20221002 Cong Dong Tham Luan Dia Su Linh Nam 40
CẨM-KHÊ DI-HẬN (Q.IV: Hồi 93-100)
https://trandaisy.wordpress.com/2012/11/16/cam-khe-di-han-q-iv-hoi-93-100-2/8/
CẨM-KHÊ DI-HẬN (Q.IV:
Hồi 93-100)
Posted on November 16, 2012 by Lê Thy
HỒI THỨ MỘT TRĂM
Trưng-vương vắng mặt còn ai?
Đi về thay đổi mặc người Hán quan.
(Đại-Nam quốc sử diễn ca)
Trời vừa sáng, Mã-Viện cho
triệu tập tướng sĩ bên bờ sông Hát-Giang bàn định kế hoạch đánh chiếm các thành
còn lại. Lê-đạo-Sinh hiến kế:
– Trưng-Trắc, Trưng-Nhị tuy
chết, triều đình bị diệt. Song còn ba đạo quân quan trọng. Chủ lực chính là
Đào-Kỳ, Phương-Dung. Chủ lực thứ nhì là Đô-Dương, Lại-thế-Cường. Chủ lực thứ ba
là Phùng-vĩnh-Hoa. Phải dồn quân diệt từng chủ lực một.
Mã-Viện đồng ý. Y nói:
– Chúng ta đánh chiếm được
Mê-Linh. Phùng-vĩnh-Hoa mất đường về vì phía trước bị Vương-Bá vây đánh. Y thị
chỉ có tráng đinh. Coi như không đáng kể. Duy Đô-Dương là đáng sợ nhất. Vậy
phiền Lê lão sư, cùng các vị đệ tử đừng quản ngại, suất lĩnh tráng đinh đánh
chiếm lấy vùng Hoa-Lư. Đem các dàn Nỏ thần phục trên sườn núi. Mục đích chặn
không cho Đô-Dương cứu viện Đào-Kỳ. Tôi ra lệnh cho Lưu-Long đổ bộ lên vùng
biển Thiên-Trường đánh phía sau. Đại quân của tôi từ Mê-Linh, Đông-Triều đánh
về Long-Biên. Đào-Kỳ tất bị diệt. Diệt Đào-Kỳ rồi. Chúng ta tiến đánh Đô-Dương
sau. Vừa lúc đó trống thúc vang dội, quân reo rung động trời đất. Mã-Viện kinh
hãi hỏi:
– Cái gì vậy?
Một lát quân sĩ báo:
– Có hai đạo quân kéo đến đánh.
Đạo thứ nhất do Nguyễn-phương-Dung, Trần-quế-Hoa, Trần-quỳnh-Hoa chỉ huy. Đạo
thứ nhì do Đào-Kỳ, Hoàng-thiều-Hoa, Đào-hiển-Hiệu, Đào-quí-Minh,
Đào-phương-Dung đánh tới.
Mã-Viện cười:
– Trưng-Trắc đã chết rồi! Ta
không sợ bọn này nữa.
Y gọi Phùng-Đức:
– Lão sư dẫn năm vạn quân chống
với bọn Phương-Dung.
Y nói với Sầm-Anh:
– Lão sư dẫn năm vạn quân chống
với Đào-Kỳ.
….
Nửa đêm ngày 7 tháng ba, Tể
Tướng Nguyễn-phương-Dung đang ngủ ngon, bỗng dưng bà kêu thét lên một tiếng,
rồi ngồi bật dậy. Bắc-Bình vương Đào-Kỳ giật mình tỉnh giấc. Vương hỏi:
– Sao? Cái gì vậy?
Hai vị thành vợ chồng đã chín,
mười năm. Chưa bao giờ ông thấy Vương phi la hoảng trong giấc mơ. Vương phi
Phương-Dung ngồi dậy, bà nhắm mắt định thần một lúc, rồi nói:
– Em nằm mơ thấy chị
Trưng-Trắc, Trưng-Nhị leo lên cây cầu bắc qua sông lớn. Thình lình mấy con chó
chạy đến cắn chân cầu. Cầu gãy. Hai người rơi xuống sông. Có hàng nghìn hàng
vạn con rắn xúm vào cắn. Em kinh hoảng la lớn lên.
Hơn ai hết Đào-Kỳ thường chú ý
đến các giấc mộng. Từ khi Vương được Nguyễn-Phan truyền nội công Âm Nhu. Mỗi
khi nằm mộng, thấy một hiện tượng gì, y như ngày hôm sau sự thực diễn ra. Như
hồi đem quân đánh Đăng-Châu. Đêm mơ thấy một bầy thú dữ. Vương cầm kiếm chém
chúng chết la liệt. Thì ngày hôm sau, Vương xua quân bắt Trương-Thanh,
Lưu-Chương. Vương mơ thấy mình đánh đuổi con chó, bị nó cắn vào ngực đau thấu
tim gan. Hôm sau diễn ra trận đấu giữa Vương với Đông-Các. Vương bị
Mao-đông-Các đánh trọng thương. Hôm mơ thấy mình ngồi trên chiếc ghế, bị chặt
gẫy một chân. Hôm sau có tin Tượng-Quận bị mất. Lần mơ thấy đánh nhau với con
quỉ, bị chặt gãy cánh tay. Hôm sau xảy ra cái chết của Thánh-Thiên.
Đêm qua, Vương mơ thấy đánh
nhau với một bọn quỉ. Bị chúng chém đầu. Vương tránh khỏi, cái mũ bị kiếm cắt
đứt làm đôi. Bây giờ thấy vợ mộng như vậy, Vương lo sợ. Vương sang phòng bên
cạnh, Sún Rỗ, Sa-Giang cũng thức dậy từ hồi nào. Sún Rỗ hỏi Vương:
– Tam ca! Cái gì vậy?
– Chúng ta đều mơ thấy một
truyện kinh khủng.
Sun Rỗ nhìn Sa-Giang:
– Suốt từ chiều đến giờ, bọn
chúng em nghe văng vẳng bên tai nhiều tiếng khóc than. Chúng em có hỏi sư tỷ
Thiều-Hoa. Sư tỷ bảo không nghe thấy gì cả. Chúng em ngủ một lúc thấy Nhạc phụ,
cùng các anh Phúc, Lộc, Thọ đứng ở đầu dường, khóc lóc thảm thiết. Hai chúng em
bàn luận với nhau mãi, ngủ không được.
Đào vương lững thững ra sân
nhìn trời, thấy Hiển-Hiệu, Quí-Minh, Đào-phương-Dung cũng đang thơ thẩn ngoài
sân. Trời sang canh năm.
Vương hỏi các em:
– Các em không ngủ được sao?
Hiển-Hiệu gật đầu:
– Em ngủ được một giấc, trong
mộng thấy bác Cả, bố em với Hồng-Thanh về. Cả ba người cùng khóc lóc. Tay cầm
kiếm, bảo bọn em xuất quân gấp. Em hỏi tại sao? Thì biến mất.
Một lát Hoàng-thiều-Hoa cũng ra
sân. Bà tiếp lời Hiển-Hiệu:
– Chị mơ thấy Sư mẫu,
Thánh-Thiên, Lê-Chân cùng về. Họ cầm kiếm, nghiến răng chỉ về phương Tây. Chị
lên tiếng hỏi, không ai trả lời, chỉ ứa nước mắt khóc mà thôi.
Đào vương phi Phương-Dung thở
dài:
– Em sợ Mê-Linh có sự không
hay.
Bà bảo Sún Rỗ:
– Em sai Thần ưng về Mê-Linh
thám thính xem sao.
Sún Rỗ vừa định thi hành, thì
có Thần ưng từ Mê-Linh bay đến. Chàng gọi xuống, lấy thơ trình Đào-Kỳ:
– Sư huynh coi.
Đào-Kỳ đọc xong, đưa cho Vương
phi Phương-Dung. Bà liếc mắt qua, mặt tái mét, la lớn:
– Hỏng rồi! Hỏng rồi! Hoàng
Thượng ắt khó bảo toàn.
Bà vội cầm bút viết thư, truyền
Sún Rỗ cho Thần ưng mang đi ngay. Hoàng-thiều-Hoa cầm thư đọc, hỏi:
– Trưng-Nhị báo cho chúng ta
biết, Hoàng Thượng cùng triều thần đi giá về Cẩm-Khê. Có gì nguy hiểm đâu?
Đào vương phi thở dài:
– Chị cũng như sư tỷ Trưng-Nhị
nhìn không ra là phải. Này nhé tại Yên-Lãng, Trần-Năng còn hai vạn quân. Tại
Yên-Thủy sư bá Chu-tái-Kênh còn hơn vạn. Quân bổ xung đa số là tráng đinh mới
bổ xung, không đủ xuất trận, chỉ có thể giữ đồn. Mã-Viện ắt mang quân vây đồn.
Sau đó y sai một tướng nữa đem quân vây Mê-Linh. Còn y sẽ đem đại quân đuổi
theo triều đình. Sư bá Cao-cảnh-Sơn chỉ còn hai vạn quân với Quân đoàn ba Tây-Vu
làm sao địch nỗi với mười vạn Thiết kị, mười vạn bộ binh?
Công chúa Vĩnh-Hòa ngơ ngác
không hiểu:
– Từ Mê-Linh đến Cẩm-Khê đường
đi có một ngày. Triều đình di về Cẩm-Khê rất bí mật. Mã-Viện làm sao biết được?
Khi y biết thì triều đình đã hoàn tất cuộc rút quân. Nếu y đem quân đến vây
Cẩm-Khê, sẽ bị chúng ta chặn đánh phía sau, y không còn đường về nữa.
Đào-Kỳ lắc đầu. Vương rùng mình
nói:
– Công chúa không hiểu địa thế
thì nói vậy. Từ Mê-Linh về Cẩm-Khê, đầu tiên qua các trang ấp của
Đinh-công-Dũng, Đinh-công-Thắng. Bấy lâu nay Thắng cho người về bắt liên lạc
với các Lạc hầu cũ, dụ dỗ có, đe dọa có. Các Lạc hầu tỏ thái độ không theo y
cũng không chống y. Tại phía Bắc Cẩm-Khê, một giải hai mươi trang ấp trung
thành của Lê-đạo-Sinh. Mã-Viện tất cho bọn Đinh-công-Thắng, Lê-đạo-Sinh đem
quân vượt qua các trang ấp này phục kích đợi khi triều đình rút qua đó, đổ ra
cản đường. Giữa lúc hai bên đánh nhau. Y tung Thiết kị vào đánh tập hậu.
Đào-hiển-Hiệu vỗ bàn nói lớn:
– Giờ này có lẽ triều đình đã
rời Mê-Linh rồi, có trở về cũng không kịp nữa. Chi bằng chúng ta khởi binh. Hy
vọng cứu vãn tình thế.
Phương-Dung gọi Lê-thị-Lan,
Lê-anh-Tuấn:
– Ta để lại cho em hai vạn quân
giữ Long-Biên. Tuần phòng cẩn thận, thấy giặc đến không được đem quân ra đánh.
Bà gọi Trần-quế-Hoa,
Trần-quỳnh-Hoa:
– Hai em đem quân tiến dọc sông
Hát-Giang về Cẩm-Khê. Ta đi đoạn hậu tiếp ứng. Gặp giặc, phải đánh liền. Dù
nguy hiểm cũng phải chấp nhận.
Bà nói với Đào-Kỳ:
– Anh mang đạo quân Thiết kị,
tiến về Mê-Linh. Sư tỷ Thiều-Hoa và các em Phương-Dung, Hiển-Hiệu, Quí-Minh
theo trợ giúp.
Bà gọi Lê-ngọc-Trinh:
– Sư tỷ dẫn hai vạn quân trấn
thủ Cô-Loa. Tôi cử Sún Rỗ, Sa-Giang cùng Quân đoàn một Tây-Vu theo trợ chiến.
Cần bảo vệ hậu quân cho chắc, để chúng tôi cứu giá.
Quân sĩ lên đường liền. Đi suốt
ngày. Đến chiều, trời mưa như trút nước xuống. Đào-Kỳ kinh hoảng nói:
– Trời tháng ba, thường chỉ có
những trận gió nhẹ, hoặc mưa phùn. Có đâu lại mưa to, sấm chớp như thế này?
Thực kỳ lạ.
Ông cho lệnh dừng quân nghỉ
ngơi, nấu cơm ăn. Truyền Tế tác dò thám tình hình. Nửa đêm Tế tác báo
– Chinh-Tây đại tướng quân
Chu-Long thống lĩnh năm vạn quân vây Mê-Linh. Còn Mã-Viện đem mười vạn kị, mười
vạn bộ vượt Mê-Linh đuổi theo Trưng Đế. Trận chiến diễn ra ác liệt bên sông
Hát-Giang, song không biết kết quả.
Đào-Kỳ họp các tướng lại truyền
lệnh:
– Hán có năm vạn binh vây.
Chúng ta phải đánh tan đạo quân này, rồi đuổi theo Mã-Viện. Hoàng sư tỷ đánh
cửa Bắc. Hiển-Hiêụ đánh cửa Đông, Quí-Minh đánh cửa Nam. Phương-Dung đánh cửa
Tây. Quân sĩ im lặng lên đường, làm sao tới nơi mà giặc không biết trước.
Quân sĩ âm thầm lên đường. Tới
Mê-Linh trời tảng sáng. Quân Việt reo lên một tiếng xung vào trận. Quân Hán còn
chưa tỉnh giấc. Khoảng nhai dập miếng trầu, hàng ngũ rối loạn. Chu-Long nhảy
lên mình ngựa chạy về hướng Bắc, gặp Hoàng-thiều-Hoa. Y đã biết mặt bà trong
dịp đến Lạc-Dương chầu Quang-Vũ. Y ngạc nhiên chắp tay hành lễ:
– Tiểu tướng Chu-Long xin tham
kiến Lĩnh-Nam vương phi. Vương phi thân thế cao quí biết mấy, tại sao lại xen
vào chốn binh đao với giặc Lĩnh-Nam?
Hoàng-thiều-Hoa không nói không
rằng, bà xuất chiêu “Thiết kình phi thiên” tấn công. Chưởng phong
ào ào chụp xuống. Chu-Long đã từng nghe Lĩnh-Nam vương phi võ công kinh người.
Y vội vung chưởng đỡ. Binh một tiếng, người y bật lui một bước. Trong khi
Hoàng-thiều-Hoa lui đến ba bước. Y phóng chưởng tấn công tiếp. Hoàng-thiều-Hoa
bình tĩnh dùng chưởng pháp Cửu-Chân chống đỡ. Đánh được hai mươi hiệp.
Hoàng-thiều-Hoa bắt đầu yếu thế, bà lui dần. Chu-Long thấy quân sĩ đã tan rã, y
đánh liền ba chưởng, rồi bỏ chạy. Vừa lui được mấy bước, trong bóng tối mờ ảo
buổi rạng đông, y đụng phải một tướng. Tướng đó phóng chưởng tấn công. Y thấy
chưởng mạnh đến khủng khiếp, trọn đời y chưa từng gặp qua. Binh một tiếng,
người y bật lui một bước. Tướng đó đánh liền ba chưởng nữa. Y đỡ được hai, đến
chưởng thứ ba người y bật lại sau, miệng phun máu. Y vẫy tay lui lại ngụ ý chịu
thua. Y hỏi:
– Ta Chu-Long, đứng đầu
Liêu-Đông Tứ Vương. Trọn đời, ta chỉ thua dưới kiếm Phật-Nguyệt. Còn
Chu-tái-Kênh cũng không hơn ta. Ngươi là ai, mà võ công đến dường này?
Chợt y nhìn lên, thấy phía sau
tướng đó có cây cờ đề chữ “Bắc-Bình vương Đào“. Y kinh hoảng:
– Thì ra ngươi là Đào-Kỳ, hèn
chi võ công cao đường này. Ta thua là phải.
Nói rồi y phi ngưạ bỏ chạy.
Nguyễn-thành-Công trấn giữ trong
thành Mê-Linh, mở cửa tiếp rước Đào-Kỳ. Ông tỏ ý lo lắng:
– Sáng hôm qua Hoàng Thượng
cùng triều đình lên đường được một lúc thì Chu-Long mang quân đến vây thành.
Trong lúc chống trả, tôi thấy Mã-Viện, Lê-đạo-Sinh mang Thiết kị tiến về hướng
Hát-Giang.
Đào-Kỳ họp các tướng, ra lệnh
tiến quân. Đi được hơn giờ, ông thấy xác quân Việt, Hán nằm la liệt dọc đường
cùng gươm, đao, vũ khí. Đi quãng nữa trong đám xác chết có xác hổ, báo, voi,
chó sói. Ông xuống ngựa quan sát, thấy xác thú vật quân đoàn ba Tây-Vu đều chết
vì tên của Nỏ thần. Ông hội ý với Đào-phương-dung. Bà đáp:
– Trước đây năm dàn Nỏ thần
trên thành Mê-Linh bị tháo trộm đi mất. Hoàng Thượng biết Lê-đạo-Sinh ăn trộm.
Người chú ý theo dõi, mãi không thấy Lê xử dụng, cho rằng Lê mô phỏng theo chế
tạo không được. Nào ngờ Lê không nộp cho Quang-Vũ, mà bí mật chế tạo tại các
trang ấp của y. Nay mới đem ra xử dụng. Như vậy rõ ràng Lê tự biết Quang-Vũ
không tin y. Cho nên y mới giữ bí mật Nỏ thần, hầu một ngày kia dùng tới.
Tiến được một lát, gặp quân Mã-Viện,
Sầm-Anh.
Mã-Viện cỡi ngựa theo sau
Sầm-Anh. Đạo quân Đào-Kỳ dàn ra mau lẹ. Sầm-Anh cười lớn:
– Tên lỏi con Đào-Kỳ kia! Ngươi
có biết Trưng-Trắc, Trưng-Nhị bị giết rồi không?
Y vẫy tay một cái, từ phía sau,
hai tên quân cầm hai cây gậy, trên xuyên hai thủ cấp. Đào-Kỳ nhìn lại, đúng là
của Trưng Đế, Trưng-Nhị. Ruột ông đau như cắt. Ông hô lớn:
– Hãy tiến lên trả thù cho
Hoàng Đế.
Ông phóng chưởng tấn công
Sầm-Anh. Hoàng-thiều-Hoa cùng Hiển-Hiệu, Quí-Minh, Đào-phương-Dung dẫn quân
xung vào trận. Mã-Viện đứng trên cao, cầm cờ đốc chiến. Y thấy Đào-Kỳ chỉ có
bốn vạn quân. Y cho tất cả mười vạn quân cùng nhập trận.
Thình lình hậu quân Hán náo
loạn. Vì một đạo quân đi dọc theo sông Hát-Giang, do hai nữ tướng chỉ huy. Hai
nữ tướng võ công cực kỳ cao thâm, đi đến đâu quân Hán chết la liệt đến đó.
Mã-Viện nhận ra Quỳnh-Hoa, Quế-Hoa. Y vội chia quân ra cự địch.
Quân hai bên cùng xung vào tử
chiến. Quân Lĩnh-Nam uất nghẹn trước cái chết của Hoàng Đế. Họ đánh như một đội
thú dữ. Chỉ hơn một giờ, mười vạn quân Hán đã rời rạc, chỉ còn hơn vạn.
Mã-Viện tung thêm năm vạn nữa
vào. Trận chiến lại diễn ra thảm khốc. Quân Lĩnh-Nam chỉ còn hơn vạn.
Mã-Viện, Sầm-Anh truyền lệnh
thu quân, lui trở về phía Lãng-Bạc.
Đào-kỳ họp cùng Phương-Dung,
Vương bàn:
– Chúng ta có năm vạn người.
Trong khi Mã-Viện có tới hai mươi vạn.Tuy ta giết của Mã được hơn tám vạn, mà
ta chỉ còn hai vạn. Chi bằng tạm lui về Long-Biên.
Phương-Dung truyền quân sĩ thu
lượm xác chết các tướng soái, tử sĩ Lĩnh-Nam đem chôn. Bà cố ý tìm, không thấy
thi hài Trưng Đế cùng Trưng-Nhị.
Chiều, rút quân. Hai ông bà đi
cản hậu. Còn Thiều-Hoa dẫn các tướng rút quân trước. Mã-Viện không dám đuổi
theo.
Về tới Long-Biên, Vương được
tin báo:
– Trần-Năng, Hùng-Bảo bị bao
vây ở Yên-Lãng. Quân tan rã. Hai người hiện rút về phía Đông Long-Biên, cố thủ
trong các trang ấp Đăng-Châu. Chu-tái-Kênh có một vạn người, bị năm vạn quân
Ngô-Anh vây đánh. Quân tan. Bà rút về Thiên-Trường, cố thủ trong các trang ấp.
Phương-Dung bàn:
– Vua đã tuẫn quốc. Bây giờ
chúng ta chia nhau tản vào các trang ấp chiến đấu. Đợi khi thế giặc suy, sẽ đổ
ra đánh. Đợi giặc không quen thủy thổ, lâm bệnh, ta tập trung quân, đánh một
trận lớn thì hy vọng.
Hoàng Thiều-Hoa, Đào
Chiêu-Hiển, Đào Quí-Minh, Đào Phương-Dung, Lê Ngọc-Trinh, Lê Anh-Tuấn, Trần
Quế-Hoa, Trần Quỳnh-Hoa đều đồng ý. Ai trở về trang ấp người đó, chống giữ.
Đào-Kỳ, Phương-Dung, Sún Rỗ, Sa-Giang cố thủ trong thành Long-Biên.
Hoàng-thiều-Hoa vốn nhiều tình
cảm. Bà biết Hồ-Đề hiện về ẩn ở rừng núi Thiên-sớ, tiếp tục chiến đấu. Bà nhờ
Sún Rỗ dùng Thần ưng liên lạc với Hồ-Đề. Hai bà dùng Thần ưng, Thần Hổ phục
kích trên đường từ Giao-Chỉ về Trung-Nguyên, đón sứ thần của Mã-Viện đem thi
thể Trưng Đế, Trưng-Nhị về dâng Quang-Vũ. Phải mất hơn năm ngày, mới gặp đoàn
sứ giả. Võ công Hoàng-thiều-Hoa vốn cao thâm, đội hổ, báo của Hồ-Đề dũng mãnh,
thì trăm tên quân chở quan tài Trưng Đế, Trưng Vương làm sao cự lại?
Hai bà cướp được thi hài hai
Ngài, bí mật đem về an táng ở dưới chân núi Ba Vì, ngày nay có tên là núi
Vua Bà.
Hoàng-thiều-Hoa, Hồ-Đề âm thầm
dẫn các đệ tử Tây-Vu, thu nhặt xác chết các tướng tử trận ở Cẩm-Khê đem về quê
mai táng.
Dân chúng Lĩnh-Nam tiếc thương
các anh hùng tử trận Hát-Giang, lập đền thờ Trưng Đế, Trưng Vương khắp nơi. Còn
các tướng tử trận Cẩm-Khê, đến nay di tích còn lại:
* Đào-Tam-Gia, tức Sún Lùn, đền thờ tại Hà-Nội. Hồi xây nhà
thờ lớn Hà-Nội, bị phá hủy. Nay di tích không còn.
*
Phan-Cung, Sư trưởng Thần hầu, đền thờ
tại đình Vĩnh-Tường, xã Lộc-Vượng, thành phố Nam-Định.
*
Đào-Nương, Sư trưởng Thần phong
thờ chung với chồng là Đoàn-Công và Trương-Quán, Thập Bát Sơn tại xã Đông-Cứu
huyện Gia-Lương, tỉnh Hà-Bắc.
*
Trần Thiêm-Bình Sư trưởng Thần ngao,
thờ chung với Hùng-Bản, tại xã Ninh-Xá huyện Thuận-Thành, tỉnh Hà-Bắc.
*
Trần-Ngọc-Tích, Sư trưởng Thần ưng.
Thờ tại đền Vũ-Xá, xã Ngô-Quyền, huyện Thanh-Miện, tỉnh Hải-Hưng.
*
Thụ-Côn Công chúa Phan-thị-Hồng, Sư
trưởng Thần long, thờ tại đền Tức-Mạc, xã Lộc-Vượng, thành phố Nam-Định.
*
Trương-Quán, Sư trưởng Thần hổ,
thờ chung với Đào-Nương, Doãn-Công, Thập Bát-Sơn tại xã Đông-Cứu huyện
Gia-Lương tỉnh Hà-Bắc.
*
Phan-Tương-Liệt, Sư trưởng Thần báo.
Thờ tại đền Cổ-Linh, xã Lai-Động, huyện Gia-Lâm, tỉnh Hà-Nội.
*
Lê-Hằng-Nghị, Sư trưởng Thần tượng.
Thờ tại xã Liêm-Chung huyện Thanh-Liêm, tỉnh Hà-Nam-Ninh.
*
Quách-A, đã được phong Khâu-Ni
Công chúa, ăn lộc trang Nhật-Chiêu. Nay là xã Liên-Châu, huyện Yên-Lạc, tỉnh
Hà-Bắc. Tại đây có đền thờ bà. Khi Đinh Tiên-Hoàng dẹp loạn sứ quân
Kiều-công-Hãn ở Phong-Châu, nghỉ quân ở huyện Cổ-Tự, mộng thấy Khâu-Ni hiện ra
xin giúp vua đánh giặc. Sau khi dẹp xong sứ quân, vua Đinh
Tiên-Hoàng phong Khâu-Ni làm Thượng đẳng phúc thần. Vua Lê Đại-Hành phong làm
Công Chúa Huệ-Gia Trinh Thục Phu Nhân. Vua Lê Thái-Tổ cũng ban sắc
phong, truyền dân chúng phải kiêng bốn chữ “A Nương Khâu Ni”. Khi vua Trần-thái-Tôn
đánh giặc Mông-Cổ ở sông Lô, được Khâu-Ni báo mộng đem âm binh giúp. Vì vậy hết giặc,
vua phong Khâu-Ni làm “Huệ Gia, Chí Đức, Ôn Từ Công Chúa”.
*
Hùng-xuân-Nương, trước được phong
Thanh-Sơn Công Chúa. Ngày nay dọc đường từ bến đò Ngọc-Tháp, Phú-Thọ tới bến
Trung-Hà, các xã Hương-Nha, Vực-Trường, Thanh-Uyên, Tam-Cương, Cổ-Tiết,
Hương-Môn, đều có đền thờ Xuân-Nương. Đền thờ Hương-Nha có hai câu đối như sau:
Yểu
điệu phù Trưng, trung quán nhật.
Quật
cường cự Hán tiết lăng sương.
Dịch
nghĩa: Người yểu điệu phù vua
Trưng, lòng trung nghĩa tranh sáng với mặt trời. Quật cường chống giặc Hán, khí
tiết thắng cả thời gian.
Anh
kiệt vô song, vạn cổ thanh danh lưu nữ sử.
Quân thần câu hóa, nhất không trung nghĩa tối thanh thiên.
Dịch
nghĩa: Anh kiệt không có
hai, danh tiếng nghìn đời còn ghi sử nữ. Vua tôi cùng chết, làm trời xanh vằng
vặc cũng còn thua.
*
Nguyễn-Quý-Lan, trước đã được phong Liên-Sơn
Công Chúa. Hiện nay còn đền thờ ở xã Liên-Sơn, huyện Lập-Thạch, tỉnh Vĩnh-Phú.
Quý-Lan còn được thờ ở miếu Khuôn, Đáp-Cầu và đình Thần-Sơn.
…
Bắc-Bình vương Đào-Kỳ cùng
Vương phi Nguyễn-phương-Dung cố thủ trong thành Long-Biên. Lưu-Long, Vương-Bá,
Mã-Viện, Lê-đạo-Sinh chia nhau dẫn quân đánh chiếm các trang ấp. Các Lạc hầu,
Lạc tướng, dân chúng cương quyết cố thủ. Khi một trang thất thủ, quân Hán tràn
ngập, trang chỉ còn bãi đất hoang, người chết nhà cháy, không còn gì.
Cứ như các cuốn phổ kể, thì
Chu-tái-Kênh kháng chiến vùng Nam-Định, Ninh-Bình, Thái-Bình ngày nay.
Trần-Năng, Hùng-Bảo kháng chiến ở vùng Hải-Dương, Kiến-An. Hoàng-thiều-Hoa
kháng chiến ở vùng Bắc-Ninh, Sơn-Tây, Phú-Thọ, Hoà-Bình. Đào-hiển-Hiệu,
Đào-quí-Minh, Đào-phương-Dung kháng chiến ở vùng Hà-Nội, Hà-Đông. Trần-Quốc
kháng chiến ở vùng ven biển cùng Tử-Vân. Trần-quế-Hoa, Trần-quỳnh-Hoa kháng chiến
ở vùng Sơn-La, Lai-Châu. Đô-Dương, Lại-thế-Cường vẫn hùng cứ vùng Thanh-Hóa,
Nghệ-An.
Mã-Viện phái Phùng-Đức,
Sầm-Anh, Liêu-Đông Tứ Ma đi đánh phá các nơi. Quân hao tướng tổn, suốt từ tháng
ba đến tháng bảy vẫn chưa bình được. Quân Lĩnh-Nam cứ như ma, khi ẩn khi hiện.
Gặp quân Hán đi lẻ tẻ, lại đổ ra đánh. Đại quân địch kéo đến, lại trốn mất.
Cuối tháng bảy, Quang-Vũ gửi
chiếu chỉ hạ lệnh cho Mã-Viện bằng mọi giá phải đánh chiếm Long-Biên, vì
Long-Biên, Đào-Kỳ, Phương-Dung, thì linh hồn chiến đấu vẫn còn. Mã-Viện để
Lưu-Long dàn quân đóng khắp nơi. Còn y kéo hai mươi vạn quân cùng Sầm-Anh,
Phùng-Đức, Liêu-Đông Tứ Ma về vây Long-Biên. Trong thành Long-Biên chỉ còn hơn
hai vạn người. Tướng lĩnh có Đào-Kỳ, Phương-Dung, ba anh em Hiển-Hiệu,
Quí-Minh, Đào, Phương-Dung, Sún Rỗ, Sa-Giang.
Đánh liền một tháng, vẫn không
hạ được thành. Cuối cùng Lê-đạo-Sinh hiến kế: Chia hai mươi vạn quân thành năm
đạo. Mỗi đạo công thành ba ngày. Cứ như vậy luân phiên, khiến quân giữ thành
mệt mỏi. Bấy giờ bắc thang tràn vào, ắt chiếm được.
Quả nhiên kế của Lê-đạo-Sinh
hữu-hiệu. Mã-Viện công thành liên tiếp mười ngày, quân trong thành mệt mỏi.
Phần bị thương, phần chết, lương thảo cạn dần. Bắc-Bình vương Đào-Kỳ họp các
tướng nghị kế. Các tướng đều xin đánh một trận, giết giặc cho sướng tay rồi
chết.
Vừa lúc đó Vương nhận được thư
Cửu-Chân vương Đô-Dương. Đô-Dương ước hẹn đem quân đánh từ trong ra. Ngoài này
Đào-Kỳ đánh vào, mở thông đường Cửu-Chân, Giao-Chỉ. Hẹn 14 tháng tám là ngày
xuất quân.
Đào-hiển-Hiệu tỏ vẻ hoài nghi:
– Chúng ta chỉ còn hai vạn
người, trong khi Mã-Viện có hai mươi vạn. Chỉ sợ khi vừa mở cổng thành, chúng
ta đã bị tràn ngập.
Bắc-Bình vương quyết định:
– Ngày 14 tháng tám ta sẽ mở
cổng thành tử chiến. Các tướng phá vòng vây, ẩn vào dân chúng, hoặc tiến về Cửu-Chân
cùng Đô-Dương, Chu-Bá tiếp tục chống giặc.
Ấn định mọi việc xong, Vương về
dinh, thấy hai con Tử-Khâm, Tường-Qui còn ngây thơ, nô đùa, cười nói, không
biết gì, Vương nhìn hai con, lòng tràn đầy thương cảm. Vương đưa mắt nhìn
Sa-Giang, Sún Rỗ rồi rơi nước mắt nói:
– Sư huynh muốn tử chiến, ngặt
vì có chút tâm sự chưa giải quyết xong. Nếu hai em hứa giúp anh. Anh mới yên
tâm giết giặc.
Sa-Giang, Sún Rỗ quì xuống,
khóc:
– Dù khó khăn, dù nhục nhã đến
đâu, chúng em quyết thi hành ước muốn của anh. Có phải anh muốn chúng em ẩn
nhẫn chịu nhục, nuôi hai cháu chờ một mai trả thù nhà nợ nước?
Sa-Giang chợt loé lên tia sáng,
bá nói:
– Sư huynh, nếu sư huynh tin
tưởng, xin giao hai cháu cho vợ chồng em. Hai đứa chúng em vốn thạo tiếng Hán.
Chúng em đem hai cháu, nhận làn con, ẩn vào với đám dân người Hán trong thành.
Mã-Viện đánh vào, tất không hại người Hán. Chúng em sẽ đem hai cháu, tìm nơi
nào đó ẩn thân, dậy dỗ chúng. Đào-Kỳ trao cho Sún Rỗ cuốn Lĩnh-Nam vũ kinh:
– Đây là tất cả tinh hoa, văn
minh Lĩnh-Nam. Anh trao cho em. Em hãy cầm lấy, mà luyện tập, rồi dạy học trò.
Đợi mai này, khởi binh đuổi giặc Hán. Bất cứ trường hợp nào cũng không thể để
mất.
Sún Rỗ quì xuống nhận sách.
Nguyễn Phương-Dung bồng Đào-tử-Khâm, Đào-tường-Qui trao cho Sún Rỗ, Sa-Giang.
Bà dặn con trong nước mắt:
– Con ơi! Con sinh ra trong
thời loạn. Vua Trưng tuẫn quốc. Dân Lĩnh-Nam điêu linh. Con hãy đi theo chú
thím. Chú thím thay bố mẹ nuôi con, dạy con. Nhất nhất phải nghe lời chú thím.
Đến đó bà nấc lên, nghẹn lời,
nước mắt tuôn ra như suối.
Hai đứa trẻ như có linh tính.
Chúng ôm lấy cổ Sún Rỗ, Sa-Giang. Sa-Giang, Sún Rỗ thu xếp hành lý, cúi đầu lạy
Đào-Kỳ, Phương-Dung, bồng hai đứa trẻ lên đường. Đào-tử-Khâm hỏi:
– Bố ơi! Thế thì bố với mẹ chết
à? Sao bố mẹ lại bỏ con mà chết?
Đào vương cầm tay hai con:
– Vua Trưng chết! Bố mẹ chết,
để đền nợ Lĩnh-Nam. Các con nhớ: Phải học văn, luyện võ, một mai trả nợ nước
thù nhà.
Hai đứa trẻ khóc thét lên:
– Không! Bố mẹ không chết! Con
ở lại với bố mẹ.
Sún Rỗ nắm chặt tay nó:
– Không! Bố không bao giờ chết!
Mẹ không bao giờ chết. Bố, mẹ sống mãi với đất nước Lĩnh-Nam.
Hai người nhảy lên mình ngựa ra
roi. Ngựa phi vút đi, còn văng vẳng tiếng hai đứa trẻ vọng lại:
– Bố ơi! Mẹ ơi! Đừng xa con. Bố
đừng chết nghe bố!
Đào-Kỳ, Phương-Dung gạt nước mắt,
nhìn theo bóng hai con.
Vương trở vào, các tướng đã nai
nịt chỉnh tề. Vương ra lệnh:
– Chúng ta cùng xông ra cửa
Nam. Ta với Phương-Dung dẫn đầu, đánh phá vòng vây. Các tướng đi sau cùng xông
vào. Lợi dụng lúc đêm tối, mỗi người chạy một ngả. Chúng ta ẩn vào dân chúng
tiếp tục chiến đấu. Ba em Hiển-Hiệu, Quí-Minh, Phương-Dung không được tham
chiến, phải chạy về Cổ-Loa ngay.
Đợi đúng canh ba, cổng thành mở
rộng. Đào-Kỳ phóng ngựa ra trước. Tiếp theo Phương-Dung với các tướng, xông vào
hàng ngũ Hán. Quân Hán chợt thức giấc, thì mọi người đã rời khỏi vòng vây.
Mã-Viện nghe báo, kinh hãi. Y
gọi Lê-đạo-Sinh, Phùng-Đức, Sầm-Anh, Liêu-Đông Tứ Ma bắt lên ngựa mang Thiết kị
đuổi theo. Đuổi được một quãng, gặp Đào-Kỳ, Phương-dung. Bảy đại cao thủ vây
hai người vào giữa. Mã-Viện đứng trên mô đất cao, cầm đèn chỉ huy. Thiết kị bao
vây trùng trùng điệp điệp. Đào-Kỳ gò ngựa hỏi:
– Uổng cho chúng bay là đệ nhất
cao nhân đương thời mà bảy người vây đánh hai chúng ta. Nếu các ngươi còn là
con người, hãy lấy một chọi một.
Phùng-Đức cười gằn:
– Ta đấu với ngươi, để trả thù
cho Phùng-Dị.
Sầm-Anh bước ra nói với
Phương-Dung:
– Ta đấu với mi, trả thù cho
Sầm-Bành.
Đào-Kỳ không nói không rằng.
Vương vận khí về Tam Dương kinh xuất chưởng tấn công Phùng-Đức. Phùng-Đức biết
bản lĩnh Đào-Kỳ không tầm thường. Y vội vận chưởng chống lại. Binh,
binh hai tiếng. Người y bật lui lại hai bước, khí huyết đảo lộn.
Đào-Kỳ biết bên địch đông, bên mình ít. Vương muốn kết liễu tính mệnh Phùng-Đức
càng mau càng tốt. Vương vận đủ mười thành công lực. Mỗi chưởng đánh ra,
Phùng-Đức phải lui lại. Vừa đánh Vương vừa nhìn sang bên cạnh, thấy vợ đấu với
Sầm-Anh thắng thế rõ rệt.
Thình lình Vương quát lên một
tiếng, xuất chiêu Hải Triều Lãng Lãng. Lớp thứ nhất đánh
ra. Binh một tiếng Phùng-Đức lui lại hai bước. Lớp thứ nhì đổ
tới, mạnh nghiêng trời lệch đất, binh một tiếng, Phùng-Đức bay
vọt về sau, lảo đảo muốn ngã.
Đào-Kỳ phát lớp thứ ba. Mã-Viện
đứng ngoài quát tháo, Lê-đạo-Sinh, Chu-Long cùng xuất chưởng. Thế là ba người
cùng đỡ lớp chưởng thứ ba của Vương. Rầm một tiếng, Vương bật
lui hai vước, phát lớp thứ tư. Ba đại cao thủ hít một hơi phát chưởng đỡ. Ầm một
tiếng, cả hai bên đều bật lui. Đào-Kỳ nghiến răng phát lớp thứ năm. Ba đại cao
thủ xuất chiêu đỡ. Vương đẩy chưởng ra. Chưởng của Vương dính chặt vào chưởng
của ba người. Hai bên thi diễn cuộc đấu nội lực.
Vương vừa đánh với Phùng-Đức,
Lê-đạo-Sinh, Chu-Long, vừa quan sát trận đấu giữa Phương-Dung với Sầm-Anh.
Thình lình Phương-Dung quay kiếm ba vòng. Đầu Sầm-Anh bị tiện đứt, máu phun lên
có vòi.
Ngô-Anh, Trịnh-Sư, Vương-Hùng
rút vũ khí xông vào. Võ công một trong Liêu-Đông Tứ Ma vốn ngang với
Lê-đạo-Sinh, kiếm thuật Phương-Dung dù cao đến đâu cũng không địch lại ba
người.
Đào-Kỳ chợt nhớ ra phương pháp
qui liễm chân khí, mà Vương đã phát minh ra khi đấu với Song Quái. Ông dùng
chân khí của Lê-đạo-Sinh chuyển sang trái đánh với Phùng-Đức, Chu-Long. Phút
chốc Lê-đạo-Sinh lảo đảo, chân khí muốn cạn. Vương vung tay một cái,
Lê-đạo-Sinh bật lui trở lại. Vương thu tay về xuất chưởng đánh Phùng-Đức, Chu-Long. Binh,
binh hai người bay lên cao. Vương rút kiếm đưa một nhát. Hai người bị
đứt đôi, xác rơi xuống trước ngựa.
Mã-Viện không ngờ công lực
Đào-Kỳ mạnh đến thế. Trong khi Đào-Kỳ đấu với ba đại cao thủ, Mã-Viện đã phục
sẵn mười đội “Đoạn đầu quân” xung quanh. Khi thấy Đào-Kỳ đánh bay
Lê-đạo-sinh, giết Phùng-Đức, Chu-Long. Mã-Viện hô lên một tiếng, đoạn đầu quân
dùng vũ khí đâm vào người Vương. Vương quay chưởng một vòng. Vũ khí bị đánh dạt
ra. Vương nhấp nhô một cái thoát khỏi vòng vây. Mã-Viện cầm cờ chỉ theo. Thiết
kị “Đoạn đầu quân” bổ vây kín mít. Vương bị trúng hai mũi tên vào
ngực, một mũi trúng bụng.
Vương rút kiếm, ánh kiếm đến
đâu, đầu rơi đến đó. Vương vừa đánh vừa tiến về phương Nam. Mã-Viện cầm đèn chỉ
theo. Đánh đến sáng, người mệt lử. Vương cầm kiếm, ngồi dựa vào gốc cây thở.
Quân Hán thấy Vương oai phong lẫm liệt, không dám lại gần. Vương rút ba nũi
tên, tự băng bó lấy.
Mã-Viện hò hét, quân sĩ cũng
không dám tiến. Chợt cửa trận mở, từ sau, Lê-đạo-Sinh cỡi ngựa tiến ra cùng với
năm xe chở Nỏ thần. Lê-đạo-Sinh quát lên:
– Bắn!
Nỏ thần bắn như mưa. Đào-Kỳ cầm
kiếm gạt tên. Vương vọt lên cao chạy ra khỏi vòng vây. Thấy một tướng Hán đang
đứng đốc chiến. Vương nhảy lên chụp cổ y liệng xuống, rồi phi ngựa hướng Cổ-Loa
chạy về.
Trời sáng, tới Cổ-Loa, người
mệt lử, Vương nằm phục trên yên ngựa. Con ngựa thủng thẳng đi. Một nông dân
chạy lại nhìn. Họ nhận ra Vương từng đánh võ sĩ Tô-Định cho dân Cổ-Loa, Cổ-Lễ,
Cổ-Đại khỏi bị Ngũ pháp. Nông dân ấy vội tri hô lên. Dân chúng trong trang
vương đỡ vào nhà. Họ lấy nước lạnh đắp lên đầu Vương, nấu cháo đổ vào miệng.
Một lát Vương tỉnh dậy, ngơ ngác hỏi:
– Đây là đâu?
Một lão ông đáp:
– Thưa Đại vương đây là Cổ-Loa.
01Vương mỉm cười:
– Ta là con dân Âu-Lạc. Vì
Âu-Lạc khởi binh, bây giờ lại chết ở cố đô Âu-Lạc. Sau khi ta chết, các ngươi
hãy chôn ta trong thành này.
Nói rồi Vương nhắm mắt thiếp
đi. Một lát tỉnh dậy, oẹ một tiếng, phun ra bụm máu, rồi tắt thở.
Còn Phương-Dung đấu với ba đại
cao thủ Liêu-Đông. Vừa đánh bà vừa lui. Thình lình bà nhảy vọt lên cao, ánh
kiếm loé lên. Người bà đáp xuống. Đầu Trịnh-Sư bay khỏi cổ. Vương-Hùng, Ngô-Anh
cùng vung kiếm, đâm thẳng vào ngực bà, định cả hai bên đều chết. Bà chuyển thân
mình, kiếm chặt đứt tay phải Ngô-Anh, Ngô-Anh lăn vào, dùng tay trái ôm lấy bà.
Trong khi kiếm của bà đâm suốt qua ngực y. Vương-Hùng nhân lúc kiếm bà đâm
Ngô-Anh, y thích một kiếm vào ngực phải của bà. Bà đã rút được kiếm ra, ánh
kiếm loé lên, đầu Vương-Hùng bay xuống đất. Bà hú một tiếng. Con ngựa Ô phi như
bay khỏi vòng vây, hướng Cổ-Loa.
Bà đến Cổ-Loa vào buổi chiều.
Dân chúng nhận được mặt bà, họ ra đỡ ba vào nhà. Bà bước vào nhà thấy xác Vương
nằm đó, biết chồng đã chết. Bà ngồi dựa lưng cạnh bàn thờ An-Dương Vương, bảo
một tráng đinh:
– Ngươi lấy cho ta bát nước.
Bà cầm bát nước uống hết, than:
– Than ôi! Ta là Tể-tướng, mà
Vua tuẫn quốc, chồng chết! Ta còn sống làm gì?
Bà vung kiếm lên tự tử.
Ghi chú của thuật giả.
Hôm đó là ngày 15 tháng tám năm
Quí-Mão, nhằm năm 43 sau Tây Lịch. Dân chúng trong vùng an táng Bắc-Bình vương
cùng Vương phi tại Cổ-Loa, lập đền thờ. Trải qua gần hai nghìn năm, cho đến
nay, tại các thôn Lộc-Hà, Hội-Phụ, Lê-Xá,
Thi-Thôn đều thờ Bắc-Bình vương và Vương phi. Trước đền thờ có hai câu đối. Xin trích dẫn
câu:
Giao-Chỉ tượng thành công, dư
lục thập thành, giai kiện tướng.
Đô-Dương mã bất tiến, hậu thiên vạn tải hữu linh thần.
Dịch-nghĩa:
Voi
Giao-Chỉ đã thành công, hơn sáu mươi thành đều công tướng giỏi. Ngựa Đô-Dương
chậm bước, nên muôn ngàn năm sau thần vẫn linh.
Vị lý Phục-Ba thi, loan giá lâm
lưu không ẩm hận,
Bất ly Tiên trấn giáp, Loa thành qui mã thượng trì thanh.
Dịch
nghĩa:
Chưa
bọc xác Phục-Ba, cạnh sông xe loan còn vang uất hận. Không rời giáp Tiên Trấn,
ngựa về Cổ-Loa, vẫn vọng âm thanh.
Một
bài thơ khác:
Sinh vi lương tướng, tử vi
thần,
Vạn cổ cương thường, hệ thử nhân,
Loa địa song đôi thuy nguyệt ảnh.
Anh hùng liệt nữ tướng quân phần.
Dịch
nghĩa:
Sống là tướng giỏi, chết là
thần.
Vạn đại cương thường, nặng tấm thân,
Hai mộ thành Loa trăng chiếu sáng,
Anh hùng, liệt nữ, mộ tướng quân.
Năm 1993, tôi về Việt-Nam công
tác cho CEP (Coopérative Européenne Pharmaceutique) vào tháng tám. Nhân dịp
này, tôi rủ bác-sĩ Trần An-Xuân thuộc bệnh viện Trưng-vương, Sài-gòn viếng thăm
di tích Cổ-loa. Sau khi thăm cố đô, chúng tôi tới Lộc-hà, Hội-phụ, mong tìm lại
đền thờ Đào-vương. Nhưng đền đã bị phá, chỉ còn cái nền! Tôi đứng trên nền ngôi đền
mà khóc. Tôi nghe vào những năm 1992-1997, họ Đào ở Cổ-loa rất phát, có nhiều
vị làm lớn như Đào Duy-Tùng, Đào Duy-Cận, Đào Duy-Trữ, cùng một số nữa đeo quân
hàm tướng, không biết có phải là con cháu của Vương hay không? Không biết nay,
đền thờ Vương đã được tái xây cất không?
….
Ba người đàn bà, một người đàn
ông cỡi ngựa, đến chân Hoàng Thành Lạc-Dương. Cả bốn cùng đừng lại, nhấp nhô
một cái, bốn người đã vọt qua Hoàng Thành vào trong. Họ cùng hướng lầu Thúy-Hoa
mà đi. Tới chân lầu, họ nhìn trước, nhìn sau, vọt người lên tầng thứ nhất, thứ
nhì, thứ ba, rồi thứ tư. Họ bám cửa sổ nhìn vào: Bên trong Quang-Vũ cùng đại
thần thiết triều khẩn cấp, nghe Phục-Ba đại tướng quân tấu trình về công cuộc
bình định Lĩnh-Nam. Quang-Vũ bảo Tể Tướng Giả-Phục:
– Cho Lưu-Long, Mã-Viện vào.
Hai người lên lầu, quì gối tung
hô vạn tuế. Quang-Vũ ra hiệu cho hai người bình thân. Y nói với Mã-Viện:
– Phục-Ba tướng quân thực là
đại công thần, có công với xã tắc. Khanh đã bình được Lĩnh-Nam, công ấy không
nhỏ.
Bô Lỗ đại tướng quân Mã-Vũ bước
ra tâu:
– Muôn tâu bệ hạ. Cái xứ
Lĩnh-Nam nhỏ xíu, mà Mã-Viện mang tới bảy mươi vạn quân đi đánh, phải hơn ba
năm mới bình được, lại làm chết trước sau bốn chục vạn người. Như vậy đâu còn
là chiến thắng? Hiện nay triều đình phải phủ tuất bốn mươi vạn gia đình… Hơn
nữa làm chết các đại tướng Phùng-Đức, Sầm-Anh, Liêu-Đông Tứ Vương… Thực không
thể gọi là công.
Phò mã Lương-Tùng tâu:
– Tâu Phụ Hoàng, thần nhi nghe
Mã-Viện Nam chinh, chở về hơn mười xe châu báu. Thần nhi nghĩ Mã tướng quân
phải dâng số ngọc đó để sung vào công khố mới đúng bậc trung thần.
Lương-Tùng (Cu Bò) biết
tâm lý các đại thần, đều muốn ăn hối lộ. Mã-Viện đánh Lĩnh-Nam chở về mười xe Ý
dĩ (Bo bo) hạt to, trắng như ngọc. Lương-Tùng nêu ra, để các
quan ghen tỵ, buộc tội Mã-Viện.
Thái tử Trang có tình sư huynh
sư đệ, là bạn từ nhỏ với Lương-Tùng. Thấy Lương nói vậy, cũng tiếp:
– Tâu Phụ Hoàng. Mã tướng quân
Tổng trấn chín quận Kinh-Châu, đem quân đánh Thục, bị lừa, chỉ còn một người,
một ngựa trở về, được ân xá. Sau lại đem ba mươi vạn quân đánh Trường-Sa, chôn
ba mươi vạn ở hồ Động-Đình. Rồi không có chỉ dụ mà đem mười vạn quân tiếp cứu
Lưu-Long, để mười vạn quân chết. Bây giờ, mang quân nghiêng nước, đánh đất
Lĩnh-Nam nhỏ một chút, làm chết bốn mươi vạn người. Thực không phải công, mà là
tội vậy.
Mã-Viện lột mũ quăng xuống đất
tâu:
– Tâu bệ hạ! Thần có chở về
mười xe Ý dĩ chứ không hề có ngọc. Còn việc hao binh tổn tướng, vì Lĩnh-Nam anh
tài nhiều…
Các triều thần xúm vào, mỗi
người buộc tội một câu. Trước kia Quang-Vũ không ưa Mã-Viện, vì Mã là cháu Mã
thái hậu. Bây giờ Mã thái hậu chết rồi. Quang-Vũ chỉ muốn dùng Viện đánh giặc.
Nay nhân lời buộc tội các công thần. Quang-Vũ phán:
– Phía Bắc Hung-Nô phạm biên.
Trẫm tha cho Mã tướng quân tội làm hao binh tổn tướng, và tội lấy mười xe ngọc.
Nội ngày mai phải lên đường đánh giặc. Trẫm cử Bô-lỗ đại tướng quân Mã-Vũ đem
quân theo trợ chiến. Phò mã Lương-Tùng làm giám quân. Cần cố gắng lập công
chuộc tội.
Mã-Viện lạy tạ lui.
Tể Tướng Giả-Phục hô:
– Mời Lĩnh-Nam công Lê-đạo-Sinh
cùng các đệ tử vào triều kiến.
Bọn Lê-đạo-Sinh vào quì mọp
xuống tung hô vạn tuế. Quang-Vũ bảo Thái giám hầu cận:
– Lấy rượu để trẫm ban thưởng
cho Lĩnh-Nam công và các Thái thú.
Quang-Vũ rót rượu, thưởng
Lê-đạo-Sinh, cho tới bọn Đức-Hiệp, Đinh-công-Thắng, Triệu-anh-Vũ mỗi người bốn
chung. Uống hết bốn chung rượu, thầy trò Lê-đạo-Sinh thấy mắt hoa đầu váng,
loạng choạng ngã xuống. Quang-Vũ cùng triều thần cười ầm lên khoái trá, y
truyền Thị vệ trói lại, lấy nước lạnh đổ lên đầu. Lê-đạo-Sinh tỉnh dậy, thấy
năm đệ tử bị trói với Đinh-công-Thắng, Triệu-anh-Vũ. Y kêu lên:
– Bọn thần nhất tâm, nhất dạ
phò tá bệ hạ. Không biết có tội gì mà bị trói như thế này?
Quang-Vũ cười nhạt:
– Ngươi trung thành với trẫm ư?
Máu thịt ngươi là Lê-thị-Hảo, là Chu-Bá ngươi còn muốn giết. Vua ngươi là
Trưng-Trắc thực anh hùng, mà ngươi còn nỡ hại. Dân Việt là đồng bào ngươi, mà
ngươi dẫn quân Hán chém giết, thì ngươi tử tế với ai?
Y nói với Lương-Tùng:
– Trẫm giao chúng cho Phò mã
quản thúc. Chúng có tội thì xử, có công thì thưởng. Dù tội gì, Phò mã cũng
không được giết chúng. Dù công gì, Phò mã cũng không được tha chúng.
Quang-Vũ nói với triều thần:
– Cái thứ lưu manh, ngu xuẩn
như Lê-đạo-Sinh mà cũng muốn qua mặt trẫm! Các khanh thử nghĩ xem, trẫm là
người Hán, đem đại quân xuống Lĩnh-Nam giết người Việt, chiếm đất, đốt nhà, cai
trị như trâu như chó. Bất cứ người Việt nào cũng thù hận trẫm. Trong khi đó
nước Lĩnh-Nam có vua anh hùng, tướng sĩ lương đống. Thế mà y chạy sang cúc cung
cúi đầu phục tùng trẫm, thử hỏi lòng dạ y có tin được không? Nhà đại Hán lập
lên đã dư hai trăm năm. Đời nào cũng có bậc tôi hiền, trung thần phò tá. Trẫm
không trừng phạt bọn Lê-đạo-Sinh để nêu gương, thì e rằng sau này bọn phản
nghịch như Vương-Mãng sẽ còn nhiều.
Lương-Tùng dạ một tiếng, truyền
dẫn tám người xuống lầu. Tám người còn bị thuốc mê mơ mơ hồ hồ chưa tỉnh.
Lương-Tùng giải bọn Lê tới phủ Phò mã, đưa đến một ngôi nhà lớn. Chàng lấy chìa
khóa mở cửa. Đám Thị vệ đẩy thầy trò Lê-đạo-Sinh vào trong. Ngước mắt nhìn lên,
Lê-đạo-Sinh cảm thấy gai ốc mọc cùng mình. Y đưa mắt nhìn đồng bọn, ngụ ý báo
cho nhau biết những gì không hay sắp đến. Trong đại sảnh, đèn nến sáng trưng, ở
giữa một bàn thờ hương khói nghi ngút. Phía trước bàn thờ, tượng một phụ nữ mặc
quần áo vàng ngồi trên ngai sơn son thếp vàng, lớn như người thực. Trước tượng
có bài vị đề.
“Lĩnh-nam Hoàng-đế.
Tính Trưng, húy Trắc chi linh vị”.
Phía sau tượng có ba người nữa,
một người đàn ông, mặc phẩm phục Vương, phía trước có bài vị:
“Đại-tư mã Lĩnh-nam, Bắc-bình vương,
Tính Đào húy Kỳ, tam sư huynh chi linh vị”.
Tượng người thứ nhì là nữ,
trước có bài vị:
“Lĩnh-nam Tư-không Nguyệt-đức công chúa.
Tính Phùng, húy Vĩnh Hoa chi linh vị”.
Tượng người thứ ba là nam,
trước có bài vị:
“Lĩnh Nam Tư Đồ, Tương-liệt đại vương,
Tính Nguyễn, húy Thành Công chi linh vị”.
Tiếp theo đủ tượng, bài vị, nào
là Tể Tướng Nguyễn-phương-Dung cho đến các Lạc vương, các tướng thống lĩnh đạo
binh, nhất là các tướng lĩnh Tây-Vu không thiếu một người nào. Lê-đạo-Sinh quát
hỏi:
– Ngươi là Phò mã của đương kim
Thiên tử mà đi thờ kính con phản tặc Lĩnh-Nam. Tội này thực đáng tru di tam
tộc. Ngươi là ai?
Lương-Tùng chỉ vào mấy bài vị
phía sau:
– Ngươi cứ đọc bài vị này sẽ
biết.
Lê-đạo-Sinh đọc:
“Lĩnh-nam Lạc-vương Quế-lâm,
Nghĩa phụ tính Lương, húy Hồng-Châu chi linh vị”.
Mấy bài vị khác:
“Lĩnh-nam Đăng-châu Quốc-công,
Sư phụ tính Đào, húy Thế Hùng chi linh vị”.
Lương-Tùng chỉ vào mấy bài vị
khác:
– Đây là bài vị sư huynh
Hiển-Hiệu, Quí-Minh, sư tỷ Phương-Dung, Hồng-Thanh.
Lê Đạo-Sinh mắng:
– Thì ra mi là gian tế
Lĩnh-Nam. Mi tôn tên phản tặc Lương Hồng-Châu làm nghĩa phụ, mi lại là đệ tử
của đại phản tặc Đào Thế-Hùng.
Lương-Tùng cười nhạt:
– Hôm nay ta trả thù nước, thù
nhà, thù môn hộ.
Lê Đạo-Sinh biết việc chẳng
lành sắp xẩy ra. Y hít một hơi chân khí vận sức vào cánh tay, xương cốt kêu
răng rắc. Các dây trói đứt tung ra. Lương-Tùng kinh hoảng hô Thị-vệ nhảy vào ôm
chặt lấy y. Lê-đạo-Sinh vung tay một cái, đám Thị– vệ văng ra ngoài, bị thương
nằm dài trên đất. Lê Đạo-Sinh chồm tới chụp Lương-Tùng. Chàng nhảy lui lại thét
lên:
– Mạng ta cùng rồi!
Thình lình hai bóng đen bịt mặt
từ ngoài nhảy vào cùng vung chưởng tấn công Lê-đạo-Sinh. Binh, binh hai
tiếng. Lê bật lui lại sau, người lảo đảo muốn ngã. Lương-Tùng hô Thị-vệ nhảy
vào ôm cổ y vật xuống trói lại.
Sự thực bản lĩnh Lê-đạo-Sinh
đâu phải tầm thường? Song y bị đánh thuốc mê còn chưa tỉnh, lại bị hai đại cao
thủ đánh hai chưởng một lúc, khiến khí huyết đảo lộn. Vì vậy Thị– vệ mới trói
được y.
Lương-Tùng nhìn hai người bịt
mặt cứu chàng, trông dáng rất quen, mà nhất thời chàng không nhớ được đã gặp ở
đâu? Tên là gì? Có điều hai chưởng mà người bịt mặt dùng lại khác nhau. Một
người dùng chưởng Cửu-chân, một người dùng chưởng Phục-ngưu. Chàng cung kính hỏi
bằng tiếng Việt:
– Đa tạ tiền bối cứu mạng. Xin
tiền bối cho biết cao danh quí tính?
Hai người cười nhạt một tiếng,
thấp thoáng, đã biến mất. Lương-Tùng nhìn dáng hai người, nhận ra là hai phụ
nữ.
Chàng quay lại nói với Lê
Đạo-Sinh:
– Tên lưu manh này! Về võ công,
mi luyện đến mức vô địch thiên hạ. Chỉ vì lương tâm không có, mi hại Hoàn-đế
Lĩnh-Nam, hại dân Việt. Tội ác mi chồng chất. Mi đâu ngờ có ngày hôm nay. Hôm
nay ta hãy cắt gân mi, để mi không xử dụng võ công được nữa.
Chàng quì xuống trước bàn thờ.
Đám Thị-vệ cũng quì theo. Chàng lạy tám lạy, chắp tay khấn:
“Chị Hoàng Đế có linh thiêng
xin về chứng giám cho đứa em lưu lạc. Ngày nọ chị đến hồ Động-đình ban chỉ cho
em phải sang Trung-Nguyên giúp chị Tường-Qui. Em vẫn canh cánh trong lòng chỉ
dụ của chị, không bao giờ quên Lĩnh-Nam. Em thân làm Phò– mã Hán, mà lòng để ở
Lĩnh-Nam”.
Đến đây chàng bật lên tiếng
khóc. Bọn Thị-vệ cũng khóc theo. Chàng khấn tiếp:
“Sư phụ, nghĩa phụ, sư huynh, sư tỷ cùng các anh hùng Lĩnh-Nam. Anh hồn hãy về đây
chứng giám cho con. Con sống giữa vinh hoa, phú quí, mà lòng chẳng đổi thay. Nước
mất, lòng con đau như dao cắt. Hôm nay con xin đem kẻ thù đến tế trước vong
linh “Chị Hoàng Đế”, nghĩa phụ, sư phụ. Tại Thiên chi linh xin về cùng hưởng”.
Thị vệ đem đến nào lợn, nào gà,
nào các thức ăn. Chàng quì xuống dâng lên, nước mắt tuôn lã chã:
– Lễ vật đạm bạc, xin “Chị
Hoàng-đế” cùng sư phụ, nghĩa phụ, sư huynh, sư tỷ từ Thiên chi linh xin về
chứng cho.
Chàng quay lại, thấy Công chúa
Đoan-Nhu cũng quì gối bên cạnh, nước mắt đầm đìa. Lê Đạo-Sinh hậm hực:
– Ta thực không hiểu! Ta điên
rồi! Ngươi là thân thế cành vàng lá ngọc, là Công-chúa Thiên-triều, lại đi quì
gối tế lễ, khóc thương bọn phản tặc Lĩnh-Nam. Trong khi ta có công, thì bị
trói, bị làm nhục. Thế là thế nào?
Công chúa Đoan-Nhu nhổ bãi nước
miếng vào mặt Lê Đạo-Sinh:
– Tên lưu manh nhất thế Lê
Đạo-Sinh kia! Mi đã bảy mươi tuổi mà không hiểu ư? Nhà đại Hán trải qua trên
hai trăm năm, lấy đạo Thánh cai trị Thiên-hạ. Triều đình lao tưởng các bậc
trung lương, các bậc hiếu tử và phụ nhân tiết liệt. Có đâu dung tưởng bọn
nghịch tặc như mi? Phụ hoàng ta biết Hoàng– đế Lĩnh-nam anh hùng, các bầy tôi
đều trung liệt, có tài có chí. Bởi đất không hai mặt trời, nước không hai vua.
Nhà đại Hán với Lĩnh-nam không thể cùng đứng. Lĩnh-nam còn, Thục còn, là mối
nguy cho đại Hán. Lĩnh-nam giúp Ngũ-phương chia cắt Trung-nguyên… Đó chẳng qua
là vì cái “thế không cùng đứng” giữa hai nước. Phu-hoàng ta vì
khâm phục anh hùng Lĩnh-nam mà phải đánh Lĩnh-nam để tự tồn.
Nàng chỉ Lương-Tùng:
– Khi Hoàng-đế Lĩnh-Nam tuẫn
quốc. Phò mã định tự tử cho trọn lòng trung. Phu-hoàng ta thương người trung
lương, không những không trách phạt, mà còn cho phép được thờ Hoàng-đế cùng các
anh hùng đất Việt. Ngươi hiểu chưa?
Lương-Tùng cầm kiếm đến trước Lê
Đạo-Sinh.
Chàng rút kiếm, đưa một nhát,
gân tay, gân chân Lê Đạo-Sinh đứt rời. Bấy giờ chàng mới đưa một nhát kiếm, dây
trói y đứt. Lê Đạo-Sinh hét lên một tiếng, định xuất chiêu. Song gân vai, cùi
chỏ, cườm tay đều bị đứt. Người y chỉ rung động một cái rồi thôi. Lương-Tùng
truyền hai Thị-vệ đè y ra cạy miệng. Chàng vung kiếm, lưỡi y bị cắt. Máu miệng
chảy ra lênh láng.
Chàng đến trước Phong-châu
Song-quái:
– Hai đứa quỉ quái này. Mi theo
học với sư bá Nguyễn Thành-Công, phản sư môn đi tác ác thiên hạ. Mi vu vạ, đánh
phá Đinh, Đào trang… rồi gây ra biết bao nhiêu tội ác?
Chàng quì gối trước bài vị Đào
Thế-Kiệt, Đinh Xuân-Hoa, Đinh-Đại, Trần Dương-Đức, Đào Nghi-Sơn, Đào Biện-Sơn,
Nguyễn Tường-Loan khấn:
– Đại sư bá, sư thúc cùng các
sư huynh sư đệ về chứng giám cho đệ tử trả thù xưa.
Chàng vung kiếm cắt gân tay,
chân, cắt lưỡi Song-quái, rồi sai Thị– vệ rịt thuốc cho chúng khỏi chết.
Một Thị-vệ đứng dậy, nói với
Lương-Tùng:
– Sư huynh cho em trả thù với.
Thị vệ đó chính là Chu Đỗ-Lý.
Lương-Tùng gật đầu. Chu Đỗ-Lý cầm kiếm đến trước mặt Lê Đức-Hiệp:
– Tên gian manh này! Mi cùng sư
phụ, sư mẫu ta vốn đồng môn hộ. Thế mà mi theo Mã-Viện, đem đại quân đánh
Cửu-chân, giết chết sư phụ ta. Hôm nay mi phải đền tội.
Chàng quì trước bài vị Chu-Bá,
Lê-thị Hảo khấn:
– Xin sư phụ, sư mẫu về xem đệ
tử trả thù.
Chàng vung kiếm lên, cắt hết
gân chân, tay, cắt lưỡi Lê Đức-Hiệp, Ngô Tiến-Hy, Hoàng Thái-Tuế. Chu
Chiêu-Trung cũng xin xử tội Đinh Công-Thắng, Triệu Anh-Vũ.
Thình lình bốn bóng đen từ
ngoài nhảy vào sảnh đường. Chỉ mấy chiêu các Thị-vệ bị đánh ngã. Một bóng đen
dí kiếm vào cổ Lương-Tùng, nói dõng dạc:
– Im lặng! La lên một tiếng, ta
chặt đầu liền.
Lương-Tùng thấy trong bốn
người, có cả hai phụ nữ đánh Lê Đạo-Sinh cứu chàng. Chàng lên tiếng hỏi:
– Các vị là ai? Dường như các
vị người Lĩnh-Nam. Các vị đến đây có việc gì? Tại sao lại kiềm chế tại hạ?
Bốn người cùng lột khăn che mặt
ra. Lương-Tùng reo lên:
– Chu lão bá! Hoàng sư tỷ! Anh
Sún Rỗ, chị Sa-Giang. Các vị đến thăm Cu Bò này, cứ đường đường chính chính mà
đến! Việc gì phải đi trong đêm!
Chu Tái-Kênh điểm một Lĩnh-Nam
chỉ, đánh gãy đôi thanh kiếm của Lương-Tùng, mặt bà lạnh lùng:
– Chúng ta đến đây giết tên
phản tặc.
Suốt mấy năm qua Lương-Tùng học
văn đến trình độ uyên bác, định lực rất cao. Chàng thản nhiên nói:
– Nếu lão bá nêu lên được một
hành vi nào của Cu Bò này trái với võ đạo Cửu-chân, phản bội Lĩnh-Nam. Cu Bò sẽ
tự xử, không cần đến lão bá ra tay.
Nguyên sau khi Mã-Viện đánh
chiếm được Long-biên. Tuy các đại tướng Phùng-Đức, Sầm-Anh, Liêu-Đông Tứ Ma bị
Đào-Kỳ, Phương-Dung giết chết. Song các đại cao thủ trẻ của Hán theo quân tới
hàng trăm. Mã-Viện phân phối họ đi các nơi đánh từng trang ấp một. Trước hết
Tử-Vân tuẫn quốc ở cửa biển Thần-phù. Công chúa Gia-Hưng Trần-Quốc tuẫn quốc ở
Hoàng-xá. Tiếp theo đến Lê-thị Lan, Lê Anh-Tuấn, Lê Ngọc-Trinh, Trần Quế-Hoa,
Trần Quỳnh-Hoa, Phùng Vĩnh-Hoa, Đào Hiển-Hiệu, Đào Quí-Minh, Đào Phương-Dung,
Nguyễn Thành-Công đều tuẫn quốc. Chỉ có Trần-Năng, Hùng-Bảo, Hoàng Thiều-Hoa,
Chu Tái-Kênh, Sún Rỗ, Sa-Giang, Hồ-Đề hãy còn tiếp tục kháng chiến.
Mã-Viện tiến quân vào đánh
Cửu-chân. Bị Đô-Dương phá hai lần, thiệt mười vạn quân. Cuối cùng Mã-Viện sai
Lê Đạo-Sinh cùng bọn Song Quái mang Nỏ-thần vào đánh. Đô-Dương, Đinh-Đại, Đào
Nghi-Sơn, Đào Biện-Sơn, Chu-Bá đều tử trận. Mã-Viện đánh tới Nhật-Nam. Trương
Thủy-Hải, Trương Đằng-Giang, Trần Khổng-Chúng tuẫn quốc. Lại Thế-Cường rút vào
rừng kháng chiến.
Mã-Viện được chiếu chỉ Quang-Vũ
hồi triều, giao đất cho các quan văn tới trấn nhậm. Để tự ghi công mình,
Mã-Viện sai dựng một cột đồng trụ lớn, trên khắc chữ:
Đồng-trụ chiết
Giao-chỉ triệt.
Nghĩa
là: Cột đồng trụ gãy, thì
Giao-chỉ bị diệt.
Dân chúng Giao-chỉ thấy vậy,
mỗi khi đi qua cầm một cục đá ném vào chân cột đồng. Ít lâu sau cột đồng bị lấp
đi mất. Mã-Viện lấy cớ đó thượng biểu về triều tâu rằng, dân Lĩnh-Nam vẫn còn
tưởng cố quốc. Cần phải cho trọng binh đóng. Ngược lại Quang-Vũ cùng triều thần
nghị kế, thấy lĩnh-Nam quá xa xôi, mà giao trọng binh cho Mã-Viện, lỡ Mã làm
phản, thực khó mà dẹp được. Mã-Vũ, Chu Tường-Qui, Lương-Tùng mật nghị với nhau
rằng cần làm áp lực để Mã-Viện rút đại binh về, đất Lĩnh-Nam trao cho bọn văn
quan. Lực lượng kháng chiến mới có thể tái hoạt động.
Mã-Vũ cho người thân tín phao
khắp nơi rằng Mã-Viện sắp làm phản. Tin đó đến tai Quang-Vũ. Quang-Vũ hỏi ý
kiến Chu Tường-Qui, nàng tâu:
– Triều Hán thường bị nạn ngoại
thích cầm binh quyền, gây ra mầm mống phản loạn. Trước đây Lã hậu, rồi Mã hậu.
Cái gương Vương-Mãng còn đó.
Quang-Vũ hỏi Âm Hoàng-hậu, bà
bị ảnh hưởng của Thái-tử Trang, Công chúa Đoan-Nhu. Mà hai người này bị ảnh
hưởng của Lương-Tùng. Vì vậy bà tâu:
– Từ trước đến giờ Mã-Viện ỷ cô
làm Thái-hậu, lại có bốn anh em cầm đại quân. Bây giờ bốn anh em chết hết ba.
Mã hậu không còn. Song Mã lúc nào cũng là mối lo cho triều đình.
Vì vậy Quang-Vũ gửi mật chiếu
cho Lưu-Long. Lưu-Long mời Mã-Viện đến bản dinh uống rượu. Bấy giờ sứ giả của
Quang-Vũ mới tuyên chỉ triệu hồi Mã. Mã-Viện đành lên đường về kinh, giao binh
quyền cho Lưu-Long, Vương-Bá. Hai người này từ từ thoái binh.
Hồ-Đề triệu tập buổi họp các
anh hùng kháng chiến. Các anh hùng đều nêu ra ý kiến: Đã giết được Sầm-Anh,
Phùng-Đức, Liêu-Đông Tứ Ma. Kẻ thù bậc nhất của Lĩnh-Nam là Mã-Viện cần phải
giết. Chu Tái-Kênh tỏ ý nghi ngờ Lương-Tùng. Vì rõ ràng Quang-Vũ biết
Lương-Tùng do Lĩnh-Nam cài vào, mà được gả công chúa. Hội nghị cử Thiều-Hoa,
Tái-Kênh, Sa-Giang, Sún Rỗ lên đường giết Mã-Viện, Lương-Tùng.
Chu Tái-Kênh cười nhạt:
– Quang-Vũ biết mi do Lĩnh-Nam
cài vào. Nếu mi không tiết lộ cơ mật Lĩnh-Nam, lập đại công. Đời nào y gả công
chúa cho mi?
Công chúa Đoan-Nhu đứng trấn
trước Lương-Tùng:
– Tôi có quyền cãi cho Phò-mã
chăng?
– Được, ngươi cứ nói.
Công chúa Đoan-Nhu liếc nhìn
Hoàng Thiều-Hoa rồi đáp:
– Từ nãy đến giờ, các vị núp ở
ngoài hẵn đã nghe, đã thấy Phò-mã làm những gì rồi chứ? Bảo rằng Phò-mã kết hôn
với tôi là có tội. Vậy trước đây Lĩnh-Nam vương phi từng kết hôn với Vương gia
đó ư? Lại nữa công chúa Vĩnh-Hòa kết hôn với Đào Quí-Minh. Sao không kết tội sư
huynh Quí-Minh?
Hoàng Thiều-Hoa gật đầu:
– Khi khởi hành từ Lĩnh-Nam ta
nghi oan cho sư đệ. Song chúng ta theo dõi sư đệ từ nãy đến giờ… mới rõ đen
trắng. Hơn mười năm trước ta đã bị oan như sư đệ.
Lương-Tùng chỉ các Thị-vệ:
– Đám Thị-vệ này đều từ
Lĩnh-Nam sang. Họ đều xuất thân phái Tản-viên, Cửu-chân cả.
Thiều-Hoa tỏ ý muốn giết
Mã-Viện báo thù. Lương-Tùng hiến kế:
– Muốn giết Mã-Viện thực không
khó. Mã-Viện hiện mang quân Bắc chinh. Phụ hoàng không tin tưởng y, ngươì sai
Bô-lỗ đại tướng quân đem binh theo trợ chiến, thực ra để canh chừng y. Người
sai em làm giám quân. Bây giờ sư tỷ cứ dùng thẻ bài của em, làm sao đột nhập
vào trướng rồi, chặt đầu y thực không khó.
Sún Rỗ hỏi Lương-Tùng:
– Còn mấy tên hại nước này, em
định như thế nào?
Lương-Tùng cười nhạt:
– Với tội của chúng, giết chúng
đi chẳng khiến cho chúng khoan khoái ư? Em đã cắt gân, cắt lưỡi, khiến chúng
không xử dụng võ được, cũng chẳng nói được. Bây giờ em chọc mù mắt chúng. Sau
đó xích chân tay chúng lại với nhau, đưa về Lĩnh-Nam, để hàng ngày chúng lê
lết, ăn mày, bị dân chúng phỉ nhổ, mới khiến cho dân Việt hả dạ phần nào.
Chu Tái-Kênh vọt người tới,
thấp thoáng một cái, bà đã rút kiếm của Hoàng Thiều-Hoa. Kiếm rung lên, Lê
Đạo-Sinh cùng đồng bọn bảy người nữa đều bị đâm mù mắt. Lê Đạo-Sinh ngửa mặt
lên trời than:
– Hỡi ơi! Ta đã lầm! Ta đã lầm.
Nếu ta không là Thái– sơn Bắc-đẩu võ lâm. Có lẽ ta theo Trưng-Trắc. Đâu đến nỗi
này.
Lương-Tùng gọi Chu Chiêu-Trung,
Chu Đỗ-Lý:
– Hai vị sư huynh dùng xe chở
bọn này về Giao-chỉ, đem đi khắp chỗ cho dân chúng coi. Nhớ canh gác cẩn thận,
đừng cho người ta giết chúng.
…
Bọn Chu Tái-Kênh vừa lên đường.
Lương-Tùng cùng công chúa Đoan-Nhu đang bàn luận truyện Lĩnh-Nam, thì có thái
giám tới tuyên triệu hai người đến Tây-cung chầu Quang-Vũ khẩn cấp. Cả hai vội
lên xe đi liền. Từ xa, Lương-Tùng đã thấy đám Thị-vệ Tây-cung kẻ tụm năm, người
tụm ba nhỏ to nói truyện. Linh tính báo cho biết có biến cố gì xảy ra. Hai
người leo lên lầu thứ ba. Thái giám mở cửa cho vào. Lương-Tùng, Đoan-Nhu phủ
phục xuống hành lễ. Quang-Vũ ngồi thẫn thờ trên long ỷ, vẫy tay cho hai người
bình thân. Y hỏi:
– Con là sư đệ của Chu quí phi,
được Quí-phi sủng ái. Gần đây con thấy Quí-phi có hành động gì lạ không?
Lương-Tùng tâu:
– Từ ngày Lĩnh-Nam bị diệt. Lúc
nào Quí-phi cũng mặt ủ mày châu. Khóc đêm, khóc ngày. Cho đến nay, năm năm đã
qua, mà Quí-phi vẫn không quên. Mấy hôm trước Quí-phi sai con sắm mấy bộ quần
áo đàn ông, mua con ngựa thực khỏe. Con hỏi, Quí-phi chỉ lắc đầu.
Công chúa Đoan-Nhu hỏi:
– Tâu Phụ-hoàng! Có truyện gì
không hay xảy ra rồi ư?
Quang-Vũ đưa cho Lương-Tùng một
tờ thư.
– Mười hôm trước Quí-phi tâu
rằng muốn được yên tĩnh luyện công trong vòng mười ngày, vì vậy thái giám, cung
nga không được vào phòng luyện công của người. Hôm nay đủ mười ngày, ta thân
đến mở cửa phòng, thì chỉ thấy có ba tờ giấy để lại. Một tờ cho ta, một tờ cho
Hoàng-hậu, một tờ cho con với Thái-tử.
Y đưa tờ giấy cho Đoan-Nhu:
– Đây con đọc đi.
Công chúa Đoan-Nhu cầm lấy đọc:
“Sư
mẫu Chu Tường-Qui, gửi cho đệ tử là Thái-tử Trang cùng Công-chúa Đoan-Nhu.
Từ
khi Lĩnh-Nam bị diệt. Tấc lòng tưởng nhở cố quốc khôn nguôi. Vì vậy sư mẫu ăn
không ngon, ngủ không yên. Hôm nay sư mẫu quyết định trở về Lĩnh-Nam, tiếp nối
sự nghiệp Trưng Hoàng-đế và Phu-thân. Vì lên đường khẩn cấp, sư mẫu không từ
biệt hai con. Sư mẫu không có con, nhận hai con làm đệ tử. Tiếng rằng sư mẫu,
đệ tử. Chứ sư mẫu coi hai con
như con đẻ. Bản lĩnh sư mẫu có bao nhiêu, đã dốc túi truyền cho hai con. Khi
thư này đến với hai con, thì sư mẫu đang ở trong một khu rừng nào đó của
Lĩnh-Nam. Bịn rịn lúc ra đi, phải xa hai con, lòng sư mẫu đau như dao cắt. Hai
con cứ coi như sư mẫu chết rồi. Sư mẫu có mấy lời dặn hai con:
–
Phải chăm lo đọc sách, luyện võ. Đối với dân chúng bằng tấc dạ từ ái. Thương
yêu dân, như thương yêu bản thân mình.
– Riêng Thái-tử Trang, sau này
sẽ lên ngôi Thiên tử. Nếu con có còn nghĩ tình sư mẫu con hãy ban hành chính
sách cho dân Lĩnh-Nam cũng như dân Hán. Tuyển lựa quan lại thanh liêm, cử đi.
Đối với bọn tham quan, thẳng tay giết không tha.
Sư
mẫu dặn mấy lời, mong hai con đừng quên”.
Đọc xong nàng ôm mặt khóc nức
nở. Quang-Vũ rơi nước mắt, ngửa mặt lên trời than:
– Trong các phi tần, Chu quí
phi là người được ta sủng ái nhất. Tình nghĩa vợ chồng trên mười năm. Thế mà ta
vẫn không làm cho nàng quên được cố quốc. Than ôi! Ta có trăm vạn hùng
binh, đánh chiếm được đất Việt, mà ta không chiếm được lòng dân Việt. Ta giàu
có nhất thiên hạ, muốn gì được nấy, mà ta không chiếm được lòng Chu quí phi.
Y nhìn Lương-Tùng:
– Lương Phò-mã. Trưng-Trắc cử
ngươi sang làm Tế-tác ở Hoàng cung, ta những tưởng công danh, phú quí, khiến
ngươi đổi lòng, không ngờ ngươi vẫn một lòng với Lĩnh-Nam. Ta cho phép ngươi
thờ Trưng-Trắc, để tỏ lòng bao dung. Như vậy ngươi đã quên được Lĩnh-Nam chưa?
Lương-Tùng quì xuống tâu:
– Phụ hoàng cho con làm Phò-mã.
Người Lĩnh-Nam coi cha vợ cũng như cha đẻ. Con phải hiếu với Phụ-hoàng. Phụ–
hoàng bảo con chết, con tuân lệnh chết. Song con là người Việt, con yêu
Lĩnh-Nam hơn cha mẹ. Nếu Phụ-hoàng không tha thứ, đem ra chặt đầu. Con xin chịu
chết. Con thú thực: Suốt đời không bao giờ con quên cố quốc. Con là
Cu Bò, là Lương-Tùng. Con không phải Lê-đạo-Sinh. Huống hồ Khổng-tử nói “Nhân
các sở hữu chí”, mỗi người một chí. Phụ-hoàng làm Hoàng-đế Trung-nguyên,
giàu bốn biển. Trung-nguyên đất rộng người nhiều. Thế mà Phụ-hoàng vẫn muốn
chiếm nốt giải đất Lĩnh-Nam xa xôi. Chu quí phi cũng như thần nhi, dù có sống
trong nhung lụa, cũng không quên được nguồn gốc. Kẻ quên nguồn gốc, chẳng khác
chi loài chó, loài lợn.
Đến đó thái giám vào tâu:
– Có sứ giả của Bô-lỗ đại tướng
quân Mã-Vũ xin vào triều kiến, tâu quân tình.
Quang-Vũ truyền cho vào. Sứ giả
vào quì gối tung hô vạn tuế rồi tâu rằng:
– Cách đây nửa tháng Phục-ba
tướng quân tiến binh đánh giặc. Bô-lỗ đại tướng quân khuyên đi đường tắt cho
mau. Phục-ba tướng quân không chịu nghe, sợ đi đường tắt bị phục binh, cứ đường
lớn đi. Vì vậy quân sĩ mệt mỏi, bệnh hoạn phải lui lại. Hôm qua, thích khách
đột nhập bản dinh, giết chết Phục-ba tướng quân. Đầu mang đi mất.
Lương-Tùng tâu:
– Trước đây còn Mã Viện ỷ thế
cô, trái lệnh, làm càn, khiến quân thua, tướng tổn. Bị Nghiêm-Sơn xử trảm. Được
Phụ -hoàng ân xá. Sau trận Kinh-châu, để Công-tôn Thiệu đánh lừa, chiếm mất.
Trận Động-đình hồ bị Phật-Nguyệt đánh tan ba mươi vạn quân. Trận Nam-Hải bị
Thánh-Thiên giết bốn mươi vạn. Phụ hoàng sai y đánh Lĩnh-Nam, làm thiệt bốn
mươi vạn quân, các đại tướng đanh tiếng Phùng-Đức, Sầm-Anh, Liêu-Đông Tứ Vương
chết. Được Phụ hoàng ân xá, sai Bắc chinh. Y cãi lời Bô-lỗ đại tướng quân, để
đến nỗi quân bại, chết tại trướng. Xin Phụ hoàng thu ấn Tân-tức hầu, làm gương
cho các tướng khác.
Quang-Vũ nổi lôi đình:
– Phò mã thay trẫm, khẩn lên
đường cầm quân đánh giặc thay Mã-Viện. Trẫm sai sứ thu ấn Tân-tức hầu. Cách hết
chức tước của Viện. Tuy vậy nghĩ tình Mã thái hậu, trẫm miễn làm tội vợ con.
Lương-Tùng tuân lệnh lên đường.
Ghi chú của thuật giả.
Việc này xảy ra vào niên hiệu
Kiến-Vũ thứ hai mươi lăm thời vua Quang-Vũ nhà Hán, tức năm Kỷ-Dậu, 49 sau Tây
Lịch.
Sử gia Phạm Hoa khi viết bộ
“Hậu hán thư” cùng các sử gia khác khi chép về Mã-Viện đều nêu ra các thắc mắc:
1. Quang-Vũ sai vẽ hình, ghi
công Nhị thập bát tú, bốn người nữa cộng ba mươi hai người trên gác công
thần.Trong 36 người đó, chỉ có ba người công lao lớn hơn Mã-Viện là Ngô-Hán,
Đặng-Vũ, Lý-Thông. Hơn nữa Mã-Viện tử trận. Tại sao hình Viện không được vẽ,
công Viện không được ghi trên gác Vân Đài ở Nam Cung?
2.
Viện được phong Tân-tức hầu. Theo luật nhà Hán, khi tước hầu tử trận, được chôn
cất theo lễ nghi bậc Vương. Thế mà Viện bị thu ấn Tân-tức hầu. Đến nỗi khi chôn
cất, vợ con chỉ khâm liệm qua loa. Bạn hữu không dám điếu tang.
Tại
sao?
Chỉ
có độc giả Anh Hùng Lĩnh Nam mới biết rõ tại sao.
…
Hôm ấy là ngày 15, trăng rằm
chiếu vằng vặc dưới chân núi Tản-Viên. Một đài cao đắp bằng đất, trên đặt sáu
chiếc đỉnh khói hương nghi ngút. Từ dưới đài đi lên, trăm bậc. Xung quanh đài,
những đoàn người từ bốn phương âm thầm kéo về như những bóng ma chập chờn.
Khoảng nửa đêm, xung quanh đài có đến mấy vạn người.
Một hồi trống hiệu nổi lên, mọi
người nghiêm chỉnh đứng dậy. Đuốc đốt đồng loạt. Dưới ánh đuốc chập chờn, người
ta thấy tám tráng sĩ đẩy tám tù nhân, đầu trùm khăn vải đến trước đài, bắt quì
xuống.
Tiếng loa hô:
– Dâng lễ vật.
Các khăn trùm đầu được mở ra,
dưới ánh trăng hiện ra tám cái đầu tóc gọt nhẵn, mắt bị mù. Chân tay không cử
động được. Một thiếu nữ bưng cái mâm sơn son thiếp vàng, trên đựng chiếc đầu
lâu người. Tiếng loa hô lớn:
– Tiến lễ.
Một phụ nữ tóc bạc trắng, từ
dưới đài bước lên, dõng dạc nói:
– Hôm nay lực lượng phản Hán
phục Việt các nơi tề tựu về đây tế vua Trưng cùng các anh hùng Lĩnh-Nam tuẫn
quốc. Chúng tôi trăm cay nghìn đắng lên tận phía Bắc Trung-Nguyên mới giết được
Mã-Viện, đem đầu về làm tế vật.
Tiếng vỗ tay vang dội khắp nơi.
Người phụ nữ già đó chính là Chu Tái-Kênh. Bà tiếp:
– Lễ vật sống gồm tám tên đã
tàn hại Lĩnh-Nam. Tội đồ là Lê Đạo-Sinh, Lê Đức-Hiệp, Vũ-Hỷ, Vũ Phương-Anh,
Hoàng Thái-Tuế, Ngô Tiến-Hy, Đinh Công-Thắng, Triệu Anh-Vũ.
Tiếng vỗ tay vang dội.
Anh hùng phản Hán phục Việt các
nơi thứ tự lên đài, làm lễ trước bàn thờ. Tới khi trời hừng sáng, Thái thú
Giao-chỉ nghe tin, sai Thiết kị đến bao vây, thì đài đã được phá hủy. Dưới chân
núi vua Bà (Tản-Viên) không còn một bóng người.
Viết xong tại Paris ngày 21
tháng bảy 1985
https://trandaisy.wordpress.com/2012/11/16/cam-khe-di-han-q-iv-hoi-93-100-2/8/
Lời thơ Phan Mai – Lưu Hửu Phước soạn
nhạc 1942-1943
https://www.youtube.com/watch?v=S5jt3QbAJB8
https://www.youtube.com/watch?v=3KnA3xfpEJU
Thái Thanh trình bày có lời hát
Lời hát:
“Đêm khuya âm u
Ai khóc than trong gió đàng.
Gió cuốn Trưng Nữ Vương
Gợi muôn ngàn bên nước Tràn
Hồn ai đang thổn thức trên sông
Hồn quân Nam đang khóc non sông
Sát khí ngất đất
Bao lớp thây, muôn sóng huyền
Không gian như lắng nghe bao oan hồn
Đang xao xuyến xót thương hai Nữ hoàng
tuẫn thân
Dù mạng vong lửa hờn chưa tan
Làn sóng đang thét gào
Gió vang tiếng nguyền cùng gươm đao
Nguyện cùng sông đẫm máu
Tấm thân nát không nao
Nhìn thấy quân Hán dày xéo
Sông núi nhà dòng châu rơi
Khóc nước non mờ tối dưới trời
Nào ai yêu nước nhà
Vì giống nòi vì hận thù
Lam sao, đưa dân qua cơn đau khổ
Người Nam anh dũng quyết dâng
Đời sống cho non sông
Liều mình vào tên khói
Cùng người thù
Ta quyết không đạp đất chung
Trai hùng tráng
Lúc quốc biến xả thân
Lấy máu nóng cứu dân khỏi hồi nguy nan
Chí hiên ngang
Bao năm công đức
Xây đắp nên, non nước nhà
Ân đó ghi khăc trong
Tâm quốc dân không xóa nhòa
Vì đâu vua Trưng Nữ ra quân
Vì non sông, tuẩn tiết vong thân
Nước cuốn réo rắt như thiết tha
Gọi quốc hồn
Thiên thu trên Hát Giang vang tiếng lòng
Dân đau đớn khóc giang san
Phải hồi ngửa nghiêng
Cùng nhau khấn, non nước thiên liêng”
***
Hắc-giang hay Hát-giang?
Đây là một nghi vấn vì trên bản đồ của cả Pháp lẩn Hoa Kỳ không có sông Hát mà
chỉ có sông Hắc-giang tức Black River hay Rivière Noire.
Dưới đây là những bản đồ
có con sông Hắc-giang
***
Bản mục lục nước Việt
https://maps.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/vietnam_index.html
Địa danh nước Việt
https://maps.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/
Rivière Noire – Black
River Hắc-giang
http://www.lib.utexas.edu/maps/ams/indochina_and_thailand/txu-oclc-6535632-nf48-11.jpg
http://www.lib.utexas.edu/maps/ams/indochina_and_thailand/txu-oclc-6535632-nf48-10.jpg
Việt-trì, cuối nguồn
sông Hắc-giang
https://maps.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/viet_tri-6051-1.pdf
Phú-thọ
https://maps.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/phu_tho-6051-4.pdf
Sông Hắc-giang Hoàng-xá
https://maps.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/hoang_xa-6051-2.pdf
Sông Hắc-giang Hòa-bình
https://maps.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/hoa_binh-6050-1.pdf
Sông Hắc-giang Làng Chụm
https://maps.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/lang_chum-5950-1.pdf
Sông Hắc-giang Nuoc Moc
https://maps.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/nuoc_moc-5951-2.pdf
Sông Hắc-giang Vạn-yên
https://maps.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/van_yen-5951-3.pdf
Sông Hắc-giang Yên-châu
https://maps.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/yen_chau-5851-2.pdf
Sông Hắc-giang Nam-tê
Bản-ang
https://maps.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/ban_ang-5851-4.pdf
20240623 Nui Vua Ba Tan Vien 01
No comments:
Post a Comment