Tuesday, April 30, 2019

20190428 Phước Long Trận Đánh Thăm Dò


20190428 Phước Long Trận Đánh Thăm Dò

Buồn Mà Chi Em

https://www.youtube.com/watch?v=07F9xXug9Ss
Ký hiệu CSBV
*** F = đơn vị cấp sư đoàn
*** E = đơn vị cấp trung đoàn
*** D = đơn vị cấp tiểu đoàn
*** C = đơn vị cấp đại đội.
 Ước lượng quân số CSBV.
*** Battle of Buôn Mê Thuột 01.  
*** SD 3 Sao Vàng. SD 10, SD 316, SD 320A, SD 968th        = 25,000
*** 4 Trung đoàn 25th, 271st, 95A, 95B                                     = 6,000
*** 1 Trung đoàn 273rd tank,                                                      = 1,500
*** 2 Trung đoàn pháo binh 40th, 675th                                            = 3,000
*** 3 Trung đoàn phòng không 232nd, 234th, 593                     = 4,500
*** 2 Trung đoàn công binh 7th, 575                                          = 3,000       
*** 1 Trung đoàn 29th truyền tin                                                 = 1,500
Tổng cộng:                                                                                      44,500 không tính những lực lượng địa phương.

TÌNH HÌNH TỔNG QUÁT
Bảo Định Nguyễn Hữu Chế
Cựu Tiểu đoàn trưởng TĐ2/43, SĐ18BB.
A/- PHƯỚC LONG: TRẬN ĐÁNH THĂM DÒ

BattleofPhuocLong 01

Vào đầu tháng 1 năm 1975, sau gần một tuần lễ mở cuộc tấn công vào Phước Long, quân CSBV đã làm chủ tỉnh địa đầu miền núi của Vùng 3 Chiến thuật.
        Với chính sách “4 không” của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, VNCH quyết không để mất một tấc đất nào do tiền nhân để lại. Nhưng QLVNCH trên lý thuyết có khoảng 1 triệu quân nhân phục vụ dưới cờ, chỉ có vài trăm ngàn quân thực sự chiến đấu ngoài mặt trận. QLVNCH phải rải quân giữ đất, giữ dân. Hai Sư đoàn Tổng trừ bị bị cầm chân ở vùng giới tuyến phía Bắc. Các Sư đoàn Bộ binh lo giữ đất và giữ dân vùng trách nhiệm của mình, kể cả các Liên đoàn BĐQ cũng không rảnh tay. Khi Phước Long bị uy hiếp, QLVNCH đã không có lực lượng trừ bị hùng hậu để cứu viện. Đây là điều tối kỵ trong binh pháp. BTL/QĐIII chỉ đưa được 3 Đại đội Trinh sát của 3 Sư đoàn 5, 18, 25, và 2 Đại đội 81/ Biệt Kích Dù.
*** Mặt trận Phước BìnhA 01

“Ngày 30 tháng 12 năm 1974, Sư đoàn 3 và 7/CSBV đồng loạt tấn công quận lỵ Phước Bình. Đến chiều thì Bộ Chỉ huy Chi khu bị bắn sập. Lực lượng đang đóng tại đây phải lui về đóng chung quanh phi trường Sông Bé. Bốn chiến xa của CS bị bắn hạ tại cuối vòng đai phi trường…quân CS đã chiếm được núi Bà Rá, nơi đặt trạm viễn liên làm gián đoạn tạm thời các liên lạc với tỉnh lỵ. Sau đó các tiền sát viên CS đặt tại núi này đã điều chỉnh pháo 130ly làm tê liệt hầu hết các pháo đội của QLVNCH thuộc lực lượng phòng thủ.” (Nguyễn Đức Phương – Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập).
Song Be AirfieldGoo 02

***Khu vực phi trường Sông Bé hiện nay. Song Be Airfield 01

*** Khu vực phi trường Sông Bé 11/11/1969.
        Khi có dấu hiệu quân CSBV điều động lực lượng chuẩn bị đánh Phước Long, Tổng Thống hỏi Đại tá Tỉnh trưởng có cần thêm quân tăng viện, vị Tỉnh trưởng trả lời chưa cần (Một sĩ quan cấp Trung tá thuộc Phòng 3 Tiểu khu cho Đại úy Phạm Hữu Đa, Đại đội trưởng Trinh sát 18 biết như vậy). Đại đội 18 Trinh sát, cùng 2 Đại đội 5 và 25 được trực thăng vận vào Phước Long thay thế Tiểu đoàn BĐQ, 3 tháng trước khi tỉnh này bước vào trận chiến.
        ĐĐ18TS hoạt động khu vực quận Bố Đức mới. Một Trung đội của đơn vị này vào phòng thủ chung với ĐĐ/ĐPQ trong căn cứ. Một Tiểu đoàn quân CSBV di chuyển bằng xe molotova đến bao vây căn cứ. Đơn vị của Đa cùng ĐĐ/ĐPQ đã chiến đấu dũng cảm. Nhờ có pháo binh yểm trợ dồi dào và hữu hiệu, đơn vị giặc bị xóa sổ. Nhưng sau đó trong một cuộc điện đàm, Đại tá Tỉnh trưởng cho biết vì tình trạng khan hiếm đạn dược, pháo binh chỉ có thể bắn tối đa 5 trái một ngày. Cuộc điện đàm bị Cộng quân bắt được (do một nhân viên kiểm thính trên núi Bà Rá nói lại với Đa). Chúng biết quân ta khan hiếm đạn dược, liền điều động 3 Tiểu đoàn vào trận để trả thù, và dứt điểm tuyến phòng thủ bên ngoài của Phước Long. Quân số ít, pháo binh yểm trợ nhỏ giọt, không quân không can thiệp kịp thời, trước nguy cơ bị tiêu diệt, đơn vị trú phòng đành phải rút chạy.
ĐĐTS Bố Đức 01

        Sáng sớm ngày 3 tháng 1, quân CSBV tấn công vào thị xã Phước Long. Để cứu viện, Trung tướng Dư Quốc Đống, Tư lệnh Quân đoàn III cho trực thăng vận 2 Đại đội 81 Biệt kích Dù do Trung tá Thông chỉ huy. Đơn vị cứu viện đến. Nhưng quá ít, và qúa muộn màng!
        Ngày 6 tháng 1 năm 1975, lúc 3 giờ 30 chiều, quân CSBV với chiến xa yểm trợ, đã xuất hiện khắp nơi. Nhiều xe tăng giặc bị bắn cháy. Nhiều tên lính “cụ Hồ” bị giết chết. Nhưng thế giặc mạnh, quân giặc đông, vũ khí đạn dược dồi dào, quân trú phòng ở thế hạ phong, đành phải rút chạy.  Đến 11 giờ đêm thì không còn liên lạc được với Phước Long.
Phước Long đã thất thủ!
        Phước Long cách Sàigòn khoảng 110 cây số về hướng Đông – Bắc, bị cô lập từ nhiều tháng. Các cuộc tiếp tế cho thị xã đều phải thực hiện bằng đường hàng không. Trong lúc đó CSBV đã đưa vào đây 3 sư đoàn cùng nhiều đơn vị pháo. Đó là Sư đoàn 3, 7, 9 và bộ đội đặc công, phối hợp cùng lực lượng địa phương và du kích.
Về phương diện quân sự, việc thất thủ Phước Long không quan trọng, nhưng hậu quả tâm lý và chính trị thì thật to lớn.
Ngày 18 tháng 12 năm 1974 tại Hànội, một cuộc họp liên tịch Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, có đại diện các chiến trường Miền Nam tham gia, sau khi phân tích tình hình chính trị và quân sự trong và ngoài nước, tên Thủ tướng muôn năm của Bắc Việt Phạm Văn Đồng phát biểu: “ …Mỹ rút quân do qui định của hiệp định Paris…Ngày nay, nó đem quân can thiệp trở lại là một chuyện không thể có. Có chăng là dùng không, hải quân chi viện…”. Rồi hắn vừa cười to vừa nói: “Nói chơi cho vui nhưng cũng đúng sự thật là cho kẹo Mỹ cũng không vào”.
Khi được tin chiếm được Phước Long, Lê Duẩn, Bí thư Thứ nhất Cộng đảng Bắc Việt nói: “Lần đầu tiên ở Miền Nam, một tỉnh hoàn toàn được giải phóng. Tỉnh đó lại ở gần Sàigòn và mở rộng vùng căn cứ quan trọng của ta ở Miền Đông. Thực tế này nói rõ hơn hết khả năng của ta, sự phản ứng thế nào của ngụy và nhất là của Mỹ”. Ngày 8 tháng 1, trong một bài diễn văn, Lê Duẩn phát biểu: “Tình hình đã sáng tỏ. Chúng ta quyết tâm hoàn thành kế hoạch hai năm. Hai năm là ngắn và cũng là dài. Cuộc chiến đấu ở Miền Nam được thực lực mạnh ở Miền Bắc đẩy lên thành sức mạnh cả nước. Bây giờ quân Mỹ đã rút ra rồi, quân đội ta có sẵn trong Nam…Đây là nội dung của thời cơ, ta phải nắm vững quân sự, chính trị, ngoại giao”
Về phía VNCH, nguyên Phụ tá Bộ trưởng Quốc Phòng VNCH, ông Bữu Viên viết: “Cộng sản trong khi tiến hành việc thử thách ý chí của QLVNCH và đặc biệt để đo lường phản ứng của chính phủ Mỹ đã lựa chọn thật đúng một mục tiêu dễ dàng. Sự thất thủ Phước Long hết sức quan trọng. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh Việt Nam, một tỉnh đã hoàn toàn lọt vào tay cộng sản và đây là một bằng chứng hiển nhiên của sự vi phạm trắng trợn thỏa ước ngưng bắn của Cộng sản…”
Kết thúc hội nghị, Ngày 24 tháng 1 năm 1975, Phái đoàn Miền Nam do Trần Văn Trà làm trưởng đoàn lên đường trở về B2. Nhưng trước đó bọn họ phải đến chào từ giả “Thái Thượng Hoàng” Lê Đức Thọ để nhận chỉ thị cuối cùng: “Tôi đã đến cuộc họp thường trực Quân ủy Trung ương; đã truyền đạt quyết tâm của Bộ Chính trị là đánh Ban Mê Thuột. Chỉ chấp hành lệnh không thảo luận gì nữa cả”. Trước đó trong hội nghị, Thọ đã đưa ý kiến: “Phải đặt vấn đề dứt khoát là giải phóng Man Mê Thuột. Ta có gần 5 sư đoàn ở Tây Nguyên mà không đánh được Ban Mê Thuột là thế nào?”
Bộ Chính trị Cộng đảng Bắc Việt quyết định chọn Phước Long làm trận mở đầu cho kế hoạch tổng tấn công thôn tính Miền Nam, là chọn một mục tiêu dễ dàng, nhưng mang tính to lớn vì là một tỉnh, dù dân số ít hơn xã Phú Nhuận thuộc quận Tân Bình của Gia Định (vào thời điểm này, xã Phú Nhuận đã có lối 50 ngàn dân). Dù chỉ cách Thủ đô Sàigòn của VNCH khoảng 110 cây số, nhưng là một tỉnh miền núi, khó phòng thủ, khó ngăn chận những đường địch xâm nhập. Dân cư thưa thớt. Tỉnh địa đầu của Vùng 3 này giáp ranh với Vùng 2 của Cao Nguyên Trung phần. Các con đường bộ dẫn tới Phước Long, từ lâu đã bị các đơn vị cộng quân đóng chốt đắp mô. Việc ra vào Phước Long chỉ còn trông nhờ vào đường hàng không. Phước Long như một ốc đảo nằm giữa biển giặc và biển rừng mênh mông.
CSBV đã chọn mục tiêu dễ, để có thể nhanh chóng thanh toán, hầu đạt được tiếng vang quốc tế.
Đánh Phước Long, CSBV muốn trắc nghiệm phản ứng của Mỹ. Thật ra chúng đã có câu trả lời, như Phạm Văn Đồng nói: “…cho kẹo Mỹ cũng không vào”. Nhưng điều quan trọng hơn hết là đo lường khả năng của QLVNCH. Có dư luận cho rằng Tổng thống Thiệu để cho mất Phước Long là tháu cáy Mỹ. Theo ngôn từ CSBV thì “Thiệu làm mình làm mẩy” với Mỹ. Nhưng có lẽ ta phải đồng ý với lời giải thích của Tổng thống: “Phải cần tối thiểu hai trung đoàn cho cuộc hành quân nầy và các đơn vị nầy phải được không vận. Với lực lượng địch hiện diện trong vùng, chúng ta chắc chắn phải đối đầu với phản ứng mạnh của địch quân và thiệt hại do đó sẽ nặng nề. Một khi đã chiếm lại được tỉnh nầy, phải cần đến nhiều lực lượng để bảo vệ. Điều này không những làm mất đi di động tính của một số đơn vị mà đồng thời còn tạo ra khó khăn cho vấn đề tiếp liệu. Do đó tốt nhất nên tiết kiệm quân để tăng cường các nơi khác có giá trị hơn về chiến lược”.
B/- BAN MÊ THUỘT: TRẬN ĐÁNH MỞ MÀN
BMT A00


 BMT 01

Sau khi đánh chiếm Phước Long một cách dễ dàng, chúng đã có đáp số. Bộ Chính trị CSBV liền quyết định dứt khoát về kế hoạch thôn tính Miền Nam trong hai năm 1975-1976. Trần Văn Trà đề nghị đánh Ban Mê Thuột, với lý do: “tấn công Ban Mê Thuột chắc chắn phải là một ngạc nhiên cho ngụy và cũng là nơi chúng không phòng bị…Nếu hậu cần bị mất, địch quân ở tuyến trước sẽ rối loạn và mất tinh thần”.
Nhận định “tấn công BMT là một ngạc nhiên cho ngụy” của Trà cũng giống phán đoán của Thiếu tướng Tư lệnh Quân đoàn II Phạm văn Phú. Ông chỉ chú trọng phòng thủ Kontum và Pleiku. Ông không hề nghĩ rằng CSBV sẽ đánh BMT trước. Nhưng Đại tướng Cao Văn Viên và Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu không nghĩ như vậy. Hai vị chỉ huy cao cấp này không hề bất ngờ. Ông đã báo cho Tướng Phú biết việc Sư đoàn 320/CSBV đang tiến về phía Nam để tấn công Ban Mê Thuột, và chỉ thị Tướng Phú điều động Sư đoàn 23BB trở lại Ban Mê Thuột, đồng thời tăng cường 1 Chi đoàn chiến xa M.48.
Ngày 10 tháng 3 năm 1975, từ lúc 2 giờ sáng, CSBV sử dụng 3 Sư đoàn 316, F10, và 320 tấn công Ban Mê Thuột. Trong vài ngày, Ban Mê Thuột đã thất thủ.
Khi BMT bị đánh, BTL/QĐII của Thiếu tướng Phạm Văn Phú quyết định tái chiếm. Ngày 11.3.75, hai Tiểu đoàn 72 và 96/BĐQ thuộc Liên đoàn 21/BĐQ được trực thăng vận từ Kontum xuống Chi khu Buôn Hô. Nhưng do những sai lầm của Tướng Tư lệnh Sư đoàn 23BB, và do không quân đánh bom lạc vào TTHQ/BTL mặt trận, việc giải cứu gặp nhiều trở ngại. Những ngày kế tiếp, các cuộc hành quân cứu viện của Sư đoàn 23BB cũng không khá hơn. Cuộc chiến tiếp diễn đến ngày 15.3 thì Tổng thống Thiệu ra lệnh di tản. Kế hoạch hành quân tái chiếm BMT đã thất bại.
C/- QĐII: CUỘC TRIỆT THOÁI THẤT BẠI DẪN ĐẾN SỰ SUY SỤP
Mất Ban Mê Thuột, ngày 14 tháng 3, Tổng thống triệu tập một buổi họp tại Cam Ranh. Thành phần tham dự, ngoài Tổng thống, có Đại tướng Cao Văn Viên, Đại tướng Trần Thiện Khiêm, Trung tướng Đặng Văn Quang, và Thiếu tướng Phạm Văn Phú. Hội đồng tướng lãnh quyết định di tản toàn bộ chủ lực quân của Quân đoàn II về vùng Duyên Hải theo lộ trình Liên tỉnh lộ 7B. Được biết kế hoạch này chỉ liên quan đến quân chủ lực. Nhưng thật là sai lầm! Trong dân có quân. Làm sao có thể bảo toàn bí mật không để cho dân biết như một cuộc hành quân bình thường. Thế là sự hỗn loạn đã có ngay từ khi đoàn quân triệt thoái chưa bắt đầu.
Cuộc Di tản chiến thuật, Triệt thoái hay Lui binh của Quân đoàn II đã thi hành quá vội vàng, thiếu sự chuẩn bị. Các cấp chỉ huy trách nhiệm đã không nghiên cứu kỹ lưỡng địa hình và địa vật. Con đường 7B đã bỏ hoang phế từ lâu, bị xuống cấp. Nhiều cầu cống hư nát. Tướng Tư lệnh Quân đoàn đã điều khiển cuộc Lui binh từ Nha trang. BTTM/QLVNCH chỉ ngồi ở Saigòn giám sát. Mặc dầu đạt được yếu tố bất ngờ lúc đầu, nhưng di chuyển chậm do sông núi ngăn trở, do thân nhân và gia đình binh sĩ, cùng dân chúng lẫn lộn giữa đoàn quân. Dân chúng dễ bỏ chạy tán loạn mỗi khi gặp địch ra chận đường hoặc bắn quấy phá. Sự hỗn độn do dân chúng làm lây lan đến tinh thần chiến đấu của quân sĩ. Khi Tướng CSBV Văn Tiến Dũng phát hiện, đã cho Trung đoàn 95B và Sư đoàn 320 của Thiếu tướng Kim Tuấn truy kích, đánh chận. Sự tan rã của đoàn quân di tản là không tránh khỏi. Theo ước tính của Bộ TTM/QLVNCH, ít nhất Quân đoàn II bị thiết hại 75% khả năng tác chiến.
“Khoảng 60 ngàn quân chủ lực sau khi về đến Tuy Hòa, chỉ còn lại khoảng 20 ngàn. Năm Liên đoàn BĐQ với quân số khoảng 7 ngàn, chỉ còn lại 900 người. Lữ đoàn 2 Kỵ binh với hơn 100 thiết xa các loại, chỉ còn đúng 13 thiết vận xa M.113.
…Trong tổng số 400 ngàn dân vùng cao nguyên chạy lánh nạn CS chỉ có khoảng 100 ngàn người đến được Tuy Hòa”.
(Nguyễn Đức Phương – Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập”.
D/- QĐI: CUỘC TRIỆT THOÁI THẤT BẠI DẪN ĐẾN MẤT NƯỚC
“Quân khu I đã hoàn toàn rơi vào tay CS một cách dễ dàng chỉ trong khoảng 10 ngày (19 – 30.3.75). (Nguyễn Đức Phương – CTVNTT).
Cuộc triệt thoái thất bại của Quân đoàn II đã gây ảnh hưởng tai hại lên BTTM/QLVNCH và Tổng thống Thiệu. Các quyết định của vị Tư lệnh Tối cao Quân lực cho lệnh giữ Huế, bỏ Huế, rồi lại ra lệnh giữ Huế quá muộn màng, khiến vị Tư lệnh chiến trường không kịp thời thi hành, đã đưa đến sự suy sụp hoàn toàn các đơn vị thiện chiến và hùng mạnh, gồm các Lữ đoàn của Sư đoàn TQLC, các Sư đoàn Bộ binh 1, 2, 3 và các Liên đoàn BĐQ.
Phước Long chỉ là khúc nhạc dạo đầu, Ban Mê Thuột mới là trận đánh mở màn chính cho giai đoạn chót của cuộc chiến tranh Quốc – Cộng.
Nếu chỉ tính từ trận Ban Mê Thuột, từ lúc 2 giờ sáng ngày 10 tháng Ba, quân CSBV chỉ mất 50 ngày đêm đã tiến đến Sàigòn, cắm lá cờ máu, đúng ra là nửa máu, nửa bùn xanh dơ bẩn với ngôi sao vàng đã lên màu ten trên nóc Dinh Độc Lập vào lúc 11 giờ 30 phút trưa ngày 30 tháng Tư năm 1975.

Thursday, April 25, 2019

20190425 Chiến Sử Sư Đoàn 18 Bộ Binh


20190425 Chiến Sử Sư Đoàn 18 Bộ Binh


ĐỂ TRẢ LỜI MỘT CÂU HỎI


*** Chúng tôi dùng tài liệu Chiến Sử của Sư Đoàn 18 Bộ Binh cùng với không ảnh để cho những thế hệ hậu duệ Việt Nam Cộng Hoà thấy rõ những diển tiến của trận Xuân Lộc và sự chiến đấu ảnh dủng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà trước làn sóng xâm lược của cộng sản Tầu, Nga cùng lũ chồn hôi giặc hồ, nó trái ngược lại với những gì mà lũ chồn hôi giặc hồ đã tuyên truyền củng như những tay phản chiến Hoa Kỳ đổ tội cho Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà hèn nhát.

Tướng Lê Minh Đảo:
"Tôi còn muốn làm lính VNCH ở cả kiếp sau"


   01
Tuyến thép Xuân Lộc (Long Khánh)
12 ngày đêm ác chiến với Cộng Sản Bắc Việt
(8/4/1975 đến 20/4/1975)
(Cựu Đại Tá Hứa Yến Lến - Tham Mưu Trưởng/HQ/SĐ18BB)
(Bài viết lần thứ hai sau khi bổ túc và Thiếu Tướng “LÊ MINH ĐẢO” đã duyệt)
ĐỀ MỤC
Lời nói đầu
I. Tiến trình cưởng chiếm miền Nam của CSBV (xem sơ đồ 1)
  11. Mặt trận Quãng Trị (Vùng 1 Chiến Thuật/VNCH)
  12. Mặt trận Cao Nguyên (Vùng 2 Chiến Thuật/VNCH)
  13. Mặt trận biên giới Miên-Việt (Vùng 3 Chiến Thuật/VNCH)
II. Tuyến thép Xuân Lộc (Long Khánh)
  21. Địa danh Xuân Lộc
  22. Chuẩn bị chiến trường
  23. Tổ chức và tương quan lực lượng (xem sơ đồ 2)
  24. Diển tiến 12 ngày đêm ác chiến với CSBV (xem sơ đồ 3)
  25. Giải tỏa thắc mắc về trái Bomb xử dụng
  26. Những dử kiện liên quan đến lệnh rút khỏi Xuân Lộc
  27. Hành quân lui binh
  28. Tổn thất
III. Phần cuối
IV. Nhận xét
  41. Tổng quát
  42. Cá Nhân
V. Cảm tưởng của Thiếu Tướng Lê Minh Đảo/TL/SĐ18BB kiêm TL/Mặt Trận Xuân Lộc (Long Khánh) để thay cho lời kết của bài viết.
LỜI NÓI ĐẦU
Lịch sử Việt Nam đã bị ép buộc phải sang trang ngày 30 tháng 4 năm 1975; ngày mà Cộng sản Bắc Việt đã cưởng chiếm miền Nam, áp đặt chế độ độc tài Đảng trị lên toàn nước Việt Nam!
“Moshe Dayan” Ngoại Trưởng Do Thái (chiến thuật gia và danh tướng “độc nhản”) khi viếng thăm SÀIGÒN (Thủ đô Việt Nam Cộng Hòa) trong cuối thập niên 1960, đã nhận định: “Bắc Việt sẽ thua trận một khi họ chiếm SÀIGÒN!” (1)
Là người Việt tị nạn Cộng Sản tại hải ngoại, hằng năm đến ngày 30 tháng 4 đen, không một ai trong Cộng Đồng Việt Nam chúng ta mà không đau buồn vì cảnh nước mất nhà tan, nhân tâm ly tán; đồng bào trong nước đang quần quại dước ách thống trị bạo tàn của bè lũ Cộng Sản cầm quyền và cũng không một ai quên được “biến cố lịch sử” đã in sâu trong ký ức của mổi người. Đó là sự “mất miền Nam thân yêu của chúng ta”.
Là quân nhân Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, tôi xin ghi lại diển tiến “Mặt trận phòng thủ tuyến thép Xuân Lộc (Long Khánh) 12 ngày đêm ác chiến với Cộng Sản Bắc Việt” để hồi tưởng lại chiến thắng cuối cùng của QLVNCH (nói chung), Sư Đoàn 18 Bộ Binh và các đơn vị tăng phái (nói riêng) gồm: “Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù, Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân, Lực Lượng Địa Phương Quân & Nghĩa Quân/Tiểu Khu Long Khánh, hỏa lực Không yểm chiến thuật của Sư Đoàn 3 Không Quân” là để chứng tỏ rằng QLVNCH đã đánh một trận “tuyệt vời” và “để đời” vì thế giới bên ngoài đã hiểu một cách sai lệch cho rằng miền Nam/Việt Nam không chịu chiến đấu tự vệ nên đã sụp đổ mau lẹ sau 55 ngày đêm.
Tôi xin cuối đầu trước anh linh các chiến hữu đã “Vị Quốc Vong Thân”; tôi xin kính chức sức khỏe đặc biệt đến các “cô nhi quả phụ”, anh em “thương phế binh” cũng như thăm hỏi sức khỏe đến tất cả các chiến hữu và gia đình trực thuộc Sư Đoàn 18 Bộ Binh và các đơn vị tăng phái kể trên.
Xin ơn trên phù hộ cho tất cả chúng ta!
TUYẾN THÉP XUÂN LỘC (LONG KHÁNH)
I. TIẾN TRÌNH CƯỞNG CHIẾM MIỀN NAM VIỆT NAM CỦA CỘNG SẢN BẮC VIỆT (2)
Sau khi được Nga Sô và Trung Cộng trang bị vũ khí tối tân như: chiến xa T-54+T-55+ PT-76; Đại bác 130 ly + 152 ly; Đại bác phòng không 23 ly + 57 ly; hỏa tiển chống chiến xa AT3/Sagger và hỏa tiển địa không SA-7/Strela.
Lợi dụng thời cơ “vừa đánh vừa đàm”, nhầm lúc Huê Kỳ đã rút về nước 80% quân số tham chiến tại Nam Việt Nam, Cộng Sản Bắc Việt (CSBV) bất chấp dư luận Quốc tế, cố tình vi phạm hiệp định GENÈVE và những điều khoản đã thỏa thuận tại Paris nên vào tháng 3/1972, CSBV tập trung toàn lực gồm 12 trong số 13 Sư Đoàn (SĐ) chính quy có chiến xa và pháo binh yểm trợ, đặt kế hoạch tổng tấn công miền Nam/Việt Nam chia ra làm 3 mặt trận chính như sau:
11. Mặt trận Quảng Trị (V1CT/VNCH): sẽ do 2 SĐ 304+308 và 4 Trung Đoàn (TRĐ) 31+246+270+126 Biệt Lập/Đặc Công thuộc mặt trận B5 với sự yểm trợ của 2 TRĐ 203+204 Xe tăng cùng với 3 TRĐ Pháo 38+68+84. Các đơn vị này vượt tuyến Bến Hải, xâm nhập vùng phi quân sự theo Quốc Lộ 1 (QL1) đánh thẳng vào tỉnh địa đầu Quảng Trị. Cùng lúc đó, SĐ324 cùng với 2 TRĐ/BL 5+6 sẽ từ thung lũng A Shau (phiá Tây) tiến về thành phố Huế đe dọa Đà Nẳng.
- Trận Quảng Trị (30/3/1972-16/9/1972)
12. Mặt trận Cao Nguyên (V2CT/VNCH): sẽ do 3 SĐ 2+320+F10 được yểm trợ bởi 1 TRĐ Xe tăng và 1 TRĐ Pháo, đánh chiếm Pleiku và Kontum. Để yểm trợ cho mặt trận này, SĐ3/CSBV sẽ đánh phá vùng Bình Định phía ven biển để cầm chân QLVNCH tại đây. SĐ711/CSBV cũng được lệnh tạo áp lực và cầm chân QLVNCH tại Đà Nẳng.
- Trận Ban Mê Thuột (1/3/1975-17/3/1975)
13. Mặt trận biên giới Miên-Việt (V3CT/VNCH): được giao phó cho 4 SĐ 5+7+9+Bình Long, các TRĐ chủ lực Miền cùng với 1 TRĐ xe tăng và 1 TRĐ Pháo tiến chiếm quận Lộc Ninh đồng thời tấn công An Lộc (tỉnh Bình Long). Nếu chiếm được An Lộc, các lực lượng CSBV có thể theo QL13 tiến về SÀIGÒN; cùng lúc đó, SĐ1/CSBV sẽ tạo áp lực tại các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long để ngăn chận các lực lượng tiếp viện thuộc QĐIV/VNCH.
- Trận An Lộc (13/04/1972 - 12/06/1972)
- Trận Phước Long (13/12/1974 - 06/01/1975)
- Trận Phan Rang (07/04/1975 - 20/04/1975)
Chiến tích lịch sử trên của CSBV đã được thu gọn trong bài nói chuyện của ông “Lê Đức Thọ” thuộc BCT/TU/ĐCSBV đăng trong tập san “Lịch sử quân sự số 3 năm 1988” với nội dung như sau (sao y nguyên văn) (3): “Đánh xong Buôn Ma Thuột, buộc địch rút khỏi Tây nguyên làm rung động cả chiến trường miền Nam; ta còn phải mở chiến dịch Huế + Đà Nẳng và cuối cùng mới hình thành chiến dịch Hồ Chí Minh (CD/HCM), giải phóng SÀIGÒN.” Để chỉ huy chiến dịch cuối cùng nầy, BTL/CD được thành lập, kết hợp với BTL/Miền cùng với các QĐ, phối hợp với các lực lượng chủ lực và địa phương miền Nam đánh chiếm SÀIGÒN. BTL/Miền chỉ huy các tỉnh, phối hợp với CD/HCM, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
Về Đảng, BCT chỉ định 3 đồng chí ủy viên thay mặt, chịu trách nhiệm tập thể, trực tiếp lảnh đạo chiến dịch lịch sử nầy. Chúng ta đều biết, CD nầy phải có thời gian để tổ chức lực lượng, phải hình thành những cánh quân lớn, gần 5 Quân Đoàn từ 6 hướng cùng đánh vào SÀIGÒN.
- Một cánh quân (QĐ2 với chủ lực của K5 + K6), sau khi đánh Huế, giải phóng Quảng Nam + Đà Nẳng, đánh dọc theo miền Trung, phá vở phòng tuyến Phan Rang, đánh vào Đông/Long Thành và căn cứ Nước Trong*.
- Một cánh quân (QĐ3) từ Tây Ninh đánh vào Đồng Dù*.
- Một cánh quân (QĐ1) đánh vào Thủ Dầu Một.
- Một cánh quân (QĐ4) giải phóng Xuân Lộc đánh vào Biên Hòa.
- Một cánh quân nữa gồm 3 Sư đoàn phía Nam/SÀIGÒN từ Long An + Cần Đước + Cần Giuộc và đường số 4 đánh lên. Cùng lúc ấy, ở nội thành những đơn vị “Đặc công + Biệt động” chiếm giữ các cầu lớn, bảo đảm đường tiến quân của các QĐ chủ lực tiến vào trung tâm thành phố đuợc thuận lợi đồng thời các đơn vị trên tiếp tục đánh phá một số mục tiêu trong thành phố, làm cho địch càng thêm rối loạn, tạo điều kiện thuận lợi cho chủ lực tiến vào đánh chiếm các cơ quan đầu nảo về quân sự, chính trị của Ngụy quân, Ngụy quyền ở nội thành. Trong tình thế địch đã suy sụp nên ta không gặp khó khăn, cản trở gì. Trong khi chủ lực tiến vào nội thành và quân địch bị tan rã thì các tổ chức Đảng và quần chúng, chiếm giữ các quận lỵ và một số cơ sở của địch mà không gặp sự xung đột, phản kháng nào của Ngụy quân và Ngụy quyền. (xem sơ đồ 1)
* Căn cứ Nước Trong - Địa danh Trường Bộ Binh/Thủ Đức và Trường Thiết Giáp
* Đồng Dù - Địa danh căn cứ SĐ25BB/VNCH tại Củ Chi
Mặc dầu bị tổn thất nặng khi phải thật sự chạm súng với QLVNCH nhưng CSBV vẫn tiếp tục xua quân quyết cưởng chiếm cho được trọn vẹn miền Nam với chiến dịch Hồ Chí Minh (CD/HCM); thành phần nhân sự của tổ chức trên như sau:
Tư lệnh - Đại tướng Văn Tiến Dũng
Chính ủy - Đồng chí Phạm Hùng
Phó Tư lệnh - Thượng tướng Trần Văn Trà
- Trung tướng Lê Đức Anh
- Trung tướng Lê Trọng Tấn
Tư lệnh phó - Trung tướng Đinh Đắc Thiện
- Thiếu tướng Bùi Phùng (phụ trách Tiếp vận)
Phó Chính ủy - Trung tướng Lê Quang Hòa
Tham mưu trưởng - Thiếu tướng Lê Ngọc Hiếu
BTL/CD đã bàn thảo kế hoạch đánh chiếm SÀIGÒN với 5 mục tiêu ưu tiên như sau:
1)- Bộ Tổng Tham Mưu/QLVNCH
2)- Dinh Độc Lập
3)- Bộ Tư Lệnh/Biệt Khu Thủ Đô
4)- Bộ Tư Lệnh/Cảnh Sát Quốc Gia
5)- Phi trường Tân Sơn Nhứt
II. TUYẾN THÉP XUÂN LỘC
Với thành phần lực lượng tham chiến gồm 5 QĐ, CSBV đã tràn vào từ miền Bắc, đánh chiếm Buôn Ma Thuột cũng như tiếp thu các căn cứ mà QLVNCH đã rút bỏ tại QK1 + QK2 + Huế + Đà Nẳng, v.v… Tuy nhiên trên đường tiến quân, CSBV đã nhận lấy tổn thất nặng nề khi phải thật sự “mặt đối mặt” với QLVNCH tại Xuân Lộc (Long Khánh) của SĐ18BB và các đơn vị tăng phái với 12 ngày đêm ác chiến.
21) Địa danh Xuân Lộc
“Xuân Lộc” tỉnh lỵ Long Khánh, nằm trên QL1, hướng Đông Bắc Sàigòn khoảng 80 cây số, được thành lập năm 1957 thời Đệ Nhất Cộng Hòa, có diện tích khoảng 3457 cây số vuông; phần lớn địa thế gồm đất đỏ, núi thấp, rừng thưa, nhiều vườn cây ăn trái và đồn điền cao su.
“Xuân Lộc” căn cứ của toàn bộ SĐ18BB bao gồm: Bộ Binh, Thiết Giáp, Pháo Binh và các đơn vị Kỷ Thuật thuộc mọi Binh chủng của QLVNCH.
“Xuân Lộc” còn là vị trí chiến lược quan trọng vì là ngã ba của 2 QL1 + 20 đồng thời là cửa ngỏ xâm nhập SÀIGÒN (thủ đô miền Nam Việt Nam), xuất phát từ Cao Nguyên (QL20) và miền Trung (QL1) do đó Xuân Lộc được coi như vòng đai bảo vệ phi trường Biên Hòa và thủ đô SÀIGÒN.
“Xuân Lộc” về mặt chiến thuật, nằm trên đường giao liên giữa 2 Chiến khu C + D của Việt Cộng với các mật khu: Mây Tào + Cù Mi + Xuyên Mộc + Đất Đỏ của tỉnh Phước Tuy đồng thời là con đường huyết mạch bằng đường biển dùng để tiếp tế, bổ sung quân số xuất phát từ miền Bắc cho miền Nam/CSBV.
22) Chuẩn bị chiến trường tại Xuân Lộc (Long Khánh)
Nhờ vào tin tức tình báo, cung từ của tù binh CSBV cũng như giải đoán không ảnh của “Biệt Đội Quân Báo”; đặc biệt “Biệt Đội Kỷ Thuật” (BĐKT) gồm 5 quân nhân của BTTM/P7 do Trung úy Phát chỉ huy, tăng phái cho Sư đoàn với nhiệm vụ “nghe và dò đài địch”; thành quả đạt được của BĐKT trên hết sức xuất sắc, góp phần không nhỏ vào chiến thắng cuối cùng của QLVNCH (nói chung), SĐ18BB và các đơn vị tăng phái (nói riêng) trước khi giã từ chiến trường. Khai thác các mật điện từ đơn vị CSBV đánh đi mà toán BĐKT đã nhận được và giải mã, nên Sư đoàn đã nắm rất vững tình hình địch, đơn vị địch, v.v… rồi từ đó Sư đoàn chuẩn bị thật tỉ mỉ chiến trường để chờ đón địch vào đánh mà không sợ bị bở ngở. Thời gian chuẩn bị chiến trường của Sư đoàn là thời gian rất sôi động tại Cao Nguyên và miền Trung.
“Sư đoàn tổ chức cho đơn vị học tập thường xuyên đề cũng cố tinh thần binh sĩ; huấn luyện tại chổ kỷ thuật chống chiến xa cũng như cách sử dụng vũ khí chống chiến xa (M72).”
“Sư đoàn chỉ thị các đơn vị trưởng, các sĩ quan trực thuộc đơn vị, thường xuyên sinh hoạt với binh sĩ vì vậy tinh thần đơn vị lên rất cao; binh sĩ luôn tin tưởng các cấp chỉ huy thường xuyên sống chết với mình tại chiến trận.”
“Sư đoàn chỉ thị các đơn vị, tổ chức vị trí chiến đấu ngoài rìa thị xã với những công sự phòng thủ chắc chắn để pháo của địch không gây nhiều tổn thất.”
“Sư đoàn chỉ thị TRĐ 43 tái chiếm và cố thủ những điểm cao chung quanh thị xã làm đài quan sát vì kinh nghiệm chiến trường cho biết, đơn vị trinh sát VC thường chiếm các điểm cao để điều chỉnh pháo, quan sát tình hình, mổi khi chúng tấn công vào thành phố.”
Tuyến thép Xuân Lộc (Part 2)
  “Sư đoàn tổ chức lực lượng trừ bị gồm bộ binh và thiết giáp, có lưu động tính cao, phản ứng nhanh, hỏa lực mạnh, v.v… để sẳn sàng can thiệp, hổ trợ đơn vị bạn hoặc tiêu diệt địch (nếu cần).”
“Sư đoàn cũng đã tiên liệu các hỏa tập Pháo binh, kế hoạch yểm trợ hỏa lực cũng như kế hoạch không yểm chiến thuật, vùng oanh kích tự do, v.v… Số lớn Pháo được phối trí ngoài thị xã Xuân Lộc, trên các điểm cao như Núi Thị, hướng Nam/Xuân Lộc, v.v… (kể cả 2 khẩu “đại pháo tự hành 175 ly” đặt trên xe bánh xích của QĐIII tăng phái) để địch không tìm ra vị trí chính xác. Các khẩu Pháo nầy có nhiệm vụ tác xạ ngược lại vào thị xã, trường hợp CSBV xâm nhập sâu vào vòng đai phòng thủ. Tại BCH/TK/LK và TRĐ 43, Sư đoàn đã phối trí tại mổi vị trí vỏn vẹn 2 khẩu pháo để yểm trợ đơn vị bạn hoạt động ngoài vòng đai phòng thủ.
“Sư đoàn chỉ thị Tiểu Đoàn 18 Quân Y và bệnh xá Sư đoàn cùng với thân nhân và gia đình binh sĩ trực thuộc Sư đoàn di chuyển từ Xuân Lộc về Long Bình (Biên Hòa) hậu cứ của Sư đoàn để chiến sĩ SĐ18BB không bị vướng chân, tránh thiệt hại cho gia đình và an toàn cho thương bệnh binh nằm điều trị.”
23) Tổ chức và tương quan lực lượng (xem sơ đồ 2)
231) Nhiệm vụ
SĐ18BB và các đơn vị tăng phái với nhiệm vụ kể sau:
  • Phòng thủ tỉnh lỵ Xuân Lộc (Long Khánh)
  • Chận đứng sự xâm nhập của CSBV xuất phát từ Cao Nguyên (QL20) và miền Trung (QL1) tiến vào thủ đô SÀIGÒN.
  • Bảo vệ an ninh:
Ap Nui Do A05

*** Trong mặt trận tại ấp Núi Đô Trung đoàn 43 của Sư Đoàn 18 cùng với Tiểu Đoàn 82 Biệt Động Quân và Tiểu Đoàn Địa Phương Quản và Nghĩa Quân phải đương đầu với cả Sư Đoàn 7 (F7) cộng sản Bắc Việt. Nghỉa là tỷ lệ sai biệt 1 chống 3 (1/3). Trong thời gian nầy quân viện của Hoa Kỳ hoàn toàn chấm dứt từ sau Hiệp định Paris (Paris Accord 1973). Quân lực Việt Nam Cộng Hoà chiến đấu cô độc không có sự yểm trợ của Hoa Kỳ như sự tuyên truyền láo khoét của lũ chồn hôi giặc hồ trong tài liệu chúng viết dưới đây:
Tài liệu cộng sản “Chiến dịch Xuân Lộc (từ 9-4 đến 21-4-1975)
Minh Vượng (t/h)”

  - QL1 từ Xuân Lộc đến Gia Ray
  - QL20 từ ngã ba Dầu Giây đến Kiệm Tân
  232) Tổ chức
  Để thi hành nhiệm vụ trên, SĐ18BB phối trí các đơn vị trực thuộc như sau:
a) Bạn-QLVNCH
- BTL/HQ/SĐ18BB do Chuẩn Tướng “Lê Minh Đảo” chỉ huy
- BTM/HQ/SĐ do Đại Tá “Hứa Yến Lến” TMT/HQ/SĐ chỉ huy
- LLĐN 43 do Đại Tá “Lê Xuân Hiếu” chỉ huy gồm:
  - TRĐ 43 (trừ TĐ2/43)* + TĐ2/52
  - THĐ5KB + TĐ82BĐQ* + LL/ĐPQ+NQ/TK/Long Khánh
  Nhiệm vụ: Phòng thủ thị xã Xuân Lộc (Long Khánh)
* TĐ2/43 – Tăng phái Tỉnh và TK/Long Khánh với nhiệm vụ bảo vệ an ninh Quận và Chi Khu/Định Quán nằm trên Quốc lộ 20 về hướng Đông Bắc/Xuân Lộc (Long Khánh), vì vậy, TĐ2/43 không còn trực thuộc hệ thống chỉ huy của TRĐ43.
*TĐ82BĐQ do Thiếu tá “Vương Mộng Long” chỉ huy vừa di chuyển từ trại Ben Het (QK2) về tạm trú đêm hôm trước tại Xuân Lộc để chờ phương tiện chuyên chở tiếp về hậu cứ nhưng qua ngày hôm sau tình hình Xuân Lộc sôi động nên BTTM/QLVNCH tăng phái đơn vị trên cho SĐ18BB để tăng cường cho TRĐ 43 phòng thủ thị xã Xuân Lộc (Long Khánh).
- LLĐN 48 do Trung tá “Trần Minh Công” chỉ huy gồm toàn bộ TRĐ48 với thành phần yểm trợ cơ hữu.
Nhiệm vụ: hoạt động bảo vệ an ninh QL1 từ Xuân Lộc đến Gia Ray. Ngày 12/4/1975, LLĐN 48 bàn giao nhiệm vụ cho Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù (LĐ1ND) và sau đó di chuyển về bố trí dọc LTL2 từ ngã ba Tân Phong (Chi Khu Xuân Lộc) đến căn cứ Long Giao (hậu cứ TRĐ), trở thành trừ bị cho Sư đoàn.
- LLĐN 52 do Đại tá “Ngô Kỳ Dũng” chỉ huy gồm toàn bộ TRĐ52 (trừ TĐ2/52) với thành phần yểm trợ cơ hữu.
Nhiệm vụ: hoạt động bảo vệ an ninh QL20 từ ngả ba Dầu Giây đến Kiệm Tân.
Lực lượng tăng phái của QLVNCH:
- LĐ1ND do Trung tá “Nguyễn Văn Đỉnh” chỉ huy, được trực thăng vận đến vùng hành quân ngày 12/4/1975 để thay thế LLĐN48, gồm:
  • TĐ1 + 8 + 9ND + ĐĐTS/ND
  • TĐ3PB/ND + ĐĐ3CB/ND + ĐĐ1QY/ND
.
  Nhiệm vụ: hoạt động bảo vệ an ninh QL1 từ Xuân Lộc đến Gia Ray.
- TĐ82BĐQ – Tăng phái cho SĐ18BB theo lệnh BTTM/QLVNCH kể từ ngày 7/4/1975 để tăng cường cho LLĐN43 phòng thủ thị xã Xuân Lộc (20). Nhiệm vụ: Phòng thủ sân bay L-19 và tòa Hành Chánh tỉnh Long Khánh, nơi đặt BCH/HQ/TKLK (vùng Đông Nam thị xã XL) do Đại tá Phạm Văn Phúc /Tỉnh Trưởng kiêm TKT/TK/LK chỉ huy.
- 2 khẩu đại bác tự hành 175 ly đặt trên xe bánh xích với tầm tác xạ trên 30 cây số của PB/QĐIII/VNCH. Tất cả lực lượng tham chiến trên được hỏa lực Pháo binh cơ hữu yểm trợ trực tiếp và tổng quát. Ngoài ra hỏa lực của 2 khẩu đại bác tự hành 175 ly đặt trên xe bánh xích của QĐIII tăng phái sẽ yểm trợ tăng cường các cánh quân ưu tiên theo nhu cầu chiến trường.
- SĐ3KQ/Biên Hòa không yểm chiến thuật theo yêu cầu của Tư lệnh mặt trận qua các CHT/LLĐN và LĐ1ND.
b) Địch-CSBV
Lực lượng CSBV tham chiến tại mặt trận Xuân Lộc (Long Khánh)
- Quân Đoàn 4/CSBV (QĐ4) với 3 SĐBB cơ hửu: SĐ 6 + 7 + 341 + đơn vị xe tăng + xe bọc thép + đơn vị Pháo yểm trợ tầm xa đủ loại. Đơn vị Pháo phòng không gắn trên xe kéo, v.v…
  • Sư Đoàn 6/CSBV (SĐ6) với quân số khoảng 2300 người gồm 3 TRĐ.33+274+612.
  • Sư Đoàn 7/CSBV (SĐ7) với quân số khoảng 4100 người gồm 3 TRĐ.141+165+209.
  • Sư Đoàn 341/CSBV (SĐ341) là Sư đoàn mới thành lập 1 năm sau ngày Hiệp định Balê được ký kết.
Lực lượng tăng cường của CSBV:
- Sư Đoàn 325/CSBV (SĐ325) với quân số khoảng 5000 người gồm 3 TRĐ.18+95+101.
- Liên Đoàn 75 Pháo yểm trợ tầm xa đủ loại + đơn vị Pháo phòng không gắn trên xe kéo, v.v…
  233) Tương quan lực lượng
- Bạn QLVNCH 1
- Địch CSBV 5
24) Diển tiến 12 ngày đêm ác chiến (xem sơ đồ 3)
Để chuẩn bị trận đánh Xuân Lộc (Long Khánh) BTL/CD/HCM đã xử dụng QĐ4/CSBV và các đơn vị của QK7/CSBV; thành phần như sau:
- Tư lệnh QĐ4/CSBV Thiếu tướng “Hoàng Cầm”
- Chính ủy Thiếu tướng “Hoàng Thế Thiện”
Giữa tháng 3/1975, CSBV đã đánh chiếm quận Định Quán (tỉnh Long Khánh) nằm hướng Đông Bắc, cắt đứt QL20 nối liền SÀIGÒN với các tỉnh Cao Nguyên; sau đó không lâu, CSBV chiếm quận Bình Khánh, cắt đứt QL1 ra Bình Tuy và vùng Duyên Hải.
Giữa tháng 3/1975, trong một cuộc chạm súng với lực lượng của SĐ341/CSBV tại xã Kiệm Tân trên QL20, LLĐN 52 đã bắt được một số tù binh còn rất trẻ, không có kinh nghiệm chiến trường, tuổi từ 18 đến 20 nhưng được trang bị vũ khí mới với đầy đủ cấp số hỏa lực còn nguyên vẹn (mặc dầu đã tham chiến); khai thác cung từ cho thấy các tù binh nầy thuộc những đơn vị mới thành lập được đưa thẳng từ miền Bắc vào. Với những tin tức trên, tinh thần SĐ18BB lên rất cao và cũng cố thêm niềm tin để chờ đợi địch vào đánh như đã dự trù sẳn chiến trường từ trước mà không bị bở ngỡ.
Đầu tháng 4/1975, lực lượng QĐ4/CSBV tuần tự đánh chiếm các điểm trọng yếu thuộc tỉnh Long Khánh và vào thượng tuần tháng 4/1975, thị xã Xuân Lộc (tỉnh Long Khánh) trở thành khu vực phòng ngự trọng yếu của QĐIII+V3CT/QLVNCH để bảo vệ SÀIGÒN từ hướng ĐB đồng thời là tuyến ngăn chận CSBV từ miền Trung (QL1) và miền Cao Nguyên (QL20) tiến chiếm SÀIGÒN.
Kế hoạch đánh chiếm Xuân Lộc (Long Khánh) với chiến thuật “tiền Pháo hậu Xung”, (như đã áp dụng các trận cưỡng chiếm miền Nam), sau đó CSBV sẽ đồng loạt và ồ ạt tiến quân như sau:
- SĐ6/CSBV
  – 1 TRĐ đánh chiếm ấp Trần Hưng Đạo, đèo Mẹ Bồng Con trên QL1 giữa Núi Thị và ngã ba Dầu Giây.
– 1 TRĐ đánh vào ngã ba Dầu Giây ngăn chận viện binh VNCH từ Trảng Bôm đánh lên.
– 1 TRĐ trừ bị.
Ap Hung Loc A 03

*** Tại Mặt trận Dầu Giây Tiểu đoàn 1 của Trung Đoàn 52 phải đương đầu với cả một Sư đoàn 6 (F6) của lũ chồn hôi giặc hồ với sự giới hạn về đạn dược cùng sự yểm trợ của càc đơn vị bạn. Đơn vị nầy đã cật lực đơn độc chiến đấu. Nếu một đơn vị quân lực Hoa Kỳ bị vây hảm như thế mà không có quân bạn yểm trợ thì thử hỏi đơn vị nầy cầm cự được bao lâu?
- SĐ7/CSBV
  – 1 TRĐ tấn công thị xã Xuân Lộc từ hướng Đông Bắc.
– 1 TRĐ cắt đứt QL1 từ ấp Suối Cát đến ngã ba Tân Phong.
– 1 TRĐ trừ bị.
- SĐ341/CSBV
  – 1 TRĐ tấn công thị xã Xuân Lộc từ hướng Tây Bắc.
– 1 TRĐ cắt đứt QL20 từ Kiệm Tân đến ngã ba Dầu Giây.
– 1 TRĐ trừ bị.
(Diển tiến)
Sáng sớm ngày 8/4/1975, CSBV bắt đầu pháo kích dử dội vào tỉnh lỵ, để 2 mủi tấn công vào thị xã Xuân Lộc có thành phần “đặc công” tháp tùng và xe tăng yểm trợ, theo hướng làng “Phế Binh/QLVNCH” và “ngã ba cua Heo.” Nhà thờ và chợ Xuân Lộc bị trúng đạn pháo khiến nhiều tín đồ xem lễ sớm cũng như dân chúng đi họp chợ sớm bị thiệt mạng.
Cap Rang A04

*** Tại mặt trận Núi Thị Tiểu Đoàn 2 của Trung Đoàn 43 đã phải đương đầu với hai Trung đoàn 266 và 270 tức (E266, E270), nghỉa là 1 đối đầu với 6 hoặc 8 (tỷ lệ 1/6 hay 8). Có một quân đội nào trên thế giới hiện nay đã trãi qua những trận địa chiến như thế bao giờ? Ngay cả quân đội Hoa Kỳ!
ĐĐTS43/VNCH trách nhiệm phòng thủ mặt “ngã ba cua Heo” đã đẩy lui ngay mủi tấn công nầy. Một vài nơi khác trên tuyến phòng thủ đã bị CSBV chọc thủng nhưng LLĐN43 đã kịp thời phản công và chiếm lại ngay. Đến chiều cùng ngày thì LLĐN43 đã làm chủ hoàn toàn trận địa; hằng trăm xác CSBV bỏ lại chiến trận với nhiều xe tăng và xe bọc thép bị đốt cháy tại chổ. (5)
Chiến thuật “tiền Pháo hậu Xung” CSBV đã cho thi hành liên tiếp 2 ngày liền (8+9/4/1975) với 6000 quả đạn Pháo đủ loại nhưng kết quả không chiếm được thị xã Xuân Lộc mà còn bị tổn thất nặng nề về sinh mạng và xe tăng bỏ lại tại chổ trước tinh thần chiến đấu anh dũng của quân nhân các cấp trực thuộc SĐ18BB và các đơn vị tăng phái. (16)
Ngoài 2 ngày ác chiến trên, lực lượng QĐ4/CSBV đã liên tục tung ra những đợt tấn công khác vào những ngày kế tiếp với sự phối hợp nhịp nhàng BB/TG dưới hỏa lực yểm trợ Pháo binh đủ loại (1000) quả, quyết chiếm cho được thị xã Xuân Lộc để làm bàn đạp tiến thẳng vào SÀIGÒN bằng QL1, nhưng không mang lại kết quả mong muốn mà trái lại càng bị tổn thất chồng chất về sinh mạng và xe tăng.
Ngày 11/4/1975, CSBV tấn công trại Huỳnh văn Điền (hậu cứ TRĐ52) đồn trú trong thị xã Xuân Lộc; lực lượng phòng thủ đã đẩy lui địch và gây tổn thất của địch như sau: 50 xác cùng với 32 vũ khí đủ loại bị tịch thu + 2 xe tăng T-54 bị bắn cháy.
Đêm 11/4/1975, TĐ2/52 tăng phái cho LLĐN 43 do Đại úy Huỳnh Văn Út chỉ huy đã phục kích gần Suối Tre tiêu diệt 1 đoàn xe vừa chở quân, vừa chở đồ tiếp tế; hơn 100 xác CSBV bỏ lại chiến trường; nhiều vũ khí kể cả đại liên phòng không gắn trên xe bị tịch thu. Cũng trong đêm, 1 toán quân đặc nhiệm CSBV lọt ổ phục kích của LLĐN 43; kết quả địch để lại 17 xác trong đó có 4 sĩ quan cao cấp có nhiệm vụ quan sát, điều nghiên tình hình, nghiên cứu địa thế trận chiến.
Ngày 12/4/1975, LĐ1ND gồm: (6)
- TĐ 1 + 8 + 9ND + TĐ3PB/ND
- ĐĐ1TS + ĐĐ3CB + ĐĐ1QY/ND
được trực thăng vận đến vùng hành quân, tăng phái cho SĐ18BB tại mặt trận phòng thủ thị xã Xuân Lộc (Long Khánh); nhiệm vụ của LĐ1ND là hoạt động bảo vệ an ninh dọc QL1 từ Xuân Lộc đến Gia Ray, thay thế LLĐN 48. Sau khi bàn giao nhiệm vụ, LLĐN 48 di chuyển về bố trí dọc theo LTL2 từ ngã ba Tân Phong (chi khu Xuân Lộc) đến căn cứ Long Giao (hậu cứ TRĐ); trở thành trừ bị cho SĐ.
Vùng trách nhiệm của LĐ1ND có 2 Ấp “Bảo Định và Bảo Bình” đều có lực lượng Dân quân tự vệ, được trang bị đầy đủ vũ khí và đạn dược; tinh thần chống Cộng rất cao vì hầu hết dân trong Ấp đều là những con chiên ngoan đạo di cư từ Bắc vào. Ấp Bảo Định cách chi khu Xuân Lộc (ngã ba Tân Phong) khoảng 3 cây sồ về hướng Đông và Ấp Bảo Bình khoảng 4 cây số về hướng Đông Nam. Tinh thần dân chúng trong 2 Ấp rất vững vàng; Quốc kỳ VNCH vẫn bay phất phới ở 2 Ấp, mặc dầu CSBV đóng “chốt” gây trở ngại cho việc liên lạc, tiếp tế từ tỉnh đến 2 Ấp trên.
Ngày 13/4/1975, kế hoạch hành quân của LĐ1ND như sau:
Bao Dinh A06

***Tại mặt trận Bảo Định một đơn vị Dù, Tiểu Đoàn 9 Nhảy Dù đã đánh đẹp 1 chống 3 hay ngay cả 1 chống 5 mà vẩn giành lấy phần thắng lợi cho mình. Có một quân đội nào chiến đấu trong tình trạng thiếu thốn tiếp liệu mà vẩn còn tồn tại và chiến thắng? Ngay cả quân đội Hoa Kỳ?
- TĐ9ND, trách nhiệm diệt chốt để giao tiếp với 2 Ấp Bảo Định và Bảo Bình. Kết quả: Địch để lại 13 xác với 1 súng cối 61 ly, 7 vũ khí cá nhân. Quân dân gặp nhau tay bắt mặt mừng.
Tuyến thép Xuân Lộc (Part 3)
  - TĐ8ND, hành quân lục soát hướng Bắc QL1; vừa xuất phát khoảng 600 thước thì toàn bộ TĐ chạm súng mạnh với địch; LĐ1ND quyết định tăng phái 1 ĐĐ/TĐ9ND để đơn vị tiếp tục thu hẹp vòng vây; Pháo binh vẫn liên tục tác xạ vào đội hình địch. Kết quả: 100 xác CQ thuộc TĐ1/141/CSBV để tại chổ.
  - TĐ1ND trừ bị cho LĐ bố trí phía Tây LTL2 và sau đó được lệnh di chuyển đến ấp Bảo Định thay thế nhiệm vụ TĐ9ND.
“Biệt Đội Kỷ Thuật” của P7/BTTM tăng phái trực tiếp cho LĐ1ND, đã nhận được và giải mã hầu hết các mật điện của CSBV.
Chập choạng tối ngày 13/4/1975, C/TS/CSBV xuất hiện để đón TĐ1/141/ ra khỏi vùng HQ sau khi bị LĐ1ND gây tổn thất nặng. Kết quả: C/TS/CSBV bị tiêu diệt; phần lớn do hỏa lực PB/Dù với các hỏa tập tiên liệu của LĐ1ND.
(Mật điện/CSBV)
- TĐT/TĐ1/141 báo cáo không gặp được C/TS và đơn vị chỉ còn 39 đồng chí khỏe mạnh, gần 200 thương binh; di chuyển rất khó khăn.
- TRĐ chỉ thị TĐ2/141 chi viện ngay và không quên nhắc nhở TĐ1/141 phải giữ vững tinh thần.
Khoảng 10 giờ đêm ngày 14/4/1975, TĐ2/141/CSBV xuất hiện; chờ khi địch đã lọt vào trận địa pháo, TĐ1ND cho lệnh khai hỏa. Sau khi ngưng tác xạ, TĐ1ND xung phong lên lục soát mục tiêu và thanh toán nốt những tên CSBV cuối cùng và sau đó án ngữ chờ lệnh. Kết quả: TĐ2/141/CSBV bị tiêu diệt gần hết; phần lớn do hỏa lực PB/Dù.
Ngày 15/4/1975, TĐ8ND báo cáo: “Địch đã chui đuợc vào một ngôi nhà lớn có hàng rào kẻm gai, rất khó vào. TĐ đang tiếp tục bao vây nhưng không thể chui qua hàng rào kẻm gai để tiến chiếm mục tiêu.
Lữ Đoàn chỉ thị TĐ8ND(+) tiếp tục bao vây địch với 2 ĐĐ. Riêng Tiểu Đoàn(-) di chuyển ra gần QL1, bố trí chờ lệnh. Hoàn trả ĐĐ cho TĐ9ND.
Để chứng minh diển tiến trận ác chiến tại Xuân Lộc giữa lực lượng thuộc QLVNCH và CSBV trong giai đoạn đầu, tôi xin ghi lại ý kiến của các vị Tướng Lãnh thuộc Quân đội Huê Kỳ và CSBV cũng như của ký giả người Pháp thân CS đã phát biểu như sau:
- Tướng Smith trưởng phòng tùy viên Quốc Phòng (DAO) của Mỹ tại SÀIGÒN đã hân hoan phúc trình cho Tướng G. Brown, TMT/LQ/HK rằng (7) “Tại chiến trường Long Khánh, rõ ràng QLVNCH đã chứng tỏ sự quyết tâm và anh dũng chiến đấu chống lại địch quân đông hơn gấp nhiều lần. Mặc dầu chiến trường chỉ mới qua giai đoạn 1, chúng tôi có thể nói không ngần ngại rằng QLVNCH đã thắng vòng đầu.”
- Tướng Văn tiến Dũng, TL/CD/HCM đã phải thú nhận (2) “Mặt trận Xuân Lộc (Long Khánh) đã ác liệt và đẫm máu từ những ngày đầu tiên. Các SĐ6+7+341, của ta phải tổ chức tấn công vào thị xả để tiêu diệt từng mục tiêu nhiều lần nhưng gặp phải sức kháng cự mãnh liệt của TRĐ43 của địch. Các đơn vị Pháo của ta đã sử dụng nhiều hơn số đạn dự trù; số lớn xe tăng và xe bọc thép của ta đã bị hạ. Một số khác phải trở lại hậu cần để sửa chửa, lấy nhiên liệu, và đạn dược.”
- Hãy nghe O. Todd người ký giả Pháp đã hơn một lần có thiện cảm với CSBV mô tả (8): Tinh thần của binh sĩ bảo vệ Xuân Lộc rất cao. Hệ thống truyền tin rất tốt, con đường đi từ SÀIGÒN đã được khai thông và viện binh VNCH gồm các đơn vị Dù + BĐQ đã đến. trực thăng tản thương đang hoạt động, trực thăng võ trang đang yểm trợ chiến trường; các trực thăng quan sát cũng như các SQ/QLVNCH gọi PB và Không yểm rất nhanh chóng và chính xát khi phát giác vị trí PB hay xe tăng của CS. Tình trạng gần giống như lúc QĐ/Mỹ còn hiện diện tại đây.
Trở lại mặt trận phòng thủ tuyến thép Xuân Lộc (Long Khánh)
Trước sự yểm trợ chính xác và đắc lực của KQ/QLVNCH; tinh thần chiến đấu cao độ của quân nhân các cấp tham chiến tại MT/XL, đã gây tổn thất nặng cho QĐ4/CSBV, nên BTL/CD/HCM đã vội vàng quyết định đưa ngay Tướng “Trần văn Trà” vào thay Tướng “Hoàng Cầm” đồng thời tăng viện các đơn vị kể sau:
- SĐ 325/CSBV
- Liên Đoàn 75 Pháo yểm trợ tầm xa đủ loại
- Đơn vị Pháo/Phòng Không di động đặt trên xe, v.v…
Có thêm quân tăng viện, CSBV tiếp tục tấn công chiếm bằng được thị xả Xuân Lộc; sử dụng 2 QL 1 và 20 để tiến nhanh vào SÀIGÒN, giải phóng miền Nam/Việt Nam.
Vùng trách nhiệm hoạt động của LLĐN 52 rất bất lợi vì địa thế phòng thủ không có địa điểm cao thích hợp như Xuân Lộc nên vị trí chiến đấu không an toàn vì vậy lực lượng phòng thủ phải gánh chịu hỏa lực hùng hậu và áp lực rất mạnh của Pháo và BB+CX địch. Lợi dụng ưu thế trên, địch dồn hết lực lượng vào tấn công đè bẹp LLĐN 52 để xẻ đường, tiến thẳng vào Biên Hòa và SÀIGÒN theo QL 20 (từ Kiệm Tân) và QL 1 (từ ngã ba Dầu Giây).
Doi Mong Ngua A02

***Tại mặt trận Đồi Móng Ngựa một Trung Đoàn trừ 52 của Sư Đoàn 18 phải cầm cự với hai Sư Đoàn cộng sản Bắc Việt F325 và F341. Tức là 1 đấu 10 không thể nói ngoa được. (Đơn vị trừ có nghỉa là thiếu quân số hay một đơn vị đã được tăng phái cho một đơn vị khác. Tiểu Đoàn 2/52 đã được tăng phái cho mặt trận Ấp Núi Đồ).
Ngày 15/4/1975, với chiến thuật “biển người”, CSBV đã tràn ngập lần lượt các tiền đồn và tuyến phòng thủ của LLĐN 52 trên QL 20. trong trận chiến nầy, một binh sĩ SĐ18BB bắt buộc phải chống trả với 10 lính CSBV được yểm trợ đầy đủ hỏa lực PB và xe tăng.
Một TRĐ thuộc SĐ341/CSBV tấn công giữa ban ngày 2ĐĐ/TĐ3/52/VNCH tại Đồi Móng Ngựa; đơn vị phòng thủ phải chống trả liên tục hết đợt tấn công nầy đến đợt tấn công khác. Đến buổi chiều cùng ngày, 2ĐĐ/TĐ3/52/VNCH (đơn vị phòng thủ) Đồi Móng Ngựa báo cáo (9) “Chung quanh chúng tôi rất trống trải, cây cối đã bị hỏa lực đủ loại dọn sạch và thay vào đó bằng xác CSBV nằm dọc theo triền đồi. Với quyết tâm chiếm cho được Đồi Móng Ngựa nên QĐ4/CSBV đã tăng cường cho SĐ341/CSBV TRĐ.95/SĐ325 vừa được tăng viện, tràn ngập vị trí phòng thủ của 2ĐĐ/TĐ3/52.
Thành phần còn lại TĐ3/52 gồm BCH/TĐ + 2ĐĐ/BB với nhiệm vụ phòng thủ núi Sóc Lu và những điểm phía Bắc/Dầu Giây. “Pháo của CSBV rót liên tục và BB tràn ngập các tiền đồn của TĐ3/52(-) trên núi Sóc Lu và các điểm phía Bắc/Dầu Giây” sau đó TĐ mất liên lạc.
Với tình hình nguy ngập trên, phòng tuyến phía Tây/Xuân Lộc dọc theo QL20 do LLDN 52 trấn giữ đã phải chịu hỏa lực và áp lực mạnh của Pháo binh và Bộ binh cùng Chiến xa địch. Với số lượng đông gồm SĐ6/CSBV với 2 TRĐ/Địa phương cũ có rất nhiều kinh nghiệm chiến trường (TRĐ33+TRĐ274), tràn ngập tuyến phòng thủ của LLDN 52 đêm 15/4/1975, bắt buộc lực lượng trên phải phân tán mỏng và rút về hậu cứ Sư đoàn (Biên Hòa) với tổn thất nặng. (10)
Để trả đủa cho LLDN 52 vừa bị tổn thất, sau khi phối kiểm tin tức có giá trị cao về địch cộng thêm các mật điện mà BĐKT đã bắt được của CSBV, Tướng “Lê Minh Đảo” Tư Lệnh mặt trận Xuân Lộc (Long Khánh) đề nghị và qua trung gian trình xin của Trung Tướng “Nguyễn Văn Toàn” Tư Lệnh/QĐIII+QK3/VNCH và đã được Đại Tướng/Tổng Tham Mưu Trưởng/QLVNCH chấp thuận sử dụng Bomb BLU.82 (Daisy Cutter), một loại Bomb nổ đặc biệt có sức công phá cực mạnh trong một phạm vi rộng lớn. Theo chuyên viên vũ khí TOBIN CARTER (11) đã viết về trái Bomb nầy như sau: “Mục đích của Bomb BLU.82 (Daisy Cutter) là dọn bãi đáp trực thăng hoặc mở rộng vùng đất trống để lập căn cứ hỏa lực; Bomb cũng được dùng để tiêu diệt địch quân khi cần. Bomb có hai loại: “Bomb nổ và Bomb xăng đặc (napalm).” Bomb nặng 7 tấn, chứa gas hổn hợp PROPANE và TNT; Bomb được để trên giàn gổ (palette) có gắn dù khi thả.
   25) Giải tỏa thắc mắc về trái Bomb xử dụng
Để giải tỏa thắc mắc về quả Bomb thả trong trận Xuân Lộc (Long Khánh) của Dược sĩ Trần Lý đăng trong báo VN mới số 454, Friday Sept. 24, 1999. Chuẩn Tướng “Trần Đình Thọ”, Trưởng Phòng 3/Bộ Tổng Tham Mưu/QLVNCH là bạn học cùng khóa 6/Đinh Bộ Lĩnh/Trường Võ Bị Quốc Gia Việt Nam (Đàlạt) với người viết bài nầy. Tướng “Thọ” trách nhiệm trực tiếp trình xin quyết định của Đại Tướng/Tổng Tham Mưu Trưởng /QLVNCH về việc sử dụng Bomb BLU.82 (Daisy Cutter) để yểm trợ quân bạn qua trung gian trình xin của Tư Lệnh Quân Đoàn theo đề nghị của Tư Lệnh chiến trường.
“Chuẩn Tướng Thọ” đã xác nhận với tôi bằng email ngày 30/6/1999 với nội dung như sau (sao y nguyên văn):
“Tôi xin xác nhận với anh, đó là loại BLU.82 (Daisy Cutter) chứ không phải CBU.55. Tụi tôi chuẩn bị các mục tiêu theo đề nghị của các Tư lệnh đại đơn vị ngoài mặt trận. Tụi tôi thường gọi là B52/VN. Mổi lần trình Đại Tướng thì chính tôi lên trình bày và xin chấp thuận. Mục tiêu được Đại Tướng chấp thuận rồi, tôi trao cho Không quân; chỉ có Tư lệnh/Không Quân biết và thi hành; mọi mục tiêu đều là “Tối Mật” hết. Thả Bomb nầy rất công phu; chuyên viên Quân cụ và Không quân phụ trách đưa lên phi cơ; Bomb nầy để trên một giàn gổ (palette) có đeo dù; Bomb cũng có loại xăng đặc nữa. Phi công phải là những sĩ quan giỏi bay đêm. Máy bay C130 chở loại Bomb nầy đi thả. Có một lần phi cơ không thả được Bomb vì gần quân bạn, nên tôi cho trút xuống chiến khu C vì nếu đưa Bomb về Tân Sơn Nhứt, lỡ Bomb nổ khi đáp thì sức nổ sẽ tàn phá luôn SÀIGÒN, điện nước sẽ hư hết. Chúng tôi trách nhiệm về sử dụng loại Bomb nầy; chính Tư lệnh Quân Đoàn phải chịu trách nhiệm trực tiếp nếu có sơ xuất xảy đến cho lực lượng bạn. Sử dụng loại Bomb nầy rất hạn chế và chỉ được thỏa mản yêu cầu khi được Đại Tướng chấp thuận, tôi và Trưởng Phòng 2/BTTM trách nhiệm về mục tiêu đánh Bomb.”
Trước sự kháng cự mãnh liệt của QLVNCH tại Xuân Lộc cũng như việc BĐKT đã bắt được hầu hết các mật điện của CSBV, nhờ đó QLVNCH đã xác định được vị trí đóng quân của CSBV và đã tận dụng hỏa lực Phi + Pháo tiêu diệt, khiến tổn thất của CSBV ngày càng cao. Trước sự hoang mang, khủng hoảng tinh thần của các cán binh CSBV, chiều ngày 14/4/1975, trong một buổi họp của QĐ4/CSBV, Chính ủy Hoàng thế Thiện phải trấn an cán binh như sau (12): “Tôi nhắc lại, SÀIGÒN là mục tiêu cuối cùng chứ không phải Xuân Lộc. Giải phóng Xuân Lộc bằng “THẾ” sẽ hay hơn bằng “LỰC”. Các đồng chí cần phải giải thích cho cán bộ và chiến sĩ hiểu vì sao chúng ta không chủ trương tung hết lực lượng vào mặt trận Xuân Lộc trong lúc nầy.
Trong khi đó tại phía nam, hoạt động của LĐ1ND vẫn tiếp diễn đều và mang lại kết quả đáng tuyên dương (6).
Lợi dụng có quân số đông vừa được tăng viện QĐ4/CSBV sử dụng 3TĐ của SĐ7/CSBV cố gắng chọc thủng tuyến phòng thù của LĐ1ND đồng thời giải vây cho 200 thương binh và 39 đồng chí còn sống sót. LĐ1ND đã sẳn sàng và liên tục theo dỏi mọi di động của lực lượng trên kể cả ban đêm. Chờ cho địch di chuyển vào hết trận địa Pháo, TĐ3PB/ND thi nhau nhả đạn, chuyển từ hỏa tập đến hỏa tập khác. Đội hình của địch bị tán loạn. Sáng sớm hôm sau, lực lượng Nhảy Dù tung quân ra lục soát trận địa ghi nhận 300 xác VC để lại tại chổ ngoài ra dân ấp Bảo Bình đi đốn củi cho biết, khoảng 200 thương binh nằm băng bó tại Ấp.
Trưa ngày 18/4/1975, LĐ1ND lệnh cho TĐ9ND cắt cử 1ĐĐ lục soát rộng khu rừng Đông Nam và Nam mà các toán viễn thám của ĐĐTS/Dù báo cáo có sự hiện diện của CSBV; ĐĐ này chạm địch khá mạnh với cấp TĐ/CSBV có hầm hố ngụy trang kỷ. ĐĐ/TĐ9ND xin quân tiếp viện và ĐĐ tiếp ứng cũng chạm súng với địch.
LĐ1ND liền xin BTL/HQ/SĐ18BB tăng cường Chi Đoàn/TQV/M113 được một ĐĐ/Dù tùng thiết để cùng với 2 ĐĐ/TĐ9ND thanh toán nhanh mục tiêu. Kết quả: địch để lại khoảng 200 xác “sinh Bắc tử Nam.” Bạn có 3 hy sinh trong đó có 1 SQ + 18 bị thương + 1 TVX/M113 bị đứt xích. Sáng ngày 20/4/1975 Chi Đoàn/TVX/M113 trực chỉ Long Giao trên LTL2 để trở về với Thiết Đoàn 5 KB vì có lệnh “rút khỏi Xuân Lộc” vào giờ chót.
   26) Những dữ kiện liên quan đến lệnh rút khỏi Xuân Lộc (Long Khánh) như sau:
Ngày 10/4/1975, một phái đoàn hổn hợp gồm các Nghị sĩ, Dân biểu Việt và Mỹ vào thăm BTL/HQ/SĐ18BB tại Xuân Lộc (Long Khánh) để nghe thuyết trình về tình hình, quan sát các tù binh CSBV.
Ngày 18/4/1975, Trung tướng “Nguyễn văn Toàn” Tư lệnh/QĐ3 có Chuẩn tướng “Trần đình Thọ” TP3/BTTM/QLVNCH tháp tùng, đến thị sát mặt trận để điều nghiên tình hình liên quan đến việc tiếp tục phòng thủ hoặc rút khỏi Xuân Lộc (Long Khánh).
Ngày 20/4/1975, hồi 0900G sáng, Trung Tướng TL/QĐ3 có Đại tá Hoàng Đình Thọ/TP3 tháp tùng vào thăm BCH/HQ/Mặt trận và lệnh cho Thiếu tướng Lê Minh Đảo/TL/Mặt trận rút toàn bộ lực lượng tham chiến khỏi Xuân Lộc (Long Khánh) trong ngày 20/4/1975. Hoàn trả LĐ1ND+TĐ82BĐQ về BTTM/QLVNCH; lực lượng TK/Long Khánh di chuyển về Phước Tuy (Bà Rịa). Riêng SĐ18BB di chuyển về hậu cứ tại Long Bình (Biên Hòa); sẳn sàng nhận nhiệm vụ mới.
Sau khi nhận lệnh của QĐ, trực thăng chỉ huy (C&C) của TL/SĐ18BB được sử dụng để bay quan sát tình trạng thật sự LTL2 từ Long Giao đến Đức Thạnh (Phước Tuy) vì từ lâu tỉnh lộ nầy không sử dụng. LTL2 dự trù sẽ là lộ trình chính khi rút toàn bộ lực lượng tham chiến khỏi Xuân Lộc (Long Khánh).
Qua 12 ngày đêm ác chiến với CSBV, tuyến thép phòng thủ Xuân Lộc (Long Khánh) vẫn đứng vững. Lực lượng QĐ4/CSBV tham chiến tại mặt trận đã bị thiệt hại nặng nề về sinh mạng, pháo binh, xe tăng, v.v… nên BTL/CD/HCM đã vội vàng thay đổi kế hoạch tiến chiếm SÀIGÒN như sau (xem sơ đồ 1).
- QĐ3/CSBV từ Củ Chi, sử dụng QL22 tiến vào SÀIGÒN theo hướng Tây.
- QĐ2/CSBV sau khi phá vở phòng tuyến Phan Rang, sử dụng QL1 đánh bọc bên hông Xuân Lộc, sử dụng QL15 để vào SÀIGÒN. QĐ2/CSBV thừa thắng xông lên, làm nổ lực chính, tấn công tiến chiếm SÀIGÒN càng nhanh càng tốt theo hướng Đông Bắc.
- QĐ4/CSBV bỏ ngỏ Xuân Lộc, trở thành trừ bị.
- QĐ1/CSBV từ Thủ Dầu Một sử dụng QL13 tiến nhanh vào SÀIGÒN theo hướng Tây Bắc.
- 3 SĐ phía Nam, sử dụng QL4 tiến nhanh vào SÀIGÒN.
27) HÀNH QUÂN LUI BINH
Ngày 20/4/1975, trong buổi họp hành quân khẩn cấp tại BTL/HQ/SĐ18BB, lệnh triệt thoái được Tướng Lê Minh Đảo TL/MT phòng thủ Xuân Lộc (LK) ban hành vắn tắt nhưng đầy đủ như sau:
- LTL2 nối liền Long Khánh và Phước Tuy sẽ dùng làm lộ trình chính, rút quân về Đức Thạnh (Phước Tuy). LTL nầy từ lâu không sử dụng.
- Kế hoạch lui binh sẽ dựa trên 3 nguyên tắc kể sau:
- Lợi dụng bóng đêm để giữ yếu tố bất ngờ
- Vừa đánh vừa rút
- Giữ trật tự, an ninh đến mức tối đa
- Căn cứ Long Giao (Black Horse củ của Mỹ) cách Chi khu Xuân Lộc 8 cây số về hướng Nam, hậu cứ của TRĐ48/SĐ18BB tạm coi như an ninh. Từ đó cách 4 cây số về hướng Nam là xã xôi đậu Cẩm Mỹ, được ghi nhận có 1 TĐ/Địa Phương/VC, hoạt động lưu động trong vùng.
Thứ tự rút quân như sau:
- LLĐN48 do Trung tá Trần Minh Công TRĐ Trưởng/TRĐ48 chỉ huy với nhiệm vụ mở đường.
- BTM/HQ/SĐ18BB+THĐ5KB+các đơn vị yểm trợ kỷ thuật (kể cả 2 khẩu đại bác tự hành 175 ly đặt trên xe bánh xích của QĐ tăng phái) lập thành đoàn Cơ giới do Đại tá Hứa Yến Lến/Tham Mưu Trưởng/Hành Quân/SĐ chỉ huy (13).
- BCH/Tiểu Khu/Long Khánh và các đơn vị trực thuộc do Đại tá Phạm Văn Phúc/Tỉnh Trưởng kiêm Tiểu Khu Trưởng chỉ huy.
- LLĐN43 do Đại tá Lê Xuân Hiếu/TRĐ Trưởng/TRĐ43 chỉ huy.
- LĐ1ND+TĐ2/43 do Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh/LĐT/LĐ1ND chỉ huy (lực lượng đoạn hậu rút sau cùng).
Đội hình di chuyển theo hình chân vẹt để luôn luôn có hỏa lực yểm trợ thường xuyên quân bạn; trực thăng bao vùng suốt đêm do Đại tá Ngô kỳ Dũng/TRĐ52 đảm trách.
Tuyến thép Xuân Lộc (Part 4)
Ngày N (20/4/1975) giờ G (0800 giờ tối)
(Ghi chú)
1) Cuộc hành quân lui binh khỏi Xuân Lộc (Long Khánh) của toàn bộ lực lượng tham chiến là Sư đoàn đã thi hành lệnh của QĐIII+V3CT/QLVNCH để trở về phòng thủ vòng đai an ninh gần SÀIGÒN và phi trường Biên Hòa vì CSBV sau khi không đánh được Xuân Lộc nên đã đi vòng và theo QL15 tiến vào SÀIGÒN qua Biên Hòa. Tinh thần toàn bộ lực lượng tham chiến tại mặt trận Xuân Lộc luôn luôn rất cao, đạn dược đủ loại còn đầy đủ vì vậy hành quân hui binh không phải vì thiếu đạn hoặc tinh thần xuống thấp.
2) Về trực thăng bao vùng đêm 20/4/1975, Tướng Lê Minh Đảo TL/SĐ lệnh cho Đại Tá Ngô Kỳ Dũng (TRĐ52) bay trên “trực thăng chỉ huy” (C&C) để tại Biên Hòa như một “trung tâm điều hợp trên không” để liên lạc và chuyển lệnh của TL/SĐ cho các đơn vị trực thuộc dưới đất vì TL/SĐ cùng đi bộ với LLĐN43 nên việc liên lạc trực tiếp với các cánh quân xa sẽ không rõ và không hửu hiệu.
Cuộc hành quân lui binh được phân chia thành 2 giai đoạn như sau:
- Giai đoạn 1: Hành quân lui binh từ thị xã Xuân Lộc (Long Khánh) về điểm tập trung Đức Thạnh (Phước Tuy) dọc theo LTL2 về hướng Nam.
- Giai đoạn 2: Toàn bộ SĐ18BB di chuyển bằng quân xa từ Đức Thạnh về Long Bình (hậu cứ SĐ) để tái trang bị, tái bổ sung, sẳn sàng nhận nhiệm vụ mới.
A) Trong giai đoạn 1, Tướng Lê Minh Đảo di chuyển bộ cùng với LLĐN 43 để có phản ứng kịp thời khi có biến cố vì lộ trình không an toàn.
Thành phần lực lượng rút quân đợt đầu nhờ đạt “yếu tố bất ngờ” nên đã di chuyển an toàn đến điểm tập trung Đúc Thạnh (Phước Tuy) vào sáng sớm ngày hôm sau (21/4/1975) mặc dầu trên đường rút quân, CSBV đã cố gắng tổ chức phục kích với lực lượng địa phương trên LTL2 với mục đích tiêu hao lực lượng VNCH, làm chậm bước tiến để chờ viện binh lớn (lực lượng QĐ4/CSBV), hy vọng sẽ gây tổn thất cho SĐ18BB để lấy lại uy tín đối với các cán binh trực thuộc. Nhưng với tinh thần chiến đấu anh dũng của quân nhân các cấp trực thuộc SĐ18BB và các đơn vị tăng phái nên đã dễ dàng thanh toán gọn các “chốt” cũng như các “điểm phục kích” của CSBV trên đường rút quân.
(Ghi chú) Một sự việc đáng tiếc xảy ra cho “Tỉnh+Tiểu khu/Long Khánh” là thành phần chính của Tiểu khu gồm Đại tá Phạm văn Phúc/Tỉnh trưởng+Tiểu khu trưởng, Trung tá Lê quang Định/TMT/TK, SQ/B2+B3+SQ/Truyền tin và toán hộ tống đã không di chuyển cùng với BCH/TK/Long Khánh khi rút quân nên đã bị CSBV phục kích. Kết quả: Đại tá Phúc bị bắt sống, Trung tá Định/TMT bị tử thương cùng một số ĐPQ trực thuộc.
Thành phần rút quân đọt 2 gồm LĐ1ND và TĐ2/43 còn đang chạm súng với CSBV; thành phần nầy áp dụng chiến thuật “vừa đánh vừa rút” dưới sự yểm trợ của hỏa lực Phi+Pháo/QLVNCH. Đại tá Lê Xuân Hiếu/LLĐN43 thường xuyên bay trực thăng quan sát bao vùng để hướng dẫn các đơn vị kể trên hành quân về điểm tập trung ấn định.
LĐ1ND, thứ tự rút quân như sau:
- TĐ8ND + BCH/LĐ1ND + các đơn vị yểm trợ kỷ thuật
- TĐ1ND + TĐ9ND sẽ di chuyển cùng với 2 ĐĐ hiện đang chạm địch; trước khi rút quân TĐ sử dụng tối đa hỏa lực pháo binh, bắn dồn dập vào vị trí địch, giả vờ xung phong tiến chiếm mục tiêu, để rồi sau đó “đoạn chiến”, BCH/LĐ + TĐ8ND + TĐ1ND + các đơn vị yểm trợ do Trung tá Lê Hồng/Lữ đoàn phó chỉ huy, hành quân về điểm tập trung ấn định. Liên đoàn trưởng + BCH/nhẹ/LĐ di chuyển cùng với TĐ9ND đoạn hậu.
Tại ngã ba Tân Phong, (CK/Xuân Lộc) những người dân hiền lành tháp tùng lực lượng VNCH để di tản. Thành phần nầy gồm nhiều trẻ em và đàn bà, không tập trung thành đoàn ngủ; 10 quả đạn súng cối 81 ly của CSBV bất thần chụp nổ chát chúa từ trên không xuống ngã ba Tân Phong; hành động nầy đã xác nhận thêm thành tích giết dân vô tội của CSBV.
Cùng thời gian nầy, QĐ4/CSBV đã di chuyển nhanh các đơn vị còn lại để hy vọng tạo thành tích đối với LĐ1ND/VNCH trên đường rút quân. CSBV đã đóng chốt trên ngọn đồi đối diện với căn cứ Long Giao và thỉnh thoảng trực xạ vào cổng căn cứ gây khó khăn cho đơn vị Dù nhưng đã bị lực lượng nầy nhanh tay thanh toán gọn.
Ngày 20/4/1975 hồi 1000 giờ đêm, TĐ8ND+BCH/LĐ+các đơn vị yểm trợ kỷ thuật+ TĐ1ND được lệnh xuất phát hành quân về hướng Long Giao theo LTL2.
Ngày 21/4/1975 hồi 0200 giờ sáng, toàn bộ TĐ9ND+BCH/nhẹ/LĐ bắt đầu rời vị trí sau khi cho nổ “mìn định hướng” (Claymore) để đánh lừa địch. Thành phần nầy đến căn cứ Long Giao hồi 5 giờ sáng.
Địa thế 2 bên LTL2 thuộc phía Nam xả Cẩm Mỹ, phần lớn là những vạt rừng rậm, rừng tre xen lẩn với rừng chồi cao hơn đầu người. Lúc nầy trời đã sáng hẳn, đoàn xe của Đại tá Phúc/Tỉnh trưởng bị phục kích tại đồi Con Rắn (xả Cẩm Mỹ). Một sĩ quan và một số binh sĩ/ĐPQ chạy ngược lại trở lại cho biết “địch rất đông”. Trung tá Định/TMT và một số binh sĩ/ĐPQ bị tử thương, còn Đại tá Phúc/Tỉnh trưởng bị địch bắt; yêu cầu LĐ1ND bắn pháo binh yểm trợ và tiếp cứu.
Sau khi được nghe trình bày tình hình trên, Lử đoàn trưởng Nhảy Dù lệnh cho Pháo đội C yểm trợ ngay cho toán quân của Tiểu Khu Long Khánh thì được Pháo đội trưởng báo cáo: “Địch tấn công và tràn ngập vị trí”. Sau đó có 8 binh sĩ Dù chạy thoát về trình diện và báo cáo: “Địch rất đông; chúng đã bắt Trung úy/Pháo đội trưởng còn Thiếu úy bị mất tích. Một số binh sĩ Dù tử thương.
LĐ1ND báo cáo tình hình lên BTL/HQ/SĐ18BB (lúc đó đã về đến điểm tập trung Đức Thạnh (Phước Tuy) và đề nghị xin phi tuần yểm trợ. Phi cơ quan sát L19 đã lên vùng sau 20 phút; LĐ thông báo tình hình cùng đề nghị mục tiêu oanh kích. Một phi tuần khu trục A37 trút Bomb dọc 2 bên LTL2 và được L19 quan sát thông báo địch rất đông, đang chạy về hướng Đông sau khi bị oanh kích. Hai phi tuần khu trục A37 lần lượt lên vùng, truy kích địch và được L19 cho biết CSBV chết rất nhiều. Phi tuần khu trực thứ 3 được LĐ yêu cầu oanh kích trở lại 2 bên LTL2 để nâng cao tinh thần đơn vị và dân chúng di tản theo.
TĐ8ND sau khi lục soát vị trí Pháo đội C/TĐ3PB/Dù bị CSBV tràn ngập nhận thấy 2 khẩu Pháo 105 ly bị đốt cháy, 12 binh sĩ Dù hy sinh bỏ xát tại chổ và 5 thương binh được săn sóc kịp thời. Riêng tại địa điểm bị phục kích của TK/LK cũng không còn gì ngoài số binh sĩ ĐPQ bỏ xác tại chổ trong đó có Trung tá Định/TMT/TK.
Ngày 21/4/1975 hồi 0600 giờ chiều, LĐ1ND đã về đến điểm tập trung Đức Thạnh (Phước Tuy).
Ngày 22/4/1975 toàn bộ LĐ1ND chấm dứt nhiệm vụ tăng phái cho SĐ18BB; trở về nhận lệnh của BTTM/QLVNCH.
Riêng TĐ2/43/SĐ18BB, sau khi Quận và Chi Khu/Định Quán bị tràn ngập, TĐ2/43 rút về hậu cứ Núi Thị cách Xuân Lộc (Long Khánh) khoảng 6 cây số để nghỉ dưởng quân, trở về hệ thống chỉ huy TRĐ43. Nhiệm vụ kế tiếp của TĐ là bảo vệ các khẩu Pháo hiện đang bố trí tại Núi Thị để tác xạ lừa địch khi rút quân, đồng thời TĐ được đặt dưới sự kiểm soát hành quân của LĐ1ND (đơn vị hành quân lui binh sau cùng). Nhưng cuộc rút quân của LĐ1ND đã thu hút được sự theo dỏi đăc biệt của QĐ4/CSBV và vì bận chiến đấu với lực lượng còn lại của QĐ4/CSBV trên đường rút quân, LĐ1ND quên đi sự giám sát hành quân lui binh của TĐ2/43 vì vậy, Tướng Lê Minh Đảo, TL/SĐ phải bay trực thăng chỉ huy (C&C) và Đại tá Lê Xuân Hiếu Trung đoàn trưởng/TRĐ43 bay trực thăng quan sát, thường xuyên hướng dẩn TĐ2/43 băng rừng hành quân về điểm tập trung Đức Thạnh (Phước Tuy) 3 ngày sau và chịu thiệt hại thêm một số.
Ngày 23/4/1975, TĐ2/43/SĐ18BB đơn vị sau cùng đã về đến địa điểm tập trung Đức Thạnh (Phước Tuy).
B) Trong giai đoạn II – Sau 2 ngày chỉnh đốn lại các đơn vị trực thuộc Sư đoàn tại điểm tập trung Đức Thạnh đến sáng ngày 23/4/1975, toàn bộ SĐ18BB được quân xa chuyên chở về hậu cứ Long Bình (Biên Hòa) để tái trang bị, tái bổ sung, sẳn sàng thi hành nhiệm vụ mới.
28) TỔNG KẾT LỰC LƯỢNG VÀ TỔN THẤT
281) Lực lượng
a) Bạn QLVNCH
SĐ18BB: TRĐ 43 + 48 + 52
3 TĐ/PB105 ly + 1 TĐ/PB155 ly
Đơn vị tăng phái: LĐ1ND: TĐ1 + 8 + 9/ND + TĐ3PB/ND
2 khẩu Đại Pháo 175 ly đặt trên xe bánh xích
TĐ82BĐQ
LL/ĐPQ+NQ/TK/Long Khánh
SĐ3/Không Quân
b) Địch CSBV
QĐ4/CSBV: SĐ6 + 7 + 341
SĐ Pháo 130 ly + Hỏa tiển 122 ly
Sư đoàn xe tăng T.54, xe bọc thép PT.76
Đon vị tăng cường: SĐ325 + Liên Đoàn 75 Pháo đủ loại
Đơn vị Pháo/Phòng Không gắn trên xe
282) Tổn thất
a) Bạn QLVNCH 30% cho tất cả lực lượng tham chiến
60% cho LLĐN52
b) Địch CSBV 5000 đến 6000 thương vong
37 xe tăng và xe bọc thép bị thiêu hủy tại chổ
1 Đại liên Phòng Không gắn trên xe bị tịch thu
(Ghi chú) Tổn thất “địch” đã được cựu Đại tá Harry G. Summers Jr., tác giả đã xác nhận trong quyển sách “Historical Atlas of the VN/War” New York-NY 1995 – Phillip B. Davidson, VN at War – Novato – CA.1988 – P612.
III. PHẦN CUỐI
Với chiến thắng tại mặt trận phòng thủ tuyến thép Xuân Lộc (Long Khánh) 12 ngày đêm ác chiến là trận chiến thắng cuối cùng trong tháng 4 đen 1975 của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (nói chung) và Sư Đoàn 18 Bộ Binh (nói riêng) được thực hiện bởi quân nhân các cấp trực thuộc Sư Đoàn và các đơn vị tăng phái (LĐ1ND, TĐ82BĐQ, LL/ĐPQ+NQ/TK/LK, các Binh Chủng Yểm Trợ Kỷ Thuật, và hỏa lực không yểm chiến thuật của SĐ3/Không Quân) trước khi “giả từ chiến trường” là cố giữ phần đất Tự Do còn lại của miền Nam/Việt Nam, nhưng cuối cùng đã phải “thất bại” vì bị Đồng Minh phản bội.
Miền Nam/Việt Nam lọt vào tay Cộng Sản, chẳng phải trách nhiệm riêng của Chính Phủ/SÀIGÒN mà là thất bại chung của “khối Tự Do, nhất là HOA KỲ!!!
IV. NHẬN XÉT
41) Tổng quát
Lực lượng QĐ4/CSBV tham chiến tại mặt trận Xuân Lộc (Long Khánh) đã bị thiệt hại nặng nề, hàng ngủ lỏng lẻo, tinh thần sa sút nên mặc dầu lực lượng QLVNCH đã hành quân lui binh khỏi Xuân Lộc đêm 20/4/1975 mà mãi đến ngày 26/4/1975 (6 ngày sau) CSBV mới hiện diện tại thị xả nầy.
Ngày 25/4/1975, Tổng Thống VNCH Trần Văn Hương đã vinh thăng đặc cách mặt trận cấp bậc “Thiếu Tướng” (2 sao) dành cho Chuẩn tướng (1 sao) Lê Minh Đảo, Tư Lệnh/SĐ18BB kiêm Tư Lệnh/Mặt Trận Xuân Lộc (Long Khánh) (13) để tưởng thưởng công lao xứng đáng và thành tích xuất sắc đoạt được của SĐ18BB và các đơn vị tăng phái thuộc mọi “Quân Binh Chủng / QLVNCH kể cả ĐPQ+NQ” trong trận chiến thắng tuyến thép Xuân Lộc (Long Khánh) 12 ngày đêm ác chiến với CSBV.
Để trả thù cho lực lượng CSBV đã bị thiệt hại nặng tại mặt trận Xuân Lộc (Long Khánh) Tướng Lê Minh Đảo/Tư Lệnh đã phải trả giá cho hành động dũng cảm trên bằng 17 năm tù cải tạo, sau khi CSBV cưởng chiếm trọn vẹn miền Nam/Việt Nam (30/4/1975). (14)
Sự thành công của cuộc hành quân lui binh của SĐ18BB và các đơn vị tăng phái đã nói lên điểm son của QLVNCH trong giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến. Hành quân lui binh là một hành động hết sức khó khăn, nhất là khi phải lui binh dưới hỏa lực địch. SĐ18BB và các đơn vị tăng phái đã đoạn chiến một cách tài tình để cả Đại đơn vị lui binh một cách an toàn, ít thiệt hại.
SĐ18BB đã lập kế hoạch di chuyển Bệnh xá/SĐ và gia đình binh sĩ trực thuộc về hậu cứ Long Bình (Biên Hòa) trước khi trận chiến xảy ra; điểm khác biệt nầy chính là ranh giới giữa “thành công” và “thất bại” so với hai cuộc hành quân lui binh của các lực lượng thuộc QĐ1 và QĐ2/VNCH. (2).
  Chiến thắng Xuân Lộc (Lơng Khánh) đã kết thúc một cách hào hùng trong Quân sử chót của QLVNCH; người ta sẽ càng ngạc nhiên và thán phục hơn khi biết rằng SĐ18BB không phải là một Đại đơn vị kỳ cựu, vũ bảo hàng đầu của Quân Đội mà chỉ là một Sư Đoàn Bộ Binh bình thường như các SĐ/BB khác của QLVNCH. Thực thế đây là một sư đoàn tân lập vào tháng 5/1965; và mùa hè 1972, Đại tá Lê Minh Đảo được chỉ định chỉ huy SĐ18BB đến ngày 30/4/1975. (2)
Theo các bản lượng giá định kỳ hàng tháng của các sĩ quan cao cấp Mỹ được gọi tắt là “SAME” thì trong năm 1967, SĐ5+7+18/BB là 3 Đại đơn vị yếu kém nhất của QLVNCH. (15)
Quân kỳ/SĐ được tưởng thưởng “1 Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu” năm 1972 nhưng đến năm 1975, Quân kỳ/SĐ được tưởng thưởng “3 Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu” và được vinh dự mang “Giây Biểu Chương màu Quân Công Bội Tinh” (màu xanh). Năm 1974, SĐ18BB đã được bình bầu và tuyên dương “Đơn Vị Xuất Sắc” của QLVNCH.
Với Đồng Minh của VNCH thì chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt trước cuộc hành quân lui binh khỏi Xuân Lộc (Long Khánh) của SĐ18BB và các đơn vị tăng phái (20/4/1975). Ngày 18/4/1975, Ủy Ban Quốc Phòng/Thượng Viện/Hoa Kỳ biểu quyết bác bỏ đề nghị viện trợ khẩn cấp cho Việt Nam Cộng Hòa. (19)
Tuyến thép Xuân Lộc (Part 5)
42) Cá nhân
Trong quyển sách vinh danh QLVNCH với tựa đề “Cái chết của Nam/VN”, ông Phạm Kim Vinh đã chuyển ngữ lời nhận xét của 4 nhà trí thức ngoại quốc về mặt trận Xuân Lộc như sau: (16)
A. Dawson, trưởng phòng Thông tin của hảng UPI tại Sàigòn đã viết: “Lúc địch quân bắn 3000 quả đạn đại bác vào Xuân Lộc thì Tướng Đảo không có mặt tại đó. Nhưng ông đã nhanh chóng đến nơi lúc binh sĩ của ông đang giao tranh tại đường phố để kiểm soát thị xả. Hỏa lực của hai bên đều rất dữ dội. Trong vài giờ đầu, SĐ18BB phải rút bỏ một phần thị xả, nhưng sau đó đã phản công để chiếm lại; đến tối thì SĐ6/CSBV phải gom quân và triệt thoái để chuẩn bị cho một cuộc tấn công khác. Trận đánh kéo dài từ ngày nầy qua ngày nọ và cứ thế… Tướng Đảo và binh sĩ của ông đã đánh một trận quyết liệt mà ít người dám nghỉ rằng họ có thể làm được. CS tung vào Xuân Lộc một sư đoàn nữa. SĐ18BB vẫn tiếp tục chống cự. Ngày 10/4/1975, Cộng quân lại đánh vào giữa thị xã và lại bị đẩy lui. Ngày 12/4/1975, quân CSBV vẫn không tiến chiếm được chút nào. Hai Trung Đoàn của Quân Đội Nam/Việt Nam không những đã giữ vững được vị trí mà còn phản công dử dội hơn. Thêm 3000 quả đạn đại bác nữa rót vào Xuân Lộc xé nát mọi vật. SĐ18BB vẫn đứng vững. Tướng Đảo ở lại bên cạnh các binh sĩ của ông và tiếp tục chiến đấu.
D. Warner, ký giả kỳ cựu của Úc đã viết: “Với 3 SĐ6+7+341/CSBV, Văn Tiến Dũng tin tưởng sẽ chiếm được Xuân Lộc một cách dể dàng nhưng ông đã lầm. SĐ18BB chưa bao giờ được xem là một sư đoàn thiện chiến của miền Nam/Việt Nam, trái lại có lần sư đoàn nầy còn được xem là một sư đoàn tệ nhứt. Thế mà trong những ngày cuối cùng của chiến tranh Việt Nam, Sư đoàn nầy đã chiến đấu một cách dũng cảm; không những họ đã giữ vững được trận địa mà lại còn phản công mổi ngày. Tuy nhiên không phải chỉ có SĐ18BB đã anh dũng chiến đấu đến giờ phút cuối cùng mà còn nhiều đơn vị khác của QLVNCH như giáo sư người Mỹ…
A.T. Bouscaren đã viết: “Mặc dầu thiếu thốn đủ mọi thứ cấn thiết để chiến đấu nhưng các SĐ5+18+25/VNCH và các SĐ/ND+TQLC+BĐQ, v.v… đã chiến đấu thật hay. Tại Gò Dầu Hạ, đại bác 105+155ly của Quân Đội Nam/Việt Nam chỉ được sử dụng vài viên cho mổi khẩu; các chiến đấu cơ/Không Quân không thể yểm trợ liên tục vì thiếu nhiên liệu; Bộ Binh do đó đã phải tự lực chiến đấu, v.v…
P. Darcourt (sử gia người Pháp) đã nhận xét: “Cộng quân có một đơn vị phòng không hùng mạnh trên xe kéo; các phi công Nam/Việt Nam phải đối diện với nguy hiểm khi yểm trợ cho quân bạn dưới đất. Tại Xuân Lộc quân bạn dưới đất đã sáp chiến với địch và PB/CSBV đã tác xạ hơn 6000 trái đạn đại bác liên tiếp trong 2 ngày vào các vị trí của SĐ18BB; liên lạc vô tuyến với BCH của Tướng Đảo lúc đầu bị gián đoạn rồi sau đó được tái lập. Quân của ông bám sát trận địa, chiến đấu cực kỳ dũng mảnh và nhứt định không lui mặc cho những trận mưa lửa cứ trút lên đầu họ.
Tướng Văn Tiến Dũng/TL/CD/HCM đã phải ngạc nhiên viết tiếp khi lực lượng QĐ4/CSBV phải dừng lại tại mặt trận Xuân Lộc (Long Khánh) (14): “Kế hoạch tấn công Xuân Lộc của QĐ4/CSBV lúc đầu chưa tính hết được sự phát triển phức tạp của tình hình, chưa đánh giá hết tính chất ngoan cố của địch. Tính chất giằng co ác liệt qua trận đánh nầy không phải chỉ trong phạm vi của Xuân Lộc nửa rồi. Nó liên quan đến việc “mất hay còn” của ngụy quyền SÀIGÒN, đến việc “giẩy chết” của chế độ Thiệu. Việc tổ chức, chỉ huy và tiến hành các cuộc chiến đấu của ta không thể làm như củ được nữa. Cách đánh cũng cần phải thay đổi cho phù hợp với tình hình lúc đó.
Lê Đức Thọ, trưởng ban tổ chức BCT/TU/ĐCSBV cũng phải thú nhận (3) “Sau 2 lần B2 xin thêm quân thì tôi vào chiến trường gặp lúc hội nghị Miền cũng vừa kết thúc. Tôi được nghe anh em báo cáo lại là đã bàn về việc đánh Xuân Lộc. Tôi có tham gia với anh Dũng và các đồng chí rằng: “Vội gì mà phải đánh Xuân Lộc vào lúc nầy.” Hiện nay ta đang điều quân và các cánh quân cũng đang trên đường hành quân gấp. Đánh SÀIGÒN thì các nơi tự khắc tan rả và tạo điều kiện rất thuận lợi cho chúng ta đánh địch. Anh Văn Tiến Dũng nói: “Tôi cũng thấy như vậy. Nhưng anh em đã quyết định rồi. Tôi mới vào chưa nắm được cụ thể tình hình. Thôi cứ để anh em đánh. Lúc ấy tôi cũng được biết trước đó, theo chủ trương của Miền, anh em đã đánh Thủ Thừa, đường số 4, bị thiệt hại nặng không giải quyết được chiến trường. Ngoài ra còn có bọn địch ngoan cố chống cự như trận đánh vào Đồng Dù và Nước Trong là các trận đánh ác liệt tại miền Đông, thương vong của ta không phải là ít. Do đó tôi mới có ý toan bàn với các đồng chí ngưng đánh Xuân Lộc. Nhưng nghe anh Dũng nói, tôi cũng nghỉ có thể mình mới vào, chưa rõ hết tình hình, cứ để các đồng chí đánh vậy. Kết cục là anh em cũng không đánh được Xuân Lộc bị thương vong nặng, phải rút ra. Thực tế diển biến chiến đấu sau đó, chứng tỏ việc đánh Xuân Lộc lúc ấy là chưa cần thiết.”
Robert D. Hein (ký giả người Mỹ) đã viết: “Dầu sao thì các Sư đoàn của Nam/Việt Nam cũng đã chiến đấu tuyệt vời năm 1972 và bị đối phương tấn công tới tấp để rồi 3 năm sau, đối phương mới đánh bại được quân của Nam/Việt Nam. Chắc chắn là tinh thần của Quân lực Nam/Việt Nam suy sụp vì cái ý nghĩ bị bỏ rơi và sự sụp đổ xảy ra là vì Quân đội miền Bắc được 2 đại cường quốc CS giúp đở tận tình để trắng trợn xâm chiếm miền Nam/Việt Nam.” (“All Quiet On The Eastern Front” do Devin-Aldair xuất bản năm 1977, trang 47).
Tướng Westmoreland. Trong cuốn “All Quiet On The Eastern Front” do Devin-Aldair xuất bản năm 1977, trang 47, tác giả A.T. Bouscaren trích dẩn lời truy điệu của Tướng Westmoreland nguyên Tư lệnh các lực lượng Đồng Minh tham chiến tại Việt Nam về cái chết của Nam/Việt Nam như sau: “Sau những hy sinh chồng chất kéo dài suốt nhiều năm, lẽ ra Nam/Việt Nam xứng đáng nhận được cái chết cao cả hơn thế. Sự thất bại nầy do một số nguyên nhân gây ra như sau: “Thỏa hiệp ngưng bắn để mặc cho quân Bắc Việt hiện diện tại Nam/Việt Nam; sự sa sút tinh thần của Nam/Việt Nam khi biết rằng bị bỏ rơi trong khi phía Bắc Việt được tiếp tế đều đều bởi hai cường quốc Cộng sản. Yếu tố then chốt là nước Mỹ không hành động gì.
Tướng Pháp hồi hưu “Vanuxem” Tư lệnh mặt trận Bàn Yên Nhân (gần Hànội mùa Xuân năm 1954 đẩm máu) không đầy 6 tháng, sau khi Việt Nam sụp đổ đã ghi rõ trong cuốn “La deuxieme Mort du Viet Nam” rằng: “Trong chiến tranh Việt Nam, cứ mổi 8 phút lại có một chiến sĩ Quốc gia tử trận và sau khi “thỏa hiệp ngưng bắn Paris” ra đời (27/1/1973) Nam/Việt Nam hoàn toàn chiến đấu một mình để mổi tháng phải đặt mua 3000 quan tài chôn tử sĩ. Số thương vong năm 1974 đã vượt xa số thương vong năm 1968 (Guenter Lewy-America in Viet Nam, trang 207). Sau khi nêu những con số rùng rợn trên đây, Tướng Vanuxem đặt câu hỏi: “tại sao vẫn còn những kẻ cứ nặng nặc la lối rằng Nam/Việt Nam không chịu chiến đấu.”
Tướng Vanuxem nói thêm: “Chỉ riêng cho năm 1974, Bắc Việt nhận được đồ tiếp tế trong số đó có “1500 xe tăng loại T.54+T.55+T.59 + 600 đại bác hạng nặng + gần 2000 phi đạn SAM + hơn 240.000 tấn đạn và một số tàu phóng ngư lôi. (17)
Tướng Trần văn Trà, Tư lệnh QĐ4/CSBV tham chiến tại mặt trận Xuân Lộc (Long Khánh) đã thú nhận (18): “Các báo cáo cho biết các mủi tiến triển tốt, ta chiếm được nhiều mục tiêu. Nhưng vào cuối ngày 10/4/1975 trở đi, tình hình trở nên căng thẳng. Địch phản kích điên cuồng tuy chúng bị thiệt nặng. Máy bay địch đánh phá ác liệt có tính chất hủy diệt mục tiêu chúng đã mất. Quân Đoàn đã kêu thiếu đạn các loại, nhứt là SĐ6+SĐ341 riêng SĐ7 thì thiếu quân số; tình hình rất gay go. Các đồng chí Phạm Hùng và Văn Tiến Dũng và cả anh Lê Đức Thọ, rất lo lắng khi thấy địch càng tập trung thêm lực lượng và ta có vẻ khựng lại. Chiếm mục tiêu không nhanh gọn. Hoặc bị đẩy lui.”
Đại tá William E. Le Gro, nhân chứng giờ hấp hối của Nam/Việt Nam cuối tháng 4 năm 1975. Ông ta phục vụ tại Trung Tâm Quân Sử của Lục Quân/Mỹ đã kết luận: “Lấy từng đơn vị so với từng đơn vị; lấy từng cá nhân so với cá nhân, thì các lực lượng của Nam/Việt Nam liên tiếp tỏ ra trên chân các lực lượng đối phương. Nhưng sự lãnh đạo Quân sự và Dân sự cấp cao nhứt của Nam/Việt Nam không có, cũng như không có sự yểm trợ tinh thần và vật chất kiên trì của Mỹ.”
Leslie Gelb, ngày 20/3/1975 trên tờ báo New York Times đã nhận định: “Người ta đồng ý rằng trong 2 năm qua, Nam/Việt Nam đã phải chết nhiều hơn trước để bù lấp sự cắt giảm hỏa lực yểm trợ. Các cấp chỉ huy trẻ và Hạ sĩ quan chết nhiều nên đã đưa tới nạn thiếu hụt trầm trọng về cấp chỉ huy. Sự thiếu hụt ấy làm cho tinh thần binh sĩ sa sút thêm. Quân Lực Nam/Việt Nam càng ngày càng tức giận vì cái cảm tưởng bị Đồng minh Mỹ đã bỏ rơi rồi lại còn không hề phản ứng trước các sự vi phạm trắng trợn của Hànội sau thỏa hiệp ngưng bắn 27/1/1973. Quốc hội và báo chí Mỹ gia tăng sự nhục mạ Nam/Việt Nam khi cứ đều đều kết tội Nam/Việt Nam là không chiến đấu, là không đáng được giúp đở. Tất cả những điều nầy khiến cho Nam/Việt Nam cảm thấy bị phản bội và thấy ý chí chiến đấu suy yếu.”
Solzhenitsyn, văn hào Nga lưu vong, gởi cho thế giới tự do lời truy điệu trong cuốn sách mới nhứt của ông có tựa đề: “Lời cảnh cáo gởi Tây phương”. Đặc biệt trong cuốn sách nầy, ông ta gay gắt lên án thế giới vì đã bất công trong sự xét đoán ý chí của Nam/Việt Nam. Ông ta viết: “Sau sự sụp đổ của Nam/Việt Nam năm 1975, ta thường được nghe những lời giải thích “chúng ta không thể bảo vệ những kẻ không cố ý và không có khả năng tự bảo vệ tới tài nguyên nhân lực của chính mình; chúng ta không nên bảo vệ những kẻ không có nền dân chủ đầy đủ”. Quả thật đó là những lời giải thích kỳ quái. Thế giới đã làm gì khi Cộng sản miền Bắc trắng trợn xâm lăng Nam/Việt Nam.
Bùi Diễm, nguyên Đại sứ lưu động của VNCH, đã ghi lại cảm nghỉ như sau (19): “Lực lượng Bắc Việt với số lượng quân cụ to tát của Xô Viết và Trung Hoa đã phô bầy ra khi từng đoàn quân CSBV tiến theo các quốc lộ chính. Điều kiện rất thuận lợi cho các cuộc “không tập”.
Chỉ cần sự can thiệp của Không quân Mỹ (sự can thiệp mà Nixon và Kissinger đã hết lòng hưá hẹn với “Tổng Thống Thiệu” năm 1973) để tiêu diệt các đoàn quân nầy, làm tê liệt khả năng tác chiến của CSBV trong nhiều năm. Tại Xuân Lộc (Long Khánh) chu vi phòng thủ xa Sàigòn, SĐ18BB của miền Nam/Việt Nam đã đẩy lui tất cả các cuộc tấn công của địch quân.
Sự kiện xảy ra tại miền Nam/Việt Nam, hoàn toàn tuỳ thuộc vào Quốc Hội sắp tái nhóm. Một Quốc Hội quá chán ngán chiến tranh và mệt mỏi vì đã yểm trợ một đồng minh có quá nhiều khuyết điểm. Tại Hoa Thạnh Đốn, tôi cũng còn chút hy vọng mong manh có được từ phái đoàn của Tướng Weyand (đang công tác tại Việt Nam) nhưng hy vọng trên lại vụt tắt ngay ngày 11/4/1975 (2 ngày sau khi phái đoàn Weyand trở lại Mỹ, được biết “đề nghị chuẩn chi viện trợ khẩn cấp cho VNCH bị bác bỏ”. Việc phủ quyết sau cùng đã đánh dấu việc bỏ rơi Đồng Minh của Huê Kỳ. Những binh sĩ đang chiến đấu can trường tại Xuân Lộc (Long Khánh) cũng như hàng triệu người Việt Nam tị nạn đang trốn chạy Cộng Sản đều không biết rằng “án tử hình” của họ đã được “tuyên bố” trên đồi Capitol.
V) CẢM TƯỞNG CỦA THIẾU TƯỚNG “LÊ MINH ĐẢO” TƯ LỆNH MẶT TRẬN XUÂN LỘC (LONG KHÁNH) ĐỂ THAY CHO LỜI KẾT CỦA BÀI VIẾT NẦY
“Chiến thắng Xuân Lộc chứng tỏ cho thế giới thấy rằng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không phải là không chịu đánh mà rất chịu đánh. Anh em chiến sĩ không bao giờ chấp nhận một sự bại trận dù trong tình thế tuyệt vọng; họ đã chứng tỏ hùng hồn cho thế giới thấy là họ đã đánh một trận “tuyệt vời” như thế nào tại Xuân Lộc.
Cuộc chiến đấu của QLVNCH là một cuộc chiến đấu quá chính đáng và cần thiết. Chính nhờ cuộc chiến đấu nầy mà miền Nam/Việt Nam đã được sống thanh bình, ấm no trong vòng hơn 20 năm qua, nhân phẩm con người được tôn trọng.
Trước hết, tôi muốn nói đến tâm hồn cao thượng của người chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa. Họ hy sinh cho người khác sống. Họ sẳn sàng hy sinh sanh mạng mà họ không oán trách, không hận thù cả địch, cả những cấp lãnh đạo chỉ huy đã không chăm sóc họ đúng mức.
QLVNCH cao cả lắm, đời đời chúng ta hãy ngẩng mặt lên. Chúng ta phải thấy được sự kiêu hùng của QLVNCH.
Ở thế hệ của chúng tôi tri ân những người đã hy sinh; các em thanh niên là thế hệ kế tiếp cũng biết ơn họ; sau nầy những thế hệ con em chúng ta cũng sẽ nhớ ơn họ mãi mãi. Đó là những người con yêu của Tổ Quốc chúng ta.
Trời Việt Nam, đất Việt Nam cũng đồng tình với chúng ta!!! (13)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Nguyễn Tấn Hưng & JL Schecter - Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập, C&K Promotions, Inc. California 1986 – Moshe Dayan (Chương XXII - trang 594) – “Hưng” phỏng vấn Eric Von Marbod, 10/5/1985 (Chương XXI – trang 573)
2) Nguyễn Đức Phương - Chiến Tranh Việt Nam (toàn tập) trang 551+577+792 - Làng Văn - năm 2001
3) Tập san “Lịch sử Quân sự” (số 3) Bộ Quốc Phòng/Viện lịch sử Quân Đội CSBV Hànội 1988
4) Người đất đỏ, nhìn lại những ngày, tháng 4/1975 - Xuân Lộc đã chiến đấu như thế nào? VNTP số 270
5) C. Doughan and D. Fulghum – The Vietnam experience – The Fall of the South – Boston Publishing Co – Boston 1985
6) Nguyễn Văn Đỉnh - Hồi ký chiến trường - LĐ1ND tại mặt trận Xuân Lộc (Long Khánh) - Tuần báo VN/Mới số 485 đến 493/2000
7) W.E Le Gro – Viet Nam from Cease-Fire to Capitulation (trang 174) – US Government Printing Office – WA/DC 1985
8) O. Todd Cruel – April – The Fall of Saigon – WW Norton & Co – New York 1990
9) Ý Yên - Trận Đánh Đồi Móng Ngựa - Sàigòn Post
10) Phạm Huấn “Những uất hận trong trận chiến mất nước 1975” - Tác giả xuất bản – California 1988
11) Tobin Carter – Daisy Cutter in Viet Nam 1989 – Arsenal VN/Summer (trang 12+14)
12) H. Nam - Mặt Trận Đông Bắc/Sàigòn – nxb. Văn Học/TP.HCM năm 1978
13) Phạm Phong Dinh – TT/Lê Minh Đảo và cuộc chiến đấu cuối cùng tại MT/Xuân Lộc (Long Khánh) tháng 4/1975 - Chiến sử QLVNCH – trang 187 đến 197, nxb Xuân Thu 1988
14) Văn Tiến Dũng - Đại Thắng Mùa Xuân – nxb Quân Đội Nhân Dân - Hànội 1976
15) J.J. Clarke – Advice and Support – The Final Year 1965-1973 – US Gorvernment Printing Office – WA/DC 1988
16) Phạm Kim Vinh – Cái Chết của Nam/Việt Nam (những trận đánh cuối cùng) trang 342-344-345, nxb. Xuân Thu – California 1988
17) Vanuxem – La Deuxième Mort du Viet Nam – trang 44, nxb. Paris 30/4/1975
18) Trần văn Trà - Kết thúc chiến tranh 30 Năm - nxb. Văn Nghệ TP/HCM 1983
19) Bùi Diễm & Chanoff - In the Jaws of History – nxb. Houghton Mifflin – Boston 1987 – University Press – Indiana 1999 – Gọng Kềm Lịch Sử, nxb. Phạm Quang Khải năm 2000.
Tran Chien Xuan Loc - SU DOAN 18 BO BINH/QLVNCH
Lính Sư Đoàn 18 Bộ Binh

Giờ nầy anh ở đâu? 

Binh Chủng Nhảy Dù 20 Năm Chiến Sự
Mặt trận Long Khánh
9 – 21 /4/1975
Nhật tu ngày 21/5/2007


Trận Chiến Cuối Cùng Tuyến Thép Xuân Lộc
9 tháng Tư-20 tháng Tư 1975