*** Bản đồ của trận chiến được cập nhật từ bản
đồ hành quân củ trước năm 1975 cùng với bản đồ không ảnh của Google
Earth để tiện việc so sánh.
https://baovecovang2012.wordpress.com/2013/01/27/anh-hung-bat-mang-tran-thy-van/
20200109 Mu Nau Tran Thy Van DD1/21 BDQ
Sau đó Biệt Động Quân dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Quách Thưởng, tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn Biệt Động Quân 21, gồm bốn đại đội Biệt Động Quân đánh tái chiếm Sa Huỳnh.
20200109 MNTTV 09
20200109 Mu Nau Tran Thy Van DD1/21 BDQ
http://legacy.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/tam_quan-6838-3.pdf
Sa Huynh Tam Quan
http://legacy.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/an_lao-6738-2.pdf
An Lao Ba To Hoai Nhon
Mũ Nâu Trần Thy Vân tiếp tục chiến đấu bằng ngòi bút
nơi hải ngoại
Văn Lan/Người Việt
January 7, 2020
20200109
MuNauTranThyVan 01
Ông Trần Thy Vân giới
thiệu quyển sách “The Black Tigers - Rangers of the Second Indochina War” viết
về Biệt Động Quân của hai tác giả Michael N. Martin và McDonald Valentine, Jr.
(Hình: Văn Lan/Người Việt)
HUNTINGTON BEACH, California (NV) – Trong lịch sử chiến tranh Việt Nam,
“Đại Lộ Kinh Hoàng” là một địa danh kinh hoàng theo đúng nghĩa của nó, với hàng
chục ngàn thường dân vô tội đã chết thảm vì những trận pháo kích của Cộng Sản.
Sau những trận tấn công của Việt Cộng bằng
pháo kích dữ dội ngày đêm vào các tỉnh địa đầu, từ căn cứ Ái Tử, phía Bắc sông
Thạch Hãn, do bị những trận tàn sát tập thể năm Mậu Thân 1968 ở Huế ám ảnh,
người dân đã bỏ chạy loạn.
Biệt Động Quân ghi chiến sử trận đánh Cầu Bến
Đá
Ngồi trong căn nhà ở Huntington Beach,
California, Mũ Nâu Trần Thy
Vân kể tiếp với phóng viên nhật báo Người Việt về trận đánh
Cầu Bến Đá.
Ông kể, từ Quảng Trị vào Nam, cả dòng người
gồng gánh tháo chạy, người dân, binh lính, các loại xe quân sự, xe đò, chen
chúc nhau kẹt cứng trên quốc lộ 1, để rồi làm mồi ngon cho những trận đạn pháo
Cộng Sản bắn đuổi theo.
Ông nhớ lại: “Khi ấy Quảng Trị đã thất thủ,
dân chúng và binh sĩ đều bỏ lại Quảng Trị sau lưng, theo Quốc Lộ 1 chạy về Huế,
Đà Nẵng. Tiểu Đoàn 21 Biệt Động Quân vẫn còn đầy đủ quân số, từ hướng Tây nhà
thờ La Vang nhắm hướng Đông kéo ra. Trên đường gần tới Cầu Bến Đá chúng tôi
dừng lại để phá hủy tất cả xe Jeep của Tiểu Đoàn 21, riêng Đại Đội 1/21 Biệt
Động Quân chúng tôi tiến về Cầu Bến Đá, cách đó hơn 200 mét, đã bị đại đội C7
thuộc Trung Đoàn K8 Sư Đoàn 304 Cộng Sản Bắc Việt chiếm cứ. Mục đích của chúng
là chận đường của dân quân VNCH đang rút chạy về phía Nam.
20200109
MuNauTranThyVan 02
Thương binh Trần Thy
Vân trước khi rời Tổng Y Viện Duy Tân Đà Nẵng, Tháng Ba, 1975. (Hình: Trần Thy
Vân cung cấp)
“Lúc đó chúng tôi sôi máu lên vì thấy đồng bào
và thương binh đồng đội của mình bị đạn pháo chết quá nhiều, sau khi nhận lệnh
của Thiếu Tá Quách Thưởng, tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 21 Biệt Động Quân, bằng
mọi giá phải tiêu diệt địch đang chiếm giữ cây cầu. Sau khi yêu cầu dân chúng
hai bên đường lui về sau xa hơn 200 mét để tránh thương vong, chúng tôi xông
thẳng vào địch quân đóng ngay trên cầu. Có một khẩu cối 60 ly nhưng vì quá gần
không xài được, lúc đó tất cả hỏa lực súng trường chúng tôi đều khai hỏa, cùng
lựu đạn nổ vang trời. Trong chiến trận, hỏa lực bên nào mạnh hơn sẽ thắng, bọn
Việt Cộng bị đánh chịu không nổi, trước khi bỏ chạy vô núi, chúng giật mìn sập
cầu,” ông Vân kể.
“Chiếc cầu sập làm tình hình càng bi thảm hơn,
khi dòng người dừng lại không tiến cũng không lùi được, bị pháo binh Việt Cộng
tàn sát vô kể, hiện nay sách vở đã viết lại rất đầy đủ chuyện này. Và Đại Đội
1/21 Biệt Động Quân là đơn vị đã giao chiến với Đại Đội C7 Trung Đoàn K8/ Sư
Đoàn 304 Cộng Sản lần cuối cùng trong trận đánh tại Cầu Bến Đá trên ‘Đại Lộ
Kinh Hoàng’ năm 1972,” ông kể tiếp.
Ông Vân cho biết Cầu Bến Đá với hai bờ sông
thẳng đứng, không có bờ dốc thoai thoải như các bờ sông khác, thành ra khi cầu
bị sập, không ai có thể qua được bờ bên kia, người dân, cả những xe GMC quân
đội chở thương bệnh binh từ bệnh viện Quảng Trị về cũng không qua được, làm
chết thêm một số thương bệnh binh nữa.
“Sau đó Đại Đội 1/21 Biệt Động Quân chúng tôi
phải kéo quân dẫn hàng trăm ngàn người đi thẳng ra hướng Đông, qua cánh đồng
ruộng về phía bờ biển, trước khi gặp sông Mỹ Chánh về phía Nam, lại bị Hải Quân
của phe ta từ biển bắn đại bác vô vì tưởng lầm là Việt Cộng, làm chết thêm một
số dân chúng đi theo. Tới bờ sông Mỹ Chánh là 2 giờ khuya, phải tạm dừng quân
chờ trời sáng, lại kéo ngược trở ra Quốc Lộ 1, qua cầu Mỹ Chánh do Thủy Quân
Lục Chiến trấn giữ, phía sau là dòng người chạy theo chúng tôi để về Huế, Đà
Nẵng,” ông nói.
Bị thương, cụt hai chân
Sau trận tái chiếm Sa Huỳnh vào Tháng Hai,
1973, Việt Cộng vẫn tái diễn trò lấn đất giành dân, cắm cờ Mặt Trận Giải Phóng
khắp vùng quê quanh tỉnh Quảng Ngãi.
Đầu Tháng Ba, 1974, Tiểu Đoàn 21 Biệt Động
Quân ở Đà Nẵng trở lại đổ quân xuống vùng đất thênh thang phía Đông quận Mộ
Đức, hướng Nam tỉnh lỵ.
20200109 MuNauTranThyVan
03
Ông Trần Thy Vân kể
lại trận tái chiếm Sa Huỳnh, Quảng Ngãi, và trận đánh tại Cầu Bến Đá trên “Đại
Lộ Kinh Hoàng” năm 1972. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Đại Đội 1/21 Biệt Động Quân do Đại Đội Trưởng,
Trung Úy Trần Thy Vân trách nhiệm càn quét các nhóm du kích đang hoạt động mạnh
tại Đức Lương, Đức Quang và các xóm liên ranh. Sau trận tái chiếm Sa Huỳnh,
Quảng Ngãi, không có trận đánh lớn nào xảy ra, Đại Đội 1/21 Biệt Động Quân chỉ hành
quân tảo thanh Việt Cộng lấn đất giành dân, tháo gỡ cờ Mặt Trận Giải Phóng,
hoặc nằm giữ an ninh trên các khu đồi núi.
Ông Vân cho hay, lần đó vào xóm, rất dè dặt vì
sợ mìn bẫy, rủi ro có thể bị thiệt hại nặng, nên ông không cho anh em đi theo
đông, kể cả toán Thám Báo đi trước cũng không, chỉ có ông và Thượng Sĩ Nguyễn
Văn Thiệp, thường vụ Đại Đội, cùng đi vào xóm.
“Vậy mà cũng không tránh khỏi, vừa vào trong
khu vườn đầy cỏ dại, chính tôi đạp phải trái mìn nội hóa khá lớn, nổ tung như
đại bác 105 ly. Thượng Sĩ Thiệp bị gãy một chân, còn tôi hai chân sụp xuống
giữa một hố sâu to bằng cái nia, tuy không giập nát nhưng máu ra nhiều ở hai
mắt cá, cơ thể nóng ran như lửa đốt. Tôi bảo anh em ở ngoài hết, đề phòng địch
lợi dụng tấn công, và có thể còn mìn bẫy ở đâu đó nữa, chỉ có y tá và hai người
lính thân cận vào băng bó,” ông nhớ lại.
“Sau đó xe cứu thương chở ra bệnh viện Duy Tân
Đà Nẵng, Thượng Sĩ Thiệp mất một chân, còn tôi bị mất hai chân lần đầu từ mắt
cá, sau đó bị cụt cả hai chân trên đầu gối lần hai, vì nhiễm trùng quá nặng,”
ông cười buồn.
Nói tới đây, ông Vân đọc câu thơ “Cổ lai chinh
chiến kỷ nhân hồi” (Xưa nay chinh chiến mấy ai về) do Vương Hàn (687-726) làm
ra năm 713 khi ông bị triều đình nhà Đường đày ra Lương Châu do tính bộc trực
của mình, khi kể lại khúc phim thật ngắn nhưng ảnh hưởng đến suốt cuộc đời
chinh chiến của mình. Ông cười nói: “Người xưa đã bảo chinh chiến xưa nay mấy
ai về, vậy mà mình còn được trở về là may mắn quá rồi!”
Năm 1975, khi Cộng Sản tràn ngập Tổng Y Viện
Duy Tân Đà Nẵng, chĩa súng đuổi hết các thương binh miền Nam ra đường. Trừ
những người không đi được nằm tại chỗ, còn lại kẻ thì xe lăn, người chống nạng,
có người mang bịch máu ngang bụng, đi vất vưởng, lang thang như những hồn ma
bóng quế.
Rời Bệnh Viện Đà Nẵng vào Tháng Ba, 1975, ông
Trần Thy Vân đưa cả gia đình lên Tùng Nghĩa, Lâm Đồng, kiếm miếng đất nhỏ, khai
là binh nhì lính bộ binh bị cụt chân, nay làm ruộng rẫy kiếm sống, đó là lần
thứ nhất có chỗ ở ổn định.
Với tính lạc quan, ông Vân nói: “Với hai chân
cụt quá đầu gối, tôi phải bò lết ngoài đồng suốt ngày, trồng rau củ cho bà vợ
bán ngoài chợ kiếm sống, còn nuôi heo thêm để nuôi mấy đứa nhỏ. Khi rảnh viết
lại những gì cần phải viết, cũng may tuy thân thể không toàn vẹn nhưng cái đầu
vẫn còn minh mẫn để viết lách là tốt rồi!”
20200109 MuNauTranThyVan
04
Trang trong của quyển
sách “The Black Tigers – Rangers of the Second Indochina War” có đoạn giới
thiệu về Trung Úy Biệt Động Quân Trần Thy Vân (trái) và trang giới thiệu Binh
Chủng Biệt Động Quân Quân Lực VNCH. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Gặp lại kẻ thù xưa trong trận Cầu Bến Đá, buộc
phải dời chỗ ở
Vùng cao nguyên Lâm Đồng coi như là nơi tạm
yên cho người cựu sĩ quan Biệt Động Quân khi cuộc sống dần thích nghi, mọi
người trong xóm quen thuộc với gia đình anh thương binh hiền lành, chỉ biết lo
làm ăn.
Mọi chuyện trở nên ly kỳ khi có một đại đội
Cộng Sản đóng gần đó, trong những lúc rảnh rỗi họ thường đến ghé nhà ông Vân
chơi, và ông rất ngạc nhiên khi thấy trên cánh tay của những người lính Việt
Cộng, ai cũng có xăm hàng số 13/12/72, khi hỏi ra mới biết chính đó là ngày họ
bị Biệt Động Quân VNCH pháo kích nặng nề trong một trận đánh gần chân núi
Trường Sơn.
Ông Thy Vân kể tiếp: “Khi những người Cộng Sản
kể chuyện trận pháo kích này, tôi bèn hỏi tới. Nghe họ kể về trận đánh trùng
khớp với trận đánh của mình, tôi bèn lên tiếng xác nhận câu chuyện là có thật
và cho biết chính tôi là đại đội trưởng Đại Đội 1/21 Biệt Động Quân trong trận
pháo kích ấy, về sau là chỉ huy trận đánh Cầu Bến Đá trên ‘Đại Lộ Kinh Hoàng’
năm 1972. Lúc đó ông Nguyễn Văn Đường đang chỉ huy đại đội đóng quân gần nhà
tôi, cũng chính là đại đội trưởng Đại Đội C7/K8, thú nhận rằng trong trận Cầu
Bến Đá năm 1972 bị Biệt Động Quân đánh nặng quá, đại đội của ông chết gần chết,
chỉ còn 9 ‘mống.’”
Thấy ông Đường, người chỉ huy phía bên kia nói
sự thật, ông Thy Vân bèn hỏi: “Vậy khi anh rút lui bỏ chạy, vì sao lại phải
giựt mìn sập cầu Bến Đá, để bao nhiêu người dân vô tội phải chết oan ức như
vậy! Anh Đường trả lời đó là lệnh trên, phải thi hành.”
Ông cũng nói với ông Đường: “Chúng tôi cũng có
lệnh trên là buông súng, phải thi hành. Tôi nói như vậy để người lính bên kia
hiểu rằng người lính VNCH thi hành lệnh trên mà buông súng chứ không phải vì
thua trận. Nếu không vì lệnh trên, chúng tôi sẽ đánh tới chết mới thôi.”
Lần thứ hai phải đổi chỗ ở khi ông Vân bị lộ
tung tích là sĩ quan Biệt Động Quân, nhà cầm quyền địa phương đuổi về nguyên
quán. Không dám trở về nguyên quán, ông Vân đưa cả gia đình về Định Quán, ở gần
khu chợ Phú Lộc để sinh sống qua ngày. Bà xã thì buôn bán nhỏ ở chợ, còn ông
làm nghề chuyên viết đơn cho bà con xin phép mua bán ở chợ. Ở đó sau hai năm
thì ông bị lộ tông tích, bị yêu cầu hồi hương.
Lần thứ ba ông đưa gia đình về Nhà Bè gần Sài
Gòn, sống nương nhờ nhà người anh nuôi, sinh sống bằng nghề xay bột. Khoảng một
năm sau có người bạn mới quen, tổ chức vượt biên, cho cả gia đình ông đi không
lấy tiền. Ông Vân quyết định chỉ đem thằng con mới 11 tuổi đi theo, với suy
nghĩ nếu có kẹt bị bắt thì còn có người ở ngoài lo tiếp tế được, hoặc nếu chết
thì chỉ có hai cha con, còn nếu đi thoát được, ông sẽ bảo lãnh cả nhà.
“Vậy mà chuyến đi thành công, được tàu Mỹ vớt
đưa vô đảo ở Thái Lan. Vì tôi có giấy tờ sĩ quan mang theo, hơn nữa lại tốt
nghiệp thủ khoa Khóa 2 Reconnaissance, từng nhảy Viễn Thám cho Sư Đoàn 1 Thủy
Quân Lục Chiến Mỹ, lại còn là trung đội trưởng Recon cho Sư Đoàn đồng minh này.
Sau 57 ngày ở đảo, hai cha con được đến Hoa Kỳ, sau đó tôi bảo lãnh cho vợ con
qua Mỹ, gia đình đoàn tụ. Nhờ ơn trên hiện nay con cái đều lớn, học hành đỗ
đạt, có công ăn việc làm hết rồi,” ông Trần Thy Vân nói.
20200109 MuNauTranThyVan
05
Thương binh Trần Thy
Vân luôn sát cánh cùng đồng bào trong những cuộc biểu tình chống Cộng Sản tại
Little Saigon. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
Tiếp tục chiến đấu bằng ngòi bút
Ngày xưa ông Trần Thy Vân chống Cộng Sản bằng vũ
khí trên chiến trường, và đã để lại nửa phần thân thể trên quê mẹ cho lý tưởng
tự do. Nay ông vẫn tiếp tục chiến đấu nơi hải ngoại qua những thể loại văn,
thơ, dùng ngòi bút để chuyển đi những tư tưởng văn học nhưng tràn đầy khí thế
đấu tranh chống Cộng Sản.
Dù đã hơn gần nửa thế kỷ giã từ vũ khí, người
chiến sĩ Biệt Động Quân năm xưa vẫn hiên ngang chiến đấu như thuở nào nơi hải
ngoại, với ông, mỗi con chữ là một viên đạn bốc lửa, những bài viết đều nói lên
sự thật, không thêu dệt, nồng nàn tình yêu đất nước, luôn đấu tranh cho một
tương lai tươi sáng trên quê hương Việt Nam.
Ông đã xuất bản hai tác phẩm “Anh Hùng Bạt
Mạng” (truyện dài, tái bản lần thứ 4) và “Tiếng Hờn Chân Mây” (truyện dài, tái
bản lần thứ 1).
Ông dự định sẽ in “Rừng Vang Biển Động” (truyện
ngắn) và “Sa Mù Tuổi Ngọc” (thơ người lính trận).
Mũ Nâu Trần Thy Vân sinh ngày 31 Tháng Mười
Hai, 1944, tại Phan Rang, Ninh Thuận. Nguyên quán Hòa Vang, Quảng Nam.
Trước 1975, đỗ Tú Tài 2, cựu học sinh các
trường Phan Thanh Giản Đà Nẵng, Bồ Đề, Quốc Học Huế, Duy Tân Phan Rang. Có thơ
đăng trên Tiểu Thuyết Thứ Năm, Phụ Nữ Ngày Mai, Tiếng Vang. Bắt đầu làm thơ năm
18 tuổi.
Năm 1966, tình nguyện nhập ngũ, Khóa 22 Sĩ
Quan Liên Trường Võ Khoa Thủ Đức.
Năm 1970, đỗ thủ khoa Khóa 2 Reconnaissance do
Sư Đoàn 1 Thủy Quân Lục Chiến Mỹ đào tạo tại Đà Nẵng. Trung đội trưởng Recon
cho Sư Đoàn đồng minh này.
Chín năm Biệt Động dự nhiều cuộc hành quân
vùng I, II, và hành quân Lam Sơn 719 Hạ Lào. Nhận 18 huy chương Anh Dũng Bội
Tinh gồm 1 Đồng, 1 Bạc, 10 Ngôi Sao Vàng, 4 Nhành Dương Liễu là loại tuyên
dương cấp quân đội, và hai Chiến Thương Bội Tinh Ngôi Sao Đỏ.
Chức vụ sau cùng là trung úy Đại Đội Trưởng
1/21 Biệt Động Quân. Bị thương lần thứ hai cụt hai chân nơi chiến trường miền
Trung, Tháng Ba, 1974.
Thành viên sáng lập các Hội Thương Phế Binh,
Biệt Động Quân và Hội Tù Nhân Chính Trị là các đoàn thể đầu tiên tại Nam
California Hoa Kỳ, 1985. Đã gởi 98 chiếc xe lăn tay cùng quà cáp về giúp các
thương phế binh Quân Lực VNCH trong nước từ 1984.
Hội viên Hội International-PEN (Poets,
Essayists and Novelists – Tổ Chức Văn Bút Quốc Tế). Phó chủ tịch II Văn Bút
Việt Nam Hải Ngoại 2001-2003. Chủ tịch Trung Tâm Văn Bút Nam California ba
nhiệm kỳ 2000-2002, 2002-2004, 2007-2010. Tham dự Đại Hội Văn Bút Quốc Tế
London, Anh, 2001. Trưởng ban tổ chức Đại Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại Kỳ 6,
2003, tại California. (Văn Lan)
Xem lại kỳ trước: Mũ Nâu Trần Thy Vân một thời ‘Anh Hùng Bạt Mạng’
Mũ
Nâu Trần Thy Vân một thời ‘Anh Hùng Bạt Mạng’
Văn Lan/Người Việt
December 31, 2019
20200109 MNTTV 06
Ông Trần Thy Vân luôn
đi hàng đầu, cùng đồng bào trong các cuộc biểu tình chống Cộng Sản tại Little
Saigon, Nam California. (Hình: Văn Lan/Người Việt)
HUNTINGTON BEACH, California (NV) – Tại vùng Little Saigon, Nam
California, ai cũng thấy một người thương binh Mũ Nâu trong Quân Lực VNCH, ngồi
xe lăn, luôn đi đầu cùng đồng bào trong đoàn người biểu tình chống Cộng Sản.
Ông chính là cựu Trung Úy Trần Thy Vân, thuộc đơn vị Biệt Động Quân từng
làm khiếp vía quân thù trên khắp các mặt trận trong cuộc chiến Việt Nam.
Biệt Động Quân đã in dấu chân ở khắp chiến
trường xưa qua những trận đánh ác liệt với quân Cộng Sản Bắc Việt tại các mặt
trận Bình Giã, Đồng Xoài, trận Mậu Thân 1968, chiến dịch Cambodia, chiến dịch
Lam Sơn 719 Hạ Lào, Mùa Hè Đỏ Lửa 1972, và chiến tích lừng danh của Biệt Động
Quân là trận tái chiếm Sa Huỳnh, Quảng Ngãi, vào Tháng Hai, 1973.
Trần Thy Vân là trung đội trưởng sau lên đại
đội phó, hành quân Hạ Lào trong chiến dịch Lam Sơn 719, đóng ở Đồi 300 trên đất
Lào cách biên giới Lào-Việt 10 cây số. Cùng với Tiểu Đoàn 39 Biệt Động Quân
đóng căn cứ trên một ngọn đồi ở Đông Bắc cách 2 cây số của Tiểu Đoàn 21 Biệt
Động Quân, và Tiểu Đoàn Dù trên đường số 9 từ Khe Sanh chạy qua Savanakhet,
Lào.
Ngồi tại nhà ở Huntington Beach, ông Trần Thy
Vân kể, sau trận Hạ Lào, đơn vị Biệt Động Quân rút về, liên tục hành quân qua
các tỉnh Quảng Trị, Quảng Tín, tham gia mặt trận tái chiếm cổ thành Quảng Trị,
với nhiệm vụ án ngữ mặt hông, yểm trợ cho các Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến và Sư
Đoàn Dù tiến chiếm cổ thành.
Theo Hiệp Định Paris ngày 27 Tháng Giêng,
1973, Hiệp Định “Chấm Dứt Chiến Tranh và Phục Hồi Hòa Bình tại Việt Nam,” còn
gọi tắt là Hiệp Định Ba Lê hay Hiệp Định Paris, được chính thức ký kết giữa bốn
bên gồm Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ, Cộng Sản Bắc Việt, và Mặt Trận Giải Phóng
Miền Nam Việt Nam.
Hiệp định này có hiệu lực từ 8 giờ sáng (giờ
Sài Gòn) ngày 28 Tháng Giêng, 1973.
20200109 MNTTV 07
Thiếu Úy Trần Thy Vân
(1967), trung đội trưởng Trung Đội 3, Đại Đội 2, Tiểu Đoàn 21 Biệt Động Quân.
(Hình: Trần Thy Vân cung cấp)
Chữ ký chưa ráo mực, Cộng Sản Bắc Việt đã vi
phạm ngay lập tức Hiệp Định Paris bằng các cuộc tấn công trên bốn quân khu khắp
miền Nam Việt Nam. Vốn kinh nghiệm đối phó qua âm mưu “lấn đất giành dân” của
Cộng Sản, các binh chủng Quân Lực VNCH đã đề cao cảnh giác với những cuộc tấn
công này.
Đặc biệt nơi địa đầu giới tuyến Bắc Nam, tại
Quân Khu 1 từ Quảng Trị trở vào, Cộng Sản đã tấn công Chi Khu Đức Dục tỉnh
Quảng Nam, pháo kích Đà Nẵng gây áp lực tại Cửa Việt Quảng Trị, và Trung Đoàn
141 thuộc Sư Đoàn 2 Sao Vàng Bắc Việt đánh chiếm giữ Sa Huỳnh gần tháng trời.
SFSaHuynh BS91592630 (6838-3) aka FOB MR1 MSF.
5th SF.
14°42'17.62"N 109° 3'30.76"E
Đầm An Khê
14°43'13.22"N 109° 2'49.72"E
Đầm Nước Mặn
14°41'3.04"N 109° 4'14.74"E
đường rầy xe lửa
14°41'56.03"N 109° 3'35.56"E
20200109 MNTTV 08
Về mặt địa lý, Sa Huỳnh mặt lưng giáp dãy
Trường Sơn, mặt trước phình ra giáp biển, nơi mà Quốc Lộ 1 và cả đường rầy xe
lửa Nam Bắc đều chạy dọc theo bờ biển, nên dân gian thường hay nói ví von “chạy
ngang qua đây, người đi xe đò và người đi xe lửa có thể bắt tay nhau được.”
Từ lúc Sa Huỳnh bị chiếm, nguyên cả vùng Sa
Huỳnh bị bế tắc, giao thông rất khó khăn. Mục đích của Cộng Sản Bắc Việt là cắt
đứt đường vận chuyển tiếp tế Nam Bắc, cắt thông thương về mặt dân sự và quân
sự, nhất là Sa Huỳnh một hải cảng quan trọng tiếp liệu từ mặt biển.
Sa Huỳnh thuộc quận Đức Phổ, nằm phía Nam
thành phố Quảng Ngãi, giáp ranh tỉnh Bình Định, do Trung Đoàn 141/2, Sư Đoàn
Sao Vàng Bắc Việt chiếm giữ khoảng một tháng trời. Vùng đất này thuộc Sư Đoàn 2
Bộ Binh VNCH do Tướng Trần Văn Nhựt, Tư Lệnh Sư Đoàn 2, trấn giữ, sau khi điều
hai Trung Đoàn 5 và 6 tới không chọc thủng được phòng tuyến Cộng Sản, vì địa
hình khá hiểm hóc và quân Cộng Sản được yểm trợ hùng hậu của các Sư Đoàn 302,
304 Bắc Việt nên phải rút trở ra.
Sau đó Biệt Động Quân dưới quyền chỉ huy của Thiếu Tá Quách Thưởng, tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn Biệt Động Quân 21, gồm bốn đại đội Biệt Động Quân đánh tái chiếm Sa Huỳnh.
Sinh viên sĩ quan Trần
Thy Vân Khóa 22 Thủ Đức tại bến tàu Sài Gòn năm 1966. (Hình: Trần Thy Vân cung
cấp)
“Dứt đẹp” Trung Đoàn 141/2 và tiểu đoàn phòng
không Việt Cộng
Địch với lợi thế về địa hình trên bờ hướng Bắc
đầm Nước Mặn bắn xuống, còn ta ở phía dưới trống trải, chỉ còn một cách duy
nhất là đánh ngang hông quân Bắc Việt. Trung Úy Đại Đội Trưởng Trần Thy Vân,
chỉ huy Đại Đội 1 Tiểu Đoàn 21 Biệt Động Quân, phải len lỏi trên đường rầy xe
lửa từ hướng Bắc vô Nam, địa hình bằng phẳng và trống trải, dễ bị lộ diện rất
nguy hiểm. Chỉ có một tuyến đối diện hướng Bắc mà cả tiểu đoàn Biệt Động Quân
đánh hoài không vô được, vì bọn địch chiếm cứ cả khu đồi, ở trên cao bắn xuống,
quan sát được hết mọi hoạt động ở phía dưới.
20200109 MuNauTranThyVan 10
“Chúng tôi phải bò men theo đường rầy xe lửa
Bắc-Nam đã bỏ hoang, cây cối um tùm che phủ, dây leo chằng chịt, bí mật di
chuyển hàng dọc về hướng Nam, áp sát đánh ngang hông, tất cả hỏa lực lúc này ào
ạt tập trung trực diện đánh bất ngờ, cận chiến dữ dội bằng lựu đạn từ ngang
hông và cả sau lưng, đạn xẹt chan chát tóe lửa như pháo bông từ thành cầu bằng
sắt dội lại, địch bị thương vong nặng nề nên bọn chúng phải tháo chạy,” ông kể.
Ông Thy Vân cho hay, nói nghe gọn nhẹ vậy chứ
thật ra là cả một sự chịu đựng kinh khủng khi đại đội của ông chỉ còn 52 người,
gặp sự kháng cự với hỏa lực rất mạnh của địch từ chỗ nấp bắn ra, trong khi quân
ta mình trần thân trụi phải bò đến thật gần địch khoảng 100 mét mới đồng loạt
khai hỏa.
Trận “Hỏa Táng” “nướng” gần hết phòng tuyến
thép 141/2 Bắc Việt
Ông Trần Thy Vân cho biết: “Sau khi tái chiếm
lại Sa Huỳnh, Đại Đội 1/21 Biệt Động Quân thừa thắng tiến áp sát vô một đồn của
Địa Phương Quân bị bỏ hoang nằm trên đồi, nhưng vẫn còn lá cờ VNCH cắm trên
nóc. Ngay sau khi toán thám báo Đại Đội 1/21 cho biết trong đồn không có người,
lập tức tôi nghĩ rằng Việt Cộng đã lấy được đồn nhưng để lại lá cờ VNCH để nhử
bọn tôi vào, lúc đó chúng ở bên ngoài sẽ tấn công đánh úp vô.”
20200109 MNTTV 11
Với suy tính thật nhanh trong đầu, ông Vân
nghĩ: “Tương kế tựu kế, tôi liền cho đại đội tràn vô đồn bố trí, nấu cơm chiều
và mời đồng bào ở phía dưới đầm Nước Mặn lên, căn dặn rằng đêm nay chúng tôi
đóng quân tại đây, nếu có ai đau ốm cần thuốc men chữa bệnh cứ thắp đèn cầm
tay, đi vào đồn chúng tôi sẽ chu cấp đầy đủ, với mục đích là để tin tức này lan
truyền đến tai Việt Cộng.”
20200109 MNTTV 12
Sinh viên sĩ quan Trần
Thy Vân Khóa 22 Pháo Binh tại Dục Mỹ. (Hình: Trần Thy Vân cung cấp)
Ông Thy Vân kể tiếp: “Trời chạng vạng, tôi cho
nấu cơm khói bay mịt mù, và sau buổi cơm chiều, tất cả đại đội bí mật rút hết
ra ngoài, không một ai ở trong đồn. Đúng như dự đoán, 9 giờ trời tối hẳn bọn chúng
xung phong biển người dùng thủ pháo tấn công trước, mặt bên hông đánh vô, còn
mặt phía bên đầm ở dưới đánh lên, nhào vô đồn cận chiến, cùng với đạn cối 82 nổ
dồn dập, tiếp theo là B40, AK và các thứ bộc phá dộng vào đồn ầm ầm vang rền,
nhất là hai mặt Tây và Nam.”
“Pháo binh nhờ chúng tôi báo trước tọa độ, cứ
thế mà rót đạn thật chính xác, khi lọt vô đồn, bọn chúng rút ra cũng không được
vì bị bọn tôi bao vây bên ngoài bắn chặn, tất cả các loại đạn nổ vang, sáng cả
bầu trời đêm, cả khu đồn đỏ rực như núi lửa phun trào. Đây được coi là trận
‘Hỏa Táng’ làm tiêu tan gần hết sạch cả ‘Phòng tuyến thép 141/2’ của Việt
Cộng,” ông Vân kể thêm.
Theo ông, sáng hôm sau vào đồn kiểm tra, ông
thấy cả một khối thịt xương tan nát vương vãi khắp nơi, máu tung tóe trên vách
hầm lô cốt, bên giao thông hào, và các hàng rào kẽm gai chung quanh, không ai
còn hình thù gì. Trận đó tịch thu 22 súng AK gãy nát và một súng cối.
“Đúng như tôi nhận xét, nếu Việt Cộng chiếm
được đồn mà sao cờ VNCH vẫn còn tung bay trên nóc. Đây là chiến thuật nghi binh
mà người xưa đã từng áp dụng và nay cả hai bên đều xài lại, nhưng chính bọn
chúng cũng không ngờ bị phản kích một đòn chí mạng, chịu thất bại chua cay.
Trận ‘Hỏa Táng’ này tôi có viết lại đầy đủ trong sách ‘Anh Hùng Bạt Mạng,’ và
gần đây phía bên kia có lấy sử dụng làm tư liệu lịch sử của họ về việc đánh
chiếm Sa Huỳnh, tất nhiên họ bỏ đi những đoạn bị thất bại nặng nề sau trận tấn
công của Đại Đội 1 Tiểu Đoàn 21 Biệt Động Quân đêm ấy, tái chiếm lại Sa Huỳnh,
đánh tan phòng tuyến thép Trung Đoàn 141/2 Cộng Sản, bọn chúng chết gần hết,”
ông Trần Thy Vân kể.
“Theo đà, bọn tôi tạt ngang tiến về phía núi
gần mé biển, đánh chiếm khu đồi, tịch thu được nguyên ‘Con gà cồ 12 ly 8,’ là
súng phòng không để bắn máy bay, đường đạn bay rất xa và mạnh, là chiến thuật
bọn Việt Cộng áp dụng, vừa bắn máy bay vừa có thể hạ thấp nòng xuống, bắn thẳng
vào lực lượng bộ binh, do đó khi gặp hỏa lực này, bộ binh khó tránh khỏi thương
vong! Như vậy chỉ trong hai ngày, Đại Đội 1/21 Biệt Động Quân đã tái chiếm được
Sa Huỳnh và tiến chiếm thêm toàn bộ vùng chung quanh,” ông Vân giải thích.
20200109 MNTTV 13
Ông Trần Thy Vân gặp
lại Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lần 2 năm 1998 tại Nam California. (Hình: Trần
Thy Vân cung cấp)
Trên đầm Nước Mặn
Ông Vân kể tiếp: “Sau trận tái chiếm Sa Huỳnh,
chúng tôi trấn cả một vịnh ngay cửa biển. Đám tàn quân Sư Đoàn 2 Sao Vàng Cộng
Sản Bắc Việt từ vịnh này, lợi dụng trời tối, dựa theo các hốc đá, cả đám tháo
chạy dọc theo sát vách đồi dưới bờ đầm. Khi chúng tôi phát giác được, từ trên
cao, những khẩu M60 quạt tới tấp cùng với lựu đạn nổ vang trời xé tan màn đêm.
Sáng ra kiểm tra lại, có 27 xác chết, thu được 24 súng gồm AK, B40, K59, cạnh
đó là căn hầm kiên cố hình chữ L sát mé nước, có lẽ là chỗ trú đóng của bộ chỉ
huy Trung Đoàn 141/2 Cộng Sản Bắc Việt, đó là dịp tịch thu được nhiều chiến lợi
phẩm nhất của Biệt Động Quân.”
Sau đó có một nhóm tàn quân Cộng Sản trên hàng
chục chiếc ghe, lợi dụng trời tối chèo từ phía Đông vô bờ về phía Quốc Lộ 1 để
trốn vào núi, ông Vân cho tọa độ để pháo binh bắn T.O.T (target-on-time) chính
xác, với những quả 105 ly đã nhận chìm hết đám ghe, tiêu diệt gọn gần trăm tên,
súng ống đạn dược bị “thủy tang” ngay trong đêm.
Điều gây ngạc nhiên khi ông Vân nói: “Trận tái
chiếm Sa Huỳnh kể cũng lạ, nói là đại đội chứ chúng tôi thực sự chỉ còn có 52
tay súng (vì trước đó đã bị Không Quân VNCH oanh kích nhầm, làm tiêu vong gần
nửa quân số), lại đánh tan cả một trung đoàn 141/Sư Đoàn 2 Sao Vàng Cộng Sản
cùng với một Tiểu Đoàn Phòng Không Bắc Việt tăng cường, tức bọn chúng có bốn tiểu
đoàn là 16 đại đội. Hàng ngàn xác chết bị vùi dập, từ trên các dãy đồi xuống
tận đáy sâu đầm Nước Mặn. Tính trung bình là một chiến sĩ Biệt Động đánh bại
xuội ít nhất 16 tên địch tại đây, chuyện rất hiếm có trong chiến tranh Việt
Nam.”
Ngày 15 Tháng Hai, 1973, Quốc Lộ 1 được khai
thông, đoàn xe dân sự kéo dài hàng mấy cây số, chờ đợi cả nửa tháng nay vui
mừng tiếp tục xuôi Nam ngược Bắc.
Từ đó, Đại Đội 1/21 Biệt Động Quân tiến xuống
phía Nam đánh thêm mấy trận nhỏ nữa, chiến thắng toàn bộ trận Sa Huỳnh vào
Tháng Ba, 1973, bình định cả vùng Đức Phổ, Quảng Ngãi.
Sau đó Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu có đến thăm
và khen thưởng các cấp, và ông Vân cũng có nhắc lại trận đánh này khi được gặp
tổng thống tại San Jose, Bắc California, ngày 25 Tháng Ba, 1990, trong dịp Tổng
Thống Thiệu gặp lại các cựu quân nhân VNCH và đồng hương.
Ông Thy Vân hồi tưởng: “Từ khi khởi sự tái
chiếm Sa Huỳnh, bốn Đại Đội Tiểu Đoàn 21 Biệt Động Quân với thành tích chung đã
loại khỏi vòng chiến khỏang 500 quân địch, bắt sống 19, tịch thu 256 súng đủ
loại. Riêng Đại Đội 1/21 Biệt Động Quân do tôi chỉ huy tiêu diệt hơn 200 tên,
bắt sống 19 như trên, tịch thu 106 súng, trong đó có một Phòng Không 12 ly 8,
chưa kể đạn và thuốc nổ, cũng như không thể đếm được đống thịt bầy nhầy trong
đồn lính, và hơn 100 tên bị ‘thủy tang.’ Phía Đại Đội của tôi hy sinh hai
người, bị thương bốn người.”
“Trong trận tái chiếm Sa
Huỳnh, có một chuyện không vui xảy ra, khi Tổng Thống Thiệu và phái đoàn Bộ
Tổng Tham Mưu bay ra thị sát mặt trận và khen thưởng chiến sĩ, không hiểu tại
sao súng ống các loại bày ra hơn 300 khẩu, có cả khẩu Phòng Không 12 ly 8 mà
Đại Đội 1 Tiểu Đoàn 21 Biệt Động Quân đã hy sinh bao nhiêu xương máu, gian khổ
mới chiếm được để trừ khử mối nguy hiểm cho anh em. Khi chúng tôi ra ngoài dàn
chào tổng thống, đưa phái đoàn vào trình diện chiến lợi phẩm tịch thu, trước đó
được ghi rõ là của Tiểu Đoàn 21 Biệt Động Quân mà bây giờ lại trở thành là Sư
Đoàn 2 Bộ Binh, làm anh em ai nấy đều chưng hửng. Phái đoàn Tổng Thống Thiệu
đến và đi nhiều nơi khác nữa nên không ai có thời gian để trình bày, làm Biệt
Động Quân mất luôn cả công trận và khen thưởng đặc cách. Chuyện này tôi có viết
lại rất rõ trong quyển ‘Anh Hùng Bạt Mạng’ đã tái bản đến lần thứ tư,” ông Vân
cười buồn kể lại. (Văn Lan)
No comments:
Post a Comment