20181014 Bản tin biển Đông
Câu chuyện cảm động của một gia đình tỵ nạn gốc Mít, tạm dừng chuyến bay tại Nhật. Rất nên đọc.
Was Tyndall Air Force Base in Florida Panhandle targeted?
Satellite Photos Show Parts of Tyndall Air Force Base
Have Been Completely Decimated
Hurricane Michael wipes out Mexico Beach, Florida, in
'apocalyptic' assault
Tyndall Air Force Base a ‘Complete Loss’ Amid
Questions About Stealth Fighters
Video: Aerial images show severe damage at Tyndall Air
Force Base
Từ độc tài đến dân chủ: chúng ta là yếu tố quyết định
Bất chấp dân oan mất đất, CSVN quyết xây nhà hát Thủ
Thiêm hơn $64 triệu
Cho phép dùng tiền nhân dân tệ để thanh toán ở biên giới
13:45 29/08/2018
Câu chuyện cảm động của một gia đình tỵ nạn gốc Mít, tạm dừng chuyến bay tại Nhật. Rất nên đọc.
BÔNG LÚA CÚI ĐẦU.
Nhớ hồi vợ chồng tôi
và hai đứa con nhỏ (một trong hai đứa còn nằm trong bụng mẹ, tháng thứ 6) xuất
cảnh đi Mỹ..
Vì trường hợp
phụ nữ mang thai nên IOM (cơ quan di dân quốc tế) thu xếp cho riêng chúng tôi
đi đường bay quá cảnh phi trường Kyoto Nhật Bản thay vì đường ghé Hàn quốc như
những gia đình khác cùng đợt hồ sơ, như vậy chúng tôi sẽ được rút ngắn chuyến
đi gần nửa ngày.
Sự tử tế chu đáo và
bất ngờ này của một cơ quan thuộc Liên Hiệp Quốc, những 'người dưng nước lã'
hoàn toàn xa lạ, làm tôi cảm động. Tiền mua vé máy bay cho tất cả những di dân
diện tị nạn đều do IOM cho vay trước, chúng tôi sẽ trả góp sau khi đã an toàn định
cư ở quốc gia mới.
Gia đình nhỏ chúng tôi
ghé đến phi trường Nhật, te tua xơ mướp vì mệt, lết tha lết thếch không giống
ai giữa chuyến bay toàn hành khách sang trọng. Chúng tôi ngồi ở hàng ghế cuối,
biết thân biết phận nên chờ cho mọi người ra hết mới dắt díu nhau ra sau cùng.
Vậy mà vừa bước ra
khỏi cửa máy bay, một tình nguyện viên của IOM, một thanh niên (sinh viên)
người Nhật sáng sủa cao ráo, mặc bộ vest rất chỉnh tề, đứng sẵn đó, thấy chúng
tôi là gập người chào cung kính. Cầm trên tay tấm giấy lớn ghi tên chúng tôi
nhưng thực ra anh ta chẳng cần nữa vì quá dễ nhận ra cái gia đình nghèo vừa rời
khỏi đất nước nghèo này. Chúng tôi sững người, ngượng nghịu lúng túng trước cái
cúi chào đặc biệt của người Nhật lần đầu tiên trên đời mình được nhận.
Sau đó anh chàng kính
cẩn ân cần, cố đi thật chậm để bà xã tôi không phải vội, dù đôi chân cao ngồng
của chàng ta chỉ cần sải một bước là bằng chúng tôi đi ba bước. Anh chàng nói
tiếng Anh chậm rãi và cố tình chọn những từ dễ đến nỗi đứa dốt sinh ngữ như tôi
cũng hiểu ngay. Cái cách anh chàng tế nhị đưa chúng tôi đến nhà vệ sinh và sẵn
sàng kiên nhẫn chờ ở ngoài làm tôi càng phục lăn! Nước Nhật giáo dục kiểu gì mà
người trẻ của họ tuyệt vời đến thế này nhỉ?
Rồi anh chàng chậm rãi
dẫn chúng tôi đi dọc các hành lang sân bay quốc tế rộng mênh mông để đến cổng
chờ chuyến bay đi Mỹ. Tôi nhớ chúng tôi đi bộ gần nửa tiếng mới tới. Cung cách
của anh chàng không khác gì đang hộ tống những nhân vật quan trọng. A không,
đang ấm áp đón tiếp những người rất thân thiết. Tôi nghĩ người thân ruột thịt
cũng không ân cần được đến thế!
Đến nơi, anh chàng lại
cung kính và áy náy xin lỗi vì bận việc phải đi gấp. Anh chàng nói sẽ gọi điện
nhờ một người bạn đến ở với chúng tôi trong 8 tiếng chờ đợi.
Thì ra anh chàng đã
gọi phone nhờ cô người yêu của mình từ hồi nào. Cô ấy đến, cũng là sinh
viên, nhỏ nhắn dễ thương, vừa đẹp vừa hiền, đem theo bữa cơm đắt tiền mua ở nhà
hàng cùng một giỏ trái cây. Vừa gặp chúng tôi, cô ấy cũng gập người chào rất lễ
phép.
Tôi lại một lần nữa
xúc động khi hiểu ra IOM có đặt sẵn suất thức ăn nhanh ở phi trường cho chúng
tôi, nhưng đôi bạn trẻ này muốn đãi 'bà bầu' và hai em bé một bữa chu đáo hơn
bằng chính tiền túi của họ.
Không còn biết nói gì
nữa khi nhìn cô gái Nhật dịu dàng dọn bữa ăn vẫn còn nóng ra chiếc băng ghế phi
trường, chén đũa đàng hoàng, mời chúng tôi, ngồi 'hầu' bên cạnh chúng tôi với
nụ cười luôn nở trên khuôn mặt dễ mến, ân cần hỏi han vợ con tôi.
Tôi không còn tâm trí
đâu mà thưởng thức món ăn. Mỗi một miếng đưa lên miệng là mỗi hạt ngọc hạt
vàng! Tôi cảm thấy mình không xứng đáng ngồi đó để được cô bé tiếp đãi như thế
này. Tôi xin kiếu, xin được đi lòng vòng để ngắm cái phi trường hiện đại, để
trố mắt nhìn cái thế giới khác hẳn thế giới quen thuộc của mình ở quê hương.
Nói thật, suốt đời còn
lại chúng tôi không thể quên sự tử tế và khiêm nhu của hai người bạn trẻ Nhật
ấy! Con gái đầu của chúng tôi năm đó mới 8 tuổi, nó nói lớn lên, quốc gia đầu
tiên con phải đi thăm, trước cả về thăm quê hương Việt Nam, nhất định phải là
nước Nhật!
Gần đây tôi mới biết câu thành ngữ cổ xưa của người Nhật:
"Bông lúa chín là bông lúa cúi đầu". Bao thế hệ đi trước của người
Nhật đã truyền lại lời dạy đó cho con cháu: Một cây lúa khi được mùa, trĩu hạt,
thì nó biết cúi đầu. Khi mình đã sung túc thịnh vượng, không được nghếch mặt
lên trời tự mãn kiêu căng, nhưng biết cúi mình để kính trọng và yêu thương
người khác!
Xem kết quả: / 5
Bình thườngTuyệt vời
Bình thườngTuyệt vời
·
10
năm dân chủ hoá Việt Nam: còn 1/3 lộ trình
Ts. Nguyễn Đình Thắng
Ngày 13 tháng 10, 2018
Muốn thay đổi thể chế từ độc tài sang dân chủ nhất thiết phải có
một lực lượng dân chủ trên toàn xã hội với nhiều triệu người dân nhập cuộc. Một
lực lượng dân chủ như vậy cần 3 yếu tố:
(1) Một số đông người dân phải có ý thức và thái độ đề
kháng – ý thức đề kháng nghĩa là hiểu rằng mình có những quyền bất khả xâm
phạm, còn thái độ đề kháng là quyết tâm đẩy lùi mọi hành vi xâm phạm dù đến từ
đâu. Tạo ý thức và thái độ đề kháng nơi người dân tương đồng với lời kêu gọi
“khai dân trí, chấn dân khí” của cụ Phan Chu Trinh.
(2) Các tổ chức làm phương tiện quy tụ và tập hợp người dân
ở từng địa phương thành những khối người chặt chẽ để bảo vệ các quyền và lợi
ích riêng và chung. Điểm này tương đồng với khái niệm “hậu dân sinh” của cụ
Phan Chu Trinh.
(3) Một đội ngũ những người giỏi giang và có uy tín để điều
hành các tổ chức kể trên trong sứ mạng “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân
sinh” cho từng khối người dân, và liên kết các khối người dân ấy với nhau trên
toàn xã hội.
Đầu năm 2010, BPSOS phát hành sách “Thông Điệp Hy Vọng và Trách
Nhiệm” để trình bày chương trình 10 năm dân chủ hoá đất nước một cách hoà bình,
ổn định và bền vững bằng cách xây dựng 3 yếu tố kể trên và tạo nên lực lượng
dân chủ trên toàn xã hội Việt Nam.
Hội Nghị XHDS và Diễn Đàn Người
Dân ASEAN, Đông Timor, tháng 8 năm 2016
Đối tượng là các cộng đồng
Chúng tôi không chủ trương kéo những cá nhân rời rẽ lại với
nhau, vì thường không hữu hiệu, mà đầu tư vào những cộng đồng đã chứng tỏ ý
thức và thái độ đề kháng.
Mỗi cộng đồng như vậy thường gồm từ vài trăm đến vài nghìn người
gắn bó với nhau vì cùng tôn giáo, sắc tộc, truyền thống, văn hoá hoặc mối đe
doạ. Trong nhiều năm hoặc nhiều chục năm họ đã sát cánh tranh đấu cho quyền và
lợi ích chung dù phải đối mặt với sự đàn áp, tù đày, tra tấn và kể cả chết
chóc. Vì họ không life stream trên Facebook, không ra tuyên cáo, không trả lời
phỏng vấn trên báo đài nên ít được ai biết đến.
Chúng tôi biết họ qua số hàng nghìn người Việt lánh nạn ở Thái
Lan mà chúng tôi đã tiếp xúc và bảo vệ trong 10 năm qua; phần lớn những người
đi lánh nạn này là thành viên của các cộng đồng bị bách hại ở trong nước vì đã
quyết tâm đấu tranh cho quyền và lợi ích của mình.
Chúng tôi hỗ trợ cho mỗi cộng đồng bằng cách: đào tạo nhóm nhân
sự lõi, kết nối nhóm lõi này với nguồn ủng hộ dài lâu, giúp tập hợp và tổ chức
người dân trong cộng đồng, và liên kết các cộng đồng đã tương đối vững chãi lại
với nhau.
Đào tạo nhóm nhân sự lõi
Thường, một “nhóm lõi” gồm từ 3 đến 5 người, xuất thân từ cùng
một cộng đồng và có tâm nguyện phục vụ cho chính cộng đồng của họ. Để xây dựng
và bảo toàn nội lực cho cộng đồng, nhóm lõi phải cam kết không khiêu khích nhằm
“mời chào” sự đàn áp từ chính quyền, không tham gia đảng hoặc tổ chức chính trị
để không gây nguy hại cho chính mình hoặc cho người khác, và không manh động để
làm hao tổn nội lực của cộng đồng.
Qua khoá đào tạo trực tuyến 12 tháng, họ học cách phân tích vấn
nạn và tìm giải pháp, lập kế hoạch và chương trình hành động, quản lý các nguồn
lực để thực hiện đề án, phát biểu nghị trường và vận động chính sách, huy động
và tổ chức người dân, báo cáo vi phạm nhân quyền với quốc tế, khai dụng luật
Việt Nam để bảo vệ quyền và lợi ích của mọi thành viên trong cộng đồng, đối tác
và liên kết với các cộng đồng bạn…
Nhóm lõi là hạt mầm khởi động tiến trình tập hợp người dân trong
cộng đồng và tổ chức họ lại thành một khối rắn chắc, hiểu theo nghĩa mềm nắn
rắn buông.
Kết nối với nguồn ủng hộ dài
lâu
Chúng tôi kết nối nhóm lõi của mỗi cộng đồng với một nhóm người
Việt ở hải ngoại, gọi là “nhóm kết nghĩa” vì tuy không là ruột thịt nhưng tự
nguyện làm anh chị em một nhà với nhóm lõi ở trong nước. Hai bên hiệp nhất với
nhau trong sứ mạng chung và dài lâu là “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân
sinh” cho toàn thể cộng đồng ấy.
Đây là công thức để những người Việt có lòng ở khắp thế giới tự
do chủ động “góp vốn” -- trí tuệ, kinh nghiệm, kỹ năng, nguồn lực và quan hệ --
của mình một cách trực tiếp và hiệu quả để thay đổi hiện trạng của từng cộng
đồng cụ thể ở trong nước.
Quan trọng hơn cả, nhóm kết nghĩa là điểm tựa tinh thần tạo sự
tự tin cho nhóm lõi ở trong nước, là đường truyền các giá trị nhân bản và tấm
gương tử tế đến mọi thành viên của cộng đồng, và là cánh cửa mở ra thế giới bên
ngoài cho những con người sinh ra và lớn lên trong một xã hội bưng bít.
Hình thành các tổ chức XHDS
“cộng đồng”
Nhóm lõi và nhóm kết nghĩa chung sức hình thành một hội tương
trợ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích cho mọi thành viên của cộng đồng. Chúng tôi
gọi hội tương trợ đó là tổ chức XHDS “cộng đồng” vì sứ mạng của nó đúng nghĩa
với một tổ chức XHDS và vì nó nằm gọn trong lòng của cộng đồng mà nó phục vụ.
Mỗi tổ chức XHDS cộng đồng có 3 nhiệm vụ.
(1) Giúp người dân trong cộng đồng ý thức về các
quyền con người bất khả xâm phạm theo luật quốc tế và các quyền công dân mà nhà
nước có nghĩa vụ tôn trọng và bảo vệ theo hiến pháp và luật quốc gia. Đấy là
khai dân trí.
(2) Chuyển thái độ của những người dân trong cộng
đồng bị xâm phạm quyền và lợi ích từ sợ hãi sang tự tin, từ rụt rè sang chủ
động, từ chấp nhận sang đề kháng. Đấy là chấn dân khí.
(3) Hỗ trợ cho các nạn nhân đẩy lùi mọi hành vi xâm
phạm quyền và lợi ích bởi các giới chức địa phương; nếu cần thiết thì huy động
tổng lực của cộng đồng và sự yểm trợ quốc tế cho một kế hoạch đề kháng đa dạng,
liên luỷ và dài lâu. Đấy là hậu dân sinh.
Khi các thành viên của một cộng đồng hiệp lực để giải quyết các
vấn nạn, của riêng mình hoặc của chung cộng đồng, thì khả năng đề kháng của
cộng đồng ấy sẽ tăng dần lên.
Liên kết toàn xã hội qua các tổ
chức XHDS “chuyên”
Lạm dụng quyền lực là đặc tính của thể chế độc tài. Bởi vậy, đối
phó ngay tại chỗ ở từng địa phương là tuyệt đối cần thiết nhưng chưa đủ vì chỉ
mang tính cách cầm cự tạm thời. Giải pháp triệt để đòi hỏi một phong trào đề
kháng toàn xã hội để thay đổi thể chế. Phong trào ấy sẽ hình thành khi hàng
nghìn cộng đồng, mỗi cộng đồng đều đã phát triển nội lực, liên kết với nhau
trên khắp đất nước.
Chúng tôi chủ trương tạo sự liên kết theo từng lĩnh vực quyền
con người mà nhà nước Việt Nam đã cam kết với quốc tế, như quyền phụ nữ, quyền
trẻ em, quyền tự do tôn giáo, quyền văn hoá, quyền không bị tra tấn, quyền được
hưởng sự bảo vệ của luật pháp công minh, quyền của người lao động, v.v. Các
cộng đồng có cùng nhu cầu và mục đích sẽ đến với nhau để hợp tác dài lâu.
Tác nhân cho sự liên kết là các tổ chức XHDS “chuyên” -- mỗi tổ
chức như vậy đóng vai trò tâm điểm cho một mạng liên kết nhiều cộng đồng trong
một lĩnh vực nhân quyền đặc thù. Khác với một tổ chức XHDS “cộng đồng”, vốn tập
trung phục vụ trong nhiều lĩnh vực cho một cộng đồng nhất định, một tổ chức
XHDS “chuyên” tập trung vào chỉ một lĩnh vực nhân quyền nhưng phục vụ cùng lúc
cho nhiều cộng đồng.
Đằng sau các tổ chức XHDS chuyên là nhiều trăm người hoạt động
XHDS có kiến thức chuyên sâu về các lĩnh vực nhân quyền đặc thù, có tầm vóc
toàn xã hội, và có nhiều quan hệ ở cấp khu vực và quốc tế.
Sự hỗ trợ của chúng tôi dành cho các tổ chức XHDS chuyên bao
gồm: huấn luyện nhóm lõi, giới thiệu với nhóm kết nghĩa ở hải ngoại, và kết nối
với các tác nhân quốc tế và khu vực.
Tạo không gian an toàn cho mỗi
cộng đồng
Môi trường tương đối an toàn là tiền đề cho người dân trong một
cộng đồng tập hợp lại để phát triển nội lực. Muốn thế, việc tiên quyết là tách
vũ khí bạo lực ra khỏi tay của bạo quyền. Chúng tôi thực hiện điều này bằng
quốc tế vận, gồm 2 bước: Áp lực nhà nước Việt Nam cam kết về nhân quyền với
quốc tế, và bảo đảm việc thực thi các cam kết ở cấp địa phương.
Để đổi lấy các lợi ích về kinh tế, mậu dịch, quốc phòng, viện
trợ… từ thế giới tự do, Việt Nam đã ký 7 trong số 9 công ước LHQ quan trọng
nhất về nhân quyền, chưa kể nhiều cam kết cài trong một số hiệp ước mậu dịch
song phương và đa phương với các quốc gia dân chủ. Chúng tôi vẫn tiếp tục vận
động quốc tế để áp lực Việt nam cam kết thêm nữa.
Công dụng của các cam kết quốc tế là chuyển sân chơi – hành vi
đàn áp nhân quyền ở một địa phương không còn là chuyện nội bộ quốc gia mà đã
trở thành sự vi phạm cam kết bởi chính quyền trung ương với quốc tế; hậu quả có
thể là bị lên án trước công luận, bị kiểm điểm bởi LHQ, bị chậm trễ về ký kết
hoặc thực thi các hiệp ước mậu dịch hoặc, nghiêm trọng hơn, bị chế tài tập thể.
Không những thế, đích thân những giới chức hữu trách cũng có thể bị trừng phạt
theo luật Magnitsky mà giờ này đã được nhiều quốc gia dân chủ thông qua.
Để khai thác các cam kết quốc tế này, một tổ chức XHDS cộng đồng
phải có khả năng báo cáo nhanh và chính xác với quốc tế mọi vi phạm khi xảy ra
cho bất cứ thành viên nào của cộng đồng. Khi chính quyền địa phương phải lùi
bước do có sự theo dõi và can thiệp nhanh và mạnh của quốc tế, khoảng không
gian tương đối an toàn sẽ mở ra cho người dân trong cộng đồng tập hợp lại và
phát huy khả năng đề kháng.
Vận dụng “đội trừ bị” ở hải
ngoại
Trong kế hoạch 10 năm dân chủ hoá Việt Nam, người Việt ở hải
ngoại là chủ lực trong 3 lĩnh vực: (1) quốc tế vận để chuyển sân chơi; (2) mở
không gian an toàn cho các cộng đồng trong nước; (3) nối kết XHDS Việt Nam với
thế giới tự do.
Chúng tôi quan niệm rằng tập thể những người Việt ở hải ngoại là
một lực lượng “trừ bị” quý báu. Qua bao tháng năm bươn chải trong cuộc sống
mới, họ đã tích luỹ kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm, nguồn lực, và các quan hệ
gần xa trong khắp thế giới tự do, văn minh và phát triển. Phần lớn những gì
đồng bào ở trong nước đang cần mà chưa có thì người Việt ở hải ngoại đã có sẵn
và có thể cung ứng tức thì qua công thức “nhóm kết nghĩa”. Quan hệ “kết nghĩa”
ấy cũng giúp cho một cộng đồng ở trong nước tăng ngay thế quốc tế vì bộ phận
kết nghĩa ở hải ngoại gồm công dân của các quốc gia mà nhà nước Việt Nam đang
cầu cạnh.
Chúng tôi chứng kiến nhiều cộng đồng, nhờ công thức “kết nghĩa”,
đã tăng lực và thế đáng kể chỉ trong 6 tháng đến 1 năm.
Để nhân rộng công thức này cho hàng nghìn cộng đồng trên toàn
quốc, những người Việt ở hải ngoại có lòng với đất nước cần nhận thức được tiềm
năng của chính mình. Nếu làm đúng việc và đúng cách, họ hoàn toàn có khả năng
để cùng với đồng bào ở trong nước chủ động tạo nên lực lượng dân chủ cần thiết
để đưa đất nước từ độc tài đến dân chủ.
Chúng tôi có chương trình huấn luyện và hướng dẫn cho các nhóm
kết nghĩa để chu toàn trách nhiệm kết nghĩa.
Kết luận
Dân chủ và độc tài là sự thể hiện ra ngoài của mối tương quan về
lực và thế giữa người dân và chính quyền. Dân chủ là trạng thái mà người dân đủ
lực và thế để ảnh hưởng chính sách, kiểm soát chính quyền, và thay đổi thể chế
nếu cần. Độc tài là trạng thái ngược lại: chính quyền kiểm soát và khống chế
người dân nhờ có lực và thế áp đảo. Để chuyển từ độc tài sang dân chủ, nhất
thiết phải tăng dần lực và thế cho người dân, đồng thời giảm dần lực và thế của
chế độ.
“Lực” là yếu tố nội tại của một nhóm người có tổ chức. Có 2 cách
để tăng lực cho người dân: (1) tăng quy củ về tổ chức cho một cộng đồng; (2)
tăng quy mô để ngày càng thêm người trong cộng đồng nhập cuộc.
“Thế” là khả năng khai dụng các yếu tố ngoại tại để bổ khuyết
cho sự hạn chế về lực. Có 2 cách để tạo thế: (1) chuyển sân chơi để nắm thế
thượng phong; (2) liên kết các tổ chức đã có quy củ để tạo thế “bứt mây động
rừng”.
Tóm lại, công thức dân chủ hoá là: (1) các cộng động ở trong
nước đã sẵn thái độ đề kháng phải tổ chức thật chặt chẽ để tăng nôi lực; (2)
khi nội lực đã vững, các cộng đồng này phải liên kết với nhau trên toàn xã hội;
(3) muốn thế, trước hết một đội ngũ nhân sự phải được đào tạo về tổ chức, về
liên kết, và về khả năng đề kháng. Điều đáng mừng là tất cả những thành tố cần
thiết để nạp vào công thức này đều đang nằm sẵn trong tay của chúng ta, những
người Việt ở trong và ngoài nước.
Nay chỉ cần làm đúng việc và đúng cách thì một lực lượng đề
kháng toàn xã hội sẽ hình thành để thay đổi thể chế từ độc tài sang dân chủ một
cách hoà bình, ổn định và bền vững. Chúng ta có căn cứ để hy vọng. Biến niềm hy
vọng ấy thành hiện thực chính là trách nhiệm lịch sử của những người Việt có
lòng với quê hương và dân tộc.
Bài liên quan:
Dân chủ hoá: Từ sách
lược lớn đến những việc làm nhỏ
http://machsongmedia.com/vietnam/danchu/1382-2018-08-05-20-57-08.html
http://machsongmedia.com/vietnam/danchu/1382-2018-08-05-20-57-08.html
Sơ đồ tóm tắt sách
lược dân chủ hoá Việt Nam
http://dvov.org/wp-content/uploads/2018/08/Sach-luoc-dan-chu-hoa-Viet-Nam-1.pdf
http://dvov.org/wp-content/uploads/2018/08/Sach-luoc-dan-chu-hoa-Viet-Nam-1.pdf
Xây Dựng Nội Lực cho
Một Cộng Đồng
http://dvov.org/wp-content/uploads/2018/08/Xay-Dung-Noi-Luc-Cam-Nang.pdf
http://dvov.org/wp-content/uploads/2018/08/Xay-Dung-Noi-Luc-Cam-Nang.pdf
Cẩm nang sinh hoạt cho
Nhóm Kết Nghĩa:
http://dvov.org/wp-content/uploads/2018/08/Nhom-Ket-Nghia-Cam-Nang-Sinh-Hoat.pdf
http://dvov.org/wp-content/uploads/2018/08/Nhom-Ket-Nghia-Cam-Nang-Sinh-Hoat.pdf
Cố vấn an ninh quốc gia: Mỹ sẽ khai thác dầu khí ở Biển
Đông bất chấp Trung Quốc
RFA
2018-10-13
2018-10-13
Cố vấn An
ninh Quốc gia John Bolton tại một họp báo ở Nhà Trắng, Washington DC hôm
3/10/2018
AFP
Cố
vấn An ninh Mỹ John Bolton mới đây lên tiếng cảnh báo Trung Quốc đã lợi dụng
trật tự thế giới quá lâu trong khi Hoa Kỳ đã thất bại trong việc đối phó với
Trung Quốc. Ông đồng thời cũng nói đến khả năng Mỹ sẽ hợp tác khai thác dầu khí
ở Biển Đông dù có Trung Quốc hay không. Ông John Bolton không nói cụ thể Mỹ sẽ
hợp tác khai thác với nước nào trong số các quốc gia đòi chủ quyền ở Biển Đông
bao gồm Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei, Đài Loan.
Ông
John Bolton nói điều này trong cuộc phỏng vấn của chương trình Hugh Hewitt nổi
tiếng của Mỹ hôm 11/10 vừa qua.
Ông
John Bolton nói ông cho rằng sẽ có thêm những khai thác tài nguyên thiên nhiên
ở vùng Biển Đông dù có hợp tác với Trung Quốc hay không. “Họ cần phải biết rằng
họ không thể đạt được sự đã rồi tại khu vực này. Đây không phải là một tỉnh của
Trung Quốc và sẽ không bao giờ là một tỉnh của Trung Quốc”, Cố vấn An ninh John
Bolton nói.
Phát
biểu của giới chức cao cấp chính phủ Mỹ được đưa ra sau khi có tin cho biết Hoa
Kỳ có kế hoạch có những phô diễn sức mạnh ở Biển Đông vào tháng 11 tới, trùng
hợp với chuyến thăm của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tới Philippines.
Hạm
đội Thái Bình Dương của Mỹ có kế hoạch thực hiện một loạt các hoạt động ở Biển
Đông trong thời gian một tuần để cảnh cáo Trung Quốc và cho thấy sự quyết tâm
của Mỹ trong việc đối phó với những hoạt động quân sự hoá của Trung Quốc tại
vùng nước tranh chấp.
Cố
vấn An ninh John Bolton cũng nói đến chương trình tự do hàng hải mà Mỹ đã tiến
hành ở Biển Đông trong những năm qua để thách thức các đòi hỏi quá đáng của
Trung Quốc ở khu vực này. Ông nói Hoa Kỳ và các nước đồng minh sẽ còn tiếp tục
cho tàu đi qua khu vực này nhiều hơn trong thời gian tới.
Bất
chấp dân oan mất đất, CSVN quyết xây nhà hát Thủ Thiêm hơn $64 triệu
October 10, 2018
VN-Nha-hat-Thu-Thiem_1
Người dân thất thần bên căn nhà còn sót lại trên đoạn đường Lương Định Của sau
trận càn cưỡng chế. (Hình: Thanh Niên)
SÀI GÒN, Việt Nam (NV) – Hai ngày sau cuộc họp bất thường của
Hội Đồng Nhân Dân ở Sài Gòn về việc thông qua nhà hát giao hưởng trị giá 1,500
tỷ đồng (hơn $64.2 triệu) tại khu đô thị Thủ Thiêm, mạng xã hội vẫn ngập tràn
những ý kiến phẫn nộ.
Hầu hết ý kiến đều bày tỏ sự giận dữ trước lập
luận của Hội Đồng Nhân Dân ở Sài Gòn là công trình này “cần cho người dân,”
trong bối cảnh Thủ Thiêm được coi là “thủ phủ dân oan mất đất,” và những người
ở đây phải đi khiếu kiện ròng rã hơn 20 năm trời mà chưa biết kết quả thế nào.
Đáng lưu ý, trong vụ này, một số báo Việt Nam
được đưa ý kiến trái chiều, có vẻ “đi ngược lại chủ trương, định hướng” của Hội
Đồng Nhân Dân ở Sài Gòn.
Hôm 9 Tháng Mười, 2018, báo Zing dẫn lời Kiến
Trúc Sư Ngô Viết Nam Sơn: “Tôi không biết là các đại biểu Hội Đồng Nhân Dân ở
Sài Gòn có được cung cấp thông tin đầy đủ để đưa ra quyết định hay không. 1,500
tỷ đồng là số tiền lớn, làm được rất nhiều việc. Sài Gòn đang thiếu hụt ngân
sách thì việc dùng 1,500 tỷ đồng đầu tư vào mục đích gì rất quan trọng. Có nên
dùng để xây dựng nhà hát liền hay không? Trong danh sách các công trình ưu tiên
xây dựng của thành phố hiện nay thì nhà hát này có thật sự xứng đáng ở vị trí
đầu không? Còn nếu đã xây dựng thì phải xứng tầm với Sài Gòn. Nếu chưa có tiền
thì quy hoạch để đó từ từ xây, chứ không nên vội vàng. Trong giai đoạn hiện nay
thì nhà hát mới chưa phải là ưu tiên hàng đầu.”
Căn nhà của bà Nguyễn
Thị Hà (khu phố 1, phường Bình An, quận 2), một trong những căn nhà còn sót lại
trên đoạn đường Lương Định Của, sau trận càn cưỡng chế. (Hình: Người Đô Thị)
Trong vụ xây nhà hát ở Thủ Thiêm, mạng xã hội
dấy lên chỉ trích không chỉ với bà Nguyễn Thị Quyết Tâm, chủ tịch Hội Đồng Nhân
Dân ở Sài Gòn, mà còn cả với những người nổi tiếng công khai ủng hộ và bao biện
cho việc này.
Ca sĩ Mỹ Linh ở Hà Nội viết trên trang cá
nhân: “Làm gì cũng vậy nhất là làm việc thiện càng cần đủ Bi, Trí và Dũng thì
mới dần nhận ra cái thiếu của mình mà ngưng phán xét… Các bạn phản đối xây nhà
hát ở Thủ Thiêm, mình tôn trọng. Nhưng đừng phản đối vì lý do ‘dân không cần ba
lê và nhạc giao hưởng.’ Ai cho các bạn quyền phán xét đó. Rất có thể nước mình
bây giờ nhiều sự vô cảm, thô lỗ, vì ngày xưa có những nhà cách mạng vô sản đã
nghĩ đúng như vậy: Dân chỉ cần cày cuốc không cần ba thứ tư sản như ca hát
múa.”
Tuy không lên tiếng phê phán Mỹ Linh là “xướng
ca vô loài” như nhiều blogger khác, nhà báo Hà Phan ở Sài Gòn bình luận trên
trang cá nhân: “Mỹ Linh ủng hộ cái gì là quyền của cô ấy. Nhưng nếu biệt phủ
xây trái phép ở Sóc Sơn của ca sĩ này bị giải tỏa oan ức như nhà của nhiều
người dân Thủ Thiêm hay cô cũng phải vật vã trong nước ngập, kẹt xe, thiếu thốn
và chui rúc dưới gầm giường bệnh viện thì có lẽ Mỹ Linh sẽ có góc nhìn khác về
nhà hát giao hưởng 1,500 tỷ đồng!”
Ông Trần Kim Long, một
người dân Thủ Thiêm khóc tức tưởi vì đất bị thu hồi. (Hình: Zing)
Một số blogger khác đưa lời khuyên Mỹ Linh nên
nhìn lại “tấm gương” mới đây của ca sĩ Tuấn Hưng. Anh này là người từng lên
tiếng miệt thị nhạc sĩ Việt Khang “ngu thì ráng chịu, phản động thì bị tù là
đúng rồi” nhưng đến khi làm show kỷ niệm 20 năm ca hát tại Hà Nội bỗng nhiên bị
CSVN ra lệnh dừng vào giờ chót.
Lý do được hiểu là show này diễn ra ngay trong
đêm trước quốc tang cựu Tổng Bí Thư Đỗ Mười và đó là “điều cấm kỵ.” Dù thiệt
hại ước tính hàng tỷ đồng (cả trăm ngàn đô la) tiền bán vé, thuê trang thiết
bị, sân khấu… nhưng Tuấn Hưng “đành ngậm bồ hòn làm ngọt” chứ không dám khiếu
kiện chính quyền theo tư vấn của các luật sư. (T.K.)
Tài liệu từ Anh Chi.
Đọc nhen ! Bài
dài nhưng đáng đọc. Đọc để hiểu vì sao bọn cộng phỉ từ cái thuở còn trong bưng
biền rừng rú đến khi ngồi chễm chệ trên ngai vàng vẫn không thể trở thành người
được.
“Bài viết sau đây không dành
cho giới lưu manh đọc, nhất là lưu manh đỏ.” (XH)
"Tinh thần quý tộc biến
mất và ý thức lưu manh phát triển
Hoàng Hà
Trong khi trước đây người ta
hô hào về việc xóa bỏ địa chủ phú nông, thì phương Tây xóa bỏ bần nông. Trong
khi trước đây người ta tự hào về việc xóa bỏ quý tộc thì phương Tây xóa bỏ lưu
manh. Đây chính là hai tư tưởng trị quốc hoàn toàn khác nhau, có thể dùng câu
nói nổi tiếng để khái quát: một chế độ tốt có thể làm cho người xấu trở thành
người tốt, một chế độ xấu có thể làm cho người tốt biến thành kẻ xấu. Phát động
lưu manh để tiêu diệt quý tộc, cũng không thể làm cho lưu manh trở thành cao
thượng, chỉ có thể làm cho lưu manh càng trở nên lưu manh hơn. Dụ dỗ, đe dọa
nhiều người hơn nữa biến thành lưu manh, cuối cùng biến cả xã hội thành lưu
manh...
Quý tộc, bình dân và lưu manh
Nhân loại là một quần thể to
lớn và phức tạp nhất trên thế giới. Nói về tính chất vốn có của tinh thần và ý
thức, có thể phân thành 3 thứ bậc khác nhau: quý tộc, bình dân và lưu manh. Ba
thứ bậc này được phân theo dạng hình thoi đứng, ở giữa phình to là tầng lớp
bình dân, đầu nhỏ ở trên cùng là tầng lớp quý tộc, còn đầu nhỏ dưới cùng là lưu
manh. Từ bình dân tới quý tộc thì không có giới hạn rõ rệt, từ bình dân tới lưu
manh cũng không có giới hạn rõ rệt, nhưng lưu manh và quý tộc thì có sự khác
biệt một trời một vực.
Sở dĩ được gọi là quý tộc
không phải vì có nhiều của cải, cũng không phải vì có nhiều quyền lực, mà là vì
họ có một tinh thần cao quý, sử sách gọi đây là tinh thần quý tộc. Người thiếu
tinh thần quý tộc, thì dù giàu có không ai sánh bằng cũng chỉ là mang bản tính
lưu manh mà giàu có; dù có quyền lực to đến mấy, thì cũng chỉ là kẻ độc tài
chuyên chế mang bản tính lưu manh.
Sở dĩ gọi là lưu manh không
phải là vì không có gì trong tay, mà là ý thức lưu manh ở bên trong nội tâm.
Giai cấp vô sản không đồng nghĩa với lưu manh, giai cấp vô sản đa số là người
bình dân an phận thủ thường. Trong quần thể lưu manh, có người giàu, có kẻ
nghèo; có bình dân, có quyền quý; có người ngốc nghếch, cũng có kẻ thiên tài.
Tinh thần quý tộc đại diện
cho đỉnh cao của văn minh nhân loại, ý thức lưu manh đại diện cho sự thấp kém
nhất của nhân loại. Dường như tất cả mọi người đều có suy nghĩ hướng tới sự cao
thượng, và cũng có những ham muốn dục vọng thấp kém, đây chính là cuộc chiến
giữa nhân tính và thú tính. Nhân tính chiến thắng thú tính, thì con người hướng
tới sự cao thượng; thú tính chiến thắng nhân tính, con người sẽ hướng tới sự
hèn hạ bỉ ổi. Đối với đa số người bình dân, nhân tính và thú tính vẫn đang
giằng co chưa có hồi kết, nên nó làm cho cả một đời vẫn cứ loay hoay quanh cao
thượng và thấp kém. Đa số người dân đều là an phận thủ thường nên cả đời sẽ
không có gì nổi bật. Bình dân nếu muốn siêu phàm thoát tục, thì phải hướng tới
cao thượng để có hy vọng trở thành quý tộc. Còn nếu hướng tới sự thấp kém hèn
mọn thì sẽ trở thành lưu manh. Con người vươn tới sự cao thượng thì rất khó, và
để trở thành quý tộc thì lại càng khó hơn; còn hướng tới sự thấp kém hèn mọn
thì rất dễ, trở thành lưu manh thì dễ như trở bàn tay. Cũng chính vì nguyên
nhân này mà xã hội nhân loại hiện nay quý tộc thì ít mà lưu manh thì nhiều.
Cao thượng và cao quý không
khác nhau về bản chất, nhưng cao thượng và cao quý lại có khoảng cách, đó là
mức độ khác nhau, trạng thái khác nhau. Bình dân cũng biết cao thượng, nhưng
thường chỉ có thể cao thượng trong thuận cảnh, chứ không thể “cố thủ” cao
thượng trong nghịch cảnh. Nếu như trong nghịch cảnh mà có thể giữ được cao
thượng, thì đó chính là trạng thái cao quý, cũng tức là đã thành quý tộc.
Nếu cao thượng đã đạt đến
trạng thái cao quý, thì tức là “phú quý mà không dâm, dưới áp lực mà không chịu
khuất phục”. Đây chính là trạng thái của tinh thần quý tộc. Câu trên có hai
tầng ý nghĩa. Tầng thứ nhất là giải thích đối với phú hào quyền quý: Anh giàu
có rồi thì không thể dâm đãng, anh có quyền rồi thì anh không thể lấy quyền đấy
để bắt người khác khuất phục. Tầng thứ hai là giải thích với tầng lớp bình dân:
Anh không giàu có, nhưng anh không thể bị phú quý dụ dỗ mê hoặc để rồi từ bỏ
cao thượng; anh không có quyền lực nhưng anh không thể khuất phục trước quyền
lực, anh chỉ có thể tâm phục khẩu phục trước sự công bằng và chân lý. Đạt đến
trạng thái này rồi, thì dù có là bình dân nhưng anh vẫn có tinh thần quý tộc.
Tinh thần quý tộc là gì?
Tinh thần quý tộc có 3 nội
hàm cao quý đó là: thành tín, đạo nghĩa, ý thức trách nhiệm.
Thành tín là linh hồn của văn
minh nhân loại, không có thành tín, thì không có đạo đức, cũng không có văn
minh; thành tín cũng là linh hồn của phẩm cách cá nhân, không có thành tín, thì
không thể có phẩm cách cao thượng. Người thiếu sự thành tín, thì hoặc là người
vô lại hoặc là kẻ lưu manh. Dân tộc thiếu sự thành tín, thì chắc chắn là dân
tộc ngu muội không có văn hóa. Thành tín cũng là gốc rễ của chế độ dân chủ, vì
không có thành tín, thì không có dân chủ đúng nghĩa. Cụ thể, dân chủ dựa vào
hiến pháp, và hiến pháp chính là khế ước của xã hội. Thành tín chính là gốc rễ
của khế ước, không có thành tín thì khế ước cũng chỉ là tờ giấy vứt đi.
Quý tộc sở dĩ là quý tộc, là
bởi vì quý tộc coi thành tín quan trọng hơn cả mạng sống, thành tín mang đến sự
cao thượng, sự tôn nghiêm và giá trị cao quý của sinh mệnh. Ví dụ, quý tộc châu
Âu thà dùng quyết đấu sòng phẳng thẳng thắn để phân thắng thua, chứ không muốn
dùng âm mưu quỷ kế để tranh cao thấp. Đây thực chất chính là thà chết để giữ
lấy giá trị của thành tín. Sử quan thời Trung Quốc cổ đại thà chết chứ không
muốn vì đế vương thay đổi lịch sử, cũng chính là thà chết để giữ lấy giá trị
của sự thành tín.
Đạo nghĩa bao hàm nhân đạo và
công đạo. Nhân đạo là tiền đề của công đạo, chính là sự tôn trọng đối với sinh
mệnh của con người. Người ngay cả ý thức nhân đạo cũng không có, thì về cơ bản
không thể có công đạo. Tôn thờ bạo lực chính là coi thường nhân đạo. Nhân đạo
và công đạo hòa quyện sinh ra chủ nghĩa nhân quyền của nền văn minh hiện đại,
sở dĩ châu Âu có thể sinh ra Công ước Nhân quyền, thực chất chính là do sự thúc
đẩy của tinh thần quý tộc.
Tinh thần đạo nghĩa mang tới
nhân từ, mang tới khoan dung, mang tới sự quan tâm, mang tới sự công chính. Quý
tộc quan tâm tới những người yếu, các sự nghiệp từ thiện trên thế giới dường
như đều do quý tộc đầu tư xây dựng, và cái mà họ dựa vào chính là tinh thần đạo
nghĩa.
Tinh thần trách nhiệm chính
là tinh thần dám gánh vác. Chịu trách nhiệm với lương tri của xã hội nhân loại,
chịu trách nhiệm với văn hóa truyền thống của nhân loại, bảo vệ đạo đức, duy
trì công bằng xã hội, bảo vệ sự phát triển hòa bình của xã hội.
Chính tinh thần trách nhiệm
mang tới lòng tin và sức mạnh không gì lay chuyển được của quý tộc, một khi dân
tộc rơi vào khủng hoảng, quý tộc sẽ đứng phía trước dân tộc, bảo vệ an toàn cho
dân tộc. Chính tinh thần trách nhiệm này mang đến cho họ tinh thần “Prometheus
cướp lửa thần trao cho nhân loại”, và tinh thần “ta không vào địa ngục thì còn
ai vào nữa”. Cũng chính tinh thần này đã bảo vệ và thúc đẩy văn minh nhân loại
phát triển hơn.
Ba loại tinh thần này đều đến
từ tín ngưỡng tôn giáo, chỉ có tín ngưỡng tôn giáo mới có thể chuyển hóa thành
sức mạnh tinh thần kiên định và bền bỉ, đạt đến trạng thái cao quý.
Dù cá nhân quý tộc có tồn tại
khuyết điểm này khuyết điểm nọ, nhưng quần thể quý tộc vẫn là lực lượng chủ đạo
thúc đẩy văn minh nhân loại phát triển.
Tinh thần quý tộc thúc đẩy
văn minh nhân loại phát triển
Trong mỗi cá nhân đều tồn tại
cuộc chiến nhân tính và thú tính, và nó làm cho cả một đời cứ loay hoay giữa
cao thượng và thấp kém: thượng đế kêu gọi con người hướng đến cao thượng, ma
quỷ dụ dỗ con người hướng đến sự thấp kém; người cao quý cao thượng thì gần quý
tộc hơn, người hướng tới thấp kém bỉ ổi thì gần với lưu manh hơn; hoặc có thể
nói, người gần với quý tộc thì trở nên cao thượng, kẻ gần với lưu manh thì trở
nên thấp kém. Tục ngữ gọi hiện tượng này là “gần mực thì đen, gần đèn thì
sáng”.
Mở rộng ra, một dân tộc cũng
tồn tại cuộc chiến giữa nhân tính và thú tính, điều này thực chất là cuộc chiến
giữa văn minh và vô văn hóa, cũng là cuộc chiến giữa quý tộc và lưu manh. Một
dân tộc do quý tộc chủ đạo, thì sẽ mang đến sự tiến bộ cho nền văn minh; do lưu
manh chủ đạo thì sẽ lùi lại về không có văn minh, đây không phải là sức sản
xuất vật chất bị thụt lùi, mà là sự thụt lùi về văn minh tinh thần, về văn hóa,
đạo đức. Điều này đã được chứng minh bởi lịch sử.
Lịch sử phát triển của nhân
loại là do quý tộc chủ đạo, do đó nhân loại mới từ không văn minh mà hướng đến
văn minh, nhưng trong quá trình lịch sử phát triển lâu dài, có lúc cũng bị lưu
manh kiểm soát, lưu manh chiếm cứ địa vị chủ đạo, kết quả làm cho văn minh bị
thụt lùi, do đó, tiến trình phát triển của văn minh nhân loại mới xuất hiện
nhiều khúc khuỷu, tiến lùi.
Ý thức tinh thần của con
người là thể đa diện phức tạp, tức có ý thức giữ gìn cao thượng, thì cũng có
ham muốn tình cảm thấp kém. Tuy nhiên, con người hướng tới cao thượng lại giống
như leo núi, rất khó; còn hướng tới thấp kém lại rất dễ, giống như đang ngồi
cầu trượt. Do đó mà xã hội nhân loại từ trước đến nay lưu manh vẫn nhiều hơn
quý tộc.
Xã hội nhân loại trước giờ
lưu manh vẫn nhiều hơn quý tộc, vậy sao quý tộc có thể chiếm địa vị chủ đạo
trong sự phát triển của xã hội? Điều này quyết định bởi thái độ của tầng lớp
bình dân: tầng lớp bình dân ủng hộ quý tộc, thì quý tộc chiếm thượng phong, tức
chiếm vị trí chủ đạo, và dân tộc này sẽ duy trì nền văn minh cao thượng; tầng
lớp bình dân mà ủng hộ lưu manh, lưu manh chiếm thượng phong, tức lưu manh
chiếm vị trí chủ đạo, thì dân tộc này sẽ duy trì sự thấp kém không văn minh.
Đây chính là nguyên nhân cơ bản các dân tộc khác nhau có tiến trình văn minh và
mức độ văn minh khác nhau.
Dân tộc ủng hộ quý tộc, quý
tộc dễ chiếm thượng phong; dân tộc ủng hộ lưu manh, lưu manh dễ chiếm thượng
phong. Nếu lưu manh chiếm thế thượng phong, chiếm vị trí chủ đạo, thì tất nhiên
sẽ mê hoặc và dụ dỗ nhiều người hơn nữa biến thành lưu manh, ép buộc nhiều
người hơn nữa biến thành lưu manh, cuối cùng biến thành một đại quốc lưu manh,
văn hóa đạo đức sẽ bị thoái lui toàn diện, xã hội sẽ đổ vỡ.
Sáng tạo văn minh và sáng tạo
lịch sử
Thành tựu văn minh nhân loại
dường như đều là quý tộc sáng tạo, từ tư tưởng triết học thời viễn cổ, tín
ngưỡng tôn giáo, lòng tin đạo đức, đến văn hóa nghệ thuật thời trung cổ, đến
khoa học tự nhiên thời cận đại, cho đến cơ chế dân chủ thời hiện đại, tư tưởng
mở ra thời đại mới của lịch sử nhân loại, dường như đều là quý tộc sáng tạo ra.
Có thể nói thế này, không có quý tộc, thì không có văn minh nhân loại. Không
cần tìm đâu xa, chỉ cần tìm những nhà triết học, văn học, nghệ thuật, tư tưởng,
thần học, khoa học vĩ đại trên thế giới, có ai không phải là quý tộc?
Quý tộc không chỉ sáng tạo
văn minh, mà còn sáng tạo ra lịch sử. Những nhà quý tộc thời cận đại của châu
Âu, họ đã sáng tạo ra “Quân chủ lập hiến”, sáng tạo “Tuyên ngôn độc lập”, sáng
tạo “Tuyên ngôn nhân quyền”, anh hùng dân tộc Ấn Độ Mahatma Gandhi đã sáng tạo
ra “Cách mạng phi bạo lực”, Martin Luther King của Mỹ sáng tạo ra “Tôi có một
ước mơ”, họ đem những tư tưởng văn minh này vào thực tế, sáng tạo ra lịch sử
huy hoàng, trở thành những cột mốc cho nhân loại hướng tới văn minh.
Sáng tạo lịch sử khác sáng
tạo văn minh
Từ trước tới nay, lưu manh
không biết sáng tạo lịch sử, chỉ biết sáng tạo sự ngang tàn bạo ngược. Tuy vậy
lưu manh cũng có thể sáng tạo lịch sử, nhưng lưu manh không thể sáng tạo lịch
sử của văn minh, chỉ có thể sáng tạo lịch sử của sự phá hoại, sáng tạo lịch sử
tàn sát. Lưu manh từ trước giờ chỉ biết sáng tạo bạo lực, sáng tạo chiến tranh,
sáng tạo sự hoang đường, sáng tạo tai nạn.
Nếu một dân tộc mà nhóm người
lưu manh giữ vai trò chính trong thời gian dài, thì sẽ trở thành dân tộc “ỷ
mạnh hiếp yếu”, trở thành một dân tộc hung bạo, trở thành một dân tộc hủ bại
biến chất.
Đạo lý như thế này, lẽ nào
còn cần ai chứng minh sao?"
Việc sử dụng nhân nhân tệ thanh toán ở biên
giới được quy định trong Thông tư 19/2018 về quản lý ngoại hối đối với hoạt
động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
Ngày 28/8, Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ký ban hành Thông tư 19/2018 hướng dẫn về quản lý
ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc.
Cơ chế thanh toán biên mậu Việt Nam – Trung
Quốc đã được triển khai thực hiện từ năm 2004. Ngân hàng Nhà nước giải thích
văn bản này nhằm "khắc phục những vướng mắc, bất cập" của quyết định
năm 2004 về nội dung này. Thông tư cũng nhằm thúc đẩy thanh toán biên mậu, tạo
thuận lợi cho người dân hai nước trong việc giao thương, thực hiện tốt hơn việc
quản lý nhà nước về ngoại hối áp dụng cho 7 tỉnh có chung đường biên giới với
Việt Nam và tạo sự đồng bộ với các quy định hiện hành về quản lý ngoại hối hiện
nay.
Theo văn bản mới, các thương nhân, cư dân biên
giới Việt Nam, Trung Quốc có hoạt động thương mại qua biên giới giữa 2 nước sẽ
được sử dụng đồng tiền thanh toán gồm VNĐ (Việt Nam đồng) hoặc CYN (nhân dân
tệ) và ngoại tệ tự do chuyển đổi.
Thông tư quy định việc hoạt động sử dụng tài
khoản đồng nhân dân tệ, VNĐ nhằm tạo cơ sở pháp lý để thương nhân Việt Nam,
Trung Quốc thực hiện các giao dịch thu, chi bằng đồng bản tệ trong hoạt động
mua bán, trao đổi hàng hóa, dịch vụ.
|
Các thương nhân, cư
dân biên giới Việt Nam, Trung Quốc có hoạt động thương mại qua biên
giới sẽ được phép thanh toán cả bằng VNĐ hoặc CNY. Ảnh: CNB.
|
Thông tư quy định hoạt động thanh toán trong
mua bán, trao đổi hàng hóa dịch vụ của cư dân biên giới tại chợ biên giới với
đồng tiền thanh toán là VNĐ hoặc nhân dân tê. Các phương thức thanh toán bao
gồm qua ngân hàng (với các hình thức: Thanh toán bằng nhân dân tệ, VNĐ qua chi
nhánh ngân hàng biên giới); tiền mặt; chênh lệch trong giao dịch bù trừ
hàng hóa...
Ngoài ra, thông tư cũng hướng dẫn một số hoạt
động ngoại hối khác như hoạt động ủy thác thanh toán bằng đồng nhân dân tệ,
hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu nhân dân tệ và VNĐ tiền mặt.
Đồng thời, văn bản cũng quy định cụ thể trách
nhiệm của NHNN chi nhánh các tỉnh biên giới, ngân hàng được phép cũng như của
cá nhân, thương nhân và tổ chức khác nhằm giám sát, quản lý chặt chẽ, có hiệu
quả đối với hoạt động quản lý ngoại hối trong thương mại biên giới Việt -
Trung.
No comments:
Post a Comment