20190421 Bản tin biển Đông
Việc dân Việt tiến hành đưa rợ hán ra toà án quốc tế về
việc cướp biển Đông chỉ còn là thời gian mà thôi. Để cứu vãn tình trạng nầy rợ
hán đang cố dựng lên một “dân tộc Kinh” tại hải ngoại để có thể phá đòn “lôi đầu
rợ hán” ra toà án quốc tế, phối hợp với kế hoạch nầy là thay ngựa Trọng lú và cho
một tên khác lên vì nhiệm vụ “ký” của Trọng lú đã xong rồi. Phải nhờ một tên khác
lên “ký tiếp” bàn giao trọn vẹn Việt Nam cho rợ hán.
Nghi Thức Phủ Quốc Kỳ Cho Anh Hùng Lý Tống
Tại sao nên kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế về chủ quyền
Biển Đông?
Khúc dạo đầu cải cách của Tập Cận Bình
Tin động trời! Nǥuγễn Рhú Trọnǥ bị ám sát bằng chất
hóa học VX
Tại sao nên
kiện Trung Quốc ra tòa quốc tế về chủ quyền Biển Đông?
Tác giả: Hồ Bạch Thảo
Người có lương tâm
trên thế giới, đều công nhận việc Trung Quốc ngang nhiên vẽ đường 9 đoạn giành
chủ quyền hầu hết lãnh hải tại Biển Đông, là hành động chà đạp lẽ phải. Nhưng
nói đến việc kiện Trung Quốc thì một số người còn ngần ngại, vì sợ nước này gây
khó khăn, họ thường nại cớ rằng cha ông mình thời xưa đánh thắng họ, vẫn sang
triều cống, “tránh voi chẳng xấu mặt”. Xin thưa mỗi thời một khác: thời
xưa nước mình đơn độc, không có đồng minh; đối với nước Trung Quốc lớn hơn hàng
chục lần phải thực hiện sách lược ‘độc lập thật, thần phục giả’; cứ vài năm sai
sứ sang triều cống vài con voi có sẵn trên rừng, một ít tấm quyên, tấm lụa, xin
cầu phong, để yên mà sống. Như vậy còn rẻ hơn so với nước Tống đất rộng
văn minh, hàng năm phải nạp cho bộ tộc Liêu mọi rợ phương bắc 20 vạn xấp lụa,
mười vạn lượng bạc, Vua Tống phải xưng làm anh em với Liêu, trong hòa ước gọi
là “ Thiền Uyên chi minh”!
Thời nay nước Việt Nam
liên lạc ngoại giao với 185 nước trên thế giới; một số các nước đang hợp tác
với Hoa Kỳ tạo thế “hợp tung, liên hoành”,[1] để
mong bủa lưới ngăn chặn, hoặc đánh bắt con cọp Trung Quốc lăm le phá hoại sự
bình yên trên thế giới. Xét thời cơ hiện tại, Trung Quốc chẳng dám làm gì mình;
vả lại đây là cuộc tranh đấu ngoại giao hợp pháp, Trung Quốc không có cớ để gây
hấn; xin quí vị hãy bạo dạn lên.
Kiện Trung Quốc có
chắc thắng không? Xét về phương diện lịch sử, khả năng thắng rất lớn; xin phép
được vắn tắt trình bày, cùng những tài liệu kèm theo để chứng minh:
-Qua sự tìm tòi trong
24 bộ chính sử Trung Quốc, được gọi là Nhị Thập Tứ Sử , cùng
các bộ Chí [địa lý] của Trung Quốc qua các đời, để soạn bài khảo cứu nhan
đề Qua sử chí Trung Quốc, hãy tìm hiểu về chủ quyền nước này tại Biển
Đông,[2] chúng
tôi khẳng định rằng Trung Quốc không có chủ quyền biển từ đảo Hải Nam xuống
phía nam, và phía tây từ đảo Hải Nam đến Việt Nam.
-Lý do bởi qua các
triều đại, Trung Quốc bị người Nhật Bản thường xuyên xâm lăng vùng duyên hải, sử
Trung Quốc gọi là “giặc Nụy”;[3] quân
đội hành quân biển luôn luôn bị thua, nên phải thực hiện chính sách bỏ biển rút
vào đất liền. Các nhân vật Từ Hải, Thúy Kiều, Hồ Tôn Hiến, trong tuyệt tác của
cụ Nguyễn Du là những nhân vật có thực ngoài đời; Từ Hải là tướng cướp từng hợp
tác với “giặc Nụy” ngoài biển, riêng cô Kiều nhảy xuống hồ tại tỉnh
Chiết Giang cùng chết với Hải, vụ việc xảy ra do sự thất hứa của Tổng đốc Hồ
Tôn Hiến. Việc cấm biển[4] của
Trung Quốc được thực hiện qua những văn kiện tiêu biểu như sau:
“ Cấm biển :
Phàm những đất canh tác ngoài biển bị cấm; những cư dân gần biển không được
vụng trộm đến các đảo tụ tập canh tác, rồi chứa chấp bọn gian.” (Khâm
Định Đại Thanh Hội Điển quyển thứ 65)[5]
Thời nhà Thanh, việc
cấm biển thực hiện một cách khá quy mô, bằng cách hoạch định giới tuyến dọc ven
biển, rồi cưỡng bách di cư tất cả dân chúng thuộc phía ngoài giới tuyến vào
trong nội địa. Khang Hy Thực Lục ghi lại sự việc như
sau:
“ Tháng 3 năm
Khang Hy thứ 17[1678]… Dụ các Vương, Đại thần họp bàn việc chính
trị : “Giặc biển bàn cứ tại các xứ như Hạ Môn [Xiamen, Phúc Kiến],
cấu kết với giặc trong núi, phiến động mê hoặc địa phương, nguyên do dựa vào
dân ven biển tại vùng tỉnh Phúc Kiến. Đáng theo lệ vào năm Thuận Trị thứ 18 [1661] lập
ranh giới, đem dân chúng ngoài ranh giới đồng loạt di cư vào nội địa; thân sức
cấm biển nghiêm, tuyệt đường giao thông. Nhưng dân nghèo khổ, một lần dời chỗ
ở, phải bỏ ruộng vườn, khó mà mưu sinh, riêng đem lòng trắc ẩn. Nay cho miễn
hết các ngạch thuế, dao dịch, tạp dịch; các viên Tổng đốc, Tuần phủ giao cho
viên chức có khả năng liệu lý, để định cư vào đúng chỗ, khiến không bị khổ luỵ.”[6]
Với chính sách cấm
biển như vậy từ đời Minh, Thanh; Trung Quốc đã bỏ các đảo sát nách đất
liền như Châu Sơn [zhowshan], trấn Kim Đường [ Jintang Island], đảo Ngọc Hoàn
[Yuhoan] thuộc tỉnh Chiết Giang; Hạ Môn [Xiamen] thuộc tỉnh Phúc Kiến; từ đầu
đời Thanh trở về trước Đài Loan không nằm trong lãnh thổ Trung Quốc ; còn vùng
biển xung quanh đảo Hải Nam thì thuộc Việt Nam. Từ sử, chí Trung Quốc; có thể
chứng minh rằng qua sách lược nêu trên chứng tỏ nước này không đoái hoài đến
biển cả. Nhưng rồi thời thế đổi thay, vào đầu thế kỷ thứ 20, sau khi ngửi thấy
tiềm năng lớn của biển, nhà cầm quyền Trung Quốc bắt đầu gióng trống khua
chiêng nêu chủ quyền tại đảo Hoàng Sa, Trường Sa của ta; để đến gần đây trong
cuộc gặp mặt Tổng thống Mỹ Obama, Chủ tịch Tập Cận Bình lớn tiếng nói rằng
Trung Quốc đã có chủ quyền từ thời xa xưa, không thể tranh cãi!
Xin lưu ý việc Trung
Quốc không đoái hoài đến biển cả, không phải một mình chúng tôi nêu ra; ngay cả
Học giả Trung Quốc Thượng tướng Lưu Á Châu, con rể cố Chủ tịch Trung Quốc Lý
Tiên Niệm, cũng khẳng định nhiều lần rằng:
“Cái chìa khoá
khiến Trung Quốc mất quyền ở biển, do trải qua các triều đại thống trị không có
quan niệm về chủ quyền biển”[7]
Các sử chí Trung Quốc
chép về lãnh thổ của họ đã đành, lại còn chép về biển và đất liền Việt Nam.[8] Sách Đại
Minh Nhất Thống Chí [大明一統志], quyển 90, trong mục “Biển” chép rằng
“biển: bao bọc phía đông nam các phủ Giao Châu.” [海〈環交州等府東南]; rồi chép tiếp
bài “Độ Hải Thi” của Thẩm Thuyên Kỳ. Nguyên do vào đời Đường năm Thần
Long thứ nhất (705) Thẩm Thuyên Kỳ bị đày sang châu Hoan [Nghệ An], thuộc An
Nam Đô Hộ phủ. Lúc đến nơi, ông làm bài thơ Độ hải Thi theo
thể Ngũ ngôn luật, trong đó diễn tả một cách rõ nét hình ảnh đền Sùng Sơn[9] tại
thị trấn Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa, vị trí có thể phóng tầm mắt chiêm ngưỡng cửa
biển Thần Phù, nơi giáp giới tỉnh Ninh Bình; đón nhận làn gió nam từ Trướng Hải
thổi đến:
Bắc Đẩu Sùng Sơn quải,
Nam phong Trướng Hải
khiên.[10]
Dịch nghĩa
Sao Bắc Đẩu treo lững
lơ trên đền Sùng Sơn, Thanh Hóa,
Gió nam từ Trướng Hải
dẫn đến nơi này.
Thời Tiền Lê, trong
cuộc tiếp xúc với Sứ thần Trung Quốc Lý Nhược Chuyết vào năm Bính Thân [996],
vua Lê Đại Hành đã khẳng định chức phận của An Nam là giữ an ninh biển Trướng
Hải. Tổng sử [宋史, History of Song] quyển 488, Liệt truyện Giao Chỉ,
trích dẫn như sau :
“ Hoàn [tên
Vua Lê Đại Hành] ngạc nhiên dời chiếu đứng dậy nói : Hải tặc phạm biên,
là tội của thủ thần ; Thánh quân khoan dung, ơn quá cha mẹ, không gia tru
phạt. Từ nay cẩn thận giữ chức phận đã giao, giữ yên nơi TrướngHải.”[11]
Lời nói của Vua Lê Đại
Hành khẳng định Trướng Hải thuộc Việt Nam và Vua ta đã hứa với vua Tống giữ gìn
an ninh vùng biển này.
Riêng sử chí nước ta,
có rất nhiều tư liệu đề cập đến Hoàng Sa và Trường Sa. Trong các bài viết
Tư liệu xưa liên quan đến Hoàng Sa, Trường Sa[12]đăng
trên tạp chí Diễn Đàn, chúng tôi đã sao lục cùng trích dịch 9 tư liệu trong các
tác phẩm sau đây: 1.Toản tập Thiên Nam Tứ Chí Lộ Ðồ thư, 2. Hồng Ðức Bản Ðồ,
3.Phủ Biên Tạp Lục, 4.Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí, 5.Hoàng Việt Ðịa Dư
Chí, 6.Ðại Nam Thực Lục, 7.Khâm Ðịnh Ðại Nam Hội Ðiển Sự Lệ, 8. Ðại Nam Nhất
Thống Chí, 9. Ðại Nam Nhất Thống Toàn Ðồ.
Bước kế tiếp xin đề
cập đến việc thắng kiện Trung Quốc ta sẽ được lợi gì?
Trước mắt dương cao
chính nghĩa của ta, chính nghĩa hàm chứa lẽ phải, tạo ra sức mạnh; người xưa
nói rằng “kiến nghĩa bất vi vô dõng dã”; một khi ta có chính nghĩa thì
đối phương trở thành phi nghĩa, sẽ lãnh hậu quả ngược lại. Điều thứ 2, ta thắng
kiện, các nước trên thế giới biết đến lẽ phải về ta, ắt phải gia tăng sự ủng
hộ; hãy dùng kết quả của vụ kiện làm vũ khí, liên tục tấn công về ngoại giao.
Điều thực dụng nhất,
có được văn kiện quốc tế chứng nhận chủ quyền Hoàng Sa, Trường Sa; xin hãy ung
dung chờ đợi thời cơ. Trong hoàn cảnh thời cuộc hiện nay biến đổi nhanh như
“ mang hia vạn dặm”; trên trời máy bay, dưới biển tàu chiến qua lại
dồn dập, có thể va vào nhau đột ngột, “cái sảy nảy cái ung”, nổ ra Thế
chiến III trong chớp mắt. Rút kinh nghiệm 2 lần Đại Chiến trước, sau khi kết
thúc; bên thắng cuộc sắp xếp lại bàn cờ thế giới, kẻ có công được chia nhiều
quyền lợi đã đành, những nước khéo thu xếp, có bằng chứng hẳn hoi cũng giành
được quyền lợi không nhỏ; giả sử lúc đó ta có văn bản chứng nhận chủ quyền Biển
Đông đưa ra, tất nhiên sẽ được ưu đãi. Ngày họp quốc tế, cũng như ngày hội làng
xã tại nước ta thời xưa; sẽ có xôi, thịt chia ra; kẻ thì được chia thủ, nọng;
có người chỉ lãnh chân, xương mà thôi. Nếu bấy giờ chúng ta chỉ có tay không,
thì sẽ “xôi hỏng, bỏng không”; thiết tưởng quí vị lãnh đạo đất nước,
phải chịu trách nhiệm không nhỏ với lịch sử.
——————
[1] Hợp tung liên hoành: thời xưa dùng kế
sách liên kết các nước theo chiều dọc gọi là hợp tung, liên kết với các nước
theo chiều ngang gọi là liên hoành; để tiêu diệt nước Tần.
[6] 康熙十七年。戊午三月. 諭議政王大臣等、海寇盤踞廈門諸處、勾連山賊、煽惑地方、皆由閩地瀕海居民為之藉也。應如順治十八年立界之例、將界外百姓、遷移內地。仍申嚴海禁、絕其交 通。但窮苦之民、一旦遷徙、必棄其田舍、難以為生、殊可憫惻。可將本年地丁額賦、差徭雜項、盡行豁除。該督撫揀委能員料理、俾安輯得所、勿致苦累
[7] 中国失去海洋的关键是历代统治者没有海权观念。Trung Quốc thất khứ hải dương đích quan kiện thị lịch đại thống
trị giả một hữu hải quyền quan niệm.] diendan.org Học giả Trung Quốc Lưu Á Châu
xác nhận: quá trình lịch sử, Trung Quốc không có quan niệm về chủ quyền biển.
[9] Sùng Sơn tức Sùng Sơn từ, hay đền Sùng
Sơn tại Thanh Hóa. NXB Khoa Học Xã Hội năm 2011 cho xuất bản tập
thơ Cẩm Đình Thi của Tiến sĩ đời Nguyễn, Phan Thúc Trực;
trong đó có bài thơ Sùng Sơn Từ, nguyên văn, phiên âm và dịch nghĩa
như sau:
崇山祠
崇山顯赫何年是,
一簇崇祠閱古今。
幾度桑滄存廟貌,
千秋香火在人心。
環墻碧草自春色,
隔葉黃鶯空好音。
對景不消談往事,
神符海口望中深。
一簇崇祠閱古今。
幾度桑滄存廟貌,
千秋香火在人心。
環墻碧草自春色,
隔葉黃鶯空好音。
對景不消談往事,
神符海口望中深。
Sùng Sơn từ
Sùng sơn hiển hách hà
niên thị,
Nhất thốc sùng từ duyệt cổ kim.
Kỷ độ tang thương tồn miếu mạo,
Thiên thu hương hoả tại nhân tâm.
Hoàn tường bích thảo tự xuân sắc,
Cách diệp hoàng anh không hảo âm.
Đối cảnh bất tiêu đàm vãng sự,
Thần Phù hải khẩu vọng trung thâm.
Nhất thốc sùng từ duyệt cổ kim.
Kỷ độ tang thương tồn miếu mạo,
Thiên thu hương hoả tại nhân tâm.
Hoàn tường bích thảo tự xuân sắc,
Cách diệp hoàng anh không hảo âm.
Đối cảnh bất tiêu đàm vãng sự,
Thần Phù hải khẩu vọng trung thâm.
Dịch nghĩa
Núi Sùng hiển hách tự
năm nào
Một ngôi đền lớn trải từ xưa tới nay
Mấy độ tang thương đền miếu vẫn còn đó
Ngàn thu hương hoả ở lòng người
Cỏ xanh trên tường vây quanh tự toả sắc xuân
Chim hoàng anh trong lá hót lảnh lót
Trước cảnh quên bàn chuyện đã qua
Ngắm cửa biển Thần Phù trong sâu thẳm
Một ngôi đền lớn trải từ xưa tới nay
Mấy độ tang thương đền miếu vẫn còn đó
Ngàn thu hương hoả ở lòng người
Cỏ xanh trên tường vây quanh tự toả sắc xuân
Chim hoàng anh trong lá hót lảnh lót
Trước cảnh quên bàn chuyện đã qua
Ngắm cửa biển Thần Phù trong sâu thẳm
南風漲海牽。
Subject: Văn tế Trọng Lú.
Nghe nói Lú được đưa ra BV 108 tại Hà Nội rồi.
Văn tế Trọng lú.
Phuong Vu (Danlambao)
Hỡi ôi,
Trời Kiên Giang sấm vang biển động,
Nghe hung tin Tổng Trọng thọ tai ương.
Đảng đau buồn, dân không chút tiếc thương,
Đầu đảng đĩ chết đi cho yên nhà lợi nước.
Nhớ linh xưa,
Đất kinh đô vang danh đệ nhất Lú,
Xuất thân bọn trèo me, trèo sấu du côn.
Gió Bắc phương mang Kắc Mạn âm hồn,
Dụ khị Giác Ngộ nhét vào đầu kẻ lú.
Son Đố Mì suốt ngày bù khú,
Trốn mẹ cha, trốn trường lớp đi rong.
Một sớm mai thấy bọn KHỰA vác cờ hồng,
Lén gia đình, thấy vui theo, thành cách mạng.
Than ôi ,
Dẹp Dũng phò Tàu hết lòng khuyển mã,
Đốt lò phe nó chớ có phe mình.
Bọn nịnh thần khen tiếng anh minh,
Bậc nhân kiệt thế thiên hành đạo.
Cứ tưởng thiệt, hoá ra trò xạo,
Cũng phùng man trợn mắt hiểu thị thần dân.
Bày bệ ban, đọc đít-cua sáng tối rần rần,
Vãn tuồng, khỉ lòi đít khỉ.
Buồn thay,
Số phận bèo tan Kiên Giang tuyệt lộ,
Trời Kiên Giang gầm thét biển nổi ba đào.
Cộng đồng mạng xôn xao,
Chỉ có chó mới sụt xùi nhỏ lệ.
Ngao ngán nỗi,
Ngoài miệng im thin thít.
Phe cánh lại lô nhô,
Đứa đòi làm Tổng đứa kia giành làm Chủ.
Cộng Bắc Nam đánh lộn tùm lum,
Dịp hiếm có mạnh thằng nào nấy giựt.
Mừng thay,
Dân tình sướng ơi là sướng,
Chết con nhọn mũi bớt kẻ gian tà.
Những tưởng biến Việt Nam thành Tàu Lạ quỉ ma ,
Nào ngờ một phút sa cơ.
Chợ Rẫy nằm chờ, “Tao có chi mô”,
Toàn dân vui mừng xiết kể.
Thượng hưởng.
Phiet Pham
To:Á Nhựt Trần,Tướng Kỳ Đoàn,Hậu Hoàng,Liêm Công Dương,So Thaiand
23 more...
Apr 18 at 8:42 PM
LỜI
PHÂN TRẦN CỦA “HÀNG” TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH
NGUYỄN
VĂN CHỨC|
Toàn bộ bức thư của
Tướng Dương Văn Minh viết cho Tướng Nguyễn Chánh Thi có nội dung như sau:
15-4-87
15-4-87
“Thi,
Ðược tin Thi tôi rất mừng. Lúc nào tôi cũng nhớ anh em thuở xưa, mà tôi còn lưu lại rất nhiều kỷ niệm.
Ðược tin Thi tôi rất mừng. Lúc nào tôi cũng nhớ anh em thuở xưa, mà tôi còn lưu lại rất nhiều kỷ niệm.
Từ khi tôi đến nước
Pháp tới nay, lật bật đã gần sáu năm rồi, sống với một cuộc đời réfugié tuy có
thong thả nhưng lúc nào cũng bận tâm. Thoát được chế độ Cộng sản với hai bàn
tay không – Pháp chẳng giúp đỡ gì – mình sống ẩn thân trong một đô thị thật
nhỏ, kể ra cũng tạm yên.
Nghe Thi kể chuyện các
anh em quân nhân, tôi rất khổ tâm. Lúc đó tôi bị đày ở Bangkok cho nên có nhiều
việc tôi không được rõ hết.
Anh em có đọc sách của
anh Ðỗ Mậu kể chuyện lại cho tôi nghe; tôi phải công nhận anh Ðỗ Mậu kể chuyện
như vậy là rất can đảm. Lên án Cần-lao và Công-giáo đến mức đó là cùng. Ngoài
ra, anh Ðỗ Mậu có trách tôi không biết tự tử như các bực tiền bối, cũng có phần
đúng. Nhưng đây chỉ là một vấn đề quan niệm mà thôi.
Theo tôi, tự tử không
phải lúc nào cũng là đúng. Ðôi khi mình phải dám sống để hứng nhận những hậu
quả cho sự quyết định của mình gây ra. Có lẽ anh Ðỗ Mậu (cũng như nhiều người)
không rõ là tôi lấy quyết định cuối cùng sau khi đã tham khảo ý kiến với một số
những vị dân biểu và nghị sĩ còn lại, với những anh em quân nhân đến gặp tôi
vào giờ chót, với các thầy mà trong đó thầy Trí Quang và Trí Thủ đã nói và đã
nhắn nhủ để cứu dân.
Riêng tôi, tôi không tự
tử không phải vì thiếu can đảm, nhưng vì những lý do rất đơn sơ :
– Tôi không tự sát vì
thân thể mình do Trời Ðất (Ân trên) kết tạo, cha mẹ sanh dưỡng, mình không có
quyền hy sinh.
– Mình có quyền hy sinh : tên tuổi, uy tín, tài sản, công nghiệp v…v Tóm tắt mình chỉ có quyền hy sinh những gì mình tạo ra mà thôi.
– Mình có quyền hy sinh : tên tuổi, uy tín, tài sản, công nghiệp v…v Tóm tắt mình chỉ có quyền hy sinh những gì mình tạo ra mà thôi.
Ðây là một lý thuyết
tôi đã hấp thụ từ khi biết khôn và áp dụng suốt đời, đối với tôi cũng như đối
với tất cả người khác. Hôm nay tôi nói ra để cho Thi hiểu, vì lúc nào tôi cũng
xem Thi như một người em trên mọi mặt, chớ không phải nói ra để phân trần chi
chi. Tôi đã dám làm thì tôi cũng dám chấp nhận những búa rìu bất cứ từ đâu tới.
Không có gì thắc mắc cả, và tôi coi đây chỉ là một giai đoạn thôi. Cầu xin dân
ta và anh em giữ vững tinh thần thì có ngày xum họp trên quê cha đất tổ.
Tôi đã nói nhiều quá !
Lúc nào tôi cũng nhớ anh em, nhờ Thi gởi lời thăm tất cả. Tôi không mong gì hơn
được gặp lại các bạn.
Thân
mến
Dương Văn Minh”
Dương Văn Minh”
Có đọc lá thư trên mới
thấy Dương văn Minh là con người hiền hòa, nhưng rõ ràng ông không có cái Dũng
của một người làm tướng. Về điểm này ông giống Ðại tướng Võ nguyên Giáp của
miền Bắc, cúi đầu nhận chức Cai đẻ mà không dám hó hé phản đối. Trong phạm vi
gia đình, sai lầm của người chủ gia đình có thể dẫn tới chuyện gia đình ấy suy
sụp, tan vỡ. Còn nếu làm tới chức vụ nguyên thủ quốc gia như tướng Dương văn
Minh mà “tham sinh úy tử”, nhu nhược, thiếu khôn ngoan quyền biến thì chỉ đưa
quốc gia đến chỗ suy tàn, thảm bại. Bài học Dương văn Minh dành cho những người
làm chính trị là phải luôn tự lượng sức mình, nếu mình “tài hèn, trí đoản”,
tham sống sợ chết mà cứ nhắm tới những chức vụ to tát lãnh đạo quốc gia thì
chức vụ cao trọng này không mang lại vinh quang mà chỉ mang lại cho mình những
sự nhục nhã ê chề và bị bia miệng ngàn đời chê trách.
Một
cái nhìn về Dương Văn Minh
Ngày 30-4-1975, một
quân lực đứng vào hàng thiện chiến và dũng cảm nhất thế giới đã bị trói tay và
phải buông súng trước quân thù. Vì sự hèn nhát của lãnh đạo và sự phản bội của
đồng minh.
Ngày 30-4-1975, Việt
Cộng đã dùng võ lực, xé nát hiệp định Ba Lê, bản văn mà chúng nó đã long trọng
ký kết trước mặt thế giới.
Ngày hôm đó, nước Mỹ
đã ôm đầu bỏ chạy, trước sự vi phạm thô bạo một hiệp định quốc tế, bản văn mà
chính Mỹ đã khởi xướng và long trọng ký kết trước mặt thế giới. Ngày hôm đó,
Tây Phương đã cúi mặt trước sự vi phạm một hiệp định quốc tế, bản văn mà chính
Tây Phương đã cổ võ, ca ngợi, trước mặt thế giới, nhân danh những lý tưởng nhân
đạo tự do và hòa bình.
Ngày 30-4-1975, khi
xác của người sĩ quan Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tự sát dưới chân Đài Chiến Sĩ
đường Lê Lợi chưa kịp lạnh thì Dương Văn Minh mũ mãng “bàn giao” miền Nam cho
Việt Cộng. Đúng là một trò hề, một trò hề lơ láo của một tên hề lơ láo. Bọn
Việt Cộng nón cối dép râu mang xe tăng húc sập cánh cửa Dinh Độc Lập, tiến vào
chiếm hữu ngôi nhà biểu tượng cho chủ quyền Quốc Gia của miền Nam, chứ đâu có
vào để nhận bàn giao. Đối với Việt Cộng, buổi lễ “bàn giao” hôm đó chỉ là một
hành vi quỳ lậy và khiếp nhược của một tên tướng Ngụy. Đối với người Quốc Gia
nói chung và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa nói riêng, thì ngoài phong cách hèn hạ
và khiếp nhược của một quân nhân, Dương Văn Minh còn là một đứa đần độn và háo
danh.
Ngày 28-4-75, khi cụ
Trần Văn Hương từ chức tổng thống Việt Nam Cộng Hòa, thì định chế hành pháp
không còn nữa. Định chế lập pháp, tức quốc hội, thì lại không có quyền bầu tổng
thống, hoặc chỉ định tổng thống, hoặc cho phép ai trao chức vụ tổng thống cho
ai. Bởi lẽ: Quốc hội không phải là sở hữu chủ quyền nhân dân. Với tư cách thụ
ủy đó, quốc hội chỉ được làm những điều mà nhân dân đã mịnh thị giao phó, qua
những điều khoản được ghi trong hiến pháp. Mà hiến pháp thì không có điều khoản
nào cho phép quốc hội được trao chức vụ tổng thống cho ai.
Tổng thống đương nhiệm
lúc đó, cụ Trần Văn Hương, cũng không có quyền trao lại chức vụ tổng thống cho
người khác. Vì vậy, trong những ngày tháng chót của Quốc Gia miền Nam, khi
Dương Văn Minh nằng nặc đòi cụ Hương trao quyền tổng thống Việt Nam Cộng Hòa
cho y, thì mọi người đã nhìn thấy rõ cái hèn, cáo háo danh và nhất là cái đần
độn của y. Y nằng nặc đòi được làm tổng thống, để mũ mãng đi đầu hàng.
Cái hèn và háo danh
đần độn ấy đã chẳng giúp cho Cộng Sản Bắc Việt ngụy tạo được hào quang cho cái
gọi là đại thắng mùa Xuân. Cũng chẳng giúp cho các nhà làm lịch sử sau này có
dữ kiện để viết rằng: Chính quyền hợp pháp của Quốc Gia Miền Nam đã đầu hàng.
Ngày 30-4-1975, Quốc
Gia Miền Nam chỉ còn là đống hoang tàn. Trên đống hoang tàn ấy, Văn Tiến Dũng
và đoàn quân của y đã nhặt được một cái túi phong lưu (capote, condom), món
trang sức của đêm giao hoan giữa thằng điếm tư bản quốc tế với con đĩ vô sản
quốc tế. Văn Tiến Dũng ngậm cái túi phong lưu ấy vào mồm, thổi cho căng lên,
gọi đó là đại thắng mùa Xuân.
Trước khi cái túi
phong lưu được thổi căng lên, nó được lau chùi cho hết nhờn nhớt. Người lau
chùi, là Dương Văn Minh.
Tôi không quen, nhưng
biết Dương Văn Minh , hồi chưa mất nước, tôi từng nói chuyện với y nhiều lần.
Hồi đó, Câu Lạc Bộ Thể Thao Sài Gòn có 4 sân quần vợt danh dự. Hội viên câu lạc
bộ muốn có sân để chơi, phải ghi tên trước. Riêng Dương Văn Minh, vì là cựu
quốc trưởng, y được câu lạc bộ dành cho sân số 4 (sát hàng rào, gần hồ tắm),
mỗi buổi sáng thứ Hai, từ 8 giờ sáng đến 12 giờ trưa.
Vì vậy, những sáng thứ
Hai, trừ ngày mưa gió, người ta thường thấy Dương Văn Minh trên sân số 4. Y
chơi quần vợt với bạn bè, với người con gái, hoặc với người con rể tên là Đài.
Có khi y không chơi, chỉ ngồi trò chuyện.
Tôi thường gặp y ở chỗ
này, và nói chuyện với y ở chỗ này.
Tôi muốn tìm hiểu về
ba khuôn mặt nổi của chính biến 1963. Hai khuôn mặt nổi khác, ông Trần Văn Đôn
và ông Tôn Thất Đính, tôi đã biết khá nhiều. Chúng tôi cùng là thượng nghị sĩ.
Dương Văn Minh có cái
bề ngoài đôn hậu, ăn nói chậm rãi. Người ta đã dùng nhiều tĩnh từ để nói về y,
như nham hiểm, kỳ thị Nam Bắc, háo danh, v.v… Riêng tôi, tôi thấy tội nghiệp.
Không ai có thể ngờ rằng một người từng làm quốc trưởng, và được kỳ vọng như là
một lá bài chính trị cho tương lai, lại có trình độ văn hóa thấp đến như vậy.
Những ý niệm về lãnh đạo, như quyền uy (autorité), quyền lực (puissance), và
quyền bính (pouvoir), rất xa lạ với y. Tôi đã mất khá nhiều thì giờ, và đưa ra
trường hợp Nã Phá Luân, Nguyễn Huệ, để giải thích cho y hiểu rõ những thành tố
của lãnh đạo, cũng như sự khác biệt sâu xa giữa quyền uy, quyền lực và quyền
bính. Nhưng nhìn mặt, tôi biết y không hiểu lắm. Về Cộng Sản Việt Nam và chính
sách mặt trận thống nhất (politique du front uni) của Cộng Sản trên thế giới, y
cũng rất lờ mờ.
Y có mời tôi đến dinh
hoa lan để “họp mặt” chính trị. Tôi đến một lần, để giữ lễ, và để y có dịp –
nếu tôi không lầm – cảm ơn tôi đã giúp đỡ một vài đàn em của y trong vấn đề
luật pháp. Những lần sau, tôi cáo lỗi. Tôi không muốn làm người khác lạ ngồi
nghe những Dương Văn Ba, Lý Quý Chung, Kiều Mộng Thu, Hồ Ngọc Nhuận giảng chính
trị. Họ là những quần thần của Dương Văn Minh. Họ là những bộ óc lớn của Dương
Văn Minh. Và khi những bộ óc lớn gặp nhau…
Có lẽ ông Vũ Văn Mẫu
cũng một cảm nghĩ như tôi. Ông cũng từng là khách bất đắc dĩ của dinh hoa lan.
Trình độ học vấn của
Dương Văn Minh đã thấp, nhân cách của y còn thấp hơn. Liêm sỉ của một tướng
lãnh, thì lại quá tệ. Ai cũng biết: Trong vụ đảo chánh 1963, y đã ra lệnh ám
sát Tổng Thống Diệm trên chiếc xe tăng từ nhà thờ Cha Tam về Tổng Tham Mưu rạng
ngày mùng 2 tháng 11. Nhưng sau này y chối. Chẳng những chối, mà còn đổ lỗi cho
người khác. Trong cuốn “Our Endless War”, Tướng Trần Văn Đôn – linh hồn của
cuộc đảo chánh – đã phải bực mình và viết như sau: “Big Minh không bao giờ nhận
trách nhiệm về vụ cố sát anh em ông Diệm và đổ lỗi cho người khác. Mỗi khi vấn
đề được đặt ra, ông ta lại tìm cách lôi kéo tôi vào. Trong thời gian bị lưu đầy
ở Vọng Các, Big Minh đã thanh minh với một linh mục Công Giáo rằng ông không có
trách nhiệm gì về vụ giết ông Diệm, Big Minh còn khuyên linh mục, nếu muốn biết
rõ câu chuyện, thì nên đến hỏi tôi (“Our Endless War”, trang 314).
Trong những lần nói
chuyện, tôi có hỏi Dương Văn Minh về vụ giết ông Diệm. Theo tôi, đảo chánh nào
mà không đổ máu, và giết ông Diệm thì đã sao, nếu mình có chính nghĩa, hoặc tin
rằng mình có chính nghĩa? Cần gì phải chối. Nhưng y vẫn chối. Cái hèn của Dương
Văn Minh là ở đó. Và y đã sống suốt cuộc đời còn lại với cái hèn ấy.
Ngày 30-4-1975, sau
khi được cụ Trần Văn Hương trao quyền tổng thống, y đã ra lệnh cho Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa buông súng, “vì chủ trương hòa hợp hòa giải dân tộc” và “để
cứu sinh mạng đồng bào”. Chúng ta hãy tạm cho y được hưởng lợi ích của sự nghi
vấn. Chúng ta hãy tạm chấp nhận rằng: Y kêu gọi và ra lệnh cho anh em Quân Lực
Việt Nam Cộng Hòa buông súng, vì chủ trương hòa hợp hoà giải và để cứu mạng
đồng bào. Nhưng khi VC vi phạm hiệp định Ba lê, trả thù man rợ các anh em Quân
Lực Việt Nam Cộng Hòa, thì y không có được một lời để bênh vực các anh em đó.
Chỉ cần một lời thôi. Chỉ cần một hành động thôi. Một lời và một hành động của
chính cái kẻ đã kêu gọi anh em buông súng, nhân danh Hiệp Định Ba Lê, và nhân
danh hòa giải hòa hợp dân tộc. Nhưng Dương Văn Minh đã im lặng. Vì hèn.
Ba năm sau khi đầu
hàng, năm 1978 Dương Văn Minh được Việt Cộng cho sang Pháp. Sang tới Pháp và
suốt 19 năm sống bên Pháp, y cũng không có được một lời về số phận đau xót của
các anh em Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong các trại cải tạo và cho thân phận
cùng cực của nhân dân miền Nam dưới ách bạo quyền Cộng Sản. Vì hèn.
Y cũng không có được
một lời xót xa cho cả triệu đồng bào ruột thịt đã chết trên biển khi đi tìm tự
do. Vì hèn.
Năm 1997, y tuyên bố
sẽ về Việt Nam để góp phần xây dựng đất nước. Người ta hiểu rằng trước khi
tuyên bố như vậy, y đã được Việt Cộng cho phép về Việt Nam. Người ta cũng hiểu
rằng y đã được Việt Cộng cho phép về Việt Nam để xây dựng nước Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Việt Cộng.
Năm 1963, hèn hạ, phản
bội và làm tay sai. Mười hai năm sau, năm 1975, làm tay sai, hèn hạ và phản
bội. Hai mươi hai năm sau, năm 1997, lại phản bội, làm tay sai và hèn hạ.
Suốt đời phản bội.
Suốt đời làm tay sai. Suốt đời hèn hạ. Suốt đời háo danh. Suốt đời đần độn. Đó
là Dương Văn Minh.
Nguyễn Văn Chức
Phiet Pham
To:Á Nhựt Trần,So Thai,Tướng Kỳ Đoàn,Hậu Hoàng,Liêm Công Dươngand
23 more...
Apr 20 at 2:26 PM
Subject: LỜI PHÂN TRẦN CỦA
“HÀNG” TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH
BẮT QUẢ TANG... Hoàng Duy Hùng LẠI NÓI DỐI!!!
From: Huu Nguyen <saigontimes002@gmail.com>
Date: Sat, Apr 20, 2019 at 2:54 PM
Subject: BẮT QUẢ TANG... Hoàng Duy Hùng LẠI NÓI DỐI!!!
To: Huu Nguyen <congdongmang@saigontimes.org>
From: Huu Nguyen <saigontimes002@gmail.com>
Date: Sat, Apr 20, 2019 at 2:54 PM
Subject: BẮT QUẢ TANG... Hoàng Duy Hùng LẠI NÓI DỐI!!!
To: Huu Nguyen <congdongmang@saigontimes.org>
Posted on 21/04/2019by Hữu Nguyên
Kính
thưa Quý vị,
Lịch
sử 44 năm Quốc Hận, người Việt yêu nước chống cộng trên toàn thế giới, đã chứng
kiến trong sự căm ghét, khinh bỉ, ghê tởm… những kẻ phản bội, chạy theo làm tay
sai cho VC. Trong số những kẻ phản bộ đó, Hoàng Duy Hùng (HDH) là kẻ bị
căm ghét, khinh bỉ, ghê tởm… nhiều hơn cả.
Tháng 3 năm 2013,
Hoàng Duy Hùng huênh hoang cầm đầu “Phái Đoàn Dân Cử TP Houston,
đến thăm VN theo lời mời của Thứ Trưởng Ngoại Giao VC Nguyễn Thanh Sơn”. Nhưng
sự thật, y đã làm nhục cử tri và HĐTP Houston, và khiến người Việt khắp nơi căm
giận khinh bỉ. Khi HDH xuống phi trường, VC đã khinh bỉ không cử phái đoàn
ngoại giao nào đón tiếp. Không những vậy, VC còn đóng kịch để cho HDH “bị công an VC phi trường giữ lại làm việc, thẩm vấn nhiều giờ”,
theo lời thú nhận của HDH.
HDH cũng huênh hoang,
Hội Đồng TP Houston gửi theo quà tặng cho VC, và y đã nhận quà tặng từ Thứ Trưởng
Ngoại Giao VC Nguyễn Thanh Sơn (NTS), trong đó có tượng Vua Hùng. Nhưng những
gì xảy ra trong việc trao tặng quà, thật là đáng giận và đáng khinh bỉ cho HDH:
Thứ
nhất, không có bất cứ nghi
lễ trao tặng quà nào được VC tổ chức vào ban ngày tại trụ sở công quyền
VC; Thứ hai, toàn bộ việc trao tặng và nhận quà giữa hai
bên, đã diễn ra sau bữa ăn tối rượu chè say sưa, vào Chủ Nhật,
24 tháng 3, 2013, tại tư gia của VC NTS; Thứ ba, VC NTS, HDH và
mọi người đều ăn mặc xuề xoà, đơn giản, ngôn ngữ tuỳ tiện, hoàn toàn không phù
hợp nghi lễ xã giao tối thiểu của làng xã VN, nói chi đến nghi lễ ngoại giao
giữa hai quốc gia; Thứ
tư, khi VC NTS đưa tay
ra bắt, HDH đã có ngôn ngữ nịnh bợ, cử chỉ khúm núm, cong lưng uốn gối như một
tên đầy tớ, làm nhục cử tri HĐTP Houston mà y đại diện; Thứ năm, VC NTS tặng quà cho
4 người trong phái đoàn của HDH, nhưng không một ai (kể cả vợ của HDH) tỏ ra quỵ luỵ, lễ phép,
cong lưng uốn gối, hèn hạ như HDH.
Vì những sự thật nêu
trên, chúng tôi đã có bài viết phê phán HDH (xin click vô đây).
Ngay sau đó, 20/4, HDH gửi email giải thích: “Cúi
xuống đón lấy tượng vua Hùng thì làm sao hèn? Kính trọng đấng lập nên nước Việt
thì sao gọi là khúm núm. Chỉ có bọn trí não vong nô mất gốc, loại vong bản mới
không kính trọng tượng Vua Hùng. Bọn bây coi kỹ lại tấm hình một tay tôi đỡ lấy
tượng vua Hùng…”
Lời
giải thích của HDH đã một lần nữa chứng tỏ, HDH là một kẻ nói dối trắng trợn,
bất chấp sự thật đã được ghi lại thật đầy đủ qua video clip được phổ biến rộng
rãi trên YouTube (xin click vô đây). Sau
đây là những bằng chứng hai năm rõ mười, chứng tỏ 4 SỰ THẬT bất khả chối cãi:
HDH không hề kính trọng tượng Vua Hùng như y chậy tội. Trái lại, HDH đã cong
lưng uốn gối, khúm núm hèn hạ trước tên VC NTS: https://www.youtube.com/watch?v=xmD7wH0zjwU
§ THỨ NHẤT: Trong
35 giây đầu tiên, nghe VC NTS nói, HDH lễ phép “dạ” 5 lần;
§ THỨ HAI: Trong
suốt 51 giây đồng hồ cầm tượng Vua Hùng (từ tay VC NTS ở giây thứ 39,
cho đến khi VC NTS chìa tay ra cho HDH bắt, lúc 1 phút 30 giây), HDH không
hề có bất cứ dấu hiệu hay cử chỉ nào, kể cả cúi đầu, tỏ ra kính cẩn tượng Vua
Hùng;
§ THỨ BA: Cho
đến 1 phút 30 giây, khi VC NTS chìa tay ra bắt… HDH vội vã, tay trái cầm tượng
Vua Hùng, tay phải đỡ lấy tay VC NTS và kính cẩn khom lưng, cúi đầu, miệng rối
rít… “Vâng, dạ vâng, cảm ơn anh Sơn rất là nhiều…”
§ THỨ TƯ: VC
NTS tặng quà cho 3 người khác trong phái đoàn của HDH, nhưng không một ai (kể
cả vợ của HDH) tỏ ra quỵ luỵ, lễ phép, cong lưng uốn gối, hèn hạ như
HDH, mặc dù HDH là vị dân cử, trưởng đoàn đại diện cho HĐTP Houston.
TRANSCRIPT
HDH VÀ VC NTS TẶNG QUÀ (từ giây 00 đến 1 phút 40 giây)
HDH: Dạ…
VC
NTS: Đây là bức tượng Vua Hùng, anh về anh sẽ bầy ở
nhà… [VC NTS không nói “thờ”, mà nói “bầy” chứng tỏ y để lộ bản chất
tam vô của VC, coi tượng Vua Hùng chỉ là đồ vật trang trí bầy biện trong nhà…]
HDH: Dạ…
VC
NTS: Nhưng mà tôi cho đây cũng là món quà rất là
quý, mà người Việt Nam ở khắp nơi trên thế giới đều mong ước có…
HDH: Dạ…
VC
NTS: Tại vì ở đâu ta cũng hướng về đất Tổ mà…
HDH: Dạ…
VC
NTS: Ta cũng hướng về với Vua Hùng, người khai sinh
ra cái dân tộc chúng ta. Tôi cho đây là món quà lưu niệm cũng rất là… …rất là
có ý nghĩa.
HDH: Dạ…
VC
NTS: [trao tượng Vua Hùng cho HDH] Đây là Đức Vua Hùng…
HDH: [cầm tượng Vua Hùng và nói,
giọng kiểu cách, kịch tính, hệt như con vẹt đã được VC dậy cho học thuộc lòng] Khi
mà chúng tôi đến đây, ngày đầu tiên, nơi mà đi đến là đến Đền Thờ Hùng Vương.
Vì người Việt Nam đi đâu đi nữa, về đến nhà vẫn là người Việt Nam. Và người
Việt Nam thì phải nhớ Tổ. Tổ đầu tiên là Vua Hùng. Hôm nay, được anh Sơn và Uỷ
Ban sắp xếp cho một chương trình rất là ý nghĩa. Đến thăm Đền Hùng, rồi đến
thăm [???] và bây giờ được tặng món quà của Vua Hùng, để nhắc nhở là con cháu
Việt Nam lúc nào cũng nhớ đến [???] để bảo vệ biên cương, bờ cõi… Vua Hùng đã
dựng nước thì chúng ta phải giữ nước…
VC
NTS: [chìa tay phải ra bắt…]
HDH: [vội vã, tay trái cầm tượng Vua
Hùng, tay phải đỡ lấy bàn tay NTS, kính cẩn khom lưng, cúi đầu, miệng lắp bắp…] Vâng,
dạ vâng, cảm ơn anh Sơn rất là nhiều… [cầm tượng Vua Hùng trao cho
vợ…]
VỢ
HDH: [cầm hộp, bỏ tượng Vua Hùng vô…]
VC
NTS: [tay phải đưa nắp hộp cho vợ HDH, tay trái chỉ
xuống góc trái dưới sàn nhà phía sau vợ HDH, ra hiệu… rồi nói] Em để xuống dưới kia…
Hữu Nguyên
Thanhlam Le
To:conduongvui,noiketbanhuu,phucchohienlanh,Nguyễn Trung Nghĩa,nuocviet@yahoogroups.comand
3 more...
Cc:Nghiem Nguyen,Huu Nguyen
Apr 20 at 6:25 PM
No comments:
Post a Comment