20220219 Cong Dong Tham Luan
[Khoá đào tạo 12 tháng] Cấp 2, Bài 3 – Văn Hoá Tổ Chức
Ts. Nguyễn Đình Thắng
Văn hoá là cách
nhìn và cách ứng xử dựa trên một số giá trị chung của mọi thành viên trong
một tập thể. Nó định tính tập thể và tạo bản sắc chung cho mọi thành viên của tập
thể.
Để dễ hình dung, hãy tưởng tượng một
người gõ cửa căn nhà đầu tiên trên khu phố. Một cậu bé 7 tuổi mở cửa. Khi được
hỏi cha mẹ đâu, cậu bé trả lời: “Thưa bác, cha mẹ cháu đi vắng ạ. Xin bác để lại
số điện thoại. Khi về, cha mẹ cháu sẽ gọi lại cho bác,” Rồi cậu bé cúi đầu lễ
phép chào khách. Người khách ấy đến gõ cửa căn nhà thứ hai; một cậu bé khác
cũng chạc tuổi cậu bé lúc nãy ra mở cửa, trợn mắt nói: “Không có nhà!” rồi đóng
sập cửa lại.
Người khách không cần biết trong mỗi gia đình ấy có bao nhiêu người, cha mẹ làm nghề gì, con cái ăn học ra sao, gia sản là bao… nhưng có thể mường tượng cách cư xử của người trong nhà với nhau và với mọi người. Nghĩa là, qua cử chỉ của một đứa trẻ 7 tuổi, người ngoài có thể cảm nhận được văn hoá của gia đình ấy.
Văn hoá của một tổ chức cũng thế; nó thể hiện cách nhìn và cách ứng xử, thái độ của mỗi thành viên của tổ chức, dù hành động riêng rẽ hay tập thể.
Văn hoá tổ chức
Văn hoá là yếu tố tạo sức mạnh và sự trường tồn của một cộng đồng con người. Một dân tộc phải lưu vong nhiều nghìn năm nhưng gìn giữ được nền văn hoá thì vẫn tồn tại. Ngược lại, một quốc gia với nền văn hoá mờ nhạt không sớm thì muộn cũng sẽ suy vong. Nguyên tắc này áp dụng cho các tổ chức, dù là tổ chức xã hội, doanh nghiệp hay cơ quan chính quyền.
Văn hoá nẩy sinh khi có từ 2 người trở lên tương tác thường xuyên và dài lâu với nhau trong cùng một môi trường, một hoàn cảnh. Có lẽ nhiều người trong chúng ta đã đọc truyện Lỗ Bình Sơn (Robinson Crusoe) hoặc xem phim được dựng từ truyện này. Anh ta bị đắm tàu, lạc lên một hòn đảo, sống một mình cho đến khi gặp một người bản địa mà anh ta đặt tên là Friday (Thứ Sáu). Cuộc phiêu lưu 28 năm của Robinson đã làm cho các thế hệ thanh thiếu niên say sưa, thích thú. Tuy nhiên, một số nhà nhân chủng học, xã hội học lại cho quyển truyện này là một luận án về sự hình thành văn hoá khi anh Robinson, đang sống một mình, gặp anh Friday.
Một tổ chức là tập hợp của những cá nhân đến với nhau. Nền văn hoá đương nhiên sẽ nẩy sinh giữa những người trong cùng tổ chức. Nếu để nó nẩy sinh một cách tự nhiên, thì nền văn hoá đó thường mang tính tuỳ tiện, hỗn tạp. Muốn tổ chức vững chãi và trường tồn, nhóm lõi hình thành tổ chức phải có cả một kế hoạch để kiến tạo nền văn hoá mong muốn cho tổ chức của mình.
Văn hoá của một tổ chức được cấu thành trên căn bản:
· Các giá trị đạo đức nhân bản làm nền tảng cho tổ chức.
· Các quy tắc ứng xử làm khuôn phép trong hoạt động hàng ngày của tổ chức.
Ở đây chúng tôi gọi nền văn hoá của tổ chức là “văn hoá tổ chức” để phân biệt với khái niệm văn hoá mà người ta thường liên tưởng đến khi nói về một dân tộc.
Giá trị đạo đức nền tảng
Đó là các giá trị đạo đức nhân bản, nghĩa là giá trị tự thân của con người vì là con người, không ai có thể phủ định vì bất kỳ lý do nào. Ví dụ:
· Tự do
· Nhân phẩm
· Quyền mưu cầu hạnh phúc
· Quyền sống
· Quyền hưởng thành quả lao động
· Quyền có niềm tin
Nhóm người khởi dựng tổ chức cần chọn một hay vài (không quá 3) giá trị nhân bản làm nền tảng cho tổ chức.
Các giá trị nhân bản đều liên đới vì con người là một thể: Vi phạm một thì vi phạm tất cả, trực tiếp hay gián tiếp. Giá trị đạo đức nền tảng, còn gọi là giá trị đạo đức lõi, là tiêu chí cho những quyết định hệ trọng của tổ chức:
· Dù có lợi cũng nhất định không làm nếu vi phạm các giá trị đạo đức lõi.
· Dù bị thiệt vẫn làm vì nếu không thì sẽ phản lại các giá trị đạo đức lõi.
Nói cách khác, các quyết định hệ trọng phải đặt trên cơ sở đúng–sai chứ không là hơn–thiệt. Quyết định “đúng” là quyết định phù hợp các giá trị đạo đức bản lõi. Quyết định sai phản lại các giá trị ấy. Vấn đề hệ trọng khi nó ảnh hưởng sâu đậm và dài lâu đến tổ chức hoặc nó liên quan đến vận mạng và tương lai của con người.
Ví dụ: Tổ chức BPSOS chọn “tự do” và “nhân phẩm” làm giá trị đạo đức lõi. Như một khẳng định và nhăc nhở, cặp giá trị lõi này được đưa vào tuyên ngôn sứ mạng của tổ chức. Đây là giá trị để BPSOS dựa vào trong những hoàn cảnh đòi hỏi các quyết định khó khăn. Cách đây không lâu, có người vì hiềm thù cá nhân muốn mượn tay BPSOS để trừng phạt một người khác -- lúc ấy cả 2 đang cùng hợp tác với BPSOS ở Thái Lan. Khi BPSOS cự tuyệt không cho "mượn tay", người ấy hăm doạ sẽ gây thiệt hại cho BPSOS bằng cách nói xấu với những tổ chức quốc tế đang đối tác với chúng tôi. Chúng tôi quyết định thà bị thiệt hại chứ không vi phạm nhân phẩm của đối thủ của người này.
Đối với các tổ chức tôn giáo, bản thân những tổ chức này đã có sẵn các giá trị nhân bản trong tín lý; thách thức đặt ra đối với các lãnh đạo tôn giáo trong những tình huống éo le là họ có đặt các giá trị lõi ấy lên trên sự hơn--thiệt không. Có người dùng lẽ thiệt–hơn để biện minh cho thái độ thoả hiệp về đạo đức nhân bản. Chẳng hạn, im lặng trước bất công để bảo vệ an toàn cho giáo hội, hoặc bỏ rơi một ít tín đồ để đổi lấy đặc ân cho hội thánh. Họ tự cho rằng đó là thực dụng, là khôn ngoan. Về bản chất, họ đang rời bỏ giá trị đạo đức nền tảng của tôn giáo mình.
Chọn nhân sự hợp tác
Mức tương thích giữa giá trị đạo đức của tổ chức và giá trị đạo đức của cá nhân, nhất là những cá nhân giữ vai trò lãnh đạo, trong tổ chức quyết định bản chất của tổ chức. Bảng dưới đây minh hoạ điểm này.
Mối tương thích giữa giá trị đạo đức của tổ chức và đạo đức của cá nhân trong tổ chức
Bảng trên thể hiện mức độ mạnh -- yếu về đạo đức của tổ chức (tung) và của cá nhân lãnh đạo tổ chức (hoành). Mối tương thích giữa đạo đức cá nhân và đạo đức nền tàng của tổ chức để dấu ấn sâu đậm lên nền văn hoá tổ chức.
· Tổ chức đặt nặng giá trị đạo đức lõi và người lãnh đạo tuân thủ những giá trị đạo đức ấy: môi trường và cá nhân hòa hợp nhau tạo nên một tổ chức thực sự lấy đạo đức làm nền tảng. Mỗi cá nhân tham gia tổ chức như cá gặp nước, có môi trường để củng cố thêm đạo đức cá nhân.
· Đạo đức của tổ chức mạnh nhưng thành phần lãnh đạo yếu kém về đạo đức sẽ nẩy sinh tình trạng đạo đức giả hay ngụy quân tử vì tổ chức chỉ tuyên bố về đạo đức chứ không thực hiện -- nói một đằng làm một nẻo.
· Tổ chức không đặt nặng giá trị đạo đức, và người lãnh đạo cũng thế thì đó là một tập đoàn mafia.
· Lãnh đạo có đạo đức nhưng tổ chức không lấy đạo đức làm nền tảng thì đó là tình trạng lãnh đạo "nhân từ" nhưng ba phải. Sớm muộn người lãnh đạo tử tế sẽ bị đào thải và tổ chức biến thái thành tập đoàn mafia.
Ví dụ về sự thể hiện văn hoá tổ chức trong đời thường
Một tổ chức khó trường tồn khi yếu kém về văn hoá tổ chức. Không lấy giá trị đạo đức nhân bản làm nền tảng thì tổ chức dễ biến thái thành băng đảng. Thiếu quy tắc ứng xử, tổ chức dễ rơi vào trạng thái hỗn tạp, hoạt động thiếu hiệu năng, và khó đạt hiệu quả.
Qua những bài sau, chúng ta sẽ thấy rằng:
· Căn bản của dân chủ là xã hội dân sự (XHDS).
· Căn bản của XHDS là tổ chức.
· Căn bản của tổ chức trong XHDS là đạo đức. Niềm tin, chứ không phải quyền lực hay lợi nhuận, là yếu tố gắn bó thành viên của tổ chức trong XHDS và giữa mọi thành viên xã hội với nhau. Và chỉ có đạo đức mới tạo được niềm tin.
Tóm lại, đạo đức nhân bản là yếu tố cốt lõi của thể chế dân chủ, của xã hội mở, của thế giới phẳng.
Bài đọc thêm:
Các sai phạm sơ đẳng của một luận án tiến sĩ luật về quyền và nghĩa vụ:
[Khoá đào tạo 12 tháng] Cấp 2, Bài 1 – Dẫn Nhập: Tổ Chức và Lãnh Đạo:
[Khoá đào tạo 12 tháng] Cấp 2, Bài 2 – Tại Sao Cần Tổ Chức?:
Sách mỏng Cấp 1 - Tìm Giải Pháp:
https://dvov.org/wp-content/uploads/2022/01/Dao-tao-Lanh-Dao-Tim-Giai-Phap-Jan-2022.pdf
Phiet Pham thephiet_2002@yahoo.com
To:Đinh Đà Nguyễn,Hiến Huỳnh,Hậu Hoàng,Manh Cong Nguyen,Luc Dac Truongand 24 more...
Sat, Feb 19 at 12:21 PM
TRỊNH CÔNG SƠN: 1 THỨ QUÁI THAI SINH RA ĐỂ HẠI NGƯỜI
---------- Forwarded message ---------
Bằng Phong – Đặng Văn Âu
Nhiều năm nay, có
khá đông người viết về Trịnh Công Sơn. Tôi cũng có một số ít kỷ niệm với Trịnh
Công Sơn, nhưng không viết ra vì ngại bị độc giả hiểu nhầm mình muốn kiếm chút
hơi hướm tên tuổi nơi một thiên tài nổi tiếng. Mới đây họa sĩ Trịnh Cung –
Nguyễn văn Liễu – viết một bài có nhan đề “Trịnh Công Sơn và tham vọng chính trị” đăng trên trang mạng Da Mầu, rồi sau
đó có một số người viết “phản bác” về nội dung bài viết vừa nêu và chê bai nhân
cách của tác giả Trịnh Cung, tôi bèn mạo muội tham gia để bày tỏ đôi chút cảm
nghĩ cá nhân vể một thiên tài từng xem tôi là bạn.
Cuộc chiến tranh giữa Tự Do và Cộng Sản bằng súng đạn đã chấm dứt hơn 30 năm,
nhưng vết thương vẫn còn rướm máu, mặc dầu bản thân đã có ý muốn chôn vùi quá
khứ đau buồn để hướng tới tương lai. Những gì tôi sắp sửa trình bày dưới đây
không hề có ý định làm tấy lên vết thương cũ. Vì dù sao, Trịnh Công Sơn đã trở
về với Cát Bụi.
Sau khi tình hình chiến sự Tết Mậu Thân 1968 Đợt I đã lắng dịu, Đại tá Lưu Kim
Cương phái phi công Nguyễn Qúi Chấn bay ra Huế đón Trịnh Công Sơn vào Sài Gòn.
Tôi gặp lại Sơn tại Câu lạc bộ Mây Bốn Phương trong căn cứ Tân Sơn Nhất sau hơn
5 năm xa cách. Hồi tôi gặp Sơn lần đầu tại trường Sư phạm Quy Nhơn, Sơn chưa
nổi tiếng. Thật đáng mừng cho Sơn đã may mắn thoát khỏi sự lùng kiếm của Nguyễn
Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nếu lúc bấy giờ Sơn bị sa vào tay của hai nhà
cách mạng Xuân, Tường có thành tích “phủ khăn sô lên đầu dân Huế” và bị dẫn lên núi theo chân Lê văn
Hảo hoặc bỏ xác nơi Bãi Dâu, thì chắc chắn sự nghiệp sáng tác nhạc của Sơn sẽ
không có “bề dày” như vào thời điểm 1975. Phải chăng Trịnh Công Sơn thoát khỏi
bàn tay Việt Cộng là nhờ được hưởng phúc đức từ bà mẹ nổi tiếng thờ Phật kính
Tăng mà người dân Huế nào cũng biết?
Từ sau ngày gặp lại Sơn, tôi thường lui tới chơi với Sơn tại
ngôi nhà nằm trên đường Công Lý, đối diện Chùa Vĩnh Nghiêm. Sơn là người hiền
lành, nói năng nhỏ nhẹ. Mặc dầu là người có tài và có tiếng tăm, nhưng Sơn
khiêm tốn, chưa bao giờ tôi nghe Sơn bình phẩm hay chê bai nhạc sĩ khác. Tôi
từng lái máy bay chở Sơn ra Phú Quốc uống rượu với bạn Nguyễn văn Mãng Thiếu tá
Quân Cảnh, Phạm Thọ Trung tá Hải Quân; lên Đà Lạt thăm chị Sâm vợ anh Tốn; ra
Huế nhậu với bạn hữu của anh chị Hồ Đăng Lễ. Qua Sơn, tôi giáp mặt với các nghệ sĩ khác như
Trịnh Cung, Đinh Cường, Bùi Giáng, nhà báo Phùng thị Hạnh, Trùng Dương, kiến
trúc sư Nguyễn Hữu Đống, điêu khắc gia Lê Thành Nhơn, Bửu Tôn … Ngoài ra, còn có Bửu Ý từ Huế vào tá túc
ở nhà Sơn để lánh nạn … đi lính!
Bạn bè nào cũng qúy mến Sơn, ngay cả những người lính đang
ngày đêm hy sinh mạng sống của mình để cho bọn ngụy hòa như: ni sư Huỳnh Liên, thầy chùa Nhất Hạnh, giáo
gian Nguyễn Ngọc Lan hoặc bà Ngô Bá Thành được quyền biểu tình, lên tiếng đòi
chấm dứt chiến tranh.
Tôi kể cho Sơn nghe câu chuyện của ông anh tôi – Đặng văn Châu,
Giám đốc Đoàn hoa tiêu (pilotage) sông Sài Gòn kiêm Giám đốc trường Hàng Hải
thuộc Trung tâm Kỹ thuật Phú Thọ – là người rất ái mộ Sơn, nhân chuyến đi công
du Pháp quốc tình cờ gặp cô cháu gái từ Hà Nội sang tu nghiệp tại Âm Nhạc Viện
Paris. Hai chú cháu
mừng rỡ khôn xiết. Anh Châu tôi bèn lấy ra hai cuộn băng cassette nhạc của Sơn
để tặng. Cô
cháu gái liền ném ngay hai cuộn băng vào thùng rác và nói: “Thưa chú, cháu rất yêu qúy chú nhưng rất ghét
nhạc Trịnh Công Sơn. Ở Hà Nội chúng cháu không thèm nghe loại nhạc ủy mị than
thân trách phận ấy!”. Anh Châu quá bẽ bàng trước phản ứng bất ngờ của cô
cháu. Nghe xong, nét mặt Sơn lộ vẻ thất vọng. Tôi nói để như an ủi: “Sơn ạ! Những ca khúc gọi là ‘phản chiến’
của Sơn không hề làm lay chuyển hay nhụt chí những người lính như bọn moa, vì
bọn moa ý thức tại sao phải cầm súng chống lại chủ nghĩa chuyên chính vô sản. Bọn moa có thể vừa nghêu ngao những câu ca
thuộc loại “anh trở về trên đôi nạng gỗ hoặc trong cỗ quan tài cài hoa” mà vẫn thản nhiên lao mình vào lửa
đạn vì tự biết mình đang trừ gian diệt bạo, chứ không phải vì lòng hận thù.
Chính vì thế mà có nhiều anh em quân nhân đánh giặc rất chì vẫn lui tới chơi
với Sơn mà không hề bị cơ quan an ninh của chế độ làm khó dễ. Hà Nội
không bao giờ chấp nhận Sơn gọi cuộc chiến này là Nội Chiến, vì họ rất tự hào
là đội tiền phong đang thi hành nghĩa vụ quốc tế để hoàn thành cuộc cách mạng
vô sản toàn thế giới. Chỉ có cán binh cộng sản mới bị Hà Nội cấm nghe nhạc của Sơn”.
Một hôm, ngồi nhậu rượu với Sơn, không hiểu nguyên do nào đưa đẩy
câu chuyện liên quan đến Phong trào Nhân dân Cứu quốc do bác sĩ Lê Khắc Quyến
lãnh đạo, tôi bực bội nói: “Thú thực với Sơn, moa rất khinh miệt bọn ‘trí thức rởm’ Hoàng Phủ Ngọc Tường, Ngô Kha, Nguyễn Đắc
Xuân. Ở
Phương Tây, bọn trí thức khuynh tả thiên cộng vì chúng chưa từng nếm mùi cộng
sản. Còn ở Việt Nam, tự nhận
mình là trí thức mà không hiểu nguyên nhân vì sao hàng triệu người Miền Bắc
phải lìa bỏ tài sản, mồ mả tổ tiên để vào Miền Nam hưởng một chút không khí tự
do, là ngu si, đần độn. Những nhà ái quốc, văn nghệ sĩ danh tiếng đi theo Việt Minh
vì chống Thực dân Pháp, nhưng sau chiến thắng Điện Biên phủ, gông cùm cộng sản xuất
hiện với chủ trương đào tận gốc trốc tận rễ thành phần thuộc trí phú địa hào
thì dẫu những ai từng lập chiến công với Đảng cũng hết đường cựa quậy. Bộ bọn
tranh đấu không hề biết chiến dịch Phóng tay phát động quần chúng, cải cách
ruộng đất ở Miền Bắc hết sức tàn bạo dã man hay sao? Một Trần Dần làm bài thơ
Nhất Định Thắng có câu ‘chỉ thấy mưa sa trên nền Cờ Đỏ’ và yêu cô gái tiểu tư
sản ở lại Miền Bắc là tan nát cả cuộc đời, đến nỗi phải cắt gân máu tay tự vẫn.
Một Phùng Quán chỉ làm hai bài thơ Lời Mẹ Dặn và Chống Tham Ô Lãng Phí là bị
bầm dập. Một
Văn Cao phải ngưng sáng tác âm nhạc mà chỉ còn vẽ vời lăng nhăng để tránh bị
quy cho cái tội mất lập trường giai cấp. Một Nguyễn Hữu Đang có công dựng lễ đài ở
Quảng trường Ba Đình để Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập cũng không thoát
khỏi tù tội. Phải chăng bọn trí thức chủ trương tờ báo Đứng Dậy đòi hỏi công
bằng là để cho nhân dân Miền Nam này cũng phải chịu chung số phận tôi đòi như
nhân dân Miền Bắc lầm than, khốn đốn thì mới hả dạ?”
“ … Bọn trí thức phương Tây có xu hướng tả khuynh là một kiểu làm dáng thời
thượng không nguy hại cho nền an ninh của nước họ, vì những định chế dân chủ
của các nước đó đã vững vàng. Còn nước ta đang đối diện một cuộc chiến một mất
một còn chống lại kẻ xâm lăng, mà bọn trí thức bắt chước làm dáng tả khuynh là
nhắm tố cáo với thế giới rằng công cuộc tự vệ của Miền Nam là phi chính nghĩa
nghĩa và nhằm tiếp tay tuyên dương kẻ địch có chính nghĩa giải phóng dân
tộc. Hoa Kỳ giúp Việt Nam ngăn
chặn làn sóng đỏ, trí thức là “cái đầu” của Đất Nước, mà thiên về phía Cộng Sản
thì nhân dân Hoa Kỳ không còn có lý do để giúp chúng ta. Vì vậy, phong trào phản chiến ở Hoa Kỳ mới
có cơ phát triển dữ dội. Sơn có ý thức điều đó hay không? Sơn có biết Miền Nam sẽ trở thành
trại lính hoặc nhà tù như Miền Bắc không, nếu cộng sản cai trị toàn bộ Đất
Nước?
Trịnh Công Sơn nghe tôi đặt ra những câu hỏi dồn dập, vẫn
thản nhiên hút thuốc lá và chậm rãi nâng ly nhắp từng ngụm rượu đắc tiền của
bọn “đế quốc xâm lược”. Bửu Ý
liếc nhìn tôi, rồi liếc nhìn Sơn, miệng tủm tỉm cười. Lúc bấy giờ tôi không hiểu ý nghĩa
cái cười tủm tỉm của Bửu Ý. Và cho đến nay, khi viết những dòng chữ này, tôi
cũng chưa hiểu vì sao Bửu Ý tủm tỉm cười. Thật bí hiểm! Tôi đoán có lẽ Bửu Ý cười tủm vì cho rằng tôi là
một anh võ biền, chẳng có kiến thức gì lại cố gắng thuyết phục Trịnh Công Sơn
đừng mơ tưởng cộng sản?
Không, tôi biết cả hai người, Trịnh Công Sơn và Bửu Ý, chẳng
thể nào trở thành cộng sản được, như chuẩn mực Hồ Chí Minh xác quyết: “Phải là con người xã hội mới yêu chủ nghĩa xã
hội”. Mà Sơn và Ý
không phải là mẫu người xã hội! Sơn và Bửu Ý là người đọc nhiều sách vở,
nhưng không nhìn thẳng vào thực tế đang diễn ra trước mắt, lại sống trong tháp
ngà, hưởng thụ rượu nồng, dê béo.
Trịnh Công Sơn mô tả cuộc sống hàng ngày của mình là “Đêm Không Ngủ, Ngày Bất Tỉnh” mà bất cứ ai đã từng gần Sơn đều nghe Sơn
nói câu đó. Nghĩa là uống rượu, nhậu nhẹt từ khi đêm chưa xuống cho đến ba bốn
giờ sáng; ban ngày thì ngủ vùi bất tỉnh nhân sự. Sơn là một người có biệt tài
viết nhạc với những ca từ “phù thủy” làm mê hoặc những tâm hồn mơ mộng và Sơn
cũng là người cực kỳ thông minh vì biết khai thác đề tài “chiến tranh – thân
phận giống da vàng” phù hợp xu hướng thời đại để làm cho mình nổi
tiếng. Sơn biết lợi dụng sự “thông thoáng” của chế độ Miền Nam và
biết bám vào những người có quyền như Lưu Kim Cương, Hoàng Đức Nhã để trốn
tránh nghĩa vụ quân dịch; đồng thời nghiêng về nhóm “tranh đấu đểu” loại Nguyễn
Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường”, nghĩa là bắt cá hai tay, dù ai thắng thì mình
cũng hưởng lợi. Nói tóm lại, Sơn là mẫu người có tài, ham thụ hưởng, không hề
biết thương xót kẻ khốn cùng và không có lòng lân tuất đối với kẻ sa cơ. Xin
chứng minh:
– Nữ danh ca phản chiến
trứ danh của Hoa Kỳ là Joan Baez sau khi chứng kiến những thuyền nhân Việt Nam
chết chìm ngoài biển Đông, bà đã tỉnh ngộ, bèn tập hợp được một nhóm người nổi
tiếng (celebrities) cùng ký vào bản lên án chế độ độc tài chuyên chính cộng
sản. Đó là hành động xứng đáng của người trí thức khi biết mình sai lầm thì phản
tỉnh và chống lại sự tàn bạo dã man. Chỉ có riêng Trịnh Công Sơn không một chút
mảy may động tâm thương xót người chết đuối ngoài biển cả, nên đã viết thư cho
bà Joan Baez để bào chữa cho chế độ bất nhân bằng câu: “Có thể nào chị và những người bạn Mỹ cùng ký
tên trong một lá thư ngày ấy không hiểu rằng sau một cuộc cách mạng đất nước
nào cũng phải chịu đựng những khó khăn, bề bộn và bối rối nhất
định?..” Hàng trăm ngàn thuyền nhân chết đuối ngoài
biển đã thức tỉnh lương tâm nhân loại. Riêng Trịnh Công Sơn – người nhạc sĩ được chế độ
Ngụy đùm bọc – lại đi bênh vực bạo quyền mà dám gọi đấy là cuộc cách mạng! Chỉ
có thiên tài với tấm lòng lạnh giá như băng mới mô tả đời sống nhân dân cả nước
phải nhai bo bo, dáo dác đi tìm đường vượt biên bằng mấy câu ca mô tả cảnh
thanh bình: “Em ra đi nơi này vẫn thế, lá vẫn xanh trên con đường nhỏ, vườn xưa
vẫn có tiếng Mẹ ru, có tiếng em thơ, có chút nắng trong tiếng gà trưa …” .
Trong khi những bằng hữu từng cưu mang mình, từng rót không biết bao nhiêu hồ
rượu thượng hảo hạng cho mình như Phạm Thọ, như Lê Kim Lợi, như Hồ Đăng Lễ đang
rũ tù trong trại khổ sai … thì Trịnh Công Sơn hân hoan “Mỗi ngày tôi chọn một
niềm vui” để tới lui khề khà với những người bạn “cách mạng” có vây có cánh!
Nhờ đâu Sơn đã có nhiều niềm vui đến thế? Từ ông Võ văn Kiệt chăng?
– Trịnh công Sơn viết báo cộng sản nhục mạ những anh em chiến sĩ Việt Nam Cộng
Hòa, những người từng che chở cho Sơn, khiến cho ông anh tôi – Đặng văn Châu –
không là quân nhân cũng phải nổi sùng. Năm 1994 về VN tình cờ gặp Trịnh Xuân
Tịnh, em Sơn, ở sân bay Tân Sơn Nhất, anh tôi đã nhắn: “Anh Tịnh về nói với Sơn rằng Sơn là một con Số
Không, là kẻ vong ân bội nghĩa”.
– Anh XYZ (nhân vật yêu cầu tôi dấu tên), một người anh em ăn ở hết lòng với
Sơn và bạn bè, đi tù khổ sai về bị tai nạn gãy chân, phải vào nằm bệnh viện.
Sơn làm ngơ như không hề hay biết. Mẹ Sơn hỏi con trai: “Tại sao con không vào nhà thương thăm anh
XYZ một chút cho có tình?”. Sơn đáp: “Đi ra Givral uống rượu còn thú hơn là đi thăm
anh XYZ”. Chính
bà mẹ Sơn là người thuật lại cho anh XYZ nghe câu nói phũ phàng của Sơn. Anh
XYZ là người đàn anh của nhóm bạn văn nghệ ở Huế, rất được bằng hữu kính trọng
và yêu thương, hiện sinh sống tại Hoa Kỳ.
Theo quan điểm của tôi, một người nghệ sĩ được đánh giá là chân
chính thì không bám vào kẻ quyền thế để mưu lợi riêng, thủy chung với bạn bè,
biết xót xa với nỗi bất hạnh của kẻ yếu để không bênh vực cho kẻ gieo TỘI
ÁC. Lời phản bác của Sơn
đối với bức thư của ca sĩ Joan Baez lên án chế độ vô nhân đạo là sự đồng lõa, a
tòng với TỘI ÁC, mà một con người bình thường có nhất điểm lương tâm không bao
giờ làm. Phải chăng
nhờ bức thư phản bác ca sĩ Joan Baez của Sơn mà Võ văn Kiệt cứu Sơn thoát khỏi
bàn tay Trần Hoàn và phe nhóm Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường ở Huế?
Nhờ sống với “Ngụy Quyền” Miền Nam, Trịnh Công Sơn nổi tiếng cả
thế giới và được hàng triệu thính giả ái mộ. Nếu Sơn sống với “Chuyên Chính Vô
Sản” Miền Bắc thì Sơn –
một thiên tài – có rất nhiều khả năng trở thành Tố Hữu – nhà thơ thổi ống đu đủ
– thăng quan tiến chức nhờ xu phụ quyền lực. Nhưng Sơn sẽ khổ sở vô cùng, vì
Miền Bắc không có rượu thượng hảo hạng để uống mỗi ngày!
Tôi không chắc Trịnh Công Sơn có tham vọng chính trị như Trịnh
Cung viết. Nhưng năm 1974, có nhóm tranh đấu đòi hòa bình (bịp) mời Sơn tham
gia phong trào ca hát để vận động chấm dứt chiến tranh thì anh em bạn hữu
khuyên Sơn đừng nhận lời, Sơn đáp thẳng thừng: “Mình phải tham gia để nếu họ thắng lợi thì mình
có tiếng nói”. (tên
sơn khốnnạn) Lời bày tỏ của Sơn biểu hiện bản chất của con người biết tính toán
để mưu cầu lợi ích bản thân. Qua bức thư Sơn viết cho Ngô Kha vào năm 1974 có
đoạn như sau: “Hôm nay những thành thị miền Nam đang vươn vai đứng dậy. Trời
đất được cơ hội thoát ra không khí ô nhiễm để thở bằng sinh lực mới cùng tập
thể nhân dân yêu nước, yêu hòa bình và tự do. Phải chăng hồi chuông báo tử đã
được gióng lên để những gì cần phải tàn tạ hãy tàn tạ nhanh chóng.”. Đó là luận điệu dồi trá, bịp bợm của
người nghệ sĩ có tên tuổi nhưng thiếu nhân cách, bởi vì trong thực tế nơi nào
bị cộng sản tấn công thì nhân dân nơi đó bồng bế nhau chạy về phía Việt Nam
Cộng Hòa, chứ không chạy qua vùng “giải phóng”. Người nào đọc thư Sơn viết cho
Ngô Kha mà bảo rằng Sơn không hề có chủ tâm đứng về phía cộng sản là người đó mắc
chứng “phương trệ tinh thần”
(down syndrome).
Ba mươi Tháng Tư năm 1975, nằm ở đảo Guam tôi nghe đài BBC
loan tin Trịnh Công Sơn ôm đàn lên đài phát thanh Sàigòn ca bài “Nối Vòng Tay Lớn” thì tôi dự đoán cuộc đời của Sơn sắp
tiêu ma. Bởi vì cái bản chất đố kỵ của người cộng sản không bao giờ chấp nhận
người ngoài đảng được phép nổi đình nổi đám được quần chúng hoan hô! Quả nhiên chẳng bao lâu sau Sơn bị cộng sản đe
dọa tính mạng, nên Sơn phải chạy về Huế để mong được bạn bè che chở. Không ngờ
những người bạn của Sơn như Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân đã quay
lưng làm ngơ để cho Sơn bị Trần Hoàn đày đi lao động thực tế! Tình nghĩa bạn bè của cộng sản là như thế
đấy!
Trịnh Công Sơn, một người nghệ sĩ tài hoa, được bạn hữu Miền Nam
qúy mến, bảo bọc lại bí mật rấp tâm thông đồng với bọn sát nhân nhằm giật sập
chế độ Việt Nam Cộng Hòa, để rồi bị khốn đốn vì bọn sát nhân. Con người một dạ
hai lòng, dù có tài đến mấy đi nữa, thì vẫn đáng khinh.
Bài viết của Trịnh Cung về Trịnh Công Sơn đã khiến cho một số người
lên tiếng bênh vực “thiên tài”. Chúng ta không ngạc nhiên chút nào, bởi vì ngay
như tội ác của Hitler, Staline, Mạo Trạch Đông vẫn có kẻ bênh vực và tôn thờ.
Nhưng những ý kiến phản bác bài viết của Trịnh Cung đều có luận điệu mạt sát và
bôi nhọ Trịnh Cung, mà không hề thấy có lời lẽ nào lên án hành vị “một dạ hai
lòng ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản” của Trịnh Công Sơn khiến cho chúng ta
thấy được tác giả của những ý kiến phản bác đều thuộc phe … xã hội chủ nghĩa,
chứ không phải sự lên tiếng là vì SỰ THẬT. Sự Thật đó là Trịnh Công Sơn có ngả
về phía cộng sản.
Trong số những người lên tiếng bênh vực Trịnh Công Sơn trên Thanh
Niên Online có hai Việt Cộng khá tên tuổi. Đó là hai “tội phạm chiến tranh” Hoàng Phủ Ngọc
Tường và Nguyễn Đắc Xuân từng chôn sống hàng ngàn người dân Huế vô tội vào năm
Mậu Thân 1968. Hai tên tội phạm đó đã ra cái điều trí thức, lấy danh nghĩa
chống Mỹ cứu nước để đẩy cả nước xuống hầm tai họa. Từ tháng Tư năm 1975 cho
đến nay chưa ai nghe thấy hai kẻ đó có một lời nói hay hành động sám hối.
Ngày xưa sống dưới chế độ Việt Nam Cộng Hòa, hai ông Việt Cộng này
hung hăng chống độc tài quân phiệt tay sai đế quốc ngoại bang. Ngày nay sống
với Xã hội Chủ Nghĩa chủ trương đàn áp nhân dân biểu tình tỏ bày lòng yêu nước
chống lại Trung Cộng cướp đất, cướp biển; dân oan khiếu kiện nằm la liệt dải
gió dầm sương; các nhà tôn giáo bị đàn áp, các nhà dân chủ bị bịt miệng, bị cầm
tù thì hai ông Việt Cộng này ngậm miệng giống như câm, như điếc. Họa sĩ Trịnh
Cung tung ra một bài viết tiết lộ một chút xíu bí mật về Trịnh Công Sơn thì hai
ông Việt Cộng Tường, Xuân hăm hở nhào ra bảo vệ uy tín thiên tài có quá trình
đi đêm với cộng sản! Tình trạng đạo lý suy đồi, quan chức ăn cắp từ trên xuống
dưới, nhân quyền bị xếp hạng chót trên thế giới là những thành quả to lớn của
Cộng Sản Việt Nam mà hai ông Tường, Xuân đã dày công đóng góp. Cho nên, ngày
trước tôi nói với Trịnh Công Sơn rằng tôi rất khinh bỉ bọn trí thức tranh đấu
là một lũ bịp bợm, lưu manh quả không sai. Khi chuyên chở tù binh cộng sản từ
chiến trường, tôi biếu họ điếu thuốc lá, cái kẹo vì tôi thương và tôi kính
trọng người lính khác chiến tuyến bị sa cơ. Nhưng tôi khinh bỉ những kẻ được ăn
sung mặc sướng ở phần đất tự do lại ngấm ngầm tư thông với giặc.
Thật đáng tiếc cho Trịnh Công Sơn, một thiên tài nhưng đốn mạt.
Sơn không xứng đáng là một người nghệ sĩ được đa số khán thính giả ngưỡng mộ,
vì Sơn cũng chẳng khác với hai ông Việt Cộng Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc
Xuân bao nhiêu.
Mới đây, đọc “Hồi Ký Của Một Thằng Hèn” của nhạc sĩ Tô Hải, tôi không hề coi
khinh tác giả, trái lại rất kính trọng bởi vì dám nhận mình hèn. Tác giả phải
sống dưới chế độ độc tài toàn trị có kỹ thuật hủy hoại người thẳng thắn, người
cương trực một cách dã man khủng khiếp, khiến cho ai nấy đều trở nên hèn. Đọc
hồi ký của nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh kể lại những “cái hèn” của
những văn nghệ sĩ Miền Bắc, tôi vô cùng xót xa cho họ và càng thù ghét chính
sách cai trị phi nhân của cộng sản. Lặp lại, nhạc sĩ Tô Hải dám nói lên
cái hèn của mình, tôi xin ca ngợi ông là người có khí phách.
Ở Miên Nam có chủ trương đề cao nhân tài, dù sản phẩm nhân tài làm
ra nhằm làm suy giảm tinh thần chiến đấu của quân sĩ, vẫn được tự do phổ biến,
mà nhân tài vẫn tư thông với địch mới là đáng khinh. Hai ông Việt Cộng Hoàng
Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân dùng đạo lý tình bằng hữu để miệt thị họa sĩ
Trịnh Cung lừa thầy phản bạn là một hành vi đạo đức giả. Hai ông Việt Cộng từng
phản lại khát vọng tự do của nhân dân Miền Nam để dẫn “Bộ Đội Cụ Hồ” về chôn sống người Huế vô tội, thì hai ông
không có tư cách gì để nói đến tình nghĩa bạn bè, tình nghĩa con người.
Hơn ba mươi năm qua, Đất Nước đắm chìm trong nghèo đói, áp bức, bất công, hai
ông Việt Cộng Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân không tỏ bày một chút ân
hận, lại còn lên mặt đạo đức giả mới là kẻ hèn, đáng khinh bỉ.
Đọc bài “Tình bạn, hồi sinh cơn hôn mê” của họa sĩ Đinh Cường viết từ
Virginia từ ngày 16 tháng 4 năm 2001, tôi không khỏi đem lòng hoài nghi cung
cách ứng xử với nhau giữa các ông nghệ sĩ tên tuổi. Nhờ sự tiết lộ của Trịnh
Cung, tôi mới hiểu vì sao Đinh Cường viết những lời ưu ái với ông Việt Cộng
Hoàng Phủ Ngọc Tường, tác giả bài “Ai đã đặt tên cho dòng sông” đã không ngần ngại ca ngợi nhà thơ
Tố Hữu bằng câu văn như sau: “nó đột khởi thành sức mạnh phục sinh của tâm hồn, trong thơ Tố Hữu”. Nhắc lại: Tố Hữu là nhà thơ dùng quyền lực của Đảng làm
khốn đốn, điêu đứng nhiều anh em nghệ sĩ Miền Bắc.
Còn tên Việt Cộng Nguyễn Đắc Xuân bây giờ là nhà nghiên cứu! Chắc
chắn nhà nghiên cứu này còn bám lấy chủ nghĩa Marxist – Léninist thì sẽ ngụy
tạo ra những bài nghiên cứu theo đường lối “duy vật sử quan” cho phù hợp lập trường của Đảng để được
Đảng cho đi Mỹ, đi Tây khua môi, múa mép.
Các cụ nhà ta thường nói: “Phủ bênh phủ, huyện bênh huyện”. Hai ông
Việt Cộng Hoàng Phủ Ngọc Tường và Nguyễn Đắc Xuân càng nỗ lực bênh vực Trịnh
Công Sơn và miệt thị Trịnh Cung bao nhiêu, thì tội trạng Trịnh Công Sơn tư
thông với kẻ thù càng rõ nét bấy nhiêu.
“Thời Của Những Kẻ Giết Người” biết đến bao giờ mới được lương tri soi sáng để
can đảm nói một lời sám hối với những vành khăn tang trắng xóa đất Thần kinh
thì chúng ta mới hy vọng Đất Nước có ngày hồi sinh.
(Bằng Phong Đặng Văn
Âu)
Phiet Pham thephiet_2002@yahoo.com
Fri, Feb 18 at 11:03 PM
CẦM QUYỀN DU ĐÃNG HAY DU ĐÃNG CẦM QUYỀN?
Tác giả: LÃO MÓC
Ngày đăng: 2022-02-16
Chuyện Việt Cộng cai trị dân Việt Nam như một băng đảng ma(phi-a) ai ai cũng biết. Chuyện bọn cầm quyền VC coi người dân, ngay cả những người được gọi là trí thức còn thua con chó, ai ai cũng biết. Chuyện người dân bị bắt vào đồn công an bị chúng nó cắt cổ rồi bảo là tự tử - như trường hợp của ông Nguyễn Hữu Tân mới đây ở Vĩnh Long là chuyện... thường ngày ở huyện!
Cách đây 5 năm, đồng bào xuống đường biểu tình để biểu lộ lòng yêu nước phản đối Trung Cộng chèn ép Việt Nam trong các vụ cắt cáp tàu Bình Minh 2, tàu Viking 2 cũng như các vụ đã bắt giữ đòi tiền chuộc mạng các ngư phủ Việt Nam trước sự làm ngơ của Đảng và Nhà Nước, lại bị chính Đảng và Nhà Nước ngăn cấm, bắt bớ. Phải nói đây là chuyện chỉ có ở Việt Nam.
Chưa hết! Khi cuộc biểu tình xảy ra đến lần thứ 5, thì có một anh giáo sư Hán(g) rộng, nhưng không thâm Nho tên Nguyễn Thế Sự đã làm chuyện ruồi bu là trả lời phỏng vấn của báo Tàu bảo là “những cuộc biểu tình do bọn phản động nước ngoài là đảng Việt Tân ở Pháp (?) tổ chức”. Trên các trang mạng, rất nhiều độc giả đã góp ý “dạy dỗ” tên giáo sư Hán gian “cỏ đuôi chó” này tới bến khiến y phải lên tiếng đính chính, đính tà lia chia. Báo chí “lề phải” của Bộ Trưởng Thông Tin & Tuyên Truyền có cái lưỡi con bò là Lê Doãn Hợp bèn nhảy vào nhâu nhâu lên chỉ tay vào đảng phản động Việt Tân tổ chức biểu tình!
Đảng và Nhà Nước ta lại nhảy vào ăn có bằng cách cho “mụ vẹt mái” Nguyễn Phương Nga hô hoán: “Về câu hỏi liên quan đến những thông tin trên một số báo chí VN nói về âm mưu cũng như ý đồ của nhóm Việt Tân, tôi nghĩ, báo chí VN với tinh thần trách nhiệm của mình đã nêu lên một hiện tượng là VT đang có ý đồ lợi dụng tình cảm yêu nước của nhân dân VN để kích động nhân dân VN có những hành vi chống lại Nhà Nước. Trên thực tế, VT cũng luôn lợi dụng mọi tình huống, mọi vấn đề nảy sinh để phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc của nhân dân VN. Nhưng những âm mưu, ý đồ và hành độn của họ đều thất bại”. Đúng là: “Không cái dại nào bằng cái dại này Lạy ông, Nga ở bụi này đây!” Đúng là chuyện chỉ ở VN mới có.
Blogger Mẹ Nấm, tức nhà tranh đấu Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (lúc đó) đã có “Thư gửi chị Nga” rất là “hết ý” xin mời độc giả tìm đọc. Trong khi đó thì trên blog của anhbasam có những góp ý về đảng VT như sau:
“Bộ Ngoại Giao VN hết người tài rồi à? Tự dưng tuyên truyền cho VT. VT đắc lợi, có làm cái quái gì đâu mà được lắm người ủng hộ thế”.
“Cộng Sản đã từng đánh thắng 3 đế quốc, tại sao lại phải lo ngại và sợ hãi bọn VT. Thực sự không phải vậy, VT là một tổ chức nằm vùng ở hải ngoại do CSVN kiểm soát. VT và CSVN thường phối hợp rất nhịp nhàng, tạo ra các cơ hội cho CSVN chụp mũ phản động và bắt bớ những người yêu nước”.
Xin không đề cập đến chuyện đảng VT, đảng VC như thế nào. Bài viết này chỉ muốn nói đến những chuyện về bọn VC cầm quyền du đãng..
Phải nói “tài quảng cáo” của “ông giáo sư Hán(g) rộng nhưng không thâm Nho” Nguyễn Thế Sự và “con vẹt mái có bằng đại học Hoa Kỳ” Nguyễn Phương Nga phụ trách cho cái quảng cáo “đảng VT là đảng phản động” rất là ép-phê!
Đảng Việt Tân sướng nhé: trước được VC gán cho cái tên “đảng khủng bố”, nay lại có thêm tên mới là “đảng phản động”! Thế là: “Nhất đảng “kình” Lưỡng đảng!”. Từ nay đảng VT không chỉ là đảng phản động đối với đảng Việt Cộng mà lại còn là đảng phản động đối với Trung Cộng!
Các đảng phái của người Việt Quốc Gia hải ngoại có muốn “nổi nang” như “đảng khủng bố kiêm phản động” VT xin tiếp xúc với ông “Nguyễn giáo sư” và bà “Nguyễn phát ngôn”, đặc trách Đông Xưởng Quảng Cáo Việt-Trung Nhị Quốc Thập Lục Hoàng Tự! Mại dô! Mại dô!
*
Chuyện cũng chỉ ở VN mới có là chuyện công an khu vực tới nhà “làm việc” với vợ của người đi biểu tình.
Chuyện do người bị công an làm việc là bà Lê Thị Công Nhân, một luật sư đã từng tranh đấu và từng bị VC bỏ tù, kể lại.
Xin ghi lại một trích đoạn như sau:
“...Ông ta (Nguyễn Xuân Sơn, công an khu vực phuờng Phương Mai, Hà Nội) bảo: “ Sao cô lại nói tôi là mật vụ?” Tôi nói: " Không phải mật vụ thì là ai? Có đất nước nào, chế độ nào mà người dân đi biểu tình chính quyền lại theo dõi rình mò từng gương mặt để đe dọa bắt bớ đủ kiểu như xã hội đen để cấm người ta đi biểu tình như vậy không. Chỉ có lũ ma quỷ, bọn quái thai bán nước mới làm như vậy.”
*
Nói về cái gọi là NHÀ CẦM QUYỀN ĐẢNG - như cách nói của bà Lê Thị Công Nhân khi kể chuyện “Chồng tôi đi biểu tình” thì phải nói là chuyện chỉ ở VN mới có. Nhà cầm quyền này làm nhiều chuyện quỷ khốc, thần sầu lắm. Xin mời độc giả nghe những việc làm của nhà cầm quyền VN:
“Nhà
cầm quyền CSVN hiện chỉ cầm búa cầm liềm theo kiểu cầm chừng.
Chủ nghĩa bây giờ là cầm khoán, bẻ măng.
Chính sách là cầm cố đất nước.
Định hướng là cầm cái/cầm con.
Khẩu hiệu là cầm lọng.
Kẻ thù là sĩ phu cầm bút.
Đối nội là cầm tù phản biện.
Đối ngoại là cầm dao đằng lưỡi.
Tư tưởng là uốn gối cầm bô.
Kinh tế là khấu đầu cầm bị.
Văn hoá là nhắm mắt cầm loa.
Thông tin bịt mồm cầm kéo.
Tuyên huấn nhắc tuồng cầm canh.
Công thương khum lưng cầm khách.
Công an khóa xích cầm chân.
Tư pháp cầm đèn chạy hiệu.
Hành chánh xum xoe cầm dù.
Dân phòng lăm le cầm súng.
Tại chức nhi nhô cầm bằng.
Cấp ủy loay hoay cầm đũa.
Đảng viên tý toáy cầm nhầm.
Chất xám tất bật cầm máu.
Mặt Trận đắm đuối cầm chầu.
Phong bì thoải mái cầm cương.
Đầu tư tuột dốc cầm chắc.
Quốc Hội không dám cầm còi.
Tham nhũng ung dung cầm lái.
Đất nước lệt bệt cầm cờ.
Sứ mệnh lịch sử bây giờ cầm cự.
Lãnh đạo níu ghế cầm đô.
Nhân dân lũ lượt cầm đồ.
Công nhân hút gió cầm cữ.
Nông dân chạy gạo cầm hơi.
Ngư phủ cầm mạng chuộc tàu.
Tiểu thương cầm vợ, đợ con.
Trí thức ráng cầm nước mắt.
Trung ương vẫn ngỡ cầm đầu.
Trên dưới tranh quyền cầm trịch.
Cả giuộc lắm phen cầm cập.
Nhìn giặc đoạt ải/chiếm đất/cướp đảo mà chẳng dám cầm quân.
Thấy dân đòi đất/đòi nhà/đòi chỗ tu hành thì giả dạng côn đồ cầm gạch/cầm đá/cầm cây/cầm gậy...
Một nhà cầm quyền như Rứa đáng gọi là gì? Nghe chừng phảng phất đâu đây: cầm độc hay cầm thú?”
Xin mượn bài viết “Cầm quyền du đãng hay Du đãng cầm quyền?” của blogger Đinh Tấn Lực để chấm dứt bài viết này.
LÃO MÓC
No comments:
Post a Comment