Saturday, September 10, 2022

20220909 Cong Dong Tham Luan Dia Ban Hai Chau Kinh Chau Duong

20220909 Cong Dong Tham Luan Dia Ban Hai Chau Kinh Chau Duong

 

Địa Bàn Hai Châu Kinh Châu Dương Đất Bách Việt

*** Trong khi đi tìm các địa danh cùng tọa độ cho tài liệu "Địa Sử Lĩnh Nam" chúng tôi đã tình cờ tìm ra được địa bàn của hai châu Kinh và Dương trong giai đoạn cổ sử. Theo cổ sử triều đại Thần Nông Nam, tức vua Kinh-Dương (vua hai Châu Kinh và Dương), đã được khởi đầu từ Thái- tử Lộc-Tục thế nhưng không hiểu sao thủy tổ của Bách-Việt lại chỉ được khởi đầu từ Thái-tử Sùng-Lãm tức vua Lạc-Long! Địa bàn của hai châu Kinh và Dương nằm phía Bắc trên lưu vực sông Dương Tử/Yangtze River mà hiện nay được gọi là sông Trường-giang. Ngoài ra dọc theo hai bên sông Dương-tử/Yangtze River những địa danh tiếng Việt vẩn còn nguyên. Qua những tài liệu không ảnh cho chúng tôi thấy rằng những gì mà trước kia chúng ta nghỉ rằng nó chỉ là huyền sử, thì nay với những chứng cứ nầy nó đã xác minh đây là phần địa bàn cổ sử của Bách Việt *** 

Kinh Châu

30°20'5.24"N 112°14'26.49"E

Sa Thị • Kinh Châu • Hồng Hồ • Thạch Thủ • Tùng Tư • Giam Lợi • Công An • Giang Lăng

https://vi.wikipedia.org/wiki/Kinh_Ch%C3%A2u_(qu%E1%BA%ADn)

Dương Châu

32°23'21.37"N 119°24'46.26"E 

01

Tài liệu đọc thêm:

https://luocsutocviet.com/tag/lang-linh/

https://luocsutocviet.com/tag/lang-linh/page/2/

https://luocsutocviet.com/tag/lang-linh/page/3/

https://luocsutocviet.com/tag/lang-linh/page/4/

https://luocsutocviet.com/tag/lang-linh/page/5/

https://luocsutocviet.com/tag/lang-linh/page/6/

https://luocsutocviet.com/tag/lang-linh/page/7/

https://luocsutocviet.com/2021/05/05/529-nguoi-viet-theo-che-do-phu-he-tu-khi-nao/

https://luocsutocviet.com/2019/04/11/228-thu-tim-lai-bien-gioi-co-cua-nuoc-viet-bang-co-su-triet-hoc-di-tich-va-he-thong-adn/

https://luocsutocviet.com/2022/07/07/593-tieng-viet-co-phai-mot-ngon-ngu-chiu-anh-huong-nang-ne-cua-tieng-han/

https://luocsutocviet.com/2018/01/07/053-khao-cuu-ve-trang-phuc-thoi-ky-hung-vuong/

 

228. Thử tìm lại biên giới cổ của nước Việt: bằng cổ sử, triết học, di tích và hệ thống ADN

https://luocsutocviet.com/2019/04/11/228-thu-tim-lai-bien-gioi-co-cua-nuoc-viet-bang-co-su-triet-hoc-di-tich-va-he-thong-adn/

Trích đoạn:   Về Vua Kinh Dương

Chương trình giáo dục cổ bắt học sinh học hai loại sử. Bắc-sử tức sử Trung-quốc. Nam sử tức sử của Việt-Nam. Tôi được học Nam sử bằng chữ Nho, đồng thời với những bài sử khai tâm bằng chữ Quốc ngữ vào năm bảy tuổi. Thời điểm bấy giờ bắt đầu có những bộ sử viết bằng chữ Quốc ngữ, rất giản lược, để dạy học sinh; không bằng một phần trăm những gì tôi học ở nhà. Thầy giáo ở trường Pháp biết tôi là cái kho vô tận về sử Hoa-Việt, nên thường bảo tôi kể cho các bạn đồng lớp về anh hùng nước tôi. Chính vì vậy tôi phải lần mò đọc những bộ sử lớn viết bằng chữ Hán như:

·        Ðại-Việt sử ký toàn thư (ÐVSKTT),

·        An-Nam chí lược (ANCL),

·        Ðại-Việt thông-sử (ÐVTS),

·        Khâm-định Việt sử thông giám cương mục (KÐVSTGCM),

·        Ðại-Nam nhất thống chí (ÐNNTC).

Ðại cương mỗi bộ sử đều chép rất giản lược về nguồn gốc dân tộc Việt-Nam sau:

« Vua Minh cháu bốn đời vua Thần-Nông, nhân đi tuần thú phương nam, đến núi Ngũ-lĩnh, kết hôn với một nàng tiên hạ sinh một con trai tên Lộc-Tục. Vua lập đài, tế cáo trời đất, phong cho con trưởng làm vua phương Bắc, tức vua Nghi, phong con thứ là Lộc-Tục làm vua phương Nam. Ngài dạy hai thái tử rằng:

« Nghi làm vua phương Bắc, Tục làm vua phương Nam, lấy núi Ngũ-lĩnh làm cương giới. Hai người làm vua hai nước nhưng vốn cùng gốc ở ta, phải lấy điều hiếu hoà mà ở với nhau. Tuyệt đối Nam không xâm Bắc, Bắc chẳng chiếm Nam. Kẻ nào trái lời, sẽ bị tuyệt tử, tuyệt tôn ».

Xét triều đại Thần-Nông, khởi từ năm 3118 trước Tây lịch, đến đây thì chia làm hai:

1. Thần-Nông Bắc.

·        Vua Nghi (2889-2884 trước Tây lịch)

·        Vua Lai (2843-2794 trước Tây lịch)

·        Vua Ly (2795-2751 trưước Tây-lịch)

·        Vua Du-Võng (2752-2696 trước Tây-lịch).

Ðến đây triều đại Thần-Nông Bắc chấm dứt, đổi sang triều đại Hoàng-đế từ năm giáp Tý (2697 trước Tây-lịch). Các nhà chép sử Trung-quốc lấy thời đại Hoàng-đế làm kỷ nguyên. Trong bộ Sử-ký, Tư-mã Thiên khởi chép quyển một là Ngũ-đế bản kỷ, coi Hoàng-đế là Quốc-tổ Trung-quốc, không chép về thời đại Thần-Nông.

2. Triều đại Thần-Nông Nam.

Thái-tử Lộc-Tục lên làm vua năm Nhâm-Tuất (2879 trước Tây-lịch) hiệu là Kinh-Dương, lúc mười tuổi. Sau người Việt lấy năm này làm kỷ nguyên lập quốc. Nếu cộng chung cho đến nay (1991) là 4870 năm, vì vậy người Việt tự hào rằng đã có năm nghìn năm văn hiến. (1)

[Nội dung bài diễn văn hôm nay, tôi chỉ bàn đến diễn biến chính trị, lịch sử, văn hóa, địa lý của dân tộc -Trung-hoa, và dân tộc Việt-Nam trong khoảng thời gian 4870 năm từ năm 2879 trước Tây-lịch cho đến năm nay 1991. Còn như đi xa hơn về những thời tiền cổ, thời đồ đá, đồ đồng, đồ sắt, quá phức tạp, quá dài, tôi không luận đến ở đây.]

Xét về cương giới cổ sử chép:

« Thái-tử Lộc-Tục lên ngôi lấy hiệu là Kinh-Dương (2), đặt tên nước là Xích-quỷ, đóng đô ở Phong-châu nay thuộc Sơn-Tây. Vua Kinh-Dương lấy con gái vua Động-đìnhLong-nữ đẻ ra Thái-tử Sùng-Lãm. Thái-tử Sùng-Lãm lại kết hôn với công chúa Âu-Cơ con vua Đế-Lai (3). Khi vua Kinh-Dương băng hà thái-tử Sùng-Lãm lên nối ngôi vua, tức vua Lạc-Long, đổi tên nước là Văn-Lang. Nước Văn-Lang Bắc tới hồ Động-đình, Nam giáp nước Hồ-tôn, tây giáp Ba-thục, đông giáp biển Đông-hải.)

Cổ sử đến đây, không có gì nghi ngờ, nhưng tiếp theo lại chép:

« Vua Lạc-Long lấy công chúa Âu-Cơ sinh ra một bọc trăm trứng nở ra trăm con. Ngài truyền cho các hoàng tử đi bốn phương lập ấp, tổ chức cai trị giáo hóa dân chúng. Mỗi vị lập một ấp theo lối cha truyền con nối.

·        Hoàng-tử thứ nhất tới thứ mười lập ra vùng hồ Ðộng-đình(Nay là Hồ-Nam, Quý-châu, Trung-quốc.)

·        Hoàng-tử thứ mười một tới thứ hai mươi lập ra vùng Tượng-quận(Nay là Vân-Nam một phần Quảng-Tây, Tứ-xuyên thuộc Trung-quốc.)

·        Hoàng-tử thứ ba mươi mốt tới bốn mươi lập ra vùng Chiêm-thành(Nay thuộc Việt-Nam, từ Thanh-hóa đến Ðồng-nai.)

·        Hoàng-tử thứ bốn mươi mốt tới năm mươi lập ra vùng Lão-qua(Nay là nước Lào một phần Bắc Thái-lan.)

·        Hoàng-tử thứ năm mươi mốt tới sáu mươi lập ra vùng Nam-hải(Nay là Quảng-đông, và một phần Phúc-kiến, Trung-quốc.)

·        Hoàng-tử thứ sáu mươi mốt tới bảy mươi lập ra vùng Quế-lâm(Nay thuộc Quảng-tây, Trung-quốc.)

·        Hoàng-tử thứ bảy mươi mốt tới tám mươi lập ra vùng Nhật-nam(Nay thuộc Việt-Nam từ Nghệ-an tới Quảng-bình.)

·        Hoàng-tử thứ tám mươi mốt tới chín mươi lập ra vùng Cửu-chân(Nay thuộc Việt-Nam từ Ninh-bình tới Thanh-hóa, Nghệ-an, Hà-tĩnh.)

·        Hoàng tử thứ chín mươi mốt tới một trăm lập ra vùng Giao-chỉ(Nay là Bắc Việt-Nam và một phần tỉnh Quảng-tây, Vân-Nam thuộc Trung-quốc.)

Ngài hẹn rằng: Mỗi năm các hoàng-tử phải về cánh đồng Tương vào ngày Tết, để chầu hầu phụ mẫu ».

Một huyền sử khác lại thuật:

Vua Lạc-Long nói với Âu-Cơ rằng: « Ta là Rồng, nàng là loài Tiên ở với nhau lâu không được. Nay ta đem năm mươi con xuống nước, nàng đem năm mươi con lên rừng. Mỗi năm gặp nhau tại cánh đồng Tương một lần »

Các sử gia người Việt lấy năm vua Kinh-Dương lên làm vua là năm Nhâm-tuất (2879 trước Tây-lịch), nhưng không tôn vua Kinh-Dương với Công-chúa con vua Ðộng-đình làm Quốc-tổ, Quốc-mẫu, mà lại tôn vua Lạc-Long làm Quốc-tổ và Công-chúa Âu-Cơ làm Quốc-mẫu. Cho đến nay Quý-vị hỏi trăm người Việt ở hải ngoại rằng tổ là ai, họ đều tự hào:

« Chúng tôi là con Rồng, cháu Tiên.
Quốc-tổ tên Lạc-Long, Quốc-mẫu tên Âu-Cơ
 ».

Chủ đạo của tộc Việt bắt nguồn từ niềm tin này.

Hai Châu Kinh và Châu Dương địa bàn lãnh thổ của Bách Việt cùng với Động Đình Hồ phía Bắc sông Dương-tử giang/Yangtze River tức Trường-giang. 

02


No comments:

Post a Comment