dõi được nên Ðại Úy Huggins cho biết 3 tiếng đồng hồ nữa sẽ có 2 pass B52 thả vào khu vực đó. Khu vực thả bom chỉ cách tuyến phòng thủ của các toán Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù 600 mét và cách Bộ Chỉ Huy chúng tôi đang đóng là 800 mét. Ðến giờ B52 trên vùng oanh kích, chúng tôi được Ðại Úy Huggins cho biết còn 5 phút nữa bom sẽ thả. Sau tiếng “NOW” từ máy PRC25 chúng tôi nghe tiếng bom cắt gió “viêuu viêuu viêuu viêuu” từ trên không rơi xuống, tôi vội nằm xấp người, hai tay bịt chặt vào lỗ tai, cùi chỏ chống xuống, giữ ngực cho hỗng khỏi mặt đất, tránh sức rung. Tiếng bom nổ gần làm rung chuyển nhà cửa, mặt đất rung động dữ dội, không khí bị sức ép làm tôi khó thở, tôi không còn biết là hai phi vụ ấy đã xong chưa vì người còn như chưa tỉnh hẳn. Thành phố tối sầm lại vì đám bụi mù dầy đặc đang bay cao dần và che lấp ánh mặt trời. Những người dân trong khu vực chúng tôi cũng được chỉ cách bảo toàn thân thể khi B52 thả bom gần, nhưng có nhiều trẻ nhỏ cũng bị máu rỉ ra từ tai và mũi.
Ðêm 12/05 địch lại tấn công nhưng lần này yếu ớt và rời rạc, quân số của các công trường 5, 7, 9 đã thiệt hại quá nặng nề. Nhất là vào đêm 11/05 một trung đoàn của Việt Cộng đã hứng chính đạn pháo của pháo binh họ. Một binh sĩ Ðại Ðội 3 ở tuyến đầu kể cho tôi nghe: “Tụi nó đông như kiến, tiến lên thì gặp hàng rào kẽm bị tụi mình bắn nên tụi nó rút lui để chuẩn bị Bangalore phá rào, chiến xa càn qua khỏi hàng rào thì bị M72 rang ngay tại chỗ. Cùng lúc đó tụi nó lãnh trái pháo ngay toán quân, không may cho tụi nó là thằng sĩ quan đề lô và thằng mang máy truyền tin chết, một thằng Việt Cộng khác chạy lại chụp máy truyền tin chửi: “Ðịt mẹ các anh pháo lộn rồi, ngưng pháo ngay, ngưng pháo ngay”, nhưng khi toán pháo binh Việt Cộng hỏi mật mã để xác nhận thì thằng Việt Cộng này không biết. Chúng tưởng bọn mình vô được tần số của chúng để gọi ngưng pháo, chúng tưởng đã trúng mục tiêu nên lại càng pháo dữ dội hơn, khi không mà chúng ta “bất chiến tự nên thành”.
Cũng trong đêm ấy tôi rời khẩu súng cối đã hết đạn để trở về gác bên khu bệnh xá của Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù, phiên gác 4 tiếng đồng hồ của tôi dài lê thê. Quân số bất khiển dụng càng nhiều thì giờ gác cũng tăng lên, sĩ quan cấp Trung Úy cũng lãnh 4 chỉ hay 2 chỉ gác như ai. Trong tiếng đạn nổ tơi bời, tôi ngồi dựa lưng vào thành bao cát trong phiên gác đêm. Nhưng làm sao tôi ngăn được giòng lệ tuôn rơi, khi nghe tiếng rên xiết đau đớn của một thương binh rất trẻ từ tuyến đầu đưa về.
“Bố ơi, mẹ ơi, các em ơi chắc con không về được để gặp bố mẹ, con đau đớn quá, con nhớ bố mẹ quá. Ôi đau đớn quá”. Mười phút sau lại tiếng người thương binh: “Chúa ơi ! Con biết hôm nay Chúa gọi con về, con đã làm gì nên tội mà Chúa cho con sự đau đớn khôn cùng này. Chúa ơi, xin Chúa cứu vớt linh hồn con”.
Có tiếng lục đục trong khu bệnh xá và tiếng hỏi khẽ của Thượng Sĩ Tụng: “Morphine đâu?” Sau đó tôi không còn nghe tiếng rên của người thương binh. Tôi ngồi suy nghĩ miên man đến gia đình ở Ðà Lạt và người yêu ở Sài Gòn. Chuyến đi vào An Lộc quá đột ngột, tôi không có thì giờ để viết thư ngắn ngủi để gửi về cho những người thân yêu đó. Tôi cũng như người thương binh trẻ kia đều có nơi chốn để về, để vui mừng xum họp, để hàn huyên tâm sự sau mỗi chuyến hành quân hay những ngày nghỉ phép. Nỗi nhớ nhung người yêu quay quắt trong lòng, chồng thư tôi viết cho người yêu, cho gia đình mỗi ngày mỗi dầy thêm trong ba lô. Những lá thư gói ghém thương yêu, kể chuyện vui buồn đời lính, những suy tưởng vụn vặt, đã không có phương tiện gửi về trong hai tháng đó. Người yêu và gia đình tôi giờ này chắc đang ngủ say trong giấc điệp, họ có biết đâu tôi đang ngồi ôm súng gác giặc mà giòng lệ tuôn tràn cho thân phận người thương binh trẻ ấy. Tiếng kêu thương nhớ gia đình trong cơn đau đớn của anh có ai nghe, ngoại trừ tôi. Tôi không biết gia đình anh ở đâu? người yêu của anh thế nào? Họ có biết ý nghĩ trong tim óc anh và có nghe những lời thương nhớ của anh vào lúc 4 giờ sáng ngày 12/05/1972 ở An Lộc không? Một giờ đồng hồ sau tôi lại nghe tiếng người thương binh:
- “Thượng Sĩ Tụng ơi? Thượng Sĩ Tụng ơi? Ðỡ tôi dậy cho tôi đi đái”. Giọng nói của người thương binh nghe rất rõ và bình thường chứ không còn đau đớn nữa. Có tiếng chân người xê dịch chậm trong bệnh xá trong vòng năm bẩy phút.
- Cám ơn Thượng Sĩ. Tiếng người thương binh.
Mãn phiên gác tôi trở vào Bộ Chỉ Huy và ngủ vùi. 7 giờ sáng gặp anh Tụng tôi hỏi ngay về số phận người thương binh ấy.
- Chết rồi.
- Bốn giờ sáng còn gọi anh đưa đi đái mà. Tôi hỏi.
- Sau khi đi đái trở về chỗ nằm cũng là lúc anh ấy chết… Vết thương ở bụng quá nặng….
- !!!!!!!!!!!!!
Những chuyện đau thương, vui buồn, chuyện dùng mưu trí để đánh nhau với Việt Cộng ở trong An Lộc đã có quá nhiều trong tâm khảm người lính chúng tôi, mỗi ngày, mỗi đêm, mỗi giờ là tim óc chúng tôi lại in thêm những sự kiện mới. Cuộc chiến thật buồn cười, trong lúc những người lính Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù và Việt Cộng đã sống trong cùng căn phố, chúng tôi chẳng phải đi tìm địch ở đâu xa, mỗi khi thức dậy sau giấc ngủ là có thể đi rình mò tỉa địch được rồi. Cơm gạo xấy và thức ăn đóng hộp ăn mãi cũng chán, đã có một vài người bạn bị phù thủng. Chúng tôi thèm rau một cách kinh khủng, những cây chuối sau vườn nhà đã được cắt sát gốc, lõi được xắt ra để làm nộm trộn chung với thịt hộp, ôi cái món nộm mộc mạc nhưng ngon vô cùng. Khoảng 5 hay 7 ngày sau chúng tôi lại được ăn món này nhờ những chồi chuối non mọc lại. Có những người dân liều mạng ra các bờ mương, ruộng cạnh khu phố hướng Tây để hái rau, họ quơ cào cắt vội cho vào những thúng mang về. Họ cho tổ súng cối chúng tôi một ôm rau muống, hạnh phúc hay thiên đường ở đâu tôi chưa biết, nhưng bó rau muống ấy đã cho chúng tôi những bữa cơm thịnh soạn nhất trần đời. Chỉ ngắt đi những chiếc lá bị úng, cái cuống và lá hơi vàng cũng cho vào chảo xào luôn. Tôi đã sợ thịt heo vào những ngày đầu trong chiến trận, khi nhìn thấy những con heo không chủ xổng chuồng đang tạp tạp cái đùi một tên Việt Cộng chết đã chương sình, làm tôi thấy lợm giọng. Vài ngày sau mấy tay thợ nhậu trong toán truyền tin đem về nguyên cái đầu heo luộc để nhâm nhi, nhìn lại cái đầu heo luộc, nhớ đến con heo bữa đó, tôi gắp các món ăn khác cho chắc ăn …
Ngày 12/05 địch vẫn pháo cầm chừng khoảng 2,000 trái mỗi ngày vào An Lộc và sau đó thưa dần. Sau ngày 16/05 các phi vụ B52 và phi pháo truy kích địch đã xa hơn ngoài thành phố. Ngày 29/04 từ phía Nam quốc lộ 13, Sư Ðoàn 21 Bộ Binh đã tiến đến Chơn Thành và hai tuần sau đó các đơn vị bạn đã bứng chốt, kiềng của Công Trường 7 và vượt qua khỏi Chơn Thành hơn 8 cây số về hướng An Lộc. Tại quốc lộ 13 Trung Ðoàn 15 của Sư Ðoàn 9 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà đã bọc hậu vào Công Trường 7 Việt Cộng để cùng Sư Ðoàn 21 Bộ Binh dùng thế gọng kìm.
Ngày 16/05 Sư Ðoàn 21 Bộ Binh đã tiến đến Tân Khai, các đơn vị tăng phái còn cách An Lộc 10 cây số. Ngày 08/06 các đơn vị trong An Lộc tấn công vào khu phố Việt Cộng chiếm, chúng chém vè về các khu bìa rừng ở hướng Tây và Bắc. Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù đã anh dũng cắm quốc kỳ thân yêu trên ngọn đồi Ðồng Long.
Tin từ hậu phương cho biết, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố tất cả những quân nhân tử thủ ở An Lộc, mỗi người đều được thăng một cấp đã làm cho những người lính đang chiến đấu ở An Lộc ngạc nhiên và phấn khởi. Trung Úy Cao Văn Cát, người pháo binh tăng phái cho Liên Ðoàn, đã dậy tôi vài ngón đàn guitar classic khi cuộc chiến ở đó đã tạm lắng dịu. Mỗi khi gặp tôi, Trung Úy Cát thường nói đùa:
- Mày còn trẻ quá mà đeo lon Thượng Sĩ coi chừng bị quân cảnh bắt đó, ai mà tin được.
- Thôi đi ông nội. Cố Thượng Sĩ thì có. Tôi đùa lại. Tôi chợt buồn cười khi nghĩ đến hình ảnh một ông Thượng Sĩ thường là già tuổi đời trong binh nghiệp, một ông Thượng Sĩ ở hậu cứ ngày ngày đạp xe đạp từ khu gia binh vào doanh trại tập họp, bên hông đeo cái bi đông đựng đầy rượu đế với sợi giây thắt lưng TAB to bản, hình ảnh ông Thượng Sĩ lè phè đó làm tôi thối chí, không còn muốn nghĩ đến cái lon Thượng Sĩ nữa.
An Lộc đã trải qua những ngày u ám, những nụ cười rạng rỡ trên khuôn mặt trắng xanh của nguời dân vì thiếu nắng. Nỗi vui mừng hân hoan đến khắp nơi, dân chúng đã túa ra đường lên những khu nhà cũ hỏi thăm nhau. Những giọt nước mắt vì vui mừng vì tang thương lẫn lộn. Những người bị thương trong thành phố An Lộc không phân biệt dân hay lính đã được trực thăng tải thương về Lai Khê vào lúc này.Thật tội nghiệp cho những người thương tật ấy, có những vết thương sơ sài nhưng vì tình trạng thiếu thuốc men, vệ sinh mà vết thương đã có dòi bọ lúc nhúc. Mỗi chuyến trực thăng tản thương là nỗi vui mừng của người dân người lính bị thương và cũng là hạnh phúc tuyệt vời của những người lính còn ôm súng trong thành phố, những lá thư, thùng quà từ hậu phương được tới tấp gửi đến, chúng tôi thật sự đã nối liền liên lạc với đời sống bên ngoài.
Mỗi lần gặp TS1 Khỏe từ khu tiếp vận về là tôi hỏi:
- Có thư không mày?
- Chuyến này chưa có.
Rồi sự nôn nóng mong đợi thư từ trong lòng mọi người cuối cùng rồi cũng đến. Nhìn những thùng giấy dán kín bên ngoài có chữ Ðại Ðội 1, Ðại Ðội 2, Bộ Chỉ Huy… Lệnh Trung Tá Huấn gọi các Ðại Ðội cử quân nhân đại diện lên lấy thơ. Tôi từ bên tổ súng cối thót nhanh về Bộ Chỉ Huy. Ðây cũng là phút giây khổ sở nhất nhưng cũng là vui
340/421
nhất trong những ngày ở An Lộc. Trung Sĩ 1 Khỏe rút dao đi rừng giọc thùng thư và bắt đầu phân phát, nó đọc to tên những người nhận:
- Hạ Sĩ Nguyễn Văn Sấy
- Ðại Úy Trần Văn Thọ
……………………………………………
Có một xấp thư hơi dầy Khỏe nhíu mày xong nó kẹp bên nách nói “thơ của Ðại Ðội 2 bỏ lộn thùng”. Sấp thơ trên tay nó vơi dần, tôi hồi hộp, chơi vơi hụt hẫng. Sao không có tên tôi? Lá thư sau cùng được trao đi thế là hy vọng tôi tan thành mây khói. Nhìn nét mặt chảy dài thiểu não của tôi thằng Khỏe lấy xấp thư kẹp ở nách ra và dõng dạc đọc:
- Thân gửi chiến binh đa tình Ðỗ Ðức Thịnh. Tim tôi thót lại, thư của người yêu tôi. Tôi mừng rỡ phóng tới nhưng Khỏe xô tôi ra, tay phải cầm xấp thư đưa cao lên. Nó nhìn tôi vừa cười vừa nói cái giọng của người Phan Rang:
“Hay, ỏng cooi! ÐM, Thuốc lá đâu? phải dâng rồi mới có thư chớ hehehehe”. Móc gói thuốc quăng cho nó nhưng thằng con chỉ móc một điếu rối bắt tôi phải đi mời hết tất cả mọi người trong Bộ Chỉ Huy. Tôi khổ sở vừa đi mời thuốc mà lòng thì nôn nóng, sau khi mời hết xong thì nó tỉnh bơ ra lệnh cho tôi:
- Ngồi đó hút thuốc đi chú em để tao đọc thư em mày cho.
- ÐM. Ðưa thư đây cho tao. Tôi vừa nói vừa cố giằng thư nhưng nó né tránh rất tài tình. Cả Bộ Chỉ Huy theo dõi hai thằng từ những giây phút qua, coi bộ ai cũng nghiêng về phe con nhà Khỏe. Ðại Úy Thọ ngôn cái giọng Bắc Kỳ nhừa nhựa:
- Ậ y y ! Làm gì mà nóng, để thằng Khỏe nó đọc cho nghe, chiến binh đa tình ngoài phong bì thì nội dung cái thư hấp dẫn đây, chuyện tình love story đến chương 9 rồi đấy.
Thằng Khỏe được nước bèn tỉnh bơ xé bức thư của người yêu tôi ra đọc:
- “Sài Gòn ngày … tháng … năm 1972.” Chữ anh yêu được con nhà Khỏe đọc – Anh yếu xìu, thuốc tam tinh hải cẩu bổ thận hoàn đâu hay súng cối anh hết đạn? Ủa, mà không phải ờ Anh Yêu, anh yêu đó nghen … cả Bộ Chỉ Huy cười ran, thằng Khỏe được thể pha trò :
- ÐM. Thư em mày viết chữ gì khó hiểu quá, thôi để tao phụ đề Việt ngữ cho tiện việc sổ sách. Nhìn thằng Khỏe nham nhở đọc thư người yêu tôi cho mọi người trong Bộ Chỉ Huy nghe mà tôi đành ngậm bồ hòn làm ngọt. Nó chế biến thêm thắt, giảng giải, thêm vào đó mấy ông thần trong Bộ Chỉ Huy góp lời phụ hoạ làm cho mọi người cười nghiêng ngả. Tôi cũng hoang mang không biết nó thêm thắt chỗ nào nữa, đọc xong cái lá thư cuối nó ném xấp thư về phía tôi xong cười ngạo nghễ và biến mầt qua lỗ tường nhà. Tôi nhặt xấp thư và vọt nhanh về bên tổ súng cối. Lúc này tôi có đủ sự yên lặng để đọc những giòng thư thương mến.
GIÃ TỪ AN LỘC
Buổi sáng sớm ngày 24/06/1972 Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù được lệnh triệt xuất khỏi An Lộc, đơn vị tập họp ở trước nghĩa trang Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù. Phía sau đoàn quân Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù là những người dân trong khu phố chúng tôi trấn thủ vào những ngày qua. Trước hàng quân Trung Tá Huấn cám ơn tất cả các đơn vị, dân quân đã sát cánh chiến đấu cho Thị Xã vào những ngày qua và sau đó là một phút mặc niệm cho anh linh tử sĩ của những người vị quốc vong thân. Chúng tôi lặng lẽ rời thành phố An Lộc bỏ lại sau lưng những ánh mắt đầy nhân ái. Tâm tư tôi lúc ấy thật bùi ngùi luyến tiếc, cái luyến tiếc mênh mông không tả được, sự sống, sự chết, chiến tranh, hy vọng, và thân phận con người…
Dọc theo quốc lộ 13 xác người dân chết trải dài trên mặt lộ vì đạn pháo của Việt Cộng. Tất cả ai trốn chạy chúng đều bị khép vào tội theo Mỹ Nguỵ. Xác một em bé trai khoảng 10 tuổi nằm giữa mặt lộ, thịt đã rữa đi hết chỉ còn trơ lại lớp da khô đen bóng ôm lấy bộ xương. Em nằm đây đã bao lâu nào ai biết, sương nắng đã phơi khô cái thân hình trông thảm thương đó. Ðôi mắt tuổi thơ chỉ còn hai lỗ sâu hoắm được che ngang bằng da vành mi khô cứng. Em có tội tình gì???
Ðại úy Thọ ra lệnh cho tôi và Lễ làm hướng dẫn viên cho phi đoàn trực thăng đáp. Tôi trong Toán 1, Lễ Toán 2. Tôi, Lễ chuẩn bị kiếng chiếu và panel để xác định điểm bốc. Toán 1 chuẩn bị lên tầu đã nằm rải hai bên quốc lộ 13, Toán 2 tiếp tục di chuyển. Từ xa tiếng động cơ trực thăng quen thuộc vọng về, tiếng động cơ lớn dần và vang vọng, tôi chạy ra đứng giữa đường phất panel ra hiệu cho đoàn trực thăng giảm dần cao độ để tiến về hướng tôi, nhìn trước kính lái tôi nghiêm chào nhân viên phi hành, xong chạy nhanh vào ẩn mình thấp bên vệ đường. Toán 1 lên tầu một cách nhanh chóng nhưng tôi có cái cảm tưởng như đoàn trực thăng chưa đáp đã bay dài theo quốc lộ 13 xuôi về Nam. Vài quả súng cối 82 ly pháo vào nhưng còn cách chúng tôi khoảng 200 mét. Lúc này tôi và Ðại Úy Thọ lại là cái đuôi của Toán 2 nên lẽo đẽo theo toán chờ cho đến khi trực thăng đến. Trực thăng vận đợt 3, sau khi ra hiệu cho chiếc đầu hover trên quốc lộ, tôi phóng mình ngay xuống hố bom khá sâu giữa đường để tránh pháo. Oành, oành, oành. Từ dưới hố bom ngửa mặt lên trời tôi thấy đoàn trực thăng vút qua nhanh trên hố bom và xa dần. Nhảy ra khỏi hố bom chợt thấy hai quân nhân Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù còn nằm đó, tôi hỏi:
- Sao chưa lên tầu ?
- Em bị thương.
Ðưa bàn tay đầy máu người chiến binh trẻ trả lời, còn người kia nằm bất động. Tôi la lớn: “Gọi Thượng Sĩ Tụng gấp, có lính bị thương”. Người lính bị thương ở đùi không đi được nhưng còn tỉnh táo, người lính thứ hai nằm theo thế nghiêng, anh vẫn còn thở, đôi mắt mở và trong cái nhìn xa vắng vào phía cuối con đường định mệnh, quốc lộ 13, đôi mắt không phải là mất hết tinh anh mà là đôi mắt của sự ngạc nhiên cùng cực. người chiến binh đó chỉ bị một miểng pháo thôi, không một giọt máu chảy từ vết thương. Anh đã bị miểng pháo xuyên từ dưới bệ sườn bên phải xuyên lên tim. Oái oăm thay cái miểng đạn đã đi giữa kẻ hở bên hông cái áo giáp anh đang mặc trên người. Thượng sị Tụng tay bắt mạch nhưng lắc đầu buồn bã. Hai phút sau, Thượng Sĩ Tụng đưa tay vuốt mắt cho người chiến binh chết vào giờ thứ 25 đó. Ðôi mắt của người chiến binh Liên Ðoàn 81 Biệt Cách Nhảy Dù khép lại… từ giã An Lộc … Anh đã từ giã An Lộc trong ngày tàn cuộc chiến.
Toán tôi sau cùng cũng lên trực thăng bay về Lai Khê để rồi từ đó tôi lại cùng đơn vị ra tuyến đầu lửa đạn ở Ðại Lộ Kinh Hoàng, Mỹ Chánh, Thạch Hãn, Cổ Thành … Những địa danh đã đi qua để lại trong tôi quá nhiều kỷ niệm. Ðời quân ngũ không có gì là sung sướng, chúng tôi đã tìm lấy niềm vui trong gian khổ, đã nhẫn nại trước thử thách gian truân, và những éo le cay đắng của đời quân ngũ đã tạo cho tôi lòng thương yêu, mến phục những con người đã một thời được gọi là Lính Việt Nam Cộng Hoà.
Viết tại Boise, ngày 30 tháng 04 năm 1998 Đỗ Đức Thịnh
343/421
Ban do VN-Muc luc
https://maps.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/vietnam_index.html
An Loc-6332-3
https://maps.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/an_loc-6332-3.pdf
Loc Ninh-6332-4
https://maps.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/loc_ninh-6332-4.pdf
Xom Ruong-6331-4
https://maps.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/xom_ruong-6331-4%20.pdf
Khu vuc Xa Mat, Tay Ninh, Cuc R
https://www.chartsandmaps.com/index.php?main_page=popup_image&pID=10497
Xa Mat, Tay Ninh, Cuc R Cambodia # 6132-2
https://www.chartsandmaps.com/index.php?main_page=popup_image&pID=10497
Xa Mat, Tay Ninh, Cuc R
https://bachvietnhan.blogspot.com/2022/04/20220416-loc-chien-su-1972-phan-32.html
No comments:
Post a Comment