20170611 Delta Đinh Đó Vào Thung Lủng Ashau.
Phụ chú:
Tài liệu nầy được thực hiện lại với phần không ảnh để cho những thế hệ sau có thể thấy được những trang quân sử hào hùng của những người lính miền Nam Việt Nam Cộng Hoà đã dấn thân với tinh thần "Bảo Quốc An Dân" như thế nào!
Đinh Văn Tiến Hùng.
Project Igloo White (Chris Jeppeson)
Tiger Mountain, north end of A Shau Valley (1968) © Tom Pilsch
Phụ chú:
Tài liệu nầy được thực hiện lại với phần không ảnh để cho những thế hệ sau có thể thấy được những trang quân sử hào hùng của những người lính miền Nam Việt Nam Cộng Hoà đã dấn thân với tinh thần "Bảo Quốc An Dân" như thế nào!
Anh Về Từ Thung
Lũng Tử Thần Ashau .
Đinh Văn Tiến Hùng.
(Kỷ niệm
Ngày Quân Lực VNCH 19/6, để ghi nhớ công lao và tinh thần hy sinh cao cả của
các Chiến Sĩ Việt Nam Cộng Hòa, chúng tôi xin giới thiệu bài viết dưới đây
trích trong Nguyệt San Bốn Phương/Lực Lượng Đặc Biệt năm 1969)
Dáng người
nhỏ, da đen sạm, 25 tuổi, độc thân, sinh tại Hà Tây, Quảng Ngãi, thuộc bộ lạc
Hả, 8 tuổi lính, từ Bộ Binh qua Biệt Kích rồi Thám Kích Tiền Phong. Đó là những
nét đầu tiên tôi ghi nhận nơi Đinh Đó, người toán phó Thám Kích/Lực Lực Đặc
Biệt, bị Cộng quân giam giữ suốt 45 ngày nhưng đã can đảm thoát vùng tử địa và
hướng dẫn oanh kích sào huyệt Cộng quân gây tổn thất nặng nề cho địch.
Trong không
khí yên lặng buổi ban mai đẹp trời, nơi chiếc ghế băng ngoài sân TTHQ/Delta,
tôi được Đinh Đó kể lại quãng thời gian 45 ngày chung sống với Cộng quân trong
thung lũng tử thần Ashau.
Cuộc đồi
thoại không mang tính cách phỏng vấn, mà là một buổi trao đổi tâm tình cởi mở.
* Nhảy vào
vùng tử địa.
Ashau nằm
cách biên giới Lào Việt không đầy 10 cây số và cách thị trấn Huế trên 40 cây số
về phía Tây.
Với địa thế
núi rừng hiểm trở, mây mù bao phủ quanh năm, tiện đường chuyển vận quân và vũ
khí của Cộng quân. Qua nhiều năm CSBV dùng nơi đây làm sào huyệt xuất phát
những trận đánh phá nhiều tỉnh thuộc Vùng I Chiến Thuật, nơi Cộng quân cho là
bất khả xâm phạm với địa thế lòng chảo, một tiền đồn và một phi trường bỏ hoang
còn ghi dấu lại. Nhưng đối với các chiến sĩ Lực Lượng Đặc Biệt và BKQ thì danh
từ ‘vùng tử địa’ hay ‘bất khả xâm’ cũng bị xoá bỏ. Chính nơi thung lũng tử thần
này, tháng 3/68, các chiến sĩ Tiểu Đoàn 91 Biệt Kích Dù đã phục kích phá tan
đoàn xe Cộng quân gồm 8 chiếc chuyển vũ khí lương thực xâm nhập miền Nam. Đến
nay trong khuôn khổ hành quân Delta vẫn còn nối tiếp, các toán Delta và Thám
Kích Tiền Phong luôn được tung vào hoạt động trong vùng rừng núi tử thần này.
Trưa ngày
2/4/69, một toán Thám Kích Tiền Phong gồm: Toán Trưởng Nguyễn văn Son, Toán Phó
Đinh Đó và hai toán viên Lê Văn Bang cùng Đinh Đức, được trực thăng thả bằng
thang giây xuống hoạt động tại vùng thung lũng Ashau. Bốn chiến sĩ được trang
bị súng AK, y phục kaki, đi dép râu, đầu trần giống như Cộng quân. Buổi trưa
bầu trời quang đãng không có những lớp mây mù giăng phủ như thường ngày, nhưng
khí rừng vẫn xông lên hơi lạnh ẩm ướt. Đứng dưới hố bom,Toán trưởng mở bàn đồ
để xác nhận lại vị trí và ra lệnh cả toán gióng hướng Bắc 32 độ. Núi rừng âm u,
tàn cây che kín chỉ để lọt xuống những khoảng nắng nhỏ, im lặng đến nỗi nghe rõ
từng tiếng chim gõ mõ từ xa vọng lại và cả tiếng chân mình khua động lá rừng
cùng hơi thở đồng đội. Ở đây núi đồi không cao lắm, chỉ dưới ngàn thước, nhưng
đường đi chênh vênh dốc và vướng mắc nhiều rễ cây rất khó di chuyển. Mồ hôi đã
thấm lưng áo, nhỏ giọt từ trán xuống, bốn người dừng nghỉ. Rừng chiều xuống,
những đám mây giăng trên đầu và sương rừng bắt đầu rơi lạnh. Son ra hiệu cho
các bạn tiêp tục lên đường để tìm một vị trí an toàn nghỉ đêm. Màn đêm chụp
xuống thật mau, xoá nhoà cảnh vật chung quanh. Bốn người dò dẫm đi gần nhau, vì
chỉ một khúc quanh, một hốc núi, một gốc cây là lạc nhau. Son đứng lại và cả
toán dừng theo. – ‘Đêm nay nghỉ tạm trong hốc núi này!’.
Son ghé tai
nói với Đinh Đó, anh gật đầu đồng ý và cả toán dừng theo.
Đêm rừng
huyền bí lạ. Bốn bề yên lặng nghe rõ tiếng côn trùng rên rỉ dưới cỏ, sương rơi
trên lá. Những con đom đóm rừng bay vật vờ ma quái. Tiếng vỗ cánh của con chim
say ngủ. Khí lạnh từ trong lòng đất và hang đá toát ra khiến mọi người rùng
mình vội kéo tấm áo lạnh khoác vào người. Đêm đầu tiên dựa vào nhau mà ngủ cho
ấm và để dễ liên lạc. Một người ôm súng canh chừng cho ba người ngủ. Cứ thế
thay phiên nhau tới khi những tia nắng đầu tiên lọt qua khe đá dội xuống. Cả
bọn tiếp tục lên đường. Cứ ngày đi đêm nghỉ băng qua nhiều đồi núi. Tới ngày
thứ ba, cả toán đang đi bỗng trời xám dần, rừng cây lay động mạnh. Những cơn
gíó ào ào xoáy lốc giật lá cây trút xuống, những tia chớp loé lên kèm theo
tiếng nổ vang động núi rừng. Cơn mưa đổ như trút nước. Bốn người nép mình vào
hốc đá vẫn không tránh khỏi ướt sũng. Trận mưa dai dẳng kéo dài suốt đêm. Một
đêm giấc ngủ chập chờn với những tiếng động ầm ầm của đất trời và núi rừng.
Choke Points
*Hai lần
thoát chết trong gang tấc.
Sáng ngày
5/4/69, trận mưa đêm dứt hẳn, nhưng lá cây còn ướt sũng, thỉnh thoảng rùng mình
trút nước dưới những cơn gíó ào ào. Một dòng suối róc rách chảy đâu đây, cả
toán tiếp tục lên đường. Đổ đồi thật vất vả, ướt và trơn tượt, phải níu vào rễ
cây mà đi xuống. Đó dừng lại, chú ý đám cỏ thấp nghiêng rạp hai bên. Anh giơ
tay chỉ một nhánh cây non mới bị bẻ gẫy. Dấu người vừa đi qua gần đây, anh nhìn
khả nghi lùm cây phía trước, đưa mắt ra hiệu đồng bạn thận trọng. Bỗng một
tràng AK từ trên đồi dội xuống, Đó lăn mình vào hốc cây, ria một băng đáp trả.
Rồi từng loạt đạn từ bốn phía thi nhau nổ giòn. Địch hình như phát giác được
quân số phía toán. Tiếng đạn rít lên từng hồi, tiếng hô xung phong bắt sống,
phá tan bầu khí yên tĩnh ban mai núi rừng. Bốn tay súng can đảm chống trả,
nhưng không thể cầm chân địch từ bốn phía tràn lên. Vài tên gục ngã, tiếng rên
bi thảm.Tíếng súng dưới chân đồi thưa dần, chứng tỏ địch đã cận kề. Phải mở một
đường máu liều chết để thoát ra ngoài. Son ra hiệu dồn hoả lực về phía trước để
cầm chân địch. Bốn khẩu AK nổ giòn. Cả toán lăn nhanh xuống đồi như những con
sóc rừng. Từng loạt đạn vút theo. Hai tiếng hét phía sau: Bang và Đức trúng đạn
chúi xuống, một loạt đạn bồi theo. Toán Trưởng Son và Toán Phó Đinh Đó biết là
hai toán viên đã bị hạ, nhưng không sao tiếp cứu nổi, vì những loạt đạn vẫn nối
tiếp đuổi theo với tiếng hò hét phía sau. Son và Đỏ thoát xuống chân đồi, lẩn
vào khu rừng kế cận. Tiếng súng xa dần…
Nắng lên
cao, nhưng hai người vẫn không dám dừng chân nghỉ, vì biết địch còn bám sát
phía sau.
Gói cơm
chiều hôm trước còn dở hai người chia nhau vừa đi vừa ăn. Đỏ hỏi Son:
– Bây giờ
tính sao?
– Chúng ta
đã mất hai, còn hai lạc hướng không thể nào tiếp tục như kế hoặch đã định
trước.
Máy truyền
tin mất, phải tìm một vị trí dựng ‘pano’ báo hiệu phi cơ đến tiếp cứu.
Đó chỉ ngọn
núi phía trước, hai người trực chỉ. Phải lên tới dỉnh núi trước khi trời tối
mới hy vọng.
Ngọn núi
trông xa sườn thoai thoải, nhưng tới gần dốc đứng, lên thật vất vả, vô ý một
chút là trượt chân té xuống vực. Gần 5 giờ hai người mới lên tới đỉnh. Sương mù
xuống lạnh, giăng giăng trên đỉnh che khuất ánh nắng chiều. Cố lắng nghe tiếng
phi cơ từ xa vọng lại, nhưng im vắng bao phủ triền miên núi rừng. Hai người
tháo ba lô lấy thức ăn. Gói cơm lạnh ngắt, mùi cá hộp tanh nồng nhưng cố nuốt.
Thèm một ngụm cà phê, một điếu thuốc biết chừng nào! Nhưng giữa cảnh núi rừng
này, tìm đâu ra. Son giơ ‘bi đông’ nước lên uống một ngụm, dòng nước chưa kịp
trôi xuống cổ họng thì anh bị một viên đạn bắn trúng đầu gục xuống. Nhanh như
cắt, Đó chụp lấy khẩu AK ria một loạt về phía tên Cộng quân vùa từ dưới bò lên.
Tên địch chới với lăn xuống phía dưới. Đỏ vội giựt khẩu AK trên đùi Son rồi
biến mất. Anh không kịp mang ba lô theo và biến vào sương chiều đang vây phủ
núi rừng. Có tiếng nói lao xao phía trên. Anh nép mình vào hốc đá và thoáng
nghĩ “đây là lần thứ hai mình phải bỏ đồng đội ở lại. Thế là mất ba, chỉ còn
một mình, chắc khó thoát. Nhưng dù sao cũng phải cố gắng ra khỏi vùng này ngay
trong đêm nay”.
Đỏ lần mò
trong bóng đêm. Một hòn đá lăn dưới chân, một con đom đóm đêm cũng đủ làm anh
giật mình. Thật là một đêm kinh hoàng nhất trong đời quân ngũ. Anh đã từng xông
pha nguy hiểm nhiều lần, nhưng chưa bao giờ anh phải chiến đấu đơn độc như lần
này, nói đúng hơn là anh phải tự bảo vệ cho mình.
Khi tiếng
chim rừng hót vang anh mới biết trời đã sáng. Anh nhớ bao đạn đã tuột mất và
khẩu AK đã bắn hết viên đạn cuối cùng.Thật là vô dụng mang theo thêm nặng, anh
tìm một hốc đa vùi xuống và lấp lá cây lên. Giờ thì nhẹ nhõm, nhưng mạng sống
đành trao cho số mệnh. Lúc này có thể gặp bất cứ ai bạn hay thù.
Người toán
phó Thám Kích cứ lầm lũi đi theo bóng mặt trời lên. Người mệt lả, bụng đói vì
hết lương thực, mắt mờ đi, tay chân bủn rủn….
*45 ngày
sống với Cộng quân.
Buổi trưa,
Đỏ dừng lại đang lấy tay vục nuớc uống từ một dòng suối chảy qua khe đá, bỗng
có tiếng quát lớn phía sau :
-Giơ tay lên!
Như một cái
máy, anh quay lại từ từ đứng lên giơ tay cao. Lúc này không còn thoát được nữa.
Hai người mặc kaki vàng cầm súng AK từ sau hốc đá nhảy vọt ra. Chúng lục soát
người anh thấy không tìm được gì quan trọng, liền bắt anh cởi bỏ quần áo, chỉ
cho mặc chiếc quần cụt và dùng giây trói tay quặt về phía sau.
Không đầy
một phút sau, một tóan chừng 20 tên kéo đến. Tất cả đều ăn mặc và trang bị
giống như hai tên trước. Tên mang khẩu Colt Trung Cộng- chắc là cấp chỉ huy-
lên tiếng hỏi:
-Bắt được có
một tên hay sao?
-Vâng chỉ có
một tên thưa đồng chí! Tên kia đã bị bắn chết trên núi, chỉ còn tên này trốn
thoát.
Nghe tên kia
trả lời, Đỏ biết là chúng đã cho một Trung đội theo sát Son và anh trong mấy
ngày nay. Tên chỉ huy hỏi anh:
-Mày là lính
Biệt Kích Mỹ?
-Không, tôi
là Biệt kích Việt Nam.
-Súng đạn
đâu?
-Tôi đánh
mất tất cả.
-Tên mày và
chức vụ?
-Đinh Đó,
toán phó Thám Kích.
Hỏi mấy câu
vắn tắt rồi hắn hất hàm ra lệnh:
-Thôi giải
hắn đi !
Toán người
do tên chỉ huy hướng dẫn đi trước và Đinh Đó được bốn tên áp giải theo sau.
Đoàn người theo đường mòn mà đi, hình như chúng đã thông thuộc với những lối đi
quanh co này. Trưa hôm đó tới một căn nhà dùng làm trạm giao liên. Đây không có
người ở, chỉ dùng làm chỗ dừng chân nghỉ ngơi. Cả bọn ăn cơm và một tên mang
đến cho Đó một chến cơm với ít muối. Ăn xong chúng ngồi nói chuyện một lúc rồi
tiếp tục lên đường. Khi trời vừa tối tới trạm giao liên thứ hai. Trạm này có
chừng một trung đội đang đóng giữ. Sau khi trao đổi vài câu cùng trưởng trạm,
chúng nghỉ đêm tại đây… Cứ như thế, tiếp tục ngày đi đêm nghỉ và tiến về hướng
đông. Dọc đường anh để ý cứ hai trạm bỏ trống tới một trạm có người, mỗi trạm
cách nhau từ 2 tới 3 cây số. Anh được biết trong câu chuyện chúng trao đổi: Đơn
vị này thuộc Tiểu Đoàn 50 CSBV và chúng đang áp giải anh về Bộ Chỉ Huy Trung
Đoàn.
Qua ngày thứ
ba, anh dược lãnh mỗi ngày nửa lon gạo và một gói muối nhỏ, trong khi chúng
lãnh mỗi người 1 lon gạo kèm 1 gói đồ ăn khô. Giờ chúng để anh thong thả hơn vì
đây là vùng hoạt động của chúng.
Ban ngày anh
được cởi trói, tự nấu lấy cơm dưới sự giám sát của 4 tên. Đêm đến chúng trói
lại và nằm cạnh để canh giữ….
Năm ngày qua
đã tới Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn của chúng. Nơi đây không một hàng chữ, không một
cổng ra vào vì bốn phía đều trống trải. Năm dẫy nhà mỗi dẫy chừng 10 căn cách
nhau từ 50 đến 100 mét. Nhà dựng sơ sài bằng cây, lợp lá rừng trông đã cũ. Anh
thấy những người lính qua lại cõn rất trẻ chừng 15,16 tới 21, 22 tuổi là nhiều.
Đứa mặc quần áo, đứa cởi trần, tỏ ra rất thong thả. Có vài người chống nạng hay
bó tay chân. Anh thoáng thấy có cả nữ cán bộ, nhưng không biết họ làm nhiệm vụ
gì ở đây. Các cô mặc quần đen, áo nâu, chit khăn theo lối người miền Bắc. Nhưng
một đặc điểm là bọn này ngừơi nào cũng gày gò da vàng bủng. Anh đoán chừng đây
là cơ sở hậu cần trung đoàn. Những người qua lại đưa mắt tò mò nhìn anh rồi bỏ
đi.
Một tên bước
tới hỏi:
-Mày là lính
ở đâu?
-Lính Việt
Nam Cộng Hoà.
-Đi lính có
sướng không ?
-Không đến
nỗi khổ cực.
-Quần áo và
ăn uống thế nào?
-Đầy đủ.
-Hút thuốc
này?
Tên cán bộ
vừa nói vừa giơ điếu thuốc cuốn theo lối đồng bào Thượng thường dùng.
-Không! Tôi
hút Salem.
-Ồ khá nhỉ!
Hắn thoáng
lộ nụ cười với nét mặt nham hiểm và ra lệnh:
-Đưa vào khu
1, không cho tiếp xúc với bộ đội.
Chúng dẫn
anh vào phồng số 1 trong khu đầu tiên.Trong nhà không có giường chiếu, không
bàn ghế, chỉ có bóng tối tràn ngập…Anh bị giam tại đây đúng 5 ngày. Chỉ được ra
ngoài giờ ăn và lo vệ sinh cá nhân, có người đi theo giám sát. Đỏ đã nghĩ đến
cách trốn thoát, nhưng vì bị kiểm soát chặt chẽ và anh cũng chưa định ra vị trí
nơi mình bị giam nên chưa thể quyết định được. Qua ngày thứ 6, chúng tiếp tục
áp giải anh đi về hướng đông. Anh bỡ ngỡ không hiểu chúng đưa mình đi đâu…
Vào cuối
tháng, cả trung đội tới trạm giao liên nằm duới chân ngọn đồi và xa xa phía bên
kia là một con sông chảy ngang qua. Trong khi dừng đợi anh đã nhận ra vị trí
nơi đây. Cách một tháng trước anh đã bay qua vùng này khi Toán Thám Kích của
anh ngồi trên trực thăng tìm vị trí đổ quân. Đó là dòng sông chia đôi vùng ranh
giới giữa Quốc Gia và Cộng Quân, thuộc quận Đức Dục, cách thị xã An Hoà chưa
đầy 20 cây số. Trong những cuộc hành quân trước đây những toán Delta và Thám
Kích đã quen thuộc địa thế vùng này.
Một tia hy
vọng loé trong đầu, anh phải tìm cách trốn thoát. Cần chờ thời gian thuận tiện
và lúc địch sơ hở.
Đây là trạm
tiếp liên, chúng chờ tiếp tế hơn 10 ngày. Vào một buổi sáng, chúng bắt anh đi
vác gạo từ bờ sông về. Chắc gạo được chuyển từ vùng Quốc Gia vào đây. Được tiếp
tế rồi chúng vẫn đóng lạí chờ lệnh.
*Thoát vùng
tử địa.
Trong những
đêm nằm tại đây, Đinh Đó để ý thấy bốn tên áp giải càng ngày càng tỏ ra không
lưu tâm đến anh như trước. Nhiều lúc trông coi anh qua loa và đêm đến lại nằm
cách xa. Hai tuần trôi qua. Vào một đêm tối trời, sau khi một tên trói anh lại
và tìm một góc tối nằm ngủ. Anh giả vờ nhắm mắt, rồi một lát sau ngáy gỗ. Về
khuya, bốn bề im lặng chỉ còn nghe tiếng côn trùng và tiếng người thở đều đều.
Anh mở rộng đôi mắt nhìn vào màn đêm, những bóng đen bất động. Bọn chúng đã ngủ
say như chết. Đỏ khẽ cựa mình trút bỏ sợi giây buộc tay lỏng lẻo. Anh tìm một
cục đá ném về tên áp giải nằm gần, không có phản ứng gì. Anh từ từ bò về phía
trước rất nhẹ và nín thở. Thoát chốc anh đã lẩn vào bóng đêm tiến về phía sông.
Con sông không rộng lắm nên chỉ một lúc sau anh đã sang tới bờ bên kia. Thế là
yên tâm, vì bên này vào vùng kiểm soát của Quốc Gia. Xa xa có ánh lửa, anh lầm
lũi về phía đó. Một ngôi nhà nhỏ có tiếng từ trong vọng ra. Có cả tiếng radio.
Anh cố gắng lắng nghe những bài ca và giọng nói quen thuộc Đài Quốc Gia. Anh
vững tâm gõ của. Tiếng bên trong hỏi vọng ra:
-Ai ngoài
đó?
-Thưa tôi.
-Tôi là ai?
-Tôi đi lạc
đường.
Tiếng dép
lẹp xẹp, một người đàn ông chừng ngoài 40 ra mở cửa:
-Mời vào
trong.
Ông đưa mắt
nhìn bỡ ngỡ vì thấy người anh còn ướt và mặc độc nhất chiếc quần đùi. Anh vội
lên tiếng:
-Thưa ông
đây là đâu?
-Vùng Quốc
Gia kiểm soát.
-Có quân
đội…
-Không có
lính bên kia, chỉ có quân đội VNCH đóng thôi. Vậy anh là…?
-Thưa ông
tôi là lính Cộng Hòa bị bắt, trốn thoát và đi lạc. Tôi đói ông có gì cho ăn…
-Được anh
ngồi đợi đó.
Rồi ông
xuống bếp lấy cơm và đồ ăn mang lên. Vì đói nên anh ăn rất ngon lành không cần
khách sáo.
Anh rất cảm
động về thái độ ông đối với mình:
-Chắc anh bị
lính bên mặt trận bắt và tìm cách trốn?
-Dạ vâng.
-Thế giờ anh
định về đâu?
-Tôi sẽ nhờ
chính quyền địa phương gíúp trở về đơn vị ở Đức Dục, gần khu Kỹ Nghệ Nông Sơn.
-Thôi để
trời sáng, tôi sẽ đưa anh lên trình diện hội đồng xã, quận Đức Dục gần đây.
-Cám ơn ông
nhiều.
Sáng sớm
người đàn ông dẫn anh lên trình diện hội đồng xã. May mắn dọc đường anh gặp một
chiếc xe nhà binh, anh nhận ra ngay chiếc xe Toán
Delta thường lên Quận. Xe dừng lại đưa anh về căn cứ hành quân Đức Dục.
Delta thường lên Quận. Xe dừng lại đưa anh về căn cứ hành quân Đức Dục.
Cấp chỉ huy
và đồng đội rất ngỡ ngàng khi thấy anh trở về. Họ tưởng anh mất tích hay đã
chết rồi. Đồng đội hân hoan bao quanh hỏi thăm sức khoẻ và tin tức. Anh cảm
động biết bao khi gặp lại mọi người trong tình huynh đệ nồng nàn đầm ấm.
*Người chiến
sĩ Thám Kích Tiền Phong ghi công đầu.
Ngay trưa
hôm ấy, Đinh Đó ngồi trên trực thăng cùng thiếu tá chỉ huy trưởng Trung Tâm
Hành Quân Delta đi thám sát khu vực địch đóng quân anh đã ghi nhận đêm trước.
Căn cứ địch đóng phía bên kia sông cách làng An Hoà chưa đầy 10 cây số, nằm
dưới chân một ngọn đồi. Anh đã nhận ra vị trí. Chiếc HU1B bay lượn vòng phía
trên, rồi lao xuống thấp dần. Dấu vết Cộng quân được xác nhận. Một loạt AK phía
dưới vọt lên, hai khẩu đại liên từ trên phi cơ đáp trả giòn vang.
Vài tiếng
sau chiều hôm ấy 18/5/69, pháo binh ta đã nã vào vùng địch hàng trăm trái đạn.
Tiếp theo là những phi vụ B52 oanh kích rung chuyển núi đồi… Chắn chắn những
phi vụ oanh kích và trọng pháo đã gây cho địch tổn thất nặng nề. Đó cũng là nhờ
công lao của :
-Toán Phó
Đinh Đó.
-Người chiến
sĩ gan dạ Thám Kích Tiền Phong, đã hai lần lọt vào tay Cộng quân (lần trước bị
bắt giam 7 ngày trong cuộc hành quân Delta năm 1967, anh cũng trốn thoát)
-Một lần bị
thương trong cuộc hành quân Tết Mậu Thân tại Nha Trang.
-Chính tay
anh trong đời binh nghiệp đã hạ 30 tên Việt Cộng,
Nhưng anh đã
san sẻ vinh dự cho đồng đội và chỉ nhận một số huy chương thật khiêm tốn gồm
một Ngôi Sao Bạc – một Chiến Thương Bội Tinh, cùng một số tiền thưởng do Thiếu
Tá Phan Văn Huân chỉ huy trưởng/Trung Tâm Hành Quân/Delta trao tặng trong dịp
trốn thoát vừa qua.
Tôi nhìn huy
hiệu anh mang trước ngực: Chiếc dù mở rộng phía trên đôi cánh chim đại bàng bạt
gíó, chiếc sọ người dấu tử thần cùng lưỡi lửa biểu hiệu lòng nhiệt thành quả
cảm, ba tia sét tượng trưng 3 lối xâm nhập: Không- Thủy –Bộ và hàng chữ dưới
cùng Thám Kích Tiên Phong.
Anh nở một
nụ cười tươi trong dáng điệu còn mỏi mệt vì đang thời gian nghỉ bồi dưỡng sức
khoẻ.
Tôi ghi nhớ
câu anh nói khi chia tay tạm biệt:
-Nghỉ ngơi
sau ít ngày phép, tôi sẽ trở về cùng đồng đội tiếp tục cuộc sống như cũ.
Nghĩa là anh
lại đi toán vô rừng, tiếp tục gian khổ và có thể lại bị bắt, thất lạc, mất tích
hay ra đi vĩnh viễn…. nhưng anh chấp nhận tất cả, vì cuộc sống của những chiến
sĩ Delta hay Thám Kích Tiền Phong Lực Lượng Đặc Biệt luôn là thế. Huy hiệu Anh
và các bạn mang trên ngực áo đã nói lên lòng quả cảm và sự hy sinh của tuổi trẻ
dâng hiến cho Quê Hương Tổ Quốc.
Phóng Viên Chiến Trường Đinh Quân.
Tài liệu để tìm đọc thêm:
The McNamara
Line
ADSID unit
Igloo White
The A Shau Valley
Ashau Valley
Battle of A Shau
BVN 20170611
No comments:
Post a Comment