Saturday, July 27, 2019

20190727 Bản tin biển Đông.


20190727 Bản tin biển Đông.

'We can't hide anything' say Cambodians at alleged China base

Ream Naval Base denies Chinese military base speculation
US think tank warns of China's 'ulterior motives'
Cambodia, China ink secret naval port deal: report

Ream Naval Base of China
 10°30'11.90"N 103°36'34.43"E 

Ream Naval Personel Base
 10°29'50.64"N 103°37'41.94"E 
 Khu hải quân rợ hán dấu dưới chiêu bài khách sạn nghỉ mát.



U.S. Sides with Vietnam in Maritime Dispute With China
US working with Vietnam to strengthen coast guard force
Beijing’s South China Sea stance is driving Vietnam into America’s arms
Russian jurist urges Vietnam to seek international support on South China Sea
Vietnam welcomes international contribution to peace in East Sea
‘Armed hostility’ at sea feared
China’s disregard for Vietnamese sovereignty leaves region worse off
China’s East Sea actions could backfire: experts
VN consistently protects sovereignty in East Sea: spokeswoman
South China Sea: Fears of 'nuclear bombs' as Beijing sparks frenzied naval confrontations
Chinese ship at Vanguard Bank a threat, need to address it collectively: Vietnam ambassador at WION World Order
Vietnam consistently protects sovereignty in East Sea: Spokeswoman
President Tsai attends discussion session at Columbia University
US reiterates call for China to stop South China Sea bullying tactics

Mật ước Trung Quốc - Cambodia sẽ để lại hệ quả ‘nghiêm trọng’

23/07/2019
'Quocviet V' via Conduongvui 
  
Tiến sĩ Sophal Ear, Phó Giáo sư Occidental College, đọc tham luận tại Hội Heritage, Washington DC. Ảnh chụp ngày 13/9/2018. (Sreng Leakhena/VOA Khmer)

Báo Wall St. Journal (WSJ) đưa tin Phom Penh đã ký một thỏa thuận mật cho phép Trung Quốc độc quyền sử dụng một phần của căn cứ hải quân của Campuchia gần Sihanoukville, trong bối cảnh Trung Quốc đang vươn ra toàn cầu, và tận dụng sức mạnh kinh tế cũng như quân sự tích lũy bấy lâu để cố tìm cách thay đổi trật tự toàn cầu, đẩy Hoa Kỳ ra khỏi vị trí cường quốc số 1 hiện nay. VOA-Việt ngữ phỏng vấn Giáo sư Tiến sĩ Sophal Ear, một nhà khoa học chính trị của Đại học Occidental, một chuyên gia về kinh tế chính trị, ngoại giao, và các vấn đề quốc tế.
WSJ hôm 21/7 tường thuật rằng theo thỏa thuận mật được ký kết vào mùa xuân năm nay và được cả hai nước giữ kín, Trung Quốc được độc quyền sử dụng một phần căn cứ hải quân Ream của Campuchia trên Vịnh Thái Lan, không xa một sân bay lớn đang được một công ty Trung Quốc xây dựng.
Thủ Tướng Campuchia Hun Sen hôm 22/7 cực lực bác bỏ tin này.
Tư liệu - Thủ tướng Campuchia Hun Sen ở Phnom Penh, ngày 28/6/2019.
“Đây là tin tức bịa đặt tồi tệ nhất đối với Campuchia từ trước đến nay. Không thể có chuyện đó vì việc đặt các căn cứ quân sự nước ngoài trái với hiến pháp Campuchia.”
Ông Hun Sen chất vấn lại:
“Tại sao Campuchia lại cần sự hiện diện của quân đội Trung Quốc trên lãnh thổ của mình chứ?”
Người phát ngôn của Bộ Quốc phòng Campuchia cũng bác bỏ thông tin này, nói rằng đây là tin thất thiệt.
Ông Chum Socheat:
“Chúng tôi đã nói đi nói lại nhiều lần, chúng tôi không hề phê chuẩn bất cứ căn cứ nào cho quân đội Trung Quốc hoạt động trên đất của Campuchia.”
Vậy tin này là tin có thật hay tin bịa đặt?
Một nhà khoa học chính trị chuyên về Campuchia và các vấn đề quốc tế, Phó Giáo sư Sophal Ear, trả lời VOA-Việt ngữ qua email.
“Tôi không tin là tình báo Mỹ loan truyền tin bịa đặt. Thông tin tình báo do Mỹ thu thập được qua trung gian các nhân viên tình báo cũng như các tín hiệu điện tử và những liên lạc giữa hai bên đã cung cấp một bản sao của dự thảo mật ước. Tất nhiên, tôi không có bản sao ấy trong tay. Nhưng nội sự việc Bộ trưởng Quốc phòng Campuchia không kiện tờ Wall St. Journal cho thấy là không có cơ sở để kiện tờ báo này.”
Một số chi tiết của thỏa thuận cuối cùng không được xác định rõ rệt, nhưng theo dự thảo mật ước mà Mỹ có trong tay, thì Trung Quốc được sử dụng căn cứ Ream trong 30 năm, và sau đó mỗi 10 năm, thỏa thuận sẽ được tự động gia hạn. Trong thời gian này, Trung Quốc có toàn quyền đưa binh sĩ, trữ vũ khí và điều tàu chiến ra vào cảng này.
Trả lời câu hỏi của VOA-Việt ngữ, về những ảnh hưởng hay hệ quả có thể có đối với Đông Nam Á của mật ước Campuchia-Trung Quốc, nếu mật ước này được thi hành? Phó Giáo sư Sophal Ear nhận định:
“Những hệ quả của một mật ước như chúng ta vừa nói, tôi cho là rất nghiêm trọng. Campuchia thỏa thuận cho Trung Quốc duy trì khí tài trên đất Campuchia là một biến chuyển lớn. Đây sẽ là căn cứ đầu tiên của Trung Quốc trong vùng Đông Nam Á.”
Các hoạt động quân sự từ căn cứ hải quân này, phối hợp với sân bay đang được một công ty Trung Quốc xây dựng gần căn cứ Ream, sẽ tăng cường khả năng của Bắc Kinh để thực thi các yêu sách lãnh thổ và lợi ích kinh tế ở Biển Đông, trực tiếp đe dọa các đồng minh của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á, đồng thời mở rộng phạm vi ảnh hưởng của Bắc Kinh tới eo biển Malacca có tầm quan trọng chiến lược.
WSJ tường thuật rằng theo dự thảo mật ước, nhân viên quân sự Trung Quốc không những có quyền mang vũ khí mà còn được mang sổ hộ chiếu Campuchia, và đáng quan tâm hơn nữa, muốn vào khu vực độc quyền của Trung Quốc tại căn cứ Ream, người Campuchia sẽ phải xin phép người Trung Quốc. Liệu điều đó có nghĩa là Trung Quốc đã nhường lại “chủ quyền” của mình tại khu vực liên hệ trong thời gian thỏa thuận kín có hiệu lực?
Thỏa thuận có hiệu lực 30 năm, rồi sau đó cứ tự động gia hạn sau mỗi 10 năm, thì thử hỏi có gì khác với một hiệp ước vĩnh viễn?
Tiến sĩ Sophal Ear
Giáo sư Sophal Ear không dấu được lo ngại:
“Nếu xảy ra thì đây sẽ là một bước nhượng bộ không thể được chấp nhận đối với bất cứ quốc gia nào. Các bạn có thể tưởng tượng người Mỹ được phép xài hộ chiếu Nhật trên đảo Okinawa không? Không! Chủ quyền sẽ chẳng còn ý nghĩa nếu sổ hộ chiếu Campuchia được phân phát bừa bãi kiểu ấy. Campuchia sẽ là một nước thuộc địa của Trung Quốc. Và quả vậy: thỏa thuận có hiệu lực 30 năm, rồi sau đó cứ tự động gia hạn sau mỗi 10 năm, thì thử hỏi có gì khác với một hiệp ước vĩnh viễn?”
Liệu Việt Nam và Đài Loan có nên lo ngại? Việt Nam là một trong những nước tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc ở Biển Đông, còn Đài Loan là đảo quốc mà Bắc Kinh coi là một tỉnh lỵ ly khai của Trung Quốc mà một ngày nào đó, sẽ trở về với mẫu quốc -dù muốn hay không?
Giáo sư Sophal Ear:
“Việt Nam và Đài Loan nên lo lắng là đúng, bởi vi với những bước hành động mới nhất, Trung Quốc rõ ràng đã vươn ra và phóng sức mạnh quân sự của mình sâu vào lãnh thổ Campuchia, sát với Việt Nam, và đồng thời Bắc Kinh không bao giờ từ bỏ ý định thâu tóm Đài Loan, kể cả bằng vũ lực. Mà không những chỉ có Việt Nam và Đài Loan phải lo, mà tất cả các nước khác cũng nên lo ngại, kể cả và nhất là người Campuchia.”
Theo WSJ, các quan chức Mỹ đang tìm cách thuyết phục Phom Penh thay đổi ý định. Ngoài ra, Washington còn bày tỏ lo ngại về ý đồ của Trung Quốc ở Campuchia, Mỹ không dấu thái độ hoài nghi đối với một công trình nhiểu tỉ đô của tập đoàn UDG của Trung Quốc, để phát triển điều mà họ gọi là một “dự án du lịch”, đầy đủ với môt phi đạo dài và một cảng nước sâu ở tỉnh Koh Kong, phía Tây Preah Sihanouk.
Sân bay quốc tế Dara Sakor dự kiến sẽ mở cửa hoạt động vào năm 2020. Sân bay vừa xây phi đạo dài nhất Campuchia, tới 3,2 km, có thể được sử dụng vào các mục đích quân sự.
Washington lo ngại tới mức Phó Tổng thống Mike Pence phải viết thư cho Thủ Tướng Campuchia Hun Sen vào tháng 11 năm ngoái, bày tỏ quan ngại về dự án này và khả năng Trung Quốc có thể thiết lập một căn cứ quân sự ở Campuchia.
Vừa rồi là nội dung chính trong cuộc trao đổi giữa Phó Giáo sư Sophal Ear và VOA-Việt ngữ. Phó Giáo sư Sophal Ear là một nhà khoa học chính trị, một chuyên gia về kinh tế chính trị, ngoại giao, và các vấn đề quốc tế. Là một người gốc Campuchia, ông đã từng theo mẹ chạy sang Việt Nam tị nạn, rồi sau đó sang Pháp, và cuối cùng định cư tại Hoa Kỳ từ năm lên 10. Ông lấy bằng thạc sĩ ở Đại học Princeton, Tiến sĩ tại Đại học California, Berkeley, và là tác giả của nhiều sách nghiên cứu có giá trị trong đó có “The Hungry Dragon”, “Rồng đói” bàn về cách mà Trung Quốc tìm cách thay đổi trật tự quốc tế, để đẩy Hoa Kỳ ra khỏi vị thế cường quốc số 1 thế giới.

Wednesday, July 24, 2019

20190724 Bản tin biển Đông.

20190724 Bản tin biển Đông.

China has sent its P.L.A. under disguised employees, thugs, bandits or visitors into Vietnam. Is it a silent invasion?
China says it will 'not tolerate foreign forces' in Hong Kong
China tells U.S. to remove 'black hands' from Hong Kong
China Hints Its Troops Could Be Used to Quell Hong Kong Protests
China’s army can intervene in Hong Kong, says Beijing

China defends air patrol with Russia after S. Korea, Japan fury
Russia wants probe on alleged South Korea airspace violation
Japanese military scrambles fighters to intercept Russian and Chinese planes
China-Russia joint exercise sends a message to Washington
Venezuela Says Widespread Power Outage Caused by Electromagnetic Attack

Tuesday, July 23, 2019

20190723 Bản tin biển Đông


20190723 Bản tin biển Đông



SỰ THẬT CỦA LịCH SỬ:
CỘNG SẢN BẮC VIỆT PHÁO KÍCH VÀ DỘI BOM VÀO TRƯỜNG TRUNG HỌC HỘI AN CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA
ĐÃ Bị CỘNG SẢN XOÁ LẤP.
Phiet Pham 
Le Chi Thanh July 21 at 3:30 PM ·

South China Sea: What China's First Strategic Bomber Landing on Woody Island Means
South China Sea: China Deploys Jamming Equipment
US Slams China’s ‘Bullying’ Amid Vanguard Bank Oil Exploration Standoff With Vietnam
South China Sea: US Flies Nuclear-Capable Bombers Near Scarborough Shoal
What’s in the New China-Vietnam South China Sea Tensions?
Nixed China-Vietnam Meeting Highlights Illusion of South China Sea Calm
Beware the Illusion of China-ASEAN South China Sea Breakthroughs



Phiet Pham 
Thế lực ‘quân sư’ đằng sau con đường thăng tiến của Tập Cận Bình.

Vương Quân (Wang Jun), con trai nguyên lão Vương Chấn (Wang Zhen) của Đảng Cộng sản Tàu đã qua đời vào tháng trước, dư luận người Tàu đã chú ý so sánh giữa tang lễ lặng lẽ này với tang lễ long trọng của con nguyên lão Diệp Kiếm Anh (Ye Jianying) là Diệp Tuyển Ninh (Ye Xuanning). Có tin tiết lộ từ truyền thông Mỹ rằng, từ chuyện người cha của lãnh đạo cs Tàu đương nhiệm Tập Cận Bình được sửa án oan cho đến con đường thăng quan của họ Tập đều liên quan mật thiết đến sự giúp đỡ của gia đình Diệp Kiếm Anh, trong đó Diệp Tuyển Ninh, nhân vật được xem như thủ lĩnh “Thái tử Đảng”, luôn là “quân sư” đứng sau. 
Btbd 01
Ông Tập Cận Bình khi đang làm Phó Bí thư tỉnh uỷ Phúc Kiến năm 1997. (Ảnh cắt từ video)
Ngày 05/07, Đài Á châu Tự do (RFA) đã cho công bố bài viết của blogger Cao Tân chỉ ra, tang lễ con trai của Diệp Kiếm Anh là Diệp Tuyển Ninh (qua đời vào ngày 10/07/2016) được tổ chức đặc biệt long trọng. Ông Tập Cận Bình đã đích thân gửi tin nhắn chia buồn đến vợ ông Diệp Tuyển Ninh. Khi còn sống, cấp bậc cao nhất của ông Diệp Tuyển Ninh chỉ là Thiếu tướng, vậy mà khi qua đời lại được ba vị Tổng Bí thư và bốn vị Thủ tướng, cũng như tất cả các thành viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị đương nhiệm gửi vòng hoa chia buồn, nghi thức tang lễ không khác gì một lãnh đạo nhà nước. Ngoài ra, trong nghi thức tang lễ Diệp Tuyển Ninh còn có đãi ngộ đặc biệt mà ngay cả “lãnh đạo Đảng và Nhà nước” của Tàu khi qua đời cũng không có được: người chú của ông Tập Cận Bình là Tập Chính Ninh (Xi Zhengning) đã đặc biệt đại diện cho toàn gia đình họ Tập đến chia buồn, còn bên trái thi thể ông Diệp Tuyển Ninh thì treo bia giấy tưởng niệm của bà Tề Tâm (Qixin), thân mẫu ông Tập Cận Bình.
Bài viết cho rằng, điều này cho thấy rõ tầm quan trọng của ông Diệp Tuyển Ninh đối với  ông Tập Cận Bình cũng như toàn gia đình ông Tập.
Tháng 10/1976, ngay sau khi bắt “tứ nhân bang”, phụ tá Diệp Kiếm Anh của lãnh đạo cs Tàu khi đó là ông Hoa Quốc Phong (Hua Guofeng) đã cử con trai thứ hai là Diệp Tuyển Ninh đến thăm ông Hồ Diệu Bang (Hu Yaobang). Bài viết chỉ ra, trên thực tế khi đó ông Diệp Tuyển Ninh đã đóng vai trò là “quan chức liên lạc” của Diệp Kiếm Anh, trước và sau khi Mao Trạch Đông qua đời, liên lạc bí mật giữa Diệp Kiếm Anh với các nguyên lão cs Tàu như Đặng Tiểu Bình, Vương Chấn, Trần Vân, Lý Tiên Niệm, đều thực hiện thông qua Diệp Tuyển Ninh.
Thời điểm đó, ngay cả sau khi thế lực “tứ nhân bang” sụp đổ vào tháng 10/1976 thì người cha của ông Tập Cận Bình là ông Tập Trọng Huân vẫn đang chịu cải tạo lao động tại Lạc Dương. Ngày 21/08/1977, ông Tập Trọng Huân đã lần lượt viết thư cho ông Đặng Tiểu Bình, Hồ Diệu Bang và Vương Chấn, ngày 24/08/1977 ông Tập Trọng Huân đã viết thư cho Chủ tịch Trung ương cs Tàu Hoa Quốc Phong cùng các Phó Chủ tịch gồm Diệp Kiếm Anh, Đặng Tiểu Bình, Lý Tiên Niệm, Uông Đông Hưng, yêu cầu được sửa lại án oan của mình.
Tác giả chỉ ra, khi đó người vợ của ông Tập Trọng Huân là bà Tề Tâm nhận thấy một số cán bộ kỳ cựu từng bị bức hại đều lần lượt được hồi phục chức vụ, trong khi ông Tập Trọng Huân lại chưa được nên trong lòng đầy lo âu. Nhiều lần bà Tề Tâm dắt theo con gái Kiều Kiều đi qua lại giữa Bắc Kinh và Lạc Dương. Họ đã nhiều lần tìm gặp phó thủ tướng Vương Chấn (Wang Zhen), sau đó cũng tìm gặp các lãnh đạo Hồ Diệu Bang và Diệp Kiếm Anh. Đầu năm 1978, bà Tề Tâm đến Ban Tổ chức Trung ương để tìm gặp Trưởng ban mới khi đó là ông Hồ Diệu Bang để thỉnh cầu.
Tác giả chỉ ra, theo chia sẻ từ người bạn của ông Hồ Đức Bình (Hu Deping), thực tế khi đó bà Tề Tâm cùng con gái đi kêu oan ở Bắc Kinh hoàn toàn bế tắc, và ông Tập Cận Bình (khi đó là sinh viên) mới nghĩ cách liên lạc với con trai trưởng của ông Hồ Diệu Bang là ông Hồ Đức Bình. Còn bản thân ông Hồ Diệu Bang từ sau khi nhậm chức Trưởng ban Tổ chức Trung ương vào tháng 11/1977, vì quá nhiều người tìm gặp khiếu nại sửa án oan nên ông Hồ Đức Bình trở thành “quan chức liên lạc”, vậy là nhờ đó ông Tập Cận Bình cùng người mẹ Tề Tâm được bí mật gặp riêng ông Hồ Diệu Bang tại nhà.
Trong thời gian bà Tề Tâm cùng con gái đi “thỉnh nguyện” ở Bắc Kinh, ông Diệp Tuyển Ninh được người cha Diệp Kiếm Anh ủy thác đến thăm, đã báo cho cho họ cùng ông Tập Cận Bình biết tin rằng “chỉ cần ông Vương Chấn bỏ qua chuyện cũ thì đồng chí Tiểu Bình cũng sẽ không còn là trở ngại nữa”.
Vậy là bà Tề Tâm lại dẫn theo hai người con Tập Cận Bình và Kiều Kiều mang thư nhận lỗi của ông Tập Trọng Huân gửi được đến ông Vương Chấn, thừa nhận ông Tập Trọng Huân chịu trách nhiệm chính trong chuyện oan ức trước đây của ông Vương Chấn và “thành khẩn nhận sai lầm”, kết quả là sau đó ông Đặng Tiểu Bình đã ra công lệnh cho “giải oan hoàn toàn” vì ông Vương Chấn, cùng thời điểm tháng 03/1978 qua công lệnh cho phép sửa án oan hoàn toàn vì Vương Chấn, ông Tập Trọng Huân mới được ông Đặng Tiểu Bình bổ nhiệm chức vụ hữu danh vô thực là ủy viên Chính hiệp (Quốc hội) và được thông báo về cái gọi là “phục hồi sinh hoạt đảng bộ”. Còn việc chính thức công bố giải oan chính trị cho ông Tập Trọng Huân thì diễn ra vào tháng 08/1979.
Ngày 22/02/1978, dưới hỗ trợ của một quan chức Tỉnh ủy tỉnh Hà Nam, ông Tập Trọng Huân lên xe lửa trở về Bắc Kinh. Ngày hôm sau, ông Diệp Kiếm Anh lại cho người con là Diệp Tuyển Bình thay mặt đến thăm. Vào ngày 26, người con khác của ông Diệp Tuyển Ninh lại đón ông Tập Trọng Huân tại nhà riêng. Trong số tất cả các nhà lãnh đạo hàng đầu của cs Tàu lúc bấy giờ, ông Diệp Kiếm Anh là người đầu tiên đến thăm gặp ông Tập Trọng Huân.
Vào đầu năm 1979, ông Tập Cận Bình phải đối mặt vấn đề “phân bổ tốt nghiệp” của Đại học Thanh Hoa, theo chính sách tuyển sinh của trường khi đó thì “người nào đến từ nơi nào phải quay trở lại nơi đó”, còn hộ khẩu của ông Tập Cận Bình năm 1975 khi được chọn vào Đại học Thanh Hoa là từ Diên An – Thiểm Tây chuyển đến Bắc Kinh, vì vậy theo lý phải đưa ông Tập trở lại Thiểm Tây. Nhưng khi đó ông Tập Cận Bình không chỉ ở lại Bắc Kinh mà còn được vào Văn phòng Chính phủ và Quân ủy Trung ương.
Giới “Thái tử Đảng” có đồn tin rằng, sau khi ông Tập Trọng Huân được phục hồi chức vị đã được ông Diệp Kiếm Anh nâng đỡ cho phụ trách tỉnh Quảng Đông, khi ông Diệp Tuyển Ninh cùng người cha đến thị sát Quảng Đông đã nhắc về tình hình gia đình Tập Trọng Huân, ông Tập Trọng Huân báo cáo rằng sau khi ông đến Quảng Đông thì cô con gái Kiều Kiều đã đi cùng với thân phận là thư ký, còn bà Tề Tâm ở lại Bắc Kinh, ông hy vọng con trai Tập Cận Bình sau khi tốt nghiệp Đại học Thanh Hoa sẽ được ở lại Bắc Kinh cùng mẹ.
Vậy là ông Diệp Kiếm Anh cho người con Diệp Tuyển Ninh liên lạc với Thư ký trưởng Quân ủy Trung ương Cảnh Tiêu (Geng Biao) để sắp xếp cụ thể nơi đến cho ông Tập Cận Bình, còn Cảnh Tiêu cũng nhanh chóng cho biết đây là ứng viên hay nhất cho vị trí thư ký chính trị của Cảnh Tiêu. Nửa cuối tháng 03/1979 ông Tập Cận Bình đã đến trình diện Văn phòng Quân ủy Trung ương.
Ngay từ năm 1946 Cảnh Tiêu đã từng bám theo Diệp Kiếm Anh, tham gia Ban Điều hành hòa giải quân sự Bắc Bình, giữ chức phó tham mưu đoàn đại biểu cs Tàu, và là đại biểu Ban chấp hành Tứ Bình của ĐCSTQ. Sau khi thành lập đảng cs Tàu, Cảnh Tiêu trở thành nhà ngoại giao đầu tiên được chọn từ giới cán bộ quân sự cấp cao, từng là Đại sứ Trung cộng tại các nước như Thụy Điển, Pakistan, Myanmar, Albania, sau Cách mạng Văn hóa lại được bổ nhiệm làm Trưởng Ban liên lạc đối ngoại Trung ương cs Tàu. Trong quá trình bắt giữ bà Giang Thanh, vợ của Mao Trạch Đông, hồi năm 1976, Cảnh Tiêu đã thực hiện mệnh lệnh bí mật của Diệp Kiếm Anh, ngay thời gian đầu đã nhanh chóng kiểm soát tất cả các cơ quan truyền thông trung ương như đài phát thanh và truyền hình, báo chí và Tân Hoa Xã. Thời điểm đó, người được Diệp Kiếm Anh cử đi liên lạc bí mật với Cảnh Tiêu chính là người con trai Diệp Tuyển Ninh.
Tại Phiên họp toàn thể lần thứ nhất cs Tàu khóa 11 vào năm 1977, Cảnh Tiêu được Diệp Kiếm Anh tiến cử làm Ủy viên Bộ Chính trị, đồng thời được chính thức bổ nhiệm làm Phó Thủ tướng tại Đại hội Nhân đại vào năm sau đó; từng phụ trách công việc ngoại giao, quân sự, hàng không dân dụng, du lịch.
Sau khi Cảnh Tiêu bị Đặng Tiểu Bình tước mất chức Thư ký trưởng Quân ủy Trung ương, nghe đâu ông Tập Cận Bình sau khi tham kiến “quân sư” Diệp Tuyển Ninh mới dứt khoát trở về cơ sở địa phương. Tác giả Cao Tân kết luận, việc ông Tập Cận Bình từng bước thăng tiến chính trị tại trung ương, vào những thời điểm quan trọng đều có trợ giúp của Diệp Tuyển Ninh. 
Btbd 02
 Tập Cận Bình và Diệp Tuyển Ninh. (Nguồn: Internet)
Diệp Tuyển Ninh khiến Giang Trạch Dân lo ngại, giúp Tập Cận Bình khuất phục giới nguyên lão
Trước đây tác giả Cao Tân đã công bố bài viết trên Đài Á châu Tự do chỉ ra, nguyên soái cs Tàu Diệp Kiếm Anh, người được mệnh danh là “vua phương Nam”, tuy đã qua đời từ lâu nhưng thế lực chính trị của gia đình ở Tàu vẫn không bị suy yếu gì đáng kể. Đặc biệt là Diệp Tuyển Ninh, người được biết đến như là thủ lĩnh tinh thần của giới “Thái tử Đảng” cs Tàu, đã đóng vai trò gắn kết nội bộ trong giới “Thái tử Đảng” , khiến lãnh đạo một thời là ông Giang Trạch Dân đặc biệt dè chừng.
Đầu những năm 1980, các lãnh đạo Đặng Tiểu Bình, Diệp Kiếm Anh và Vương Chấn đã cùng thảo luận cho mời Vinh Nghị Nhân (Rong Yiren) tham chính, tổ chức lĩnh vực ủy thác quốc gia. Khi mới thành lập Công ty Ủy thác Quốc tế Trung cộng do họ Vinh lãnh đạo, việc xuất khẩu vũ khí của Tàu Đại lục hoàn toàn do công ty này quản lý, nhưng không lâu sau đã dẫn đến việc thành lập hai công ty lớn nhất của quân đội là Khoa học Kỹ thuật Bảo Lợi (Poly Technology) và Công nghiệp Khải Lợi (Kelly Industrial). Khoa học Kỹ thuật Bảo Lợi do thế hệ con cháu của Vương Chấn và Đặng Tiểu Bình kiểm soát, sau khi thế hệ con cháu Vương Chấn hoàn toàn kiểm soát Tập đoàn Ủy thác Quốc tế Trung cộng thì Khoa học Kỹ thuật Bảo Lợi giao lại hết cho nhà họ Đặng. Còn Công nghiệp Khải Lợi giao cho Diệp Tuyển Ninh, người vừa được bổ nhiệm làm phó Ban đối ngoại của Tổng cục Chính trị thuộc Quân đội, vừa là Chủ tịch và Tổng giám đốc của công ty.
Dư luận đồn rằng, danh hiệu “thủ lĩnh tinh thần” của “Thái tử Đảng” dành cho Diệp Tuyển Ninh xuất phát từ con gái của nguyên lão Trần Vân là Trần Vĩ Lực; còn con trai cả của ông Đặng Tiểu Bình là Đặng Phác Phương thì từng chia sẻ khiêm tốn: Tôi mà so sánh với Tuyển Ninh thì ví như một người trên trời một người dưới đất. Thời đó ở Bắc Kinh đồn đại rằng, “nhiều thái tử Đảng chỉ phục Diệp Tuyển Ninh”. Vào những năm 1980 giới con cháu nguyên lão cs Tàu còn đồn rằng Đặng Tiểu Bình là người hiểu rõ nhất Diệp Tuyển Ninh là kẻ bất thường, thậm chí còn cho rằng “không thể trọng dụng người này, một khi người này có thế lực thì đất nước sẽ hỗn loạn”.
Diệp Tuyển Ninh chính thức mặc đồng phục quân đội vào năm 1984, năm 1988 khi cs Tàu khôi phục chế độ quân hàm và lần đầu trao quân hàm thì Diệp Tuyển Ninh đã được quân hàm Thiếu tướng. Một sĩ quan quân đội có 4 năm trong quân ngũ đã được hàm Thiếu tướng là cực kỳ hiếm có. Năm 1990, Diệp Tuyển Ninh nhậm chức Trưởng ban Liên lạc Tổng cục Chính trị, rất có thế lực. Các nguồn tin trong quân đội tiết lộ, sau khi ông Giang Trạch Dân nhậm chức Chủ tịch Quân ủy Trung ương năm 1989 đã rất nhiều lần thăm Tổng cục Chính trị nhưng chỉ có một lần có mặt Diệp Tuyển Ninh, khi đó Giang Trạch Dân đã chắp tay “hành lễ” và chào “ông chủ”.
Tin đồn còn cho rằng, những thuộc cấp theo Diệp Tuyển Ninh, chưa bao giờ gọi Diệp Tuyển Ninh là trưởng ban mà luôn gọi là “ông chủ”.
Ban liên lạc của Tổng cục Chính trị cs Tàu là cơ quan tình báo đặc biệt, ngoài Tổng cục Tình báo. Đã có tin đồn rằng sau khi ông Tập Cận Bình nhậm chức vào năm 2012, danh sách nhân sự bí mật ẩn nấp ở khắp nơi trên thế giới trong nhiều năm mà Diệp Tuyển Ninh vẫn nắm giữ đã được trao toàn bộ lại cho ông Tập Cận Bình, điều này được ví von là “tặng Tập ba nghìn quân mai phục”.
Theo tiết lộ trong bài viết của Cao Tân, Diệp Tuyển Ninh cũng đã trao cho ông Tập Cận Bình bằng chứng về tài khoản riêng của tất cả các lãnh đạo hàng đầu trong Ban Thường vụ Bộ Chính trị các khóa trước. Điều này khiến ông Tập Cận Bình dễ dàng nắm được điểm yếu của hầu hết các cựu lãnh đạo cũng như lãnh đạo còn tại nhiệm của cs Tàu. Bài viết chỉ ra rằng đây là lý do quan trọng nhất khiến uy danh trong Đảng của ông Tập Cận Bình bất ngờ trỗi dậy mà không ai dám chống đối.
Trí Đạt


*** "Đừng tin những gì cộng sản nói, mà hảy nhìn những gì cộng sản làm". 
Tình trạng đảo Gạc ma xẩy ra 14/03/1988 vẩn còn đó và hiện nay lũ chồn hôi giặc hồ lại tái diển để bàn giao khu bãi Tư Chính cho hoàn thành kế hoạch Thành Đô vì bãi nầy là cuối thềm lục địa của Việt Nam. Kiểm soát vùng biển nầy là khóa chặt đảo Phú Quốc để bảo đảm an toàn cho căn cứ hải quân mới của rợ hán tại Cambuchia.
Chính vì thế mà lũ chồn hôi đã câm miệng hến cho đến khi cả thế giới lên tiếng chúng đành phải khua môi múa mỏ của chúng một chút cho có mà thôi. Khu nầy kế bên đảo Phú Quốc của Việt Nam.


'Quocviet V' via Conduongvui 
Việt Nam chính thức nêu tên Trung Quốc ‘vi phạm vùng đặc quyền kinh tế’
19/07/2019


Btbd 03
Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Lê Thị Thu Hằng.
Bộ Ngoại giao Việt Nam ngày 19/7 chỉ đích danh nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc “đã có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam” trong khu vực Biển Đông, một động thái hiếm hoi trong những phản ứng chính thức của Việt Nam đối với những hành động được cho là “khiêu khích” của Trung Quốc trong những năm gần đây.
Trả lời báo chí trong cuộc họp báo ngày 19/7, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam, Lê Thị Thu Hằng nói: “Trong những ngày qua, nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc đã có hành vi vi phạm vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông. Đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, được xác định theo đúng các quy định của Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển 1982 mà Việt Nam và Trung Quốc đều là thành viên”.
Đại diện Bộ Ngoại giao Việt Nam còn cho biết phía Việt Nam “đã tiếp xúc nhiều lần với phía Trung Quốc ở các kênh khác nhau” như trao công hàm phản đối yêu cầu chấm dứt ngay các hành vi vi phạm, rút toàn bộ tàu ra khỏi vùng biển Việt Nam, tôn trọng quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam vì quan hệ hai nước và ổn định, hòa bình ở khu vực.
Thông tin về vụ “đối đầu” căng thẳng giữa các lực lượng hải cảnh của Việt Nam và Trung Quốc bắt đầu xuất hiện trên truyền thông quốc tế và mạng xã hội từ ngày 12/7, sau khi tờ Bưu Điện Hoa Nam Buổi Sáng dẫn nguồn tin từ nhà nghiên cứu về hải quân Trung Quốc của Mỹ, Ryan Martinson, dựa trên các dữ liệu theo dõi hàng hải.
Theo nguồn tin này, 6 tàu hải cảnh, gồm 2 tàu của Trung Quốc và 4 tàu của Việt Nam, được trang bị kỹ càng đã “vờn nhau” trong suốt một tuần qua khi Bắc Kinh đưa tàu Hải Dương Địa Chất 8 vào khảo sát địa chất gần Bãi Tư Chính, thuộc đặc quyền kinh tế và do Việt Nam kiểm soát ở BIển Đông.
Đây là lần thứ 2 Bộ Ngoại giao Việt Nam lên tiếng chính thức về vụ này, sau khi phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Cảnh Sảng, tại cuộc họp báo ngày hôm 17/7, yêu cầu Việt Nam “nghiêm túc tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc đối với các vùng lãnh hải liên quan và không có bất kỳ hành động nào làm phức tạp tình hình”.
Trước đó, bà Lê Thị Thu Hằng nói tại cuộc họp báo ngày 16/7 rằng “Mọi hoạt động của nước ngoài trên các vùng biển Việt Nam nếu không được phép của Việt Nam đều vô giá trị”.
Theo bà Hằng, hiện các lực lượng chức năng trên biển của Việt Nam vẫn đang “tiếp tục triển khai nhiều biện pháp phù hợp” để bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trong khu vực này.

Nhà nghiên cứu: Khả năng đụng độ VN-TQ ‘ngày càng cao’ ở bãi Tư Chính
23/07/2019
Các tàu cảnh sát biển của Trung Quốc và Việt Nam từng va chạm ở Biển Đông hồi tháng 5/2014
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp nói với VOA hôm 22/7 rằng khả năng đụng độ trực tiếp giữa hai lực lượng cảnh sát biển Việt Nam và Trung Quốc mỗi lúc một cao hơn khi mà các tàu Trung Quốc vẫn có mặt tại bãi Tư Chính trên Biển Đông tính đến thời điểm này, theo thông tin mà VOA có được.
Theo cập nhật hôm 21/7 của ông Ryan Martinson, nhà nghiên cứu về hải quân Trung Quốc và là giảng viên tại Trường Hải chiến Mỹ, tàu khảo sát Hải Dương Địa Chất 8 của Trung Quốc “vẫn tiếp tục các hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam”.
Tham khảo qua trang maritimetraffic.com, VOA nhận thấy đến tối 22/7 (giờ Việt Nam), có ít nhất 3 tàu không rõ số hiệu còn hiện diện ở đúng địa điểm mà ông Ryan Martinson đã cập nhật.
Tiến sĩ Hợp, nhà nghiên cứu kỳ cựu tại Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ISEAS-Yusof Ishak có trụ sở ở Singapore, so sánh rằng hoạt động của tàu Hải Dương Địa Chất 8 hiện nay có một điểm giống như sự kiện Trung Quốc đưa giàn khoan Haiyang Shiyou 981 vào phía tây bắc của Hoàng Sa cách đây 5 năm.
Hai năm sau sự kiện hồi hè năm 2014, Việt Nam có đại hội của đảng cộng sản cầm quyền vào năm 2016. Vào năm 2021, hai năm nữa tính từ thời điểm này, Việt Nam cũng sẽ có đại hội đảng. Từ đó, tiến sĩ Hợp nhận định rằng hai lần đưa dàn khoan của Trung Quốc vào các địa điểm thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam là “phép thử về sự kiên định trong chính sách của Việt Nam, về đối ngoại là chính cũng như về chính sách cụ thể của Việt Nam về Biển Đông”.
Dẫn thông tin do ông thu thập từ nhiều nguồn khác nhau, nhà nghiên cứu của viện ISEAS-Yusof Ishak cho biết đối đầu giữa các tàu Trung Quốc và Việt Nam ở bãi Tư Chính không chỉ xảy ra từ 2/7 mà thậm chí còn từ trước đó gần 1 tháng.
Sẽ đến lúc mà không kiềm chế được là sẽ có bắn nhau. Nó sẽ xảy ra như thế nếu như người Trung Quốc trong thời gian tới không rút. Nó sẽ đi đến chỗ đó.
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp
Ông Hợp cho biết Trung Quốc từ khoảng hôm 4/6 bắt đầu có động thái cản trở việc hãng Rosneft của Nga và một công ty Nhật thực hiện hợp đồng khoan mở rộng để thăm dò dầu khí ở vùng biển, và mọi việc kéo dài từ đó đến nay.
Thông tin chính thức trên báo chí Việt Nam và Trung Quốc không cho biết các tàu hai nước đã có va chạm, đụng độ gì chưa, nhưng tiến sĩ Hợp cho rằng cứ mỗi ngày qua đi, khả năng đụng độ trực tiếp giữa các lực lượng thực thi pháp luật của Việt Nam, tức là các tàu cảnh sát biển của Việt Nam, với các tàu của cảnh sát biển Trung Quốc đang ở đó “ngày càng cao”.
Nói về nguy cơ dẫn đến nổ súng, nhà nghiên cứu của viện ISEAS-Yusof Ishak bày tỏ lo ngại:
“Sẽ đến lúc mà không kiềm chế được là sẽ có bắn nhau. Nó sẽ xảy ra như thế nếu như người Trung Quốc trong thời gian tới không rút. Nó sẽ đi đến chỗ đó. Một khi phải đi đến chỗ bắn nhau rồi, không có cách gì để dừng lại được nữa. Nếu Trung Quốc tuyên bố kéo dàn khoan vào không phải khoan thăm dò nữa mà là khoan khai thác thì lúc đấy sẽ có đụng độ”.
Trên bình diện quan hệ quốc tế đa phương, nhà nghiên cứu kỳ cựu tại viện ISEAS-Yusof Ishak tại Singapore, cho rằng các động thái “quấy rối”của Trung Quốc quanh bãi Tư Chính cũng có ý “dằn mặt” hãng Rosneft của Nga.
Theo tiến sĩ Hợp, Trung Quốc hiện tỏ ra “quá tự tin” trong quan hệ của họ với thế giới, không chỉ trong quan hệ với nước Nga. Việc Trung Quốc “quấy rối” phía Việt Nam ở vùng biển hiện nay có thể hiểu rằng điều đó về thực chất cũng đồng nghĩa với “quấy rối người Nga”, ông Hợp nói.
Có thể khẳng định rằng người Nga có nói gì hay không nói gì thì doanh nghiệp Nga đó chỉ rút về khi hết dầu, hết khí thôi. Tức là họ sẽ không rút. Người Nga khai thác ở vùng biển Việt Nam từ năm 1978. Người Nga người ta rất hiểu luật.
Tiến sĩ Hà Hoàng Hợp
VOA gửi đề nghị bình luận đến nhà chức trách Nga và hãng Rosneft nhưng chưa nhận được hồi đáp ở thời điểm bài này được đăng.
Mặc dù vậy, với kinh nghiệm của mình, tiến sĩ Hợp phân tích rằng người Nga không nhất thiết sẽ phải phát biểu điều gì, mà họ sẽ vẫn tiếp tục thực hiện công việc của mình. Ông Hợp nói với VOA:
“Có thể khẳng định rằng người Nga có nói gì hay không nói gì thì doanh nghiệp Nga đó chỉ rút về khi hết dầu, hết khí thôi. Tức là họ sẽ không rút. Người Nga khai thác ở vùng biển Việt Nam từ năm 1978. Người Nga người ta rất hiểu luật. Họ có tuyên bố, có nói gì hay không, cũng không thay đổi hiện trạng là công ty Rosneft và công ty khác của Nga không bao giờ người ta rút cả”.
Mỹ, nước không có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông nhưng luôn khẳng định quyền tự do hàng hải ở đây, hôm 20/7 lên án Trung Quốc bằng những lời lẽ đanh thép, cáo buộc nước này có “hành vi bắt nạt” và “làm suy yếu hòa bình và an ninh” khu vực giữa lúc tàu khảo sát địa chất của Trung Quốc tiếp tục hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Thông cáo của Bộ Ngoại giao Mỹ cho thấy sự ủng hộ gần như rõ ràng đối với Việt Nam.
“Hoa Kỳ lo ngại về những bản tin về sự can thiệp của Trung Quốc vào các hoạt động dầu khí ở Biển Nam Trung Hoa [Biển Đông], bao gồm các hoạt động thăm dò và sản xuất từ lâu nay của Việt Nam”, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ Morgan Ortagus nói trong một tuyên bố sáng 20/7.
“Trung Quốc nên chấm dứt hành vi bắt nạt và kiềm chế thực hiện loại hoạt động khiêu khích và gây bất ổn này”, một đoạn trích của tuyên bố cho hay.

Monday, July 22, 2019

20190722 Bản tin biển Đông.


20190722 Bản tin biển Đông.


Why China and Vietnam Can’t Stop Clashing With Each Other
Vietnam demands China end violations at sea
China says U.S. criticism over South China Sea is slander
Why China Is In Love with Buying Russia's Killer Su-35 Fighter Jet
Huawei secretly helped build North Korea's wireless network, leaked documents suggest
Trump says China's Xi has acted responsibly on Hong Kong protests
China's Huawei spy risks threaten U.S diplomacy abroad

US warns of ability to take down Chinese artificial islands


Quocviet V' via Conduongvui 
‘Bẫy nợ ngoại giao’ cùng rủi ro mà các nước gánh chịu và cái giá Bắc Kinh phải trả khi triển khai Sáng kiến Vành đai, Con đường
Published: 21/07/2019 | By: VQ1 
05
Hình minh hoạ
Các nhà phê bình lo ngại rằng Trung Cộng đang sử dụng những khoản vay để tạo ra sự phụ thuộc và đạt được tầm ảnh hưởng về chính trị từ kế hoạch này. Chưa dừng ở đó, Bắc Kinh còn phải đối mặt với sự chỉ trích gay gắt từ chính quê nhà.
Trung Cộng là một trong những quốc gia có dấu ấn phát triển lớn nhất trên thế giới. Đây là quốc gia duy nhất có lưu lượng tài chính quốc tế chính thức lớn hơn Mỹ. Tuy nhiên, Washington đã chi nhiều gấp 4 lần vào Hỗ Trợ Phát Triển Chính thức (ODA) so với Trung Cộng. Trong khi đó, dòng tiền của Trung Cộng chủ yếu được chi cho các khoản vay đối với những dự án về cơ sở hạ tầng, năng lượng và truyền thông. Các dự án này là một phần của Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) – phương tiện chính của Trung Cộng nhằm thúc đẩy sự phát triển cả ở trong và ngoài nước.
Thông qua đầu tư cơ sở hạ tầng, Bắc Kinh đặt mục tiêu kết nối Trung Cộng hiệu quả hơn với các khu vực khác trên thế giới và tăng cường giao thương dọc con đường này. 5 năm sau khi Chủ tịch Tập Cận Bình công bố về kế hoạch cho BRI, Trung Cộng đã chi khoảng 25 tỷ USD cho những dự án cơ sở hạ tầng có liên quan.
Tuy nhiên, câu hỏi được đặt ra là các nước được hưởng lợi từ những khoản đầu tư của Trung Cộng ở mức độ nào? Có ít nhất 8 quốc gia đang phải hứng chịu rủi ro “ôm” nợ từ những khoản vay liên quan đến các dự án của BRI, theo báo cáo vào phát hành tháng 3/2018 của Trung tâm Phát triển Toàn cầu (CGD). Các nhà phê bình lo ngại rằng Trung Cộng đang sử dụng những khoản vay để tạo ra sự phụ thuộc và đạt được tầm ảnh hưởng về chính trị.
“Bẫy nợ ngoại giao” của Trung Cộng
Paul Haenle, cựu cố vấn của chính phủ Mỹ và giám đốc Trung tâm Carnegie-Tsinghua, nhận định về những ý kiến chỉ trích: “Một số tin rằng Trung Cộng đang sử dụng ‘bẫy nợ ngoại giao’ thông qua BRI, buộc các nước đang phát triển phải phụ thuộc vào nợ và chuyển sự phụ thuộc đó thành tầm ảnh hưởng về địa chính trị.”
Ông giải thích: “Những mối quan tâm đặc biệt xung quanh các động thái của Trung Cộng tại Sri Lanka, Pakistan, Malaysia là trọng tâm của các cuộc tranh luận về bẫy nợ. Trung Cộng đã có được 99 năm điều hành tại cảng Hambantota ở miền nam Sri Lanka sau khi chi phí cho dự án này đã vượt ngoài tầm kiểm soát, buộc Colombo phải bỏ quyền kiểm soát cảng để đổi lấy một gói cứu trợ từ Trung Cộng.” 
06
Tìm ra giải pháp thay thế để trả nợ khi các quốc gia không đủ khả năng thanh toán những khoản vay trước đó không phải là một chiến lược mới của Trung Cộng. Trở lại năm 2011, Trung Cộng đã xoá nợ cho Tajikistan, đổi lấy 1.158 km2 lãnh thổ tranh chấp, theo báo cáo của CDG. Nhưng năm ngoái, “tranh luận về bẫy nợ đã nhận được sự đồng tình nhiều hơn nữa sau khi Thủ tướng Malaysia huỷ các dự án BRI trị giá 23 tỷ USD và cảnh báo không trở thành ‘con mồi’ của chủ nghĩa thực dân phiên bản Trung Cộng”, theo Haenle.
Một số quốc gia phương Tây cũng nhanh chóng đồng tình với quan điểm này. Rex Tillerson, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ, đã cảnh báo về phương thức tiếp cận của Trung Cộng tại Đại học George Mason bang Virginia. Theo Tillerson, chiến lược của Trung Cộng “khuyến khích sự phụ thuộc bằng cách cho vay và các thoả thuận tham nhũng khiến các quốc gia mắc nợ và phải cắt giảm chủ quyền, ngăn cản quá trình phát triển lâu dài và tăng trưởng tự bền vững của họ.”
Frans-Paul van der Putten đã nghiên cứu về Trung Cộng suốt 12 năm tại Clingendael – một trung tâm nghiên cứu quan hệ quốc tế tại Hà Lan. Ông cho rằng việc tạo ra nợ giữa những bên tham gia BRI là một chiến lược có chủ đích của Trung Cộng, với ý định đổi nợ lấy tài nguyên hoặc sự hỗ trợ về ngoại giao sau này. Nhưng Bắc Kinh lại không làm điều gì để ngăn chặn việc này xảy ra. Điều này phù hợp với lối tiếp cận vốn thực dụng của Trung Cộng, theo van der Putten. Ông nói: “Không có vấn đề nghiêm trọng nếu các quốc gia đó có thể trả nợ sau này, bởi nếu không thể thì họ sẽ tìm ra một cách khác để hưởng lợi.” Trung Cộng không ngại sử dụng nợ làm đòn bẩy và họ giải quyết các nước mắc nợ theo những cách thức đặc biệt và theo từng trường hợp cụ thể.
Trung Cộng luôn thắng
Với ý tưởng về sự hợp tác “đôi bên cùng có lợi”, Bắc Kinh luôn có thể gặt hái được điều gì đó từ những khoản tài trợ của họ. Nếu đòn bẩy chính trị là một “tác dụng phụ” hữu ích, thì Trung Cộng phải làm gì để kiếm được hàng tỷ USD mà họ chi cho cơ sở hạ tầng ở nước ngoài?
Mô hình phát triển của Trung Cộng là dựa vào thương mại. Cơ sở hạ tầng tốt hơn có nghĩa là thúc đẩy thương mại cũng là thúc đẩy phát triển. BRI nhằm mục đích kết nối và phát triển các khu vực phía tây Trung Cộng, nhưng cũng nhắm đến phát triển các thị trường khác để có được lợi thế riêng. Phương Tây đã đạt được tiềm năng tăng trưởng và họ sẽ không nhận thêm điều gì từ Trung Cộng. Nhưng châu Âu, với dân số đông, trẻ và ngày một nhiều hơn, là lục địa có tiềm năng phát triển thực sự. Bằng cách thúc đẩy sự phát triển tại các nước châu Phi, Trung Cộng muốn phát triển và mở rộng một thị trường mới ở lục địa này. 
07
Hơn nữa, các dự án cơ sở hạ tầng là “một khoản đầu tư để xây dựng mối quan hệ tốt đẹp hơn giữa chính phủ Trung Cộng và chính phủ của các nước tiếp nhận”, van der Putten giải thích. Ông cho hay: “Bằng cách cung cấp những khoản vay, Trung Cộng đã có được lợi ích ngoại giao bởi họ sẽ thắt chặt mối quan hệ với quốc gia cụ thể. Đó là điều mà Trung Cộng đạt được và nó không thể hiện bằng tiền.”
Những gì có thể thể hiện bằng tiền là việc mà Trung Cộng cung cấp cho các công ty xây dựng của mình qua những dự án BRI. Thông thường các ngân hàng chính sách của Trung Cộng cung cấp tiền cho một dự án cụ thể ở một quốc gia vay nợ với điều kiện những công ty của họ sẽ được thực hiện dự án. Van der Putten nói: “Bởi vậy, phần lớn dòng tiền từ các ngân hàng chính sách của Trung Cộng sẽ đến với những công ty xây dựng của họ. Đường sắt đang được xây dựng, đường cao tốc cũng vậy. Có thể nó sẽ không bao giờ được sử dụng, nhưng những công ty ấy đã đạt được mục tiêu của họ.”
Lấp đầy khoảng cách về cơ sở hạ tầng
Tuy nhiên, việc Trung Cộng hưởng lợi không có nghĩa là những nước tham gia không nhận được điều gì. Các dự án cơ sở hạ tầng của Trung Cộng đang đáp ứng nhu cầu cấp bách của họ – Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) ước tính chỉ riêng châu Á cần khoảng 26 nghìn tỷ để đầu tư vào cơ sở hạ tầng cho đến năm 2030 nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng hiện tại. Theo IMF, thiếu cơ sở hạ tầng đầy đủ là một trong những rào cản lớn nhất đối với tăng trưởng và phát triển ở châu Á, cũng như Mỹ Latinh. Bởi vậy, theo Haenle, việc BRI tập trung vào phát triển cơ sở hạ tầng có thể mang đến tình thế rõ ràng “đôi bên cùng có lợi.”
Haenle lập luận: “Không có gì sai về việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng hay thúc đẩy sự kết nối toàn cầu ở các nước đang phát triển.
“Có một khoảng cách rất lớn về số tiền cần thiết cho sự phát triển và số tiền hiện có, đặc biệt là về cơ sở hạ tầng”, Marina Rudyak nhận định. Rudyak đã nghiên cứu về quá trình phá triển trong nhiều năm và đang hoàn thành chương trình tiến sĩ về hợp tác phát triển của Trung Cộng tại Đại học Heidelberg ở Đức. Các tổ chức đa phương và những bên tài trợ không thể hỗ trợ cho tất cả những dự án phát triển cần thiết, do đó vẫn còn nhiều cơ hội cho Trung Cộng làm điều đó. “Vấn đề không phải là tiền từ Mỹ hay Trung Cộng, châu Âu hay Trung Cộng, mà là châu Phi cần tất cả số đó.”
Van der Putten giải thích rằng các ngân hàng phát triển quốc tế như African Development Bank và World Bank có nguồn vốn hạn chế, không đủ để tài trợ cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng cần thiết. Các ngân hàng thương mại phương Tây cũng không thể cung cấp các khoản vay rủi ro kể từ khủng hoảng tài chính. Ông nói: “Vai trò của Trung Cộng ở đây rất quan trọng. Không chỉ là một nguồn tài chính thay thế, mà còn là nguồn rất dồi dào.”
Các ngân hàng phát triển của Trung Cộng, ví dụ như China Development Bank và China Exim Bank, cung cấp tài chính cho các dự án dựa vào mức thuế bình thường. Ông cho hay: “Đây không phải là viện trợ cho phát triển, mà nó có một số điểm khác biệt. Đây là những khoản vay rủi ro cho các nước phát triển, có mục đích cải thiện cơ sở hạ tầng của họ.”
Mô hình cho vay của Trung Cộng
Tiền của Trung Cộng lấp đầy một khoảng trống trong tài trợ cơ sở hạ tầng quốc tế. Vậy tại sao nó lại gây ra nợ nần và những ý kiến trái chiều? Thứ nhất, hầu hết khoản tài trợ từ BRI được dựa trên cấu trúc quan hệ giữa hai nhà nước. Điều này có thể tạo ra những thách thức đối với nợ chính phủ, với những tác động có thể xảy ra với các mối quan hệ song phương.
Thông thường, các khoản vay được thực hiện theo những tiêu chuẩn xác định bởi các tổ chức đa phương như WB, IFM hay các cơ chế đa phương như Câu lạc bộ Paris. Nhưng Trung Cộng lại không phải thành viên của Câu lạc bộ Paris, bởi vậy họ không cần phải thông báo cho các thành viên về hoạt động tín dụng và cũng không tuân theo bất kỳ tiêu chuẩn nào.
Báo cáo của CDG kết luận: “Không có khuôn khổ đa phương hay khuôn khổ nào khác để xác định cách tiếp cận của Trung Cộng đối với các về đề về nợ bền vững, chúng ta chỉ có bằng chứng mang tính giai thoại về những động thái đặc biệt mà Trung Cộng thực hiện làm cơ sở để mô tả cách tiếp cận chính sách của quốc gia.” 
08
Thay vì những tiêu chuẩn phổ quát, “Trung Cộng nhìn chung lại tuân theo luật địa phương khi tài trợ cho các dự án phát triển”, Scott Morris – một trong những tác giả của báo CDG này, giải thích. Ông nói: “Điều này có thể có nghĩa là tiêu chuẩn cao khi luật địa phương chặt chẽ và tiêu chuẩn thấp khi luật lỏng lẻo.”
Morris nhận định, sự khác biệt với các khoản vay từ các tổ chức, như WB, là những tổ chức này đánh giá về luật địa phương và sẽ áp đặt các biện pháp bảo hộ nếu luật pháp địa phương quá lỏng lẻo. Trung Cộng để lại phần trách nhiệm này cho chính phủ đối tác và “tuân thủ theo bất kỳ luật lệ địa phương nào”.
Ông cho biết thêm: “Trung Cộng cũng không nhạy cảm với các vấn đề về tính bền vững của nợ, chẳng hạn như các điều khoản cho vay không hoàn toàn phù hợp với rủi ro nợ của quốc gia đó.” Do đó, các quốc gia tiếp tục hưởng lợi từ các khoản vay của Bắc Kinh sẽ phụ thuộc rất nhiều vào tiêu chuẩn của chính họ.
Cái giá mà Bắc Kinh phải trả
Những vấn đề nợ giữa các nước tham gia BRI cũng gây ra hậu quả cho Trung Cộng. Giữa khoảng thời gian năm 2000 và 2014, Bắc Kinh chi 13 tỷ USD cho các hoạt động liên quan đến nợ. Với nợ khó đòi, họ giảm thiểu rủi ro bằng cách mở rộng các điều khoản cho vay.
Theo Morris, Trung Cộng cũng phải gánh chịu rủi ro đáng kể khi những bên đi vay vỡ nợ. Mặc dù “các khoản nợ là cần thiết cho đầu tư cơ sở hạ tầng, nhưng một khoản nợ lớn cũng mang đến rủi ro đáng kể, cần được bên cho vay và đi vay giám sát cẩn trọng.”
Quan trọng nhất, những ý kiến chỉ trích cũng đang gây ra một “vấn đề rất lớn ở Trung Cộng”, Rudyak cho hay. “Công chúng Trung Cộng đang chỉ trích rất gay gắt những khoản viện trợ và khoản vay của Trung Cộng.” Họ không thể lấy lại được tiền và đang bị cộng đồng quốc tế chỉ trích. Do vậy, ngày càng nhiều người Trung Cộng đặt ra câu hỏi, tại sao Bắc Kinh không sử dụng số tiền này cho những người nghèo ở chính đất nước của họ?
Hương Giang



Quocviet V' via Conduongvui 
Trung Quốc phản đối tuyên bố của Mỹ về vụ Tư Chính
Thanh Hà Đăng ngày 22-07-2019 Sửa đổi ngày 22-07-2019 15:48
Ảnh chụp các đảo Trường Sa từ trên không, ngày 21/04/2017.Ted ALJIBE / AFP
Phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc, Cảnh Sảng, ngày 22/07/2019 chỉ trích Mỹ "vu khống" Trung Quốc qua việc Washington lên án Bắc Kinh cản trở các hoạt động khai thác dầu khí của Việt Nam ở Biển Đông.
Họp báo sáng nay tại Bắc Kinh, ông Cảnh Sảng chỉ trích Mỹ "thóa mạ" Trung Quốc về sự cố tại bãi Tư Chính. Theo phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc, việc chỉ trích Bắc Kinh ngăn cản các quốc gia trong khu vực khai thác năng lượng tại Biển Đông là nhằm mục đích đổ thêm dầu vào lửa, trong lúc mà Trung Quốc và các nước láng giềng đang "nỗ lực san bằng những bất đồng" về tranh chấp chủ quyền.
Ông Cảnh Sảng kêu gọi Washington ngưng đưa ra những tuyên bố "vô trách nhiệm" như trên và nên "tôn trọng những nỗ lực của Trung Quốc cùng các nước ASEAN giải quyết bất đồng bằng đối thoại, vì hòa bình và ổn định tại Biển Đông".
Hãng tin Anh, Reuters nhắc lại, hôm 20/07/2019 bộ Ngoại Giao Mỹ ra thông cáo bày tỏ quan ngại về những "hành động khiêu khích liên tục" của Bắc Kinh, đặc biệt là trong vùng biển mà Việt Nam đã tuyên bố chủ quyền. Hoa Kỳ yêu cầu Trung Quốc "ngưng các hành vi quấy nhiễu và đe dọa các quốc gia trong khu vực".
Ngoại trưởng Mike Pompeo đầu năm 2019 từng trực tiếp lên án Trung Quốc "cưỡng bức, ngăn chận các quốc gia thành viên ASEAN tiếp cận với các nguồn năng lượng trị giá hơn 2.500 tỷ đô la".
Hà Nội hôm 19/07/2019 cáo buộc một tàu khảo sát của Trung Quốc cùng các tàu hộ tống đã vi phạm chủ quyền của Việt Nam khi tiến vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ở phía nam Biển Đông. Tàu của Trung Quốc đã tiến hành thăm dò ở bãi Tư Chính, quần đảo Trường Sa. Tàu hải cảnh Trung Quốc còn đe dọa các tàu Việt Nam bảo vệ giàn khoan do tập đoàn Nga Rosneft khai thác ở lô dầu 06-1.