20230503 Cong Dong Tham Luan
02.05.23 BỐN MƯƠI TÁM NĂM QUA AI TH.Ù HẬN AI?
https://www.youtube.com/watch?v=hpyzlA995n4
Tướng VNCH HUỲNH VĂN LẠC Tư Lệnh Sư Đoàn 9 Bộ Binh và
Lý Do Không Tuẫn Tiết
https://www.youtube.com/watch?v=H-a0kvwBM8U
Vlog #418-Lễ Tưởng Niệm ngày Quốc Hận, 04-30-2023,
Houston, TX
https://www.youtube.com/watch?v=LoAliDW71cw
Cộng đồng người Việt Tự Do New South Wales tổ chức 3 sự
kiện để tưởng niệm ngày Quốc Hận đau thương
https://www.youtube.com/watch?v=kuQj3Z4pojg
Lễ tưởng niệm ngày Quốc hận 30 tháng 4 năm 2023 @
Houston, TX (phần 3/7).
https://www.youtube.com/watch?v=bDKKc9FGP7g
Dương Thu Hương. ĐCS nói láo nói phét như đàn anh TH của
họ.
https://www.youtube.com/watch?v=E57UmqQDHeU
Sự thật về chuyến bay giải cứu, dệt may Việt đói đơn
hàng | 5 phút Chuyện Thị Trường | Tuần #26
https://www.youtube.com/watch?v=_tj0yRBzKmw
Vụ "chuyến bay giải cứu": Thu hàng trăm lượng
vàng, hàng trăm ngàn USD trong nhà các bị can
https://www.youtube.com/watch?v=Al9dbiv1h_c
Chuyến bay giải cứu: Thu hàng trăm lượng vàng, hàng
trăm ngàn USD trong nhà các bị can
https://www.youtube.com/watch?v=DrIoWVB0big
Bài Thơ "TẠ LỖI TRƯỜNG SƠN" | Định Nghĩa Của
"Giải Phóng"!
https://www.youtube.com/watch?v=bM3n0TLV3ac
Cộng đồng người Việt tại Đức biểu tình ở SQ Tàu
cộng ở Berlin
https://www.youtube.com/watch?v=qY569HOAlIA
No BS News | Mon_5.1.23 | Tôn trọng hiến pháp
https://www.youtube.com/watch?v=_bGQ2YXlMEQ
Ngày Buồn Thảm Của Gia Đình Sau 30 Tháng Tư 1975
(Nhạc Sĩ Mai Châu) - Tài Nguyễn Diễn Đọc
https://www.youtube.com/watch?v=r-nQeSwEcb0
Hành trình biệt xứ | NAMDUONGTV
https://www.youtube.com/watch?v=t3nEfhKZPzk&t=28s
Phiet Pham thephiet_2002@yahoo.com
Mon, May 1 at 11:18 AM
Ba Nhân cách LỚN của Cụ Trần Văn Hương
Cụ
Trần Văn Hương
Xuất
thân nhà giáo dạy văn chương
Kháng
Pháp chân in những nẻo đường
Hợp
tác Việt Minh vai Chủ Tịch
Giả
từ Cộng Sản sống thuần lương
Tân
triều lận đận làm Đô Trưởng
Thủ
Tướng lao đao giữ chính trường
Tổ
Quốc bềnh bồng... ngôi Tổng Thống
Quyết
theo mệnh nước rũ tàn xương...!!
Xương
tàn Tổng Thống chẳng nhà riêng
Khí
tiết xưa nay rất khó tìm
Dòng
suối gương trong đời giản dị
Đỉnh
non tuyết trắng tiếng thanh liêm
Martin
tới rước: - không rời xứ
Việt
Cộng mời trao: - hứa nhận quyền:
("
Cải Tạo" chừng nào về hết cả
Bấy
giờ sẽ nhận cái phần riêng...?!)
Riêng
dạ ưu phiền trước nhố nhăng
Kiêu
binh mặt sắt sát đằng đằng
Cường
quyền cỡi cổ: - nhà vào chiếm
Bạo
lực đè đầu: - của giựt ăn
Cả
xứ ùn ùn đang vượt biển
Nhiều
nơi rục rịch định rừng băng
Thân
già đỏ mắt ngồi khô... khóc
Nước
Việt mênh mông... sóng nhục nhằn...!!
Nhục
nhằn chung chiụ..., sử lưu phương
Tư
thái ung dung giữa bạo cường
Thuở
trước trung thành Văn Tống Thụy
Thời
nay tiết tháo Trần Văn Hương
Chẳng
màng đất khách tìm an hưởng
Thà
sống quê nhà nhận tổn thương
Vẫn
biết chim lồng ngàn khổ nạn
Dân
Nam sĩ khí dễ xem thường...??!
Xem
thường đâu dễ cụ Hương Trần
Tận
tụy cả đời với quốc, dân
Nhằm
Tết tinh anh thăng về cõi
Tịnh
độ tiêu dao vợi... nỗi sầu...!!
Kính
cẩn cúi đầu Hương toả khói...
Bao
người thổn thức... nén dòng châu...!!
Tùng
xanh hạc trắng non cao
Gương trăng lồng lộng chiếu vào... thiên thu...!!
Nguyễn Minh Thanh
Lược Sử Cụ Trần Văn Hương:
(1902-1982),
người tỉnh Vĩnh Long . Tốt nghiệp Cao Đẳng Sư Phạm Hà Nội. Dạy học tại trường
Collège Le Myre De Villers Mỹ Tho. Sau đó làm Đốc Học tỉnh Tây Ninh.
Thời
kỳ kháng Pháp 1945, Ông tham gia Việt Minh giữ chức Chủ tịch Ủy Ban Hành
Chánh Kháng Chiến tỉnh Tây Ninh.
Vào
năm 1946, do biết lực lượng Việt Minh là Cộng sản và họ bắt nhiều trí thức
gán cho là Việt gian, rồi đem thủ tiêu. Vì vậy Ông từ bỏ Việt Minh về
quê ẩn dật.
Sau
đó, Ông lên Sài Gòn làm trong hiệu thuốc Tây cho đến năm 1954.
Sau
Hiệp định Genève 1954 chia 2 nước Việt, vào năm 1955, Ông được bổ nhiệm
Đô Trưởng Sài Gòn dưới thời Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Ông làm ngắn hạn rồi
từ chức.
Ông
tham gia nhóm "Tự do Tiến bộ” còn gọi là nhóm Caravelle. Nhóm đã
tuyên bố ủng hộ cuộc đảo chánh 11 - 11 - 1960. Cuộc đảo chánh bất
thành. Ông cùng 17 vị nhân sĩ nhóm Caravelle bị chính quyền Ngô Đình Diệm
bắt giam. Tập thơ “Lao trung lãnh vận” được Ông khai sinh trong thời gian
nầy.
Khi
chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ, năm 1964, Ô. giữ chức Đô Trưởng Sài Gòn
lần thứ hai. Tháng 11 năm 1964, Quốc trưởng Phan Khắc Sửu mời Ông giữ ghế Thủ
Tướng (1964-1965) .
Năm
1968, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lại mời ông ra làm Thủ tướng lần thứ hai (
1968-1969 ).
Năm
1971, Ông cùng Ô. Nguyễn Văn Thiệu liên danh ứng cử và đắc cử chức vụ Phó tổng
thống nhiệm kỳ 1971-1975.
Ngày 21 tháng 4 năm 1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức và trao quyền lại cho Phó tổng thống Trần Văn Hương. Ông giữ chức vụ Tổng Thống được 7 ngày thì giao cho Tướng Dương văn Minh.
Cụ
Hương có hai người con trai. Con trai lớn là Trần Văn Dõi, con thứ là Trần Văn
Đính. Trần Văn Dõi theo Việt Minh rồi ra Bắc. Trần Văn Đính làm phụ tá cho cha
ở Sài Gòn.
Cụ mất ngày 27 tháng 1 năm 1982, tức ngày mồng 3 Tết Nhâm Tuất, thọ 80 tuổi...!!
Những Chuyện Về Cụ Hương:
1
- Sợ Tốn Công Quỹ: sau khi nghỉ làm
Thủ Tướng năm 1969, Cụ Hương về ơ ̉căn nhà mang số 216A Phan Thanh Giản (
nay đổi là đường Điện Biên Phủ) cho đến sau sự kiện năm 1975... và mãi
tới lúc mãn phần...!!
Đây là
một căn nhà loại song lập, nhỏ hẹp nằm sâu trong hẻm . Nhà đã lâu năm, cũ
kỹ, xuống cấp, lại trong hẻm người ta chê, nên mới còn.
Trước
khi Cụ về ở, nhà nước định sửa sang lại cho tươm tất hơn. Song, sợ tốn
công quỹ, chính Cụ Hương đã từ chối không cho sửa.
Nhờ đó, ngôi nhà còn được yên sau vụ 1975, không bị VC chiếm như những căn khác.
2 - Khí khái:
--
Ngày 29 tháng 4 năm 1975 , viên đại sứ Hoa Kỳ Martin đích thân đến
dinh Phó Tổng Thống đường Công Lý mời Cụ đi lánh nạn CS. Đại Sứ Martin
nói:
" - Thưa tổng thống, tình trạng hiện nay rất nguy hiểm. Nhân danh chính phủ Hoa Kỳ, chúng tôi đến mời tổng thống rời khỏi nước, đi đến bất cứ xứ nào, ngày giờ nào với phương tiện nào mà tổng thống muốn. Chính phủ chúng tôi cam kết bảo đảm cho Ngài một đời sống xứng đáng với cương vị Tổng Thống cho đến ngày Tổng Thống trăm tuổi già ”.
Tổng
Thống Trần Văn Hương mỉm cười trả lời:
" - Thưa ông đại sứ, tôi biết tình trạng hiện nay rất là nguy hiểm. Đã đến đỗi như vậy, Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó. Nay ông đại sứ đến mời tôi ly hương, tôi rất cám ơn ông đại sứ. Nhưng tôi đã suy nghĩ và quyết định dứt khoát ở lại nước tôi. Tôi cũng dư biết Cộng Sản vào được Sài Gòn, bao nhiêu đau khổ nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam. Tôi là người lãnh đạo đứng hàng đầu của họ, tôi tình nguyện ở lại để chia sẻ với họ một phần nào niềm đau đớn tủi nhục, nổi thống khổ của người dân mất nước. Cám ơn ông đại sứ đã đến viếng tôi "
– Lần sau cùng, trước cảnh tang hoang của đất nước, trong hoàn cảnh khó khăn cuả Cụ Hương, Đại sứ các nước Pháp, Úc có cho người đến thăm Cụ. Họ nói rằng họ có thể can thiệp với Cộng Sản để Cụ ra khỏi nước với lý do đi trị bệnh. Nhưng Cụ vẫn từ chối, quyết ở lại chung chiụ cùng dân quân Miền Nam sự nhục nhằn và nghèo đói dưới chế độ mới.
3 -
Khảng khái: năm 1977, VC đề nghị trao trả quyền
công dân cho Cụ. Nhưng Cụ khước từ và nói rằng:
"
- Chừng nào những người tập trung cải tạo được về hết, chừng nào họ nhận
được đầy đủ quyền công dân, chừng đó tôi sẽ là người cuối cùng, sau họ, nhận
quyền công dân cho cá nhân tôi!”
Mấy
ngày sau VC cho người cằm giấy tới nhà với lịnh " Quản thúc taị
gia ", cấm Cụ ra khỏi nhà. Cụ nói với người trong gia đình:
" - Tao già rồi, đâu cần đi ra ngoài làm chi, mà cấm với không cấm. "
4 - Ngày Mãn Phần: Cụ Hương mất nhằm mồng 3 Tết, năm Nhâm Tuất ( 1982 ), con trưởng của Cụ là Trần Văn Dõi ra Phường để xin mua một cái hòm quốc doanh, nhưng người tài xế trung thành của Cụ chận lại. Rồi anh này vào Chợ Lớn mua một cỗ quan tài gỗ với giá 10.000 đồng (tiền Việt Cộng bấy giờ). Anh Tàu nghe nói là mua cho cựu Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Trần Văn Hương bèn bớt xuống còn 5.000 đồng.
Tang lễ Cụ Hương tổ chức đơn sơ nhưng cảm động... , thi hài Cụ được hỏa táng tại Lò thiêu Thủ Ðức. Với sự có mặt đông đủ học trò cùng hầu hết nhân sĩ miền Nam. Họ đã không ngại công an rình rập, đang lảng vảng quanh lò thiêu.
Chuyện Bên Lề:
1 -
Làm Đô Trưởng: nhận chức Đô Trưởng
lần đầu năm 1955, Ông Trần Văn Hương cỡi xe đạp đến nhiệm sở, người
gác cổng không cho Ông vào. Ông từ tốn lấy giấy bổ nhiệm chứng minh
là Đô Trưởng, nhân viên gác cổng xin lỗi và cho Ông vào. Ông nói:
" - chú em làm vậy là đúng. Qua không phiền đâu."
2 -
Viếng Mộ Ông Nguyễn An Ninh: Khi làm Phó Tổng
Thống, có lần Cụ Hương đã ra Côn Đảo bằng máy bay ngậm ngùi viếng
phần mộ chí sĩ Nguyễn An Ninh và nhiều vị đã hy sinh trong công cuộc
kháng Pháp.
Ông Nguyễn An Ninh sinh năm 1900, người Cần Giuộc Chợ Lớn ( nay thuộc Long An ), nhà trí thức, nhà văn, nhà báo chống Pháp. Ông mất trong tù vào ngày 14 tháng 8 năm 1943, hưởng dương 43 tuổi.
3 -
Câu Đối: Vào dịp cuối tuần, có lần Cụ
Hương mời TT Thiệu cùng gia đình tới chơi và mời cơm
tại tư dinh. Trong lúc chuyện vãng, cao hứng Tổng Thống ra câu đối:
"
Ninh Thuận nhứt Tổng Thống "
Ứ́ng
khẩu Cụ Hương đáp:
"
Vĩnh Long ngũ Thủ Tướng "
Hai Ông đồng cười xoà vui vẻ...
4
- Ngày Con Trở Về: Cụ Hương có ngôi nhà xưa cũ ở
Vĩnh Long, sau vụ 1975 ngôi nhà đã bị VC lấy.
Mãi
sáu tháng sau, ông Trần Văn Dõi con trưởng cuả Cụ mới về tới. Cụ
Hương có hai câu thơ mai mỉa tặng cho con:
"
Mừng nay " Cách Mạng " thành công
Trở về quê cũ thì không còn nhà...!! "
5 - Sống Túng Thiếu: cuộc sống thiếu thốn đến đỗi Cụ Hương cho người nhà đem bán những thứ bán được như là: mấy bộ đồ Veste cuả Cụ, củ sâm quí...
Những người cũ, từng làm dưới quyền, biết Cụ đang cảnh thắt ngặt, có chút ít gạo tiền... cũng dè sẻn đem đến kính biếu Cụ. Cụ rất cảm động, song ái ngại chỉ nhận một phần nhỏ tượng trưng, và bảo đem về chi dụng trong gia đình...!!
6 -Hiệu Kỳ: Sinh thời khi làm Phó Tổng Thống, Cụ Hương có cờ hiệu màu vàng, ở giữa thêu cây Thanh Tùng đứng thẳng, trông phong cách rất thanh cao. Và vì vậy người đương thời thường gọi phủ Phó Tổng Thống là phủ Cây Tùng.
Phần Kết:
Trong
Lao Trung Lãnh Vận, cho thấy Ông Trần Văn Hương, tuy đang ở trong lao,
lòng vẫn ưu tư chuyện nước nhà. Như bài thơ dưới đây:
Sự
thế miên man tính chữa rồi
Vào
đây thoắt đã đủ trăng thôi
Cảnh
nầy tuy đẹp bề ăn ở
Nỗi
ấy khôn khuây lúc đứng ngồi
Vận
nước những lo dâu biển đổi
Tuổi
mình luống thẹn tháng ngày trôi
Nhắn
ai ngoài ấy ta xin hỏi
Triều đã lui xa, cát có bồi ?
TVH
Cũng
trong Lao Trung Lãnh Vận, thơ Ông Trần Văn Hương có câu:
"
Ra quân những tưởng nhằm phương ấy
Tính
nước ai hay nghịch thế nầy "
Quả là nghịch. Nghịch cảnh cho cả dân tộc giống nòi nói chung, cho chính Cụ Hương nói riêng. Cụ đã mang niềm bi phẫn biết thuở nào phai...!! Và con đường tương lai dân tộc: Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền còn dài thăm thẳm ngoằn ngoèo như dòng Cửu Long giang!!
Đọc
cổ sử truyện Văn Thiên Tường đời Nam Tống, chúng ta thấy hai ÔNG có
những điểm giống nhau về: cá tánh, hoàn cảnh, chức vụ, nguyện
vọng...
Cũng
làm Thừa Tướng đồng nhiệm, cũng ôm mộng non sông, mong thay đổi cuộc
cờ nhằm cứu vãn nước nhà, cứu nguy dân tộc. Nhưng kết cục, cả hai
ÔNG đều ôm nỗi u hoài dằng dặc mãi không nguôi...!!
Tuy
nhiên cả hai Ông vẫn:
"
Luận cổ, đàm kim, nuôi tiết tháo
Trọc
thanh mình biết lựa ai tường "
Trần Văn Hương
Và
cả hai đã:
"Lưu
thủ đan tâm chiếu hãn thanh"
VĂN THIÊN TƯỜNG
Ngoài
ra, cũng xin chép 2 câu thơ trong Tuyệt Mệnh Thi của Ông Thủ Khoa Huân,
nhằm tỏ rõ tấc lòng cuả hậu sinh đối với những danh nhân vận khứ :
"Anh
hùng mạc bả doanh thâu luận
Vũ
trụ trường khan tiết nghiã lưu..."
(Hãy
lắng nghiã trung lưu vũ trụ
Chớ
đem thành bại luận anh hùng...)
NMT dịch
Tới
đây, để kết thúc tiểu truyện về Cụ Trần Văn Hương, người biên soạn
kính cẩn dâng lên Cụ hai câu:
"Tùng
xanh hạc trắng non cao
Gương trăng lồng lộng chiếu vào... thiên thu"
Bây
giờ ngày Tết gần kề, ngày giỗ Cụ gần kề. Có cánh chim Việt bị
bão lạc bầy, ngàn trùng cách xa tổ ấm, cõi lòng man mác gió heo
may...!!
Mùa
Đông Bắc Mỹ, đếm lạnh từng ngày, từng ngày...
Ngoài
trời, tuyết bay phơi phới, phơi phới...
Cố hương, thương nhớ vời vời... vời vời...!!
Nguyễn
Minh Thanh kính bút
(Nguyên Đán Giáp Tí, GA - 2020)
*- Văn
Tống Thụy: tên tự của Văn Thiên Tường (1236 - 1283)
- Những bài thơ trong Lao Trung Lãnh Vận không đề " tựa "
Nguồn:
- Trang web Trần Văn Hương, Nguyễn An Ninh...
- Ba Nhân Cách Lớn Của Cụ Trần
Văn Hương, tg Người con Việt miền Nam
- Tập
thơ Lao Trung Lãnh Vận
- Theo lời kể của vị sĩ quan làm việc với Cụ Hương, ....
On Tue, Mar 2, 2021 at 2:10 AM Patrick Willay <pwillay@orange.fr> wrote:
....Thành
kính xin Cụ phò hộ cho Tuổi Trẻ Việt Nam trong công cuộc giành lại
Quê Hương.
Ba Nhân cách LỚN của Cụ Trần Văn Hương
1 - Ngày 29 tháng 4 năm 1975, Đại sứ Hoa Kỳ, ông Martin đến tư dinh đường Công Lý với một tham vụ sứ quán nói tiếng Pháp. Đại khái Đại sứ Martin nói: - Thưa Tổng Thống, tình trạng hiện nay rất nguy hiểm. Nhân danh chính phủ Hoa Kỳ, chúng tôi đến mời Tổng Thống rời khỏi nước, đi đến bất cứ xứ nào, ngày giờ nào với phương tiện nào mà Tổng Thống muốn. Chính phủ chúng tôi cam kết bảo đảm cho Ngài một đời sống xứng đáng với cương vị Tổng Thống cho đến ngày TT "trăm tuổi già".
Tổng Thống Trần Văn Hương mỉm cười trả lời: Thưa Ngài Đại sứ, tôi biết tình trạng hiện nay rất là nguy hiểm. Đã đến đỗi như vậy, Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó. Nay ông đại sứ đến mời tôi ly hương, tôi rất cám ơn Ông Đại sứ. Nhưng tôi đã suy nghĩ và quyết định dứt khoát ở lại nước tôi. Tôi cũng dư biết cộng Sản vào được Sài Gòn, bao nhiêu đau khổ nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam. Tôi là người lãnh đạo đứng hàng đầu của họ, tôi tình nguyện ở lại để chia sẻ với họ một phần nào niềm đau đớn tủi nhục, nổi thống khổ của người dân mất nước. Cám ơn ông Đại sứ đã đến viếng tôi. Khi nghe câu "Les États-Unis ont aussi leur part de responsabilités (Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó), đại sứ Martin giật mình nhìn trân trân Cụ Trần Văn Hương. Năm 1980, Cụ Hương thuật lại: Dứt câu chuyện, “on se sépare sans même se serrer la main” (GS Nguyễn Ngọc An. Cụ Trần Văn Hương, đăng trên Thời Luận không rõ ngày).
2 - Vào năm 1978, khi Việt cộng trả lại "quyền công dân” cho ông Dương Văn Minh, các anh em đang bị tù “học tập cải tạo” đều bị đi xem hình ảnh và phim chiếu lại cảnh cựu “Tổng Thống” Dương Văn Minh đang “hồ hỡi phấn khởi” đi bầu quốc hội “đảng cử dân bầu” của cộng sản.
Cụ Trần Văn Hương cũng được cộng sản trả lại “quyền
công dân” nhưng Cụ đã từ chối. Cựu Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Trần Văn Hương đã
gửi bức thư sau đây đến
các cấp lãnh đạo chính quyền cộng sản: “…hiện nay vẫn còn có mấy
trăm ngàn nhân viên chế độ cũ, cả văn lẫn võ, từ Phó Thủ Tướng, Tổng Bộ Trưởng, các Tướng Lãnh, Quân Nhân Công
Chức các cấp các Chính Trị Gia, các
vị Lãnh Đạo Tôn Giáo, Đảng Phái đang bị tập trung cải tạo, rĩ tai thì ngắn hạn mà cho đến nay vẫn chưa thấy được được
về. Tôi là người đứng đầu hàng lãnh
đạo Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa, xin lãnh hết trách nhiệm một mình. Tôi xin chính phủ mới thả họ về hết vì họ là
những người chỉ biết thừa hành mệnh
lệnh cấp trên, họ không có tội gì cả. Tôi xin chính phủ mới tha họ về sum họp
với vợ con, còn lo làm ăn xây dựng đất nước. Chừng nào những người tập trung cải tạo được về hết, chừng nào họ nhận được đầy
đủ quyền công dân, chừng đó
tôi sẽ là người cuối cùng, sau họ, nhận quyền công dân cho cá nhân tôi."
3 - Sau cùng, trong hoàn cảnh cơ cực của thời đất nước bị đô hộ bởi miền bắc xã hội chủ nghĩa, các Ðại sứ của các nước Pháp, Úc cho người đến thăm Cụ và cho biết họ có thể can thiệp với cộng sản cho Cụ ra khỏi nước với lý do đi trị bệnh, nhưng cụ tiếp tục từ chối, cương quyết ở lại chia sẻ cùng dân quân Miền Nam sự tủi nhục và nghèo đói dưới gông cùm cộng sản
Xin nghiêng mình trước tiết tháo của một nhân sĩ miền Nam Việt Nam!
Khi Cụ qua đời, đám tang được tổ chức tại nhà do chính phủ Việt Nam Cộng Hoà cấp trong hẻm 210 đường Phan Thanh Giản, bên cạnh trường Marie Curie. Có một sự kiện thú vị cũng cần nên kể ra nơi đây là anh con trai trưởng của Cụ là Trần Văn Dõi đi ra phường để xin phép mua một cái hòm quốc doanh, nhưng bị người tài xế trung thành của Cụ chận ngang, và anh này chạy vào Chợ Lớn mua một cổ quan tài gỗ với giá 10.000 Ðồng (tiền việt cộng bấy giờ). Anh Tàu nghe nói là mua cho Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa nên bớt xuống còn 5.000 Đồng mà thôi.
Một trong những ước nguyện của Cụ là khi chết được chôn ở Nghĩa trang Quân Ðội với lễ nghi quân cách của một binh nhì; nhưng việc nầy cũng không thành. Tuy nhiên một an ủi cho Cụ là được hỏa táng tại Lò thiêu Thủ Ðức, xéo bên cạnh bức tượng Tiếc Thương, trước sự hiện diện đông đủ của học trò cùng hầu hết thân hào nhân sĩ miền Nam không quản ngại mạng lưới công an chằng chịt chung quanh lò thiêu.
Hôm nay, nhân ngày giỗ Cụ Trần Văn Hương, cúi xin đốt nén hương lòng tưởng niệm một người con Việt chân chính miền Nam với niềm tin chắc chắn rằng Tuổi trẻ Việt Nam sẽ tiếp nối bước đường Cụ đi và chắc chắn sẽ thành công trong công cuộc dành lại quê hương từ tay bạo quyền Cộng sản.
Thành
kính xin Cụ phò hộ cho Tuổi Trẻ Việt Nam trong công cuộc giành lại
Quê Hương.
Tết Đinh Dậu - 2017
Người con Việt miền Nam
Phiet
Pham thephiet_2002@yahoo.com
Mon,
May 1 at 11:21 AM
Sài Gòn
hay nói rộng ra cả miền Nam, là mô hình của một xã hội văn minh ...
và người nào được sống trong xã hội này quả thật may mắn hơn sống ở xã hội chủ
nghĩa tại miền Bắc.
Tiếc
thay ! Một xã hội (miền Nam) như vậy lại vừa bị
cướp mất đi.
Câu Chuyện Kể Của Một Người Chiến Thắng Khi Vào Nam.
Xe vừa
vào địa giới miền Nam, chúng tôi đã bấm tay nhau nhìn khung cảnh mới.
Nhà cửa
người dân cùng các công trình đô thị như cầu, đường gần các trục lộ giao thông
trông đẹp và văn minh hơn hẳn miền Bắc. Đi, rồi nghỉ ngơi, rồi đi
tiếp cho đến khi đoàn xe đến được khu kỹ nghệ Biên Hoà. Có quá nhiều nhà máy
tại đây. Đoàn 18 người chúng tôi nhìn ngang nhìn dọc từng dãy nhà máy
trong khu vực này và tuy không ai nói với ai nhưng đều trầm trồ trước kỹ nghệ
miền Nam.
Rồi
chúng tôi được phân công vào công tác trong một nhà máy có cái tên VICACO. Một
nhà máy sản xuất chất Sút (NaOH) từ muối biển và cả Acid Chlohidric (HCL) nữa.
Một nhà máy bề ngoài trông rất nhỏ mà không ngờ bên trong lại lắp đặt các máy
móc tối tân, sản xuất được các hóa chất với sản lượng, hàm lượng rất cao gấp
nhiều lần so với kỹ thuật tại miền Bắc. Chúng tôi ngạc nhiên và ngầm thán
phục trong bụng.
Nhìn
những công nhân miền Nam đang làm việc tại đây rồi sau đó làm việc chung với
họ, tôi mới thấy người dân miền Nam khác xa người dân miền Bắc. Kiến
thức chuyên môn và xã hội của họ hơn hẳn chúng tôi. Kỹ sư miền Nam hơn hẳn
kỹ sư ở miền Bắc và công nhân cũng vậy.
Một sự
rụt rè, cẩn thận tự nhiên nẩy sinh trong đoàn tiếp quản chúng tôi. Ai cũng sợ
người trong nhà máy tại miền Nam này biết trình độ thực sự của cả đám chúng
tôi. Sợ họ cười, nỗi lo chính trong lòng vì dầu gì mình cũng thuộc phía chiến
thắng. Về nằm nghỉ trong căn phòng mà được biết trước đây là các phòng dành cho
công nhân ngủ qua đêm nếu phải ở lại tăng ca, tôi suy nghĩ xã hội miền Nam
không hề lạc hậu về kỹ thuật, về con người… như lời nói trước giờ vẫn được nghe.
Ngay cả trong buổi họp khi chọn người xung phong vào tiếp quản, cán bộ ngành từ
trung ương cũng đã nói như vậy khi khuyến khích cán bộ công nhân viên. Những
dãy nhà nghỉ đầy đủ tiện nghi từ các trang bị như bàn ghế, giường ngủ, quạt
trần, phòng vệ sinh, đèn chiếu…
Ở đây,
trong khu vực khép kín của khu kỹ nghệ còn được như vậy thì trong thành phố Sài
gòn chắc chắn phải rất đẹp. Tôi cũng chưa nghĩ sẽ ra sao khi tìm gặp được hai
cô em gái tôi.
Rồi một
ngày tôi theo đoàn vào làm các thủ tục công tác trong một toà nhà Tổng Cục Hoá
Chất vừa tiếp quản nay trở thành trụ sở của Công Ty Hóa Chất Cơ Bản miền Nam
nằm gần chợ Bến Thành. Lần đầu tiên trong đời tôi biết đến thang máy khi lên
một phòng tuốt trên tầng thượng. Sau khi làm xong các giấy tờ và thủ tục, chúng
tôi được thoải mái đi thăm phố xá.
Ngay từ
lúc còn ngồi trên xe buýt nhìn cảnh vật dọc theo đường và khu phố dẫn vào Sài
gòn, tôi đã thấy vượt trội nhiều lần so với thủ đô Hà Nội. Một vẻ bề ngoài sáng
sủa, văn minh lộ ra từ cách phục sức, sinh hoạt của người dân miền Nam. Giờ đây
đi bộ trên các con đường trong khu trung tâm thành phố mới thấy bản thân tôi,
một người dân miền Bắc quá sức lạc hậu, nghèo nàn… từ bộ cánh (quần áo) trên
người. Tôi rõ ràng xa lạ với các tiện nghi đang được người dân trong thành phố
này sử dụng.
Bên vệ
đường và trong các cửa hiệu sang trọng đầy ắp hàng hoá thật đẹp và mới lạ lần
đầu chúng tôi được thấy. Có tiền cứ việc vào mua thoải mái khác hẳn với cảnh
chen chúc để chờ được tới lượt mua số hàng ít ỏi như cảnh thường thấy ở các khu
phố ngoài miền Bắc.
Phố xá
thì thôi, những tòa nhà to đẹp thấp thoáng sau dòng xe gắn máy chạy hối hả trên
đường. Khung cảnh y như ở nước ngoài, một người trong đoàn chúng tôi nói nhỏ
cho nhau cùng nghe.
Tôi bối
rối ngắm nhìn các cô gái miền Nam nói chính xác là cô gái Sài gòn đang dạo bước
trên đường. Họ đẹp quá sức, như tiên… từ dáng điệu, mái tóc, y phục mặc trên
người và nhất là khuôn mặt của họ lộ rõ vẻ sung túc đài các so với những nữ cán
bộ trẻ trong đoàn chúng tôi. Tôi mỉm cười, nghĩ thầm hai cô em gái tôi trong
này cũng vậy.
Tôi âm
thầm tách ra khỏi đoàn để tự mình đi theo ý muốn. Tôi đi rảo qua nhiều con phố
Sài Gòn rồi thấy mỏi chân, tôi lấy can đảm bước vào một hàng nước thật đẹp gần
một giao lộ lớn, có tên là Cafe Minirex.
Chọn một
bàn sát khung cửa kính trong suốt có thể nhìn rõ người đi bên ngoài, tôi quan
sát chung quanh. Bàn ghế, các bình hoa, quầy thu ngân, khách cùng vách tường
trang trí cảnh một rừng cây thật đẹp… thật không khác một tiệm ở nước ngoài
trong phim ảnh.
Chợt một
người hầu bàn bước đến, gật đầu chào tôi rồi hỏi:
- Thưa
ông, ông dùng chi?
Trời ơi!
Người hầu bàn này quá lịch sự khi tiếp xúc với khách hàng thật khác hẳn với
cung cách của Mậu dịch viên trong các tiệm ăn ngoài miền Bắc.
Tôi lại
nghĩ, hay ông ta biết tôi là cán bộ chế độ mới qua quần áo mặc trên người nên
xưng hô như vậy? Tôi gọi nước uống và ngầm để ý xem sao.
Nhưng
không, bất cứ có khách nào vào quán, người hầu bàn này cũng một cách tiếp đón
như vậy. Rất tự nhiên, lịch sự mà không khúm núm hoặc hách dịch.
Một thay
đổi đã đến trong lòng tôi mà tôi biết điều này cũng sẽ đến với bất kỳ người nào
từ miền Bắc xã hội chủ nghĩa khi đặt chân vào miền Nam ở thời kỳ đó.
Sài Gòn
hay nói rộng ra cả miền Nam không phải là một xã hội lạc hậu, nghèo nàn, đói
khổ, đầy rẫy cảnh người bóc lột người như bao lâu nay người dân miền Bắc được
(hay bị) báo chí, đài phát thanh Hà Nội… mô tả về con người và xã hội của chế
độ Ngụy quyền tay sai đế quốc Mỹ.
Đây là
mô hình của một xã hội văn minh và người nào được sống trong xã hội này quả thật
may mắn hơn sống ở xã hội xã hội chủ nghĩa tại miền Bắc.
Tiếc
thay ! Một xã hội như vậy lại vừa bị cướp mất đi.
Trương
Minh.
TB:
Chỉ những người trí thức mới biết mình bị LỪA, và họ bắt đầu sống trong ân hận
hối tiếc cho đến cuối đời. Tôi đã có dịp ngồi nói chuyện với một anh Giáo sư
dạy Toán người Hà Nội.
Sau khi
anh vào Nam để tiếp quản trường học. Gặp nhóm sinh viên chúng tôi anh cười
buồn: "Tôi thật ngỡ ngàng không biết phải dạy các em điều gì nữa? "
...Sau
này anh không dạy học mà cùng vợ bán tại một cửa hàng vải nhỏ. Gặp tôi anh chỉ
nói "Một lầm lẫn tai hại cả một thế hệ " ...
Bốn mươi
bốn năm rồi họ vẫn không chiếm được trái tim của người miền Nam và họ ngược lại
mất đi khá nhiều trái tim của người miền Bắc.
|
|
Phiet
Pham thephiet_2002@yahoo.com
Mon,
May 1 at 11:16 AM
Ông
Cao Xuân Vỹ Kể Việc Ông Ngô Đình Nhu Bí Mật Gặp Ông Phạm Hùng Ở Khu Rừng Tánh
Linh - Bình Tuy
Có lẽ
đây là lý do gia đình TT Ngô Đình Diêm bị giết!
Ông Cao Xuân Vỹ Kể Việc Ông Ngô Đình Nhu Bí Mật Gặp Ông
Phạm Hùng Ở Khu Rừng Tánh Linh - Bình Tuy
29.10.15
Như đã hứa, (1) ông Cao Xuân Vỹ, sau ba lần vào cấp cứu và điều trị tại bệnh
viện, đã vui lòng dành cho chúng tôi một cuộc phỏng vấn để cống hiến bạn đọc
một số hồi ức và kỷ niệm của ông trong thời gian đi theo Việt Minh kháng chiến
rồi về hợp tác với chính phủ Ngô Đình Diệm với tư cách là người phụ tá thân cận
của ông Ngô Đình Nhu, bào đệ và là cố vấn chính trị của Tổng Thống Ngô Đình
Diệm.
1. Hỏi: Thưa ông, nghe nói ông cùng quê Nghệ An với ông Hồ Chí Minh?
Đáp: Phải. Tôi người làng Thịnh Mỹ, phủ Diễn Châu ở về phía biển, còn ông Hồ ở
xã Kim Liên huyện Nam Đàn về phía núi.
2. Hỏi: Ông có thể cho biết gia đình ông có liên hệ gì với gia đình ông Hồ
không?
Đáp: Tôi được biết ông cố tôi là cụ Cao Xuân Dục, thượng thư bộ học thuộc triều
đình Huế có giúp đỡ thân phụ ông Hồ là Nguyễn Sinh Sắc về tài chính và khuyến
khích, giúp đỡ ông ấy nhiều trong việc học hành để có thể đi thi và đậu phó
bảng. Một phần vì ông Nguyễn Sinh Sắc là bạn học với ông nội tôi là Cao Xuân
Tiếu. Đây là hình căn nhà ông nội tôi cho ông cử Sắc. (Ông Vỹ đưa xem hình căn
nhà.)
3. Hỏi: Có tài liệu của phía Cộng Sản, như của Sơn Tùng và Nguyễn Đắc Xuân
nói, khi thấy ông Nguyễn Sinh Sắc thi hỏng khoa Ất Mùi, (năm 1895), ông Cao
Xuân Dục đã giúp cho ông Nguyễn Sinh Sắc được vào Huế, để có phương tiện và đủ
sách vở hầu tiếp tục việc học và có thể thành đạt. Điều này có đúng không?
Đáp: Đúng. Ông cố tôi còn can thiệp để cho ông Nguyễn Sinh Sắc, dù không phải
là con quan cũng được vào học ở Quốc Tử Giám. Đến khoa thi năm Tân Sửu (1901)
chánh chủ khảo Cao Xuân Dục thấy khóa sinh Sắc không trúng tuyển đã cho lệnh
xét lại bài thi của 4 thí sinh để rồi xin vua Thành Thái cho ông ta đậu phó
bảng. Khóa ấy có 9 tiến sĩ, 13 phó bảng. Ông Sắc đậu phó bảng thứ 11.
4. Hỏi: Hồi còn nhỏ ông có biết về hoạt động của Cộng sản ở quê nhà và có
chứng kiến các cuộc nổi dậy của Cộng Sản thường được gọi là phong trào Xô Viết
Nghệ Tĩnh không?
Đáp: Có. Phong trào này mạnh nhất ở hai huyện Nam Đàn và Thanh Chương. Nhiều
người bị chết oan. Cộng Sản đã giết hai tri phủ. Vì thế phản ứng của chính
quyền bảo hộ cũng rất quyết liệt. Pháp đem bom thả cũng giết nhiều người, trong
số ấy có cả Cộng Sản lẫn thường dân. Cha tôi có kể lại rằng để đối phó với
phong trào này, ông Nguyễn Hữu Bài, thượng thư bộ Lại của Triều Đình Huế,
(tương đương với chức thủ tướng thời nay), đã cho áp dụng một kế hoạch chiêu dụ
Cộng Sản khá thành công. Lúc ấy ông cố tôi cùng ở trong nội các Nguyễn Hữu Bài.
5. Hỏi: Khi Việt Minh cướp chính quyền ông ở đâu? và có ủng hộ họ không?
Đáp: Lúc ấy tôi đang học ở Hà Nội. Tôi nhớ là mấy tháng trước khi Việt Minh
cướp chính quyền, thanh niên sinh viên Hà Nội chúng tôi rất hăng hái ủng hộ
chính phủ Trần Trọng Kim, vì là chính phủ của Việt Nam độc lập đầu tiên, dù
phải nhờ có người Nhật lật đổ người Pháp. Nhưng chúng tôi rất phấn khởi và đã
ủng hộ hết mình. Tiếc rằng bỗng nhiên chính phủ này từ chức ngày 7 tháng
8 (1945). Thật khó hiểu. Tuy từ chức nhưng chính phủ Trần Trọng Kim vẫn xử
lý theo lệnh nhà vua. Khi mà Việt Minh tới trám vào chỗ trống chính trị này thì
chúng tôi đã đi theo Việt Minh. Chúng tôi không biết Việt Minh là Cộng Sản.
Thực ra lúc ấy chả mấy người biết Việt Minh là Cộng Sản.
6. Hỏi: Ông có gặp ông Hồ bao giờ không?
Đáp: Có. Hồi ấy tôi ở trong phong trào thanh niên sinh viên tranh đấu. Chúng
tôi được hai ông Hoàng Minh Giám và Phan Mỹ giới thiệu để gặp ông Hồ ở Bắc Bộ
Phủ. Lúc ấy ông ấy có cái vẻ bề ngoài rất ân cần và dễ mến. Về sau tôi mới hiểu
tại sao ông ấy đã chiêu dụ được nhiều người đi theo ủng hộ Việt Minh. Cho đến
giờ này tôi vẫn nghĩ ông ta thật là thông minh và xảo quyệt. Lại được tay Võ
Nguyên Giáp cũng rất thông minh trợ tá đắc lực. Tôi học với Võ Nguyễn Giáp 4
năm, Tôi biết ông ta rất rõ. Ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường đã tỏ ra sắc
sảo và quả đoán… Rất “độc tài”. Nhưng dầu sao Võ Nguyên Giáp không thể sánh
được với Ngô Đình Nhu. Còn Phạm Văn Đồng thì không đáng là học trò Ngô Đình
Nhu.
7. Hỏi: Rồi tại sao ông lại bỏ Việt Minh?
Đáp: Vì chúng tôi kết án ông Hồ đã ký thỏa ước mồng 6 tháng 3, nhượng bộ Pháp
quá nhiều. Hơn nữa họ đã hãm hại nhiều người yêu nước bất đồng chính kiến.
Chúng tôi chạy sang phía Việt Cách của các ông Nguyễn Hải Thần và Nghiêm Kế Tổ…
8. Hỏi: Khi nào thì các ông rời Hà Nội?
Đáp: Liền khi cuộc chiến giữa Việt Minh và Pháp bùng nổ ngày 19-12-46. Lúc
ấy ông Hồ và đại bộ phận Việt Minh chạy lên Việt Bắc kháng chiến. Thì chúng tôi
gồm 36 nhà trí thức và thanh niên sinh viên tranh đấu chạy vào khu Tư, gồm
Thanh Nghê Tĩnh, để cùng với một số Việt Minh ôn hòa lập một phòng tuyến mới
phi Cộng Sản chống thực dân và giúp dân mở mang về kinh tế và văn hóa. Có thể
nói Liên Khu Tư lúc ấy như là một khu tự trị.
9. Hỏi: Ông có thể cho biết tên một số trong 36 nhà trí thức mà ông bảo đã
rời Hà Nội vào Liên Khu Tư sau kháng chiến bùng nổ không?
Đáp: Tôi còn nhớ chẳng hạn có Luật Sư Trần Chánh Thành, các ông Trần Hữu Dương,
Hồ Đắc Điềm, Phạm Thành Vinh, sau này trở thành rể của ông Hồ Đắc Điềm, ông
Nguyễn Duy Quang, người của ông Bảo Đại, ông Phan Huy Xương, anh của bác sĩ
Phan Huy Đán tức Phan Quang Đán, ông Tôn Thất Trạch v.v… Các ông này về sau đã
hợp tác với thủ tướng Ngô Đình Diệm. Ông Trần Chánh Thành từng là bộ trưởng phủ
thủ tướng, với ông Tôn Thất Trạch là đổng lý văn phòng. Ngoài ra, về phía
thường dân tôi nhớ còn có bà Hòa Tường là một thương gia giầu có ở phố Hàng Đào
cũng đi theo.
Tôi xin nói thêm ông biết điều này, là những vị này và tôi hồi đầu theo Việt
Minh. Nhưng tất cả đều không phải Cộng Sản. Và ngay từ 1930 thì đã có hai phe
cùng chống Pháp một bên là Đảng Cộng Sản, lúc ấy chưa có Việt Minh. Một bên là
các nhân vật và tổ chức quốc gia phi Cộng Sản trong đó ngoài những người như
ông Ngô Đình Diệm đã bắt đầu hoạt động từ đó, còn có các chiến sĩ Việt Nam Quốc
Dân Đảng, mà đảng trưởng là Nguyễn Thái Học và 13 đồng chí đã bị Pháp xử bắn.
10. Hỏi: Khi nào ông rời Liên Khu Tư vào Sài Gòn và gặp ông Ngô Đình Nhu?
Đáp: Chúng tôi rời Liên Khu Tư ra Hà Nội. Chứ chưa vào Sài Gòn. Lúc ấy là vào
khoảng đầu năm 1953. Ông Hồ Chí Minh theo lệnh Stalin và Mao Trạch Đông khỉ sự
chuẩn bị mở chiến dịch Giảm Tô và cải cách ruộng đất. Có người thân trong Việt
Minh cho chúng tôi biết. Nên tìm đường chạy trước. Về sau trong họ tôi có nhiều
người có chút tư điền bị đem ra đấu tố. Chị ruột tôi cũng bị giết. Tôi “dinh
Tề” qua ngả Phúc Nhạc, Phát Diệm là khu an toàn tự trị dưới quyền trông coi của
giám mục Lê Hữu Từ. Khó khăn lắm mới tới được Hà Nội. Hà Nội lúc ấy đang sống
an bình dưới chính quyền Bảo Đại. Tôi đi thoát được là nhờ có người chú họ ở
trong tổ chức Việt Minh cấp cho một giấy thông hành. Ở Hà Nội tôi gặp lại các
ông Đặng Văn Sung, Phan Huy Quát từng hoạt động chung với chúng tôi thời 1945.
Trong thời gian còn ở Liên Khu Tư chúng tôi nghe biết cán bộ Cộng Sản trong tổ
chức Việt Minh chịu ảnh hưởng rất lớn bởi cán bộ Trung Cộng. Sau khi Mao Trạch
Đông chiếm trọn lục địa vào cuối năm 1949, ông ta đã bắt Hồ Chí
Minh gửi một số lớn cán bộ Việt Cộng sang Tầu để tẩy não, cải tạo tư
tưởng, bắt học tập chủ nghĩa Mao-ít. Vì cái chủ nghĩa này mà các chiến dịch
giảm tô và cải cách ruộng đất đã đẫm máu với những vụ con tố cha, vợ tố chồng
và nông dân tàn sát lẫn nhau thật rùng rợn. Làng tôi có ông hàn Lương biết mình
sắp bị đưa ra đấu tố đã nhảy xuống giếng tự tử, vậy mà đội cải cách đã lôi xác
ông lên để đấu cái thây ma. Chúng đánh nát bấy cái thây ấy. Tôi mong có người
thâu thập những tin tức khắp nước về cuộc Cải Cách Ruộng Đất thời gian đó để
cho mọi người biết Cộng Sản dã man chừng nào.
11. Hỏi: Khi nào thì ông gặp ông Ngô Đình Nhu?
Đáp: Cuối năm 1953. Tôi vào Sài Gòn thì gặp lại ông Trần Chánh Thành. Ông Thành
giới thiệu tôi với ông Nhu. Ông Thành vào Sài Gòn năm 1952 cùng một lượt với
phần lớn trong số 36 nhà trí thức đã vào Liên Khu Tư để kháng chiến chống Pháp
nhưng bất hợp tác với Việt Minh. Lúc gặp lại tôi thì ông Thành đang làm cho tờ
báo Xã Hội của ông Nhu, đồng thời tập sự luật sư với Luật Sư Trương Đình Du...
12. Hỏi: Theo chỗ chúng tôi biết thì ông Ngô Đình Nhu từng có 5 nhiệm vụ
quan trọng: một là dân biểu Quốc Hội, hai là Cố Vấn Chính Trị của Tổng Thống,
ba là thủ lãnh Thanh Niên Cộng Hòa, bốn là Tổng Bí Thư đảng Cần Lao Nhân Vị, và
sau hết vào năm cuối cùng ông còn là chủ tịch ủy ban liên bộ về Ấp Chiến Lược.
Vậy ông ấy có một lực lượng nhân sự nào đáng kể để giúp thi hành chừng ấy nhiệm
vụ không? Ví dụ ông ấy có mấy văn phòng? Có bao nhiêu nhân viên được ăn lương?
Đáp: Ông ấy chỉ có một mình thiếu tá Phạm Thu Đường làm chánh văn phòng, thường
được gọi là chánh văn phòng ông Cố Vấn. Và dưới quyền thiếu tá Đường chỉ có 5
nhân viên, hầu hết tự túc. Không có ngân khoản nào dành cho ông Cố Vấn. Và phải
nói thực khó hiểu là chính chức Cố Vấn này cũng chẳng được một văn kiện nào bổ
nhiệm hay quy định nhiệm vụ. Thực tế ông Nhu chỉ giúp việc cho riêng ông Diệm
với tư cách là phụ tá cho Tổng Thống. Người ta thấy việc ông làm thì gọi ông là
Cố Vấn vậy thôi. Vì thế ông không có quyền hạn và nhiệm vụ gì chính thức.
Còn về thủ lãnh Thanh Niên Cộng Hòa, thì ông chỉ thị cho chúng tôi, phải tự
túc. Mọi đoàn viên đều tự nguyện và tự túc theo tinh thần cách mạng. Cho nên
cũng chẳng có quyền lợi gì.
Về văn phòng dân biểu, ông cũng không có. Thực ra ông ấy rất ít đi họp Quốc
Hội. Chỉ khi nào có vấn đề chính sách quan trọng như Ấp Chiến Lược chẳng hạn,
hay vấn đề “Giáo Dục nhân bản”, vấn đề “kinh tế tư hữu cơ bản” v.v.. thì ông
mới tới trình bày mà thôi. Cho nên mọi thứ một mình ông cáng đáng. Tôi thật
phục sức làm việc của ông Nhu.
13. Hỏi: Thế còn chức chủ tịch ủy ban liên bộ về Ấp Chiến Lược thì sao? Có
văn thư nào quy định không?
Đáp: Chức này thì có. Nhưng cũng chỉ là một thông tư của phủ Tổng Thống gửi đến
các bộ, để việc ông chủ tọa các phiên họp Ủy Ban Liên Bộ được danh chính ngôn
thuận. Ông Nhu quan niệm chương trình Ấp Chiến Lược là một cuộc cách mạng xã
hội và chính trị, chứ không phải chỉ là một chiến lược để đối phó với sự xâm
nhập và khủng bố của Cộng Sản mà thôi. Ông thúc đẩy các tỉnh trưởng khai hóa
người dân quê theo tinh thần tam túc, nghĩa là tự túc về tư tưởng, tự túc về tổ
chức và tự túc về kỹ thuật, để có thể làm chủ cuộc đời mình, làm chủ được xã
hội, không bị lệ thuộc vào bên ngoài, vào ngoại bang. Ông để rất nhiều thì giờ
đích thân soạn những bài thuyết trình có tính lý luận cao dành cho các cấp lãnh
đạo chính phủ và cán bộ cao cấp, chỉ cho họ cách thức đưa những tư tưởng cao
vào đầu óc thường dân qua những hình ảnh và ngôn ngữ bình dân dễ hiểu. Mục đích
của ông là tiến dần tới một xã hội có tổ chức cao, có đầy đủ các phương tiện
truyền thông, giao tế, kinh tế, văn hóa cao trong đó mỗi con người, “mỗi nhân
vị”, đều được quan tâm đồng đều, chứ không biến con người thành những “cái đinh,
con ốc” trong một guồng máy xã hội theo kiểu Cộng Sản. Ông tin tưởng rằng
phương pháp đó về lâu về dài sẽ làm cho CS phải đầu hàng. Chứ không phải chỉ
dựa vào những hàng rào giây kẽm gai. Dĩ nhiên ban đầu thì việc rào ấp là cần
thiết để giữ cho Ấp Chiến Lược được an toàn trước sự phá hoại và tấn công của
du kích CS. Quốc sách Ấp Chiến Lược mà thành công thì Cộng Sản sẽ thành cá bị
tát ra khỏi ao, nằm trên đất.
14. Hỏi: Về đảng Cần Lao Nhân Vị, nó thành hình ra sao, và ai là những đồng
chí cốt cán nhất của ông Nhu?
Đáp: Hai người cùng với ông Nhu sáng lập ra đảng Cần Lao Nhân Vị là các ông
Trần Quốc Bửu và Huỳnh Hữu Nghĩa. Nhưng ban đầu các ông không gọi tên đảng là
Cần Lao mà gọi là đảng Công Nông. Nhưng vì không muốn gợi ý về cái liên minh
công nông của Cộng Sản, nên về sau các ông đổi ra là Cần Lao. Còn vế Nhân Vị
thì sau nữa mới thêm vào theo đề nghị của ông Nhu. Ông Bửu, chủ tịch Liên Đoàn
Lao Công có kinh nghiệm về đấu tranh nghiệp đoàn, đã quen ông Nhu khi còn ở bên
Pháp. Và ông Huỳnh Hữu Nghĩa một tín đồ Cao Đài, là cố vấn chính trị của tướng
Trình Minh Thế. Ông Nghĩa đã giúp ông Nhu chinh phục được tướng Thế, chứ không
phải như có người Mỹ cho rằng ông Nhu có được ông Thế là nhờ đại tá Edward
Lansdale. Ông Lansdale có can thiệp để quân của tướng Thế được hợp thức hóa và
trả lương như Quân Đội Quốc Gia thì đúng. Người nào bảo Lansdale dùng tiền mua
Tướng Thế là cố tình xuyên tạc để hạ uy tín của một vị tướng kiên cường anh
dũng, thanh liêm mà anh em ông Diệm rất quý trọng. Khi nghe tin tướng Thế tử
trận Tổng Thống Diệm đã ngất xỉu. Điều này tướng Lansdale có ghi trong hồi ký.
Văn phòng Tổng Bí Thư đảng Cần Lao cũng do một mình Thiếu Tá Phạm Thu Đường
quán xuyến, kiêm nhiệm.
15. Hỏi: Ông Ngô Đình Diệm có giữ vai trò gì trong đảng Cần Lao không?
Đáp: Không. Ông ấy hoàn toàn ở ngoài và trên đảng Cần Lao. Với ông Diệm chỉ có
Tổ Quốc và Quốc Dân. Tôi còn nhớ khoảng năm 1956, Tổng Thống gọi tôi vào bảo
tôi lên cao nguyên đèo heo hút gió để quan sát nghiên cứu tìm ra những địa điểm
thích hợp để lập các khu dinh điền, hòng đưa người kinh lên trấn giữ địa điểm
mà ông bảo là vô cùng quan trọng về mặt chiến lược. Tôi thấy mình đi thì ông
Nhu thiếu một trợ lý. Lại cũng hơi ngán cảnh cô đơn ở nơi xa lạ. Tôi bèn thưa
với Tổng Thống: Công tác đoàn thể của ông Cố Vấn đang thiếu người. Tổng Thống
nói: Đoàn thể gì. Dẹp. Tuy nhiên rồi ông cũng đấu dịu. Cứ đi đi. Thỉnh thoảng
tôi sẽ lên với anh… Cũng cần thêm rằng ông Diệm rất quan tâm đến vùng cao
nguyên. Ông thường nói: giữ được cao nguyên thì giữ được miền Nam. Và ông tìm
cách đưa nhiều cán bộ và những người dân có kinh nghiệm với Cộng Sản lên đó lập
nghiệp.
16. Hỏi: Ông nghĩ gì về việc chính phủ Ngô Đình Diệm tổ chức trưng cầu dân ý
truất phế ông Bảo Đại?
Đáp: Nhiều người chê ông Diệm, là nhà Nho mà bất trung, không giữ lời thề trung
thành với cựu hoàng. Nhưng tôi thấy không đúng. Trước hết chính cựu hoàng bảo
ông Diệm chỉ thề trước Thánh Giá trung thành với Tổ Quốc. Thứ nữa, khi cựu
hoàng triệu ông sang Pháp, ông Diệm đã sẵn sàng lên đường, dù biết sang đó sẽ mất
chức thủ tướng.
Nhưng chính nhóm liên khu Tư chúng tôi đã thuyết phục ông, gần như làm áp lực
với ông, để ông bỏ ý định sang Cannes. Chúng tôi xúm vào yêu cầu ông ở lại lấy
cớ tình hình không cho phép vắng mặt. Chúng tôi phải nói với thủ tướng rằng nếu
Cụ bỏ chúng tôi lại mà đi một mình thì sinh mệnh chúng tôi ai sẽ lo? Chúng tôi
đã bỏ tất cả vào đây là vì cụ, vì tin cụ sẽ bảo vệ phần đất tự do còn lại này,
bảo vệ chúng tôi. Nay cụ nỡ lòng nào bỏ chúng tôi, bỏ đất nước này cho Thực
dân, Cộng Sản? Rồi nhiều đoàn thể họp nhau lại đặt ông Diệm trước sự việc đã
rồi là tự ý hạ bệ ông Bảo Đại. Cuộc trưng cầu dân ý của chính phủ Ngô Đình Diệm
tổ chức sau đó chỉ là để hợp pháp hóa hành động của chúng tôi.
17. Hỏi: Có sử gia Mỹ bảo ngày 22 tháng 8 năm 1963, Thanh Niên Cộng Hòa đã
tấn công chùa Xá Lợi cùng với Cảnh Sát và Lực Lượng Đặc Biệt. Điều này có đúng
không?
Đáp: Hoàn toàn bịa đặt. Tổ chức này không phải để dùng vào những việc như vậy.
Nó là tổ chức phi vũ trang mà.
18. Hỏi: Sử gia Mark Mayor viết trong tác phẩm Triumph Forsaken rằng gần
ngày đảo chính, tỉnh trưởng Định Tường báo cáo với ông Nhu rằng đại tá Có là
phụ tá của tướng Đính rủ ông ta làm đảo chính. Ông Nhu Hỏi lại tướng Đính, thì
tướng Đính xin đi chém đầu Có. Ông có biết vụ này không?
Đáp: Không cần tỉnh trưởng Định Tường báo cáo thì ông Nhu đã biết rồi. Nhưng
ông muốn cứ để vậy để theo dõi.
19. Hỏi: Khi ông cùng ông Nhu đi gặp Phạm Hùng ở Bình Tuy, ông Nhu có cho
ông biết hai người họ bàn chuyện gì không?
Đáp: Lúc ấy thì không. Chỉ biết chúng tôi cùng đến Quận Tánh Linh ở đây có một
vùng do Cộng quân kiểm soát. Ban đầu cứ tưởng đi săn cọp như mọi khi. Nhưng đến
nơi ông Nhu bảo chúng tôi ở ngoài, còn ông đi về phía trước độ vài trăm mét. Có
Phạm Hùng chờ ở đó. Sau này về nhà tôi cũng không tiện Hỏi ông
Nhu. Nhưng qua những gì ông tự ý nói ra vào một lúc nào đó thì, nội dung câu
chuyện trên một tiếng đồng hồ,gồm nhiều điều cho đến nay vẫn chưa được tiết lộ.
Có một điều mà phía họ rất quan ngại, nếu không bảo là sợ, rất sợ chương trình
Ấp Chiến Lược. Họ yêu cầu cho biết ai là người chủ trương và mục đích để làm
gì? Ông Nhu trả lời: đó chỉ là một chủ trương của chính phủ nhằm bảo vệ sinh
mạng và tài sản của người dân, ngăn ngừa sự xâm nhập, phá phách của du kích các
ông… Các ông bảo cán bộ đừng tìm cách đánh phá làng xã, thì chúng tôi sẽ bỏ
luật 10/59. Cán bộ các ông có thể về sống với dân lành tại các ấp…
Về các điều kiện để hiệp thương thì nhiều lần Tổng Thống Diệm đã nói, phải có 6
giai đoạn:
- Bắt đầu bằng việc cho dân hai miền trao đổi thư tín tự do.
- Rồi cho dân qua lại tự do
- Thứ 3 là cho dân hai bên được tự do chọn đinh cư sang bên kia nếu muốn
- Thứ 4 mới đến giai đoạn trao đổi kinh tế. Ví dụ miền Nam đổi gạo lấy than đá
của miền Bắc chẳng hạn.
- Qua được các giai đoạn đó rồi mới tiến tới hiệp thương.
- Và sau cùng là tổng tuyển cử.
Có lần ông Nhu tính với chúng tôi: Ông dự đoán rằng, nếu cho dân tự do chọn nơi
định cư, thì căn cứ theo tình trạng về tự do dân chủ tồi tệ và kinh tế kiệt quệ
của miền Bắc lúc ấy, sẽ có khoảng 3 triệu người dân sẽ dần dần vào định cư ở
miền Nam. Vì vậy “mình” phải chuẩn bị đất cho dân. Ông cũng tính rằng hiện dân
số miền Bắc có tới 23 triệu, trong khi dân số miền Nam chỉ có 17 triệu. Nếu có
được 3 triệu dân Bắc vào định cư ở miền Nam thì dân số 2 bên sẽ cân bằng. Bầu
cử tự do, với sự giám sát của Quốc Tế thì chắc mình sẽ thắng.
20. Hỏi: Lần ông tháp tùng ông Nhu đi dự lễ đăng quang của quốc vương Ma-rốc
năm 1962, ông có cho biết là sau đó các ông đến Paris gặp ông Pinay, đại diện
Tổng Thống Charles De Gaulle, bàn chuyện hiệp thương với ông Hồ. Lúc ấy có mặt
giáo sư Bửu Hội không?
Đáp: Dĩ nhiên là có. Vì Giáo sư Bửu Hội là đại sứ của VNCH ở Ma-rốc, và là bạn
học với ông Nhu ở bên Pháp. Ông Bửu Hội lại từng là cố vấn cho Hồ Chí Minh. Nên
trong việc này, có thể nói vai trò của ông Bửu Hội cũng quan trọng không kém
ông Nhu. Ông Nhu và chúng tôi ở khách sạn Grillon cả tháng. Cuộc tiếp xúc xảy
ra nhiều lần mà hầu như lần nào cũng có sự hiện diện của giáo sư Bửu Hội. Ông
Nhu cho biết lúc ấy ông Hồ Chí Minh đã nhờ ông Jean Sainteny xin Tổng Thống De
Gaulle giúp. Ông Hồ biết là ông De Gaulle đang có chủ trương trung lập Đông
Dương, lại hận Mỹ đã “hất cẳng” Pháp. Ông Hồ nhờ Sainteny xin Tổng Thống De
Gaulle can thiệp để tiếp xúc với Sài Gòn. Tổng Thống Pháp rất sốt sắng trong
việc này. Sau chuyến đi này ít tháng thì xảy ra vụ ông Nhu “đi săn cọp” ở Tánh
Linh.
21. Hỏi: Gần ngày đảo chính đại sứ Cabot Lodge có điện đàm với Tổng Thống
Diệm. Lúc đó ông có ở bên cạnh Tổng Thống không?
Đáp: Không.
22. Hỏi: Trong cuốn Nhớ Lại Những Ngày ở Cạnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm, cựu
đại tá Nguyễn Hữu Duệ viết rằng ông ta xin phép Tổng Thống đem xe tăng thiết
giáp lên bộ tổng Tham Mưu để bắt các tướng và dẹp đảo chính. Nhưng Tổng Thống
không cho. Ông có biết chuyện này không?
Đáp: Lúc ấy tôi đang ở bên Tổng Thống Diệm và ông Nhu tại dinh Gia Long. Chính
tôi nghe điện thoại của ông Duệ và trình lên Tổng Thống.
Tổng Thống la tôi: Các anh muốn gì? Ở với tôi bấy lâu mà không hiểu ý tôi sao?
Dân Nghệ An các anh chỉ thích làm loạn. Đem quân đội chống quân đội là cách bảo
vệ tổ quốc hả?
Tôi thưa: Nhưng người ta đánh mình thì mình phải đánh lại chứ Tổng Thống. Chẳng
lẽ để phải chết sao?
Ông quát lên: Chết thì đã sao.
Đúng, đối với ông chết thì đã sao. Nhưng đối với chúng ta thì cái chết của ông
là cái chết dần của miền Nam. Ông còn nói quân đội là để bảo vệ tổ quốc chứ
không phải để bảo vệ cá nhân Tổng Thống.
Ông bảo tôi liên lạc với ông Trương Vĩnh Lễ, chủ tịch Quốc Hội yêu cầu cho
triệu tập Quốc Hội để ông ra từ chức trước Quốc Hội, hòng tránh cảnh đổ máu.
Nhưng tôi gọi ông Lễ 4 lần không được.
Lúc ấy không phải chỉ có Lữ Đoàn xin lên tấn công tổng hành dinh của nhóm đảo
chính. Mà còn có cả một đại đội biệt kích thuộc Lực Lượng Đặc Biệt đi hành quân
ở Tây Ninh vừa về đến Sài Gòn cũng báo cáo là lực lượng phòng vệ của các tướng
đảo chính ở Tổng Tham Mưu rất yếu, đại đội biệt kích xin phối hợp với 2 tiểu
đoàn của Lữ Đoàn Phòng Vệ phủ Tổng Thống để đột kích vào bắt hết các tướng đảo
chính. Tướng Nguyễn Văn Phú, lúc ấy còn là Thiếu Tá đã tiếp xúc với tôi về việc
này. Nhưng như vừa nói. Tổng Thống không chấp thuận.
Viên đại úy đại đội trưởng Biệt Kích đề nghị cho lực lượng của Lữ Đoàn Phòng Vệ
Phủ Tổng Thống có xe bọc thép dẫn đầu tiến tới bao vây bộ Tổng Tham Mưu, còn
đại đội của anh ta sẽ đột kích bọc hậu từ phía sân vận động vào bắt sống các
tướng. Tôi rất buồn bực và lấy làm khó hiểu tại sao ông cụ lại không cho đánh.
Ông Nhu ngồi cạnh đó cũng chẳng nói gì.
23. Hỏi: Theo ông trong số các tướng lãnh lúc ấy ai có khả năng nhất?
Đáp: Tôi hầu như không tiếp xúc với các tướng. Ngay cả Phó Tổng Thống cũng vậy.
Hầu như chẳng bao giờ gặp. Nhưng tôi có nghe ông Nhu nói ông Nguyễn Văn Thiệu,
lúc ấy mang lon đại tá, là một tư lệnh (sư đoàn 5) giỏi nhất. Ông Nhu có nhận
xét đó sau khi nghe ông Thiệu thuyết trình ở hội trường Suối Lồ Ồ.
Còn các tướng thì rất sợ Tổng Thống Diệm mỗi khi phải thuyết trình cho ông về
tình hình an ninh. Bởi vì ông nắm vững tình hình và nhất là địa hình địa vật…
địa lý của từng vùng. Kiến thức về quân sự của ông cũng rất uyên bác. Tôi được
biết, khi mới về nước làm thủ tướng, ông đã yêu cầu tổng lãnh sự ở Hồng Kông
mua cho ông tất cả tác phẩm của Mao Trạch Đông, Chu Đức, Lâm Bưu, Bành Đức Hoài
để đọc và bắt ông Nhu phân tích nghiên cứu trình lên.
24. Hỏi: Nghe nói ông bà Nhu có một biệt thự đẹp lắm ở Đà Lạt. Ông có tới đó
bao giờ không?
Đáp: Ông nói đến cái biệt thự này, tôi lại nhớ tới cái ông luật sư Trương Phú
Thứ ở Seattle. Ông ấy muốn tìm cách phỏng vấn bà Ngô Đình Nhu mà không sao
được. Chẳng rõ tại sao ông ta biết nhà tôi, tìm đến xin tôi giới thiệu với bà
Nhu. Tôi biết đã từ lâu bà ấy ẩn dật không muốn báo chí nhắc tới. Nhưng tôi
biết bà ấy hãy còn quyến luyến ngôi nhà hai phòng ngủ của một người Pháp, bỏ
hoang đã lâu mà anh em chúng tôi hùn tiền mua cho ông bà ấy vào khoảng năm
1960, mà không đủ tiền sửa chữa, cho nên đến khi ông Nhu bị sát hại và bà Nhu
sống lưu vong, cũng mới chỉ sửa được phân nửa.
Tôi bảo ông Thứ hãy về Việt Nam, lên Đà Lạt chụp ảnh ngôi nhà ấy rồi mang theo
sang Pháp, tìm cách đưa tấm hình đó tận tay bà Nhu thì may ra bà ấy cho gặp.
Thì quả thật chắc ông đã biết, ông Thứ đã viết một bài cho tờ Văn Nghệ Tiền
Phong nói về bà Nhu ở tuổi gần bát tuần sống như một nhà tu ở Paris. Tôi mong
ông Thứ có dịp phổ biến tấm hình này để độc giả thấy cái “ngôi biệt thự xinh
đẹp” của ông bà Nhu.
25. Hỏi: Thống tướng Maxwell Taylor, Đại sứ Frederick Nolting và nữ ký giả
Marguerite Higgins đều nói được Tổng Thống Diệm tiếp hơn kém khoảng 5
giờ đồng hồ. Ông có biết điều đó và có ý kiến gì không?
Đáp: Lúc ấy nhiều người nói tổng thống tiếp khách lâu quá. Tôi có trình ông,
bảo người ta phê bình tổng thống độc thoại!
Ông cười. Ông bảo: Người Mỹ họ ít hiểu về dân tôc mình về lịch sử của nước
mình. Mình phải lợi dụng lúc họ chịu nghe để nói cho họ hiểu chứ. Mấy người này
đều chăm chú nghe tôi và đặt nhiều câu Hỏi. tôi phải trả lời cho họ
chứ.
26. Hỏi: Gần ngày đảo chính Tổng Thống có mời ông bà Đại Sứ Mỹ lên Đà Lạt
nghỉ tại biệt điện của Tổng Thống và dự dạ tiệc thân mật. Ông có biết họ thảo
luận về việc gì không?
Đáp: Tôi có biết và nhớ là Tổng Thống đề nghị chính phủ Mỹ thông cảm những khó
khăn của miền Nam và đừng ép ông phải cải cách gấp rút. Ông cũng hứa sẽ xem xét
những đề nghị của chính phủ Mỹ một cách nghiêm chỉnh. Nhưng cần phải có thời
gian. Phía ông Lodge thì nằng nặc đòi Tổng Thống phải đưa ngay ông Nhu ra ngoại
quốc. Nhưng dĩ nhiên không bao giờ Tổng Thống nhượng bộ điều này được.
27. Hỏi: Xin ông tha lỗi, ông là Phật tử chứ ạ? Và trong vụ Phật Giáo có ai nhờ
ông làm trung gian để thương lượng giàn xếp giữa chính quyền và bên Phật Giáo
đấu tranh không?
Đáp: Phải, tôi là Phật tử đã quy y… – Ông vào phòng lấy ra một cuộn giấy mở cho
tôi thấy tờ PHÁI QUY Y rồi nói tiếp – Tôi quy y với thầy Thích Minh Châu. Khi
vụ Phật Giáo xảy ra tôi có ra Huế gặp thầy Thích Trí Thủ để nhờ thầy can thiệp
với Thượng Tọa Thích Trí Quang… nhưng Hòa Thượng Trí Thủ nói bây giờ các thầy
trẻ học thức nhiều, họ có đường lối riêng, các sư già chúng tôi nói họ không
nghe. Nên không kết quả. Nhiều người khác cũng can thiệp nhiều ngả khác, cũng
không hơn gì. Hồi ấy còn cả một ủy ban của chính phủ gồm nhiều Phật tử đứng đầu
là phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ cố gắng dàn xếp. Nhưng bên Phật Giáo tranh
đấu chỉ muốn lật đổ chính phủ thôi. Nên họ cố đưa ra những yêu sách không cách
nào làm được. Tôi rất ân hận là không giúp gì được với tư cách là một Phật tử.
28. Hỏi: Theo ông thì ai cố ý giết hai ông?
Đáp: Theo tôi thì người ra lệnh trực tiếp là tướng Dương Văn Minh. Còn ông Minh
có nhận lệnh ở trên nào không thì không biết. Sở dĩ tôi dám quả quyết ông Minh,
là vì chính ông Minh sai cận vệ của ông ta là đại úy Nguyễn Văn Nhung cùng đi
với tướng Mai Hữu Xuân, để “thi hành nhiệm vụ” (!). Và Nhung đã leo lên xe bọc
thép trong đó có hai anh em Tổng Thống. Nhung là một tay giết người không gớm
tay, y còn khắc dấu vào cán dao găm mỗi lần giết được một người. Ngay tối mồng
hai y còn khoe “con dao lịch sử” của y với con của tướng Đôn cơ mà. Đó là theo
chính lời của tướng Đôn thuật lại trong Việt Nam Nhân Chứng. Còn tướng Xuân thì
khi “đi đón ông cụ” về và ông cụ đã chết rồi, đã tới trước Dương Văn Minh giơ
tay làm dấu, miệng nói: “Mission accomplie” (Nhiệm vụ hoàn thành). Cứ theo
những lời trên của tướng Đôn, thì không nghi ngờ gì người chủ trương và ra lệnh
giết hai ông là tướng Big Minh.
29. Hỏi: Thời gian quấy rầy ông đã quá dài. Nhất là trong lúc ông còn bịnh
nhiều. Xin cám ơn ông đã mất công trả lời những câu Hỏi của chúng tôi. Và nếu
có thể được xin ông cho một cảm tưởng chung về Tổng Thống Ngô Đình Diệm và ông
Ngô Đình Nhu.
Đáp: Tôi cũng xin cám ơn ông đã tốn công đi từ xa đến để cho tôi được có dịp
nói lên vài điều trong số những gì mình còn nhớ được về thời gian dài phục vụ
Đất Nước bên cạnh hai nhân vật lịch sử mà tôi hằng kính mến. Cứ mỗi lần nhớ đến
hai cụ, tôi đều ngậm ngùi xót xa. Nhất là đối với cụ Diệm. Ông quá ngay thẳng,
quá quân tử, quá rộng lượng, lúc nào cũng nghĩ tới làm cho dân được ấm no hơn.
Vậy mà người ta nỡ hãm hại ông. Không phải chỉ có những ngày giỗ hai ông tôi
mới khóc.
Cụ Vỹ dằn cơn xúc động bắt tay tôi khi tôi từ biệt ra về...
Minh Võ
Việt Thức
Phiet Pham thephiet_2002@yahoo.com
Sun, Apr 30 at 11:18
AM
CẢM TẠ MIỀN NAM.
Phan Huy, (em của ông Phan Huy Quát ) một thi nhân nổi tiếng ở miền Bắc.
Phan Huy đã viết môt bài thơ có tựa đề là “Cảm Tạ Miền Nam” rất cảm động.
Ngay trong phần mở đầu ông viết:
“Đã từ lâu, tôi có điều muốn nói
Với Miền Nam, miền đất mới thân quen
Một lời cảm ơn tha thiết chân tình
Của Miền Bắc, xứ ngàn năm văn vật.”
Sau cái gọi giải phóng và thống nhất, ông Huy đã có dịp vào miền Nam
và ông đã nhận ra miền Nam không tồi tệ như bác và đảng đã tuyên
truyền và nhồi nhét vào đầu ông. Và khi đã nhận ra một sự thật phũ phàng, ông
Huy đã bật khóc:
“Tôi đã vào một xứ sở thần tiên
Nếp sống văn minh, dân khí dịu hiền
Cơm áo no lành, con người hạnh phúc.
Tôi đã ngạc nhiên với lòng thán phục
Mở mắt to nhìn nửa nước anh em
Mà đảng bảo là bị lũ nguỵ quyền
Áp bức, đoạ đày, đói ăn, khát uống.
Trước mắt tôi, một Miền Nam sinh động
Đất nước con người dân chủ tự do
Tôi đã khóc ròng đứng giữa thủ đô
Giận đảng giận đoàn bao năm phỉnh gạt.”
Phan Huy cũng không quên mô tả cuộc sống ở miền Bắc cộng sản, nơi ông đã sinh
ra và lớn lên, vô cùng tồi tệ. Đời sống của nhân dân miền Bắc nghèo khó đến nỗi
phải kéo cầy thay trâu và nhân phẩm của nhân dân miền Bắc bị xô đẩy xuống tới
mức ngang hàng với bèo dâu:
“Sinh ra lớn lên sau bức màn sắt
Tôi chẳng biết gì ngoài bác, đảng "kính yêu"
Xã hội sơ khai, tẩy não, một chiều
Con người nói năng như là chim vẹt.
Mở miệng ra là: "Nhờ ơn bác đảng
Chế độ ta ưu việt nhất hành tinh
Đuốc soi đường chủ nghĩa Mac Lenin
Tiến nhanh tiến mạnh lên thiên đường vô sản.
Hai mươi mốt năm trên đường cách mạng
Xã hội thụt lùi người kéo thay trâu
Cuộc sống xuống thang tính bằng tem phiếu
Nhân phẩm con người chẳng khác bèo dâu.”
Trong phần cuối bài thơ, ông Huy kết luận rằng, ngày 30-04-1975 thật sự không
phải là ngày cộng sản miền Bắc “giải phóng” miền Nam thoát khỏi sự kìm kẹp của
Mỹ Ngụy, mà ngược lại là ngày miền Nam đã phá màn u tối, đã khai đướng chỉ lối,
đã khai sáng cho nhân dân miền Bắc thấy được bộ mặt gian trá và độc ác của bè
lũ cộng sản, thật sự chúng chỉ là một bầy ác quỷ, và ông đã không tiếc lời
cảm tạ nhân dân miền Nam:
“Cảm tạ Miền Nam phá màn u tối
Để tôi được nhìn ánh sáng văn minh
Biết được nhân quyền, tự do dân chủ
Mà đảng từ lâu bưng bít dân mình.
Cảm tạ Miền Nam khai đường chỉ lối
Đưa tôi trở về tổ quốc thiêng liêng
Của Hùng Vương, quốc tổ giống Rồng Tiên
Chớ không là Cac Mac và Le nin ngoại tộc.
Cảm tạ Miền nam mở lòng khai sáng
Đưa tôi hội nhập cùng thế giới năm châu
Mà trước đây tôi có biết gì đâu
Ngoài Trung quốc và Liên xô đại vĩ
Cảm tạ Miền Nam đã một thời làm chiến sĩ
Chống lại Cộng nô cuồng vọng xâm lăng
Hầu giúp cả nước thoát bầy ác quỷ
Dù không thành công cũng đã thành danh.”
Trong một bài thơ khác có nhan đề là
“Tâm sự một đảng viên” ông Phan Huy đắng cay bộc lộ rằng, sở dĩ ông theo đảng
cộng sản là vì ông quá tin nghe theo lời bác Hồ dạy bảo:
“Rằng đảng ta ưu việt nhất hành tinh
Đường ta đi, chủ nghĩa Mac Lê nin
Là nhân phẩm, là lương tri thời đại.”
Và sở dĩ ông đã xung phong đi cứu Miền Nam ruột thịt là vì ông tin vào lời
tuyên truyền của bác Hồ và đảng Cộng Sản:
“Rằng tại Miền Nam, ngụy quyền bách hại
Dìm nhân dân dưới áp bức bạo tàn
Khắp nơi nơi cảnh đói rách cơ hàn
Đang rên siết kêu than cần giải phóng.”
Khi dự tính vào miền Nam thăm viếng một người bà con họ hàng, vì tin vào lời
tuyên truyền của bác và đảng là người dân miền Nam đói khổ, nên ông đã chẳng
quản đường xa diệu vợi mang theo một mớ gạo mà ông đã phải, dành dụm trong
nhiều ngày mới có được, để biếu người bà con đói khó:
“Chẳng quên mang theo ký gạo để dành
Biếu người bà con trong nầy túng thiếu”
Song khi vào tới miền Nam, ông nhận ra rằng, đời sống của ngươi miền Nam hoàn
toàn khác hẳn so với lời tuyên truyền láo khoét của bác và đảng:
“Đến Sài Gòn, tưởng say men chiến thắng
Nào ngờ đâu sụp đổ cả niềm tin
Khi điêu ngoa dối trá hiện nguyên hình
Trước thành phố tự do và nhân bản.”
Khi đến và đứng trước nhà người bà con, ông Phan Huy mới nhận ra rằng, mớ
gạo mà ông nâng niu mang từ miền Bắc thiên đường cộng sản, với hảo ý để biếu
người bà con miền Nam bị Mỹ Ngụy kìm kẹp đói khó là một điều “lăng mạ” người bà
con này:
“Tôi tìm đến người bà con trong xóm
Nhà xinh xinh, đời sung túc tiện nghi
Kí gạo đem theo nay đã mốc xì
Tôi vội vã dấu vào trong túi xách.
Anh bà con tôi- một ngươi công chức
Nét u buồn nhưng cũng cố làm vui
Đem tặng cho tôi một cái đồng hồ
Không người lái, Sei-ko, hai cửa sổ.
Rồi anh nói: "Ngày mai đi cải tạo
Cái đồng hồ tôi cũng chẳng cần chi
Xin tặng anh, mong nhận lấy đem về
Một chút tình người bà con Nam bộ."
Sau khi đã nhận ra đời sống thật sự của nhân dân miền Nam và sự gian trá, phỉnh
gạt của bác Hồ và đảng Cộng, ông Huy cảm thấy hổ thẹn với lương tâm
nên đã than khóc:
“Trên đường về, đất trời như sụp đổ
Tôi thấy mình tội lỗi với Miền Nam
Tôi thấy mình hổ thẹn với lương tâm
Tôi đã khóc, cho mình và đất nước.”
Phiet
Pham thephiet_2002@yahoo.com
Sun, Apr 30 at 11:17
AM
Phân
tích: Đất nông nghiệp của Mỹ âm thầm rơi vào tay TC như thế nào?
No comments:
Post a Comment