20171210 Bí Mật Chiến Tranh Việt Nam
*Tài liệu nầy đưọc một người thân hửu chuyển cho, tuy nhiên vì thấy đây là tài liệu sử Việt Miền Nam từ một vị sĩ quan khả kính có đầy đủ thẩm quyền từ Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà cho nên tôi xin phép mạo muội chuyển lên mạng để cho giới trẻ của Việt Nam hiểu những nguyên nhân bí ẩn sâu xa tạo nên sự thất thủ của Miền Nam. Đây chỉ là một trong muôn ngàn nguyên nhân Miền Nam bị thất thủ. Xin mời các bạn trẻ cùng tham gia tìm hiểu tại sao Việt Nam lại thảm hại như thế nầy sau ngày 30-04-1975.
Subject: Cố Đại Tá Hoàng Ngọc Lung: Bí mật chiến
tranh VN
Tù binh bị bắt tại Quang
Tín cấp Huyện Ủy với tài liệu học tập của Tuyên Huấn Trung Ương Đảng Cộng Sản
phổ biến.
Đại tá Đào Mộng Xuân,
nguyên sĩ quan khóa 8 VBQG, tỉnh trưởng Quảng Tín, xác nhận với người
viết : mặc dù tù binh bị bắt giữ tại lảnh thổ trách nhiệm của tỉnh Trưởng Quảng
Tín, nhưng có thể vì tầm quan trọng bảo mật, nên theo lệnh trung ương, tù binh
đươc bốc thẳng về Huế và sau đó đưa về Saigon, sau này tôi (ĐT Xuân) mới
nghe tin nhưng cũng không am tường chi tiết.
Paul Van
Kính thưa Quý vị,
Sàigòn Times vừa hân hạnh
nhận được email của ông Huỳnh Bá Phụng, Chủ Tịch Hội CQN/QLVNCH/QLD, kèm bài
viết của cố Đại Tá Hoàng Ngọc Lung, tiết lộ SỰ THẬT QUAN TRỌNG:
Mỹ và Cộng sản Hà Nội đã thỏa thuận ký Hiệp Định Paris vào ngày
26.9.1972. May mắn, nhờ có tài liệu tịch thu được của VC tại tỉnh Quảng Tín, TT
Nguyễn Văn Thiệu đã phản đối quyết liệt, buộc Mỹ và CS phải rời ngày ký Hiệp
Định tới 4 tháng sau, 27.1.1973.
Chúng tôi chân thành cảm ơn ông Huỳnh Bá Phụng,
và sau đây xin trân trọng giới thiệu cùng Quý vị nguyên văn email của ông, với
ước mong được sự quan tâm, chia sẻ và phổ biến.
Trân trọng, Hữu Nguyên
EMAIL
CỦA ÔNG HUỲNH BÁ PHỤNG
Chủ Tịch Hội CQN/QLVNCH/QLD - Úc Châu
Chủ Tịch Hội CQN/QLVNCH/QLD - Úc Châu
Kính gởi chị Hoàng Ngọc Lung,
cùng quý NT/HT/CH và đồng hương,
Chúng tôi nhận được tin buồn
do anh Nguyễn Văn Dưỡng Hawai báo NT Hoàng Ngọc Lung Trưởng Phòng 2 / BTTM vừa
mới qua đời ngày 24-11-2017. Thay mặt các Chiến Hữu / Hội CQN/QLVNCH/QLD Úc
Châu xin thành kính chia buồn cùng chị, các cháu cùng tang quyến. Nguyện cầu
hương linh NT Hoàng Ngọc Lung sớm tiêu diêu miền cực lạc.
Trong sự thương tiếc và tưởng
nhớ tới NT, chúng tôi xin được trân trọng giới thiệu, bài viết của NT cách đây
5 năm, dành cho Đặc San Gươm Thiêng, cơ quan ngôn luận của TH/CQN/QLVNCH Úc
châu.
Trân trọng,
Huỳnh Bá Phụng
Chủ Tịch
Hội CQN/QLVNCH/QLD Úc Châu
Huỳnh Bá Phụng
Chủ Tịch
Hội CQN/QLVNCH/QLD Úc Châu
Bí mật chiến tranh VN
Mỹ và CS Hà Nội thỏa
thuận ký Hiệp Định Paris ngày 26.9.1972. Nhưng nhờ tịch thu được tài liệu
mật của VC tại tỉnh Quảng Tín, TT Nguyễn Văn Thiệu đã buộc Mỹ và CS phải
ký ngày 27.1.1973.
Hoàng Ngọc Lung
LGT (Gươm Thiêng): Đại Tá Hoàng Ngọc Lung sinh năm 1932 tại Bắc
Việt. Sau khi đậu tú tài năm 1951, ông bước vào đời quân ngũ và tốt nghiệp Khóa
1 Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định với cấp bậc Thiếu Úy. Năm 1954, ông được thăng Đại
Úy, Tiểu đoàn trưởng và Tham mưu trưởng Trung Đoàn. Vô Nam, ông giữ chức Chỉ
huy phó Trường Tình Báo Cây Mai, nơi đào tạo các sĩ quan, hạ sĩ quan của 3
ngành Quân Báo, An Ninh Quân Đội, và Chiến Tranh Tâm Lý. Năm 1961, ông tự học
và tốt nghiệp cử nhân Luật Khoa. Năm 1963, ông là Sĩ quan liên lạc tại Fort
Bragg, North Carolina, Hoa Kỳ. Năm 1969, ông là nhân viên quân sự đầu tiên của
bộ TTM trong phái đoàn VNCH tham dự Hội Nghị Ba Lê. Từ năm 1972 đến cuối tháng
4 năm 1975, ông giữ chức Trưởng Phòng 2/TTM.
Tới Hoa Kỳ từ năm 1975, ông được mời viết sách cho phòng Quân Sử của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ. Ngoài ra, ông tiếp tục theo học và tốt nghiệp Computer Science năm 1976 và là chuyên viên Computer Analyst trong suốt thời gian 21 năm tại Hoa Kỳ. Ông được ân thưởng nhiều huy chương của chính phủ VNCH và Hoa Kỳ, bao gồm cả Đệ Ngũ Đẳng Bảo Quốc Huân Chương, Bronze Star, các huy chương đặc biệt của Hoàng Gia Thái Lan, chính phủ Nam Hàn, Trung Hoa Dân Quốc... Nhận được thư của ông Huỳnh Bá Phụng, cựu sĩ quan Phòng 2/TTM, báo tin Tổng Hội CQN/QL/VNCH Úc châu sắp xuất bản Đặc San Gươm Thiêng, Đại Tá Hoàng Ngọc Lung, tuy đã 80 tuổi, sức yếu, nhưng ông cũng đã cố gắng viết bài trình bầy về một bí mật trọng đại của cuộc chiến tranh VN:
Mỹ và Cộng sản Hà Nội đã
thỏa thuận ký Hiệp Định Paris vào ngày 26.9.1972. May mắn, nhờ có tài liệu tịch
thu được của VC tại tỉnh Quảng Tín, TT Nguyễn Văn Thiệu đã phản đối quyết liệt,
buộc Mỹ và CS phải rời ngày ký Hiệp Định tới 4 tháng sau, 27.1.1973. Thời gian 4 tháng tuy không dài, nhưng chắc
chắn thời gian đó cũng đủ để có những ảnh hưởng nhất định đến cuộc chiến, làm
chậm bước tiến của quân xâm lăng CS, cứu được nhiều sinh mạng, và thảm kịch CS
chiếm trọn Miền Nam đã không thể xảy ra trước ngày 30-4-1975. Đặc San Gươm
Thiêng chân thành cảm ơn sự đóng góp quý báu của ông Hoàng Ngọc Lung, và sau
đây trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả nguyên văn bài viết của ông.
Tại bàn tròn Hội Nghị Ba
Lê: Phái đoàn VNCH (trái); Phái đoàn của VC (phải); Phái đoàn Mỹ (trước); và
đối diện là CS Bắc Việt.
Diễn biến lịch sử về
tình hình chiến cuộc ở VN trước đây đã là đề tài của biết bao sử gia viết phân
tách hoặc bình luận. Cộng thêm việc giải mật của các tài liệu Hoa Kỳ, những sự
tiết lộ qua các cuộc phỏng vấn hay tự thuật của nhiều giới chức thẩm quyền liên
đới, đã phô bày khá rõ rệt và đầy đủ.
Kỷ niệm năm thứ 20 của
Đặc San Gươm Thiêng, tiếng nói của Tổng Hội CQN/QLVNCH Úc Châu, Ban Chủ Biên đã
yêu cầu tôi viết một bài về chiến tranh VN. Tôi rất phân vân không biết phải
viết gì. Tôi không phải là nhà văn, một ký giả, cũng không phải là người viết
trên bất kỳ diễn đàn nào, ngoại trừ đã viết mấy cuốn Quân Sử theo nhu cầu của
Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ vào những ngày đầu tôi tới Hoa Kỳ năm 1975. Các tài liệu
này hiện được lưu trữ tại Library of Congress của Mỹ. Vì vậy, trong khuôn khổ
giới hạn của tờ Đặc San Gươm Thiêng, tôi xin đóng góp sơ sài về một vài sự việc
tương đối đáng để ý trong sự bức tử làm sụp đổ chế độ VNCH chúng ta.
Trong 24 năm phục vụ
trong quân ngũ, tình hình chiến sự đã ám ảnh tôi rất nhiều từ khi bắt đầu giã
từ học đường, đi động viên vào khóa 1 Nam Định năm 1951. Lúc đó tôi mới 19 tuổi
dù rằng lệnh động viên chỉ áp dụng cho lứa tuổi 20 tới 28 mà thôi. Tôi bị gọi
nhầm nhưng vẫn tuân theo mệnh lệnh quân ngũ và ra trường với cấp bậc Thiếu Úy.
Đầu tiên ở trong quân ngũ tôi đã phục vụ ở các đơn vị tác chiến tại các khu vực
Bùi Chu, Hưng Yên, các đơn vị hoàn toàn do các sĩ quan VN tự trị đảm nhiệm, và
chiến dịch cuối cùng mà trung đoàn của tôi tham gia là chiến dịch Đinh Tiên
Hoàng vùng Thất Sơn Rạch Giá, sau đó tôi trở về Sài Gòn làm công việc tham mưu.
Trong địa hạt tham mưu,
thời cuộc đã đưa tôi vào địa hạt Quân Báo. Tin tức chính xác, trung thực nhất
là thâu lượm, tịch thu được các tài liệu của CS, cộng thêm các nguồn gốc tin
tức khác để phối kiểm. Ngay như tin tức kỹ thuật điện đàm, kiểm thính cũng có
thể tạo ra tin tức giả mạo đánh lừa. Tôi lấy thí dụ, trường hợp sư đoàn 320 của
CS trú đóng ở nam Pleiku, nhưng khi di chuyển xuống Ban Mê Thuột chúng đã muốn
đánh lừa quân ta nên vẫn để lại bộ phận điện đài tại chỗ, và không di chuyển
theo sư đoàn. Điều này đã tạo ra sự ngộ nhận của giới chức QĐ 2 của ta đã lầm
tưởng mục tiêu của địch là Pleiku chứ không phải BMT như phòng 2 quân đoàn đã
ước tính.
Với các tin tức tài liệu
tịch thu được của địch, đã khiến tôi phải suy nghĩ lại câu châm ngôn vẫn được
truyền tụng từ trước của Tôn Tử: “Biết Mình Biết Địch, Trăm Trận Trăm
Thắng.” Trong chiến tranh VN lời nói này không còn là bất hủ vì chúng ta
không những phải biết địch, biết mình, mà còn phải biết được người bạn đồng
minh Hoa Kỳ của mình. Sự thay đổi đường lối chiến lược của Hoa Kỳ chính yếu là
đặt quyền lợi của Hoa Kỳ trên hết nên Hoa Kỳ đã tìm cách rút ra khỏi VN bằng
cách ký kết giảng hòa với CS qua hiệp định Ba Lê.
Tài liệu học tập của
chính uỷ CS ở tỉnh Quảng Tín bị quân ta tịch thu ngày 10 tháng 10 năm 1972 đã
nêu lên nội dung mới là thông báo phải học tập văn kiện hiệp định Ba Lê để CS
chuẩn bị hành động.
Tài liệu này phù hợp
với tình báo ở Tây Ninh cho biết CS đã mở khóa học đặc biệt để hướng dẫn thảo
luận hiệp định này tại bộ chỉ huy Trung Ương Cục Miền Nam, ngày ngưng bắn sẽ là
ngày 26-9-1972. Phương án của địch là chiếm đất giành dân, cắm cờ và xách động
dân chúng xuống đường, cướp phá các cơ sở quân sự, nhằm cướp chính quyền VNCH.
Ngày 17.10.1972, Tổng thống
Thiệu ra lệnh bộ Tổng Tham Mưu hỏa tốc mang tài liệu này về Sàigòn để làm bằng
chứng xác thực và cụ thể nhứt để Tổng Thống nói chuyện với Kissinger về việc
Việt Nam phải ký kết chung với Hoa Kỳ vào hiệp định Ba Lê. Vì vậy cũng đã trì
hoãn được thời gian ký kết để chuẩn bị.
Ngày 1.3.1973, đại diện
12 quốc gia và LHQ họp tại Paris ký kết Chương trình 9 điểm, đòi 4 bên (Mỹ,
VNCH, CS Bắc Việt & VC Miền Nam) đã ký kết Hiệp Định Ba Lê ngày 27.1.1973
phải tôn trọng thực hiện. Nhưng khi VC vi phạm Hiệp Định, xua quân xâm lăng
VNCH, tất cả các quốc gia và LHQ đều im lặng.
Hậu quả của việc ký kết
Hiệp Định Paris cho phép CS vẫn được duy trì các đơn vị quân sự tại chỗ ở miền
Nam không phải rút lui ra Bắc, mặt khác đã đưa đến sự rút lui của các đơn vị
Hoa Kỳ và các đơn vị Đồng minh tham chiến ở miền Nam. Đáng kể hơn nữa là sự chi
viện của Hoa Kỳ đã giảm thiểu tối đa sau khi Tổng Thống Nixon phải thoái vị về
vụ Watergate.
Tổng thống Ford người kế
nhiệm chỉ đề nghị một ngân sách chi viện là $522 triệu Mỹ Kim cho cả 2 nước VN
và Kampuchia. Phần VN là $300 triệu. Quốc hội Hoa Kỳ còn cử một phái đoàn lưỡng
viện sang VN vào cuối tháng 2-1973 để nhận xét và báo cáo sự thiết yếu của ngân
khoản này. Phái đoàn này đã được VN cung cấp thật đầy đủ các dự kiện thiết yếu,
được phép tiếp xúc với các đơn vị của VN tại chỗ ở các Quân khu, để thấy sự
thiếu hụt chính xác về quân cơ, quân dụng và đạn dược của VNCH.
Một cuộc triển lãm tại
bộ Tổng Tham Mưu, về những vũ khí của VC do quân đội VNCH tịch thu được.
Bộ TTM của VNCH cũng đã
tổ chức 1 cuộc triển lãm trình bày các vũ khí tối tân đủ loại của CS đã xử dụng
và bị tịch thu như các đại pháo, chiến xa, vũ khí phòng không, các loại hỏa
tiễn, súng ống đủ loại, không thiếu một thứ gì kể cả dụng cụ ống dòm Hải quân,
mìn v.v.
Tất cả những nổ lực kể
trên cũng không giúp ích gì cho sự gia tăng ngân khoản viện trợ. Trong khi CS
miền Bắc được Nga Sô, Trung Cộng trợ giúp rất nhiều các loại vũ khí phòng không
như hỏa tiển Sam E2 của Nga, các loại xe tăng thiết giáp... Sự gia tăng nhiều
đến nỗi không còn kho chứa hàng để ẩn giấu mà để công khai lộ thiên mọi chổ mọi
nơi. Sự vận chuyển xe cộ được xử dụng theo hệ thống dẫn dầu vào miền Nam trên
đường xâm nhập đã thu ngắn thời gian từ ngoài Bắc vào Nam từ 4 tháng xuống còn 2
tuần.
Cuộc tổng tấn công của
CS vào Ban Mê Thuột ngày 10 tháng 3, 1973 mở đầu cho cuộc xâm lược của CS sau
khi ký hiệp định Ba Lê đã được phát giác từ khi chúng còn chuẩn bị trong mấy
tháng đầu năm 1973 khiến cựu Đại Tướng Cao Văn Viên khi ra thuyết trình tại hội
đồng An Ninh Quốc Gia đã trình bày là sự tấn công này đã được biết từ trước,
nhưng vấn đề tương quan lực lượng, đã không cho phép chúng ta làm gì khác hơn.
Tóm lại tình hình biến
chuyển của thời cuộc chiến tranh ở VN đã được thời gian hậu chiến phô bầy rất
nhiều bí ẩn trong chiến tranh VN. Một chi tiết chưa được ai bộc lộ trước đây là
Chính phủ Dương Văn Minh ngay khi lên cầm quyền đã âm mưu quyết định bắt giữ 5
sĩ quan cao cấp của Bộ TTM đứng đầu là cựu Đại Tướng Cao Văn Viên. Danh tánh
của 4 người còn lại tôi không cần nêu ra vì tôi thiết nghĩ ai cũng có thể suy
đoán đó là những người nào mà không sợ sai lầm.
Hoàng Ngọc Lung Ngày
21 tháng 11 năm 2012
*Tài liệu nầy được trích lại từ Đặc San Gươm Thiêng tại Úc Châu.
BVN 20171210.
No comments:
Post a Comment