2230330 Cong Dong Tham Luan Su Gia Pham Van Son
Mục Lục Quân Sử QLVNCH
http://doanket.orgfree.com/quansu/aquansu.html
(NS Ðoàn Kết và Tác
Giả giữ bản quyền.
Ðược quyền trích đăng;
yêu cầu ghi rõ tên tác giả và xuất xứ. Cám ơn.)
*** Đại Tá Phạm Văn Sơn
là một sử gia trong Quân Lực Việt-Nam Cộng-Hòa đã chết vì sự đày đọa của cộng sản
trong lao tù cải tạo của cộng sản Bắc Việt. Thế nhưng website của www.wikipedia.org đã ghi là chết vì bệnh
lao.
Người viết tài liệu nầy
chỉ ghi lại một chi tiết nhỏ mà không ghi hoàn toàn nguyên nhân đã gây ra cái
chết của ông do chính cộng sản Bắc Việt gây ra.
Mục tiêu của cộng sản là
hủy diệt đi bộ óc chứa đầy những tài liệu sử chứa đầy tội ác của cộng sản trong
chiến tranh Việt Nam.
Bài viết từ một nhân chứng
sống là ông Nguyễn Văn Dưỡng, một nhân viên dưới quyền, một học trò của Đại Tá
Phạm Văn Sơn đã sống cùng ông một thời gian tại trại giam của cộng sản Bắc Việt.
Tài được trích từ Nguyệt
San Đoàn Kết của những cựu Sĩ Quan Quân-Lực Việt-Nam Cộng-Hòa ***
Phạm Văn Sơn (1915 - 1978) là một sử gia Việt Nam và là sĩ quan của Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%E1%BA%A1m_V%C4%83n_S%C6%A1n
Đại Tá Phạm Văn Sơn
https://nguyentin.tripod.com/dt_phamvanson.htm
CÁI CHẾT CỦA SỬ GIA PHẠM VĂN SƠN
http://doanket.orgfree.com/quansu/phamvson.html
CÁI
CHẾT CỦA SỬ GIA PHẠM VĂN SƠN
Trước
năm 1975, ở miền Nam, ông Phạm Văn Sơn là một trong rất ít những vị viết sử. Bộ
sử được nhiều người biết đến nhất của ông là bộ Việt Sử Tân Biên.
Tôi
hân hạnh được làm việc dưới quyền chỉ huy của ông từ năm 1958 đến 1960. Thời
gian này ông mang cấp bậc Thiếu tá, giữ chức vụ Chỉ huy trưởng trường Quân Báo
& Chiến Tranh Tâm Lý Cây Mai; tôi mang cấp bực Trung úy, là huấn luyện viên
và sĩ quan an ninh của Trường. Chính trong thời gian này, ông đã tu chỉnh bộ sử
nói trên và cho tái bản.
Những
thì giờ nhàn rỗi, tôi đã tình nguyện giúp ông. Tôi được ông giới thiệu đến gặp
ông Lê Ngọc Trụ, công chức làm việc ở Thư Viện Quốc Gia -- lúc đó còn nằm trên
đường Gia Long -- để nhờ hướng dẫn sưu tầm tài liệụ Ông Lê Ngọc Trụ còn là một
học giả, giảng sư Ngữ học của đại học Văn khoa Saigon, đã chỉ dẫn cho tôi tìm
được khá nhiều tài liệu và sách viết bằng tiếng Pháp về thời Trịnh Nguyễn phân
tranh. Các tài liệu này cũng như những tài liệu quí giá khác, giúp cho ông Phạm
Văn Sơn tu chỉnh Việt Sử Tân Biên. Thời gian làm việc với ông, tôi đã học được
ở ông nhiều điều về viết lách.
Năm
1961, trường Cây Mai đổi tên, chỉ còn là trường Quân Báọ Ngành Chiến Tranh Tâm
Lý tách ra riêng, đuợc dạy riêng ở một trường của ngành này, mới thành lập, ở
một địa điểm khác; do đó, Thiếu tá Phạm Văn Sơn cũng được thuyên chuyển về
ngành Chiến Tranh Chính Tri.. Sau đó không lâu, ông được bổ nhậm vào chức vụ
Trưởng Ban Quân Sử của Quân Lực VNCH, thuộc Bộ Tổng Tham Mưụ Ông lần lượt được
thăng đến cấp đại tá và giữ nhiệm vụ này cho đến ngày miền Nam sụp đổ.
Tôi
nghĩ rằng, với khả năng của ông và và dưới sự chỉ đạo của người viết sử sở
trường và kinh nghiệm như ông, hẳn là Ban Quân Sử Quân Lực VNCH đã viết được
những bộ sử chiến tranh VN cận đại quí giá, nhất là binh sử thời kỳ sau năm
1954 trở đị Tôi nghĩ như vậy vì tôi biết ông Phạm Văn Sơn rất thận trọng, không
thể khinh xuất trong nhiệm vụ của mình và càng không thể để cho thuộc cấp khinh
xuất. Ngày trước ông thường bảo tôi: "Phải cố gắng làm sao cho mức độ
trung thực và chính xác cao chừng nào tốt chừng đó, như vậy thì những điều mình
viết về sử mới mong có thêm một chút giá trị Việc sưu tập những sự kiện, chứng
tích, tài liệu có độ xác tính cao nhiều chừng nào thì việc so sánh, nghiên cứu,
lượng giá, đối chiếu...dễ chừng nấy". đó là lề lối làm việc nghiêm cẩn,
thận trọng của ông. Vì vậy sau này, năm 1972, tôi đã không ngạc nhiên khi chiến
trường An Lộc còn đang sôi động với những trận đánh đối tuyến chỉ cách nhau có
một con đường, giành nhau từng góc phố -- giữa các đơn vị VNCH và quân CS Bắc
Việt -- khi những cơn pháo kích dữ dội của địch quân chưa giảm, khi không một
chiếc trực thăng nào đáp xuống An Lộc mà không sợ tan xác, tôi đã thấy ông hiện
diện ở chiến trường này để tìm hiểu sự thật viết về trận chiến khốc liệt đó.
Lúc
bấy giờ, tôi là Trưởng Phòng 2 của Bô Tư Lệnh Hành Quân của tướng Lê Văn Hưng,
đã cung cấp cho ông những tài liệu, sự kiện "sống" nóng bỏng, chính
xác và đầy đủ. Tuy nhiên, muốn viết cho trung thực hơn, ông đã ở lại trong hầm
chống pháo với tôi một đêm, thức trắng để nghe tiếng đạn pháo của địch quân rơi
trên đầu mình và xung quanh đâu đó, vừa hỏi tôi thật chi tiết về những sự kiện
ghi trong nhật ký hành quân (mỗi phòng của Bộ Tư Lịnh Hành Quân đều có) kể cả
tài liệu, cung từ tù binh của địch bắt được trong các trận đánh trước ở đó.
Sau
khi ông rời An Lộc, không bao lâu mặt trận được giải tỏa, tôi đến Bộ Tổng Tham
Mưu để gặp ông thì được biết ông đã ra Quảng Trị để làm nhiệm vụ như đã làm ở
An Lộc. Như vậy ông và những sĩ quan thuộc cấp trong Ban Quân Sử đã hiện diện ở
khắp chiến trường lớn để tìm sự thật viết về binh sử...
Tôi
nêu lên những chi tiết trên đây mong các bạn hình dung được tư cách khả trọng
của một người viết sử chân chính, ông Phạm Văn Sơn, một người đã thành danh
trong giới trí thức VN, để rồi tôi xin kể lại những ngày cuối cùng bi đát trước
cái chết thảm thương của ông trong lao tù, dưới chế độ bất nhân, tàn độc của
CSVN.
Ngày
30/4/75, như mọi người đều biết, Dương Văn Minh, một tổng thống phi hiến định,
tuyên bố đầu hàng CS Bắc Việt vô điều kiện, Quân Lực VNCH bị bức tử, buông súng,
tan rã. Một số tướng lãnh, sĩ quan cấp tá, cấp úy tuẫn tiết. Tất cả những sĩ
quan còn lại ở miền Nam vào lúc đó, bị dồn vào các trại tập trung tạm trong
lãnh thổ miền Nam, cùng với các cấp chỉ huy cảnh sát, công chức cao cấp và các
nhà hoạt động chánh trị trong các đảng phái miền Nam.
Một
năm sau, CS đưa tất cả những người mà họ gọi là có "nợ máu" nhiều
nhất với nhân dân miền Bắc, giam giữ và bắt lao động khổ sai ở những trại giam
trong rừng sâu nước độc của Thượng du và Trung du Việt Bắc. Một số sĩ quan và
công chức khác còn bị giam giữ ở các trại cải tạo miền Nam.
Tháng
6, năm 1976, đợt tù nhân đầu tiên bị đưa ra Bắc, trong đó có tôi, bị dồn cứng
dưới khoang của những chiếc tàu thủy cận duyên cỡ nhỏ. loại chuyên chở của quân
đội CS. Sau 4 ngày 4 đêm, tàu cập ở Bến Thủy thuộc Vinh. Từ đó vào nửa khuya,
chúng tôi bị chuyển vào bờ, lần này thì bị dồn vào các toa tàu hỏa dùng để chở
súc vật, lên phía Bắc.
Ngày
15/6/76 -- ngày duy nhất mà tôi nhớ suốt 13 năm tù -- đúng một năm sau ngày tôi
đưa đầu vào cùm ở trường Don Bosco ở Gò Vấp -- trên chuyến tàu hỏa nói trên,
qua một kẻ hở thật nhỏ của toa tàu, tôi đã nhìn thấy nhà thương Bạch Mai và ga
Hàng Cỏ, những địa danh của Hà Nội mà tôi đã được đọc qua trong các tác phẩm
của Tự Lực Văn Ịoàn, thuở tuổi học trò. 2 sĩ quan tù nhân cấp Tá đã ngộp thở
chết trong toa chở súc vật, quãng giữa đường Việt Trì - Yên Báị. Kể từ đó, có
thêm hàng trăm tù nhân đi trên những chuyến tàu định mệnh này đã ngã xuống ở
các trại tù miền Bắc, vĩnh viễn không còn thấy được những chuyến tàu xuôi
Nam...Trong số những người này có Đại Tá Phạm Văn Sơn.
Một
số tù nhân trên dưới một ngàn người trên các toa tàu này được đổ xuống ga Yên
Bái, trong số đó có tôị Từ ga Yên Bái, bộ đội CS dùng xe quân sự Molotova
chuyển chúng tôi theo đường bộ lên Sơn La giam giữ ở các trại giam dành cho
quân nhân. Tôi ở đó được một năm rồi bị chuyển sang trại giam công an, cũng ở
Sơn La, trong 2 năm nữạ
Năm
1979, trước cuộc chiến ngắn ngủi giữa Trung Cộng và CSVN không bao lâu, tất cả
chúng tôi -- những tù nhân chính trị -- ở những trại giam trên các tỉnh biên
giới phía Bắc và Tây Bắc được chuyển về các trại giam vùng Trung Du và các tỉnh
phía nam, tây nam Hà Nội, như các trại giam Tân Lập (Vĩnh Phú), Nam Hà (Nam Định),
Thanh Phong (Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh),...
Sự
chuyển dồn trại như vậy làm cho đời sống lao tù chúng tôi đã cơ cực càng cơ cực
hơn, ăn đã đói càng đói hơn, mỗi người không có được đến 4 cm2 để có thể nằm
ngửa, phải nằm nghiêng chen chúc lẫn nhau mà ngủ sau mỗi ngày lao động nặng
nhọc, nên phòng giam nào cũng hôi hám, thiếu ánh sáng, thiếu không khí đến ngộp
thở, bao nhiêu chứng bệnh ngặt nghèo nguy hiểm đã bộc phát trong anh em chúng
tôi, thuốc men không có để trị, mạng sống của mọi người cũng bị Tử Thần rình
rập từng ngày từng đêm.
Đa
số anh em chúng tôi được đưa về trại giam Tân Lập do công an quản chế, bây giờ
đặt dưới sự chỉ huy của Trung Tá công an Nguyễn Thủy, một tên cán bộ chữ nghĩa
viết chưa hết một lòng bàn tay nhưng vẫn thích đọc thơ Tố Hữu và Huy Cận trước
mặt anh em tù nhân, trong khi lòng dạ lại hiểm độc vô lường...
Tân
Lập là một hệ thống trại gồm một trại chính và nhiều phân trại thường được gọi
là K, đánh số từ K1 đến K7, nằm rải rác hai bên bờ một nhánh sông bắt nguồn từ
sông Lô, chảy qua xã Tân Lập, tỉnh Vĩnh Phú. Tôi đến Tân Lập ngày nào năm đó,
đã không còn nhớ nữa, chỉ nhớ là lúc đó trời đã bắt đầu trở lạnh; dù vậy, sau
mỗi buổi lao động vẫn phải theo mọi người ra những bãi vắng trên sông này để
tắm trước khi về trạị Chính ở các bãi tắm này chúng tôi mới thấy hình hài khốn
khổ của nhau, vì mọi người đều trần truồng. Trong khi số tù nhân từ Sơn La mới
chuyển về người ngợm còn chút thịt da, thì, những anh em tù đã ở trại giam K2
Tân Lập từ mấy năm trước thân thể chỉ còn da bọc xương, đến 2 bên mông là nơi
lý ra phải còn có chút thịt, cũng chỉ thấy có xương xẩu nhô hẳn lên, trông thật
thảm nãọ Khi tắm ai cũng rét run, vì cái lạnh của trời và nước làm cho mọi
người thấu buốt ruột gan...bởi trong người không còn năng lượng đề kháng nào
nữạ
Tôi
nói lên những điều này để chỉ rõ chế độ quản chế, đối xử với tù nhân chính trị
của trại giam Tân Lập cay nghiệt hơn bất cứ trại giam nào mà chúng tôi đã trải
qua trước đó, mặc dù chúng tôi biết rằng với chế độ tập trung cải tạo, trại
giam là nơi CSVN giết người kín đáo nhất, ít đổ máu nhất, bằng áp đặt khổ sai
vắt sức, bằng bỏ đói trường kỳ khiến cho tù nhân chết mỏi mòn vì kiệt sức, vì
bệnh hoạn hay vì những lý do mờ ám khác nữạ Không một ai trong chúng tôi, lúc
đó, thoát khỏi sự thách đố của định mệnh, của cái chết đến bằng nhiều cách ở
bất cứ lúc nàọ Ở Tân Lập, bọn công an Nguyễn Thùy đã làm hơn những điều chúng
tôi nghĩ, đã biết. Vì thế các tù nhân chính trị chết trong các phân trại Tân
Lập nhiều hơn bất cứ nơi nào khác. Riêng ở phân trại K2, mấy tháng mùa đông
cuối năm 1979, đầu năm 1980, mỗi ngày ít nhất cũng có 1 đến 2 tù nhân chết; con
số tù nhân đến bệnh xá (không có một thứ thuốc men nào để trị bệnh), hằng ngày
hơn 200 người, mục đích không phải là để xin trị bệnh, nhưng để được khám,
chứng nhận là bệnh, để khỏi đi lao động, được ngày nào đỡ ngày đó, mặc dầu họ
là những người bệnh thực sự cần phải được điều trị và miễn làm việc...
Tại
K2 Tân Lập, trong hoàn cảnh chung như vậy, tôi đã gặp lại ông Phạm Văn Sơn. Tôi
đã nhìn thấy tận mắt những ngày sống bi đát cuối cùng của đời ông.
Chừng
một tháng sau khi đến K2, một buổi trưa, tôi và một người bạn tù khác cùng đợi
đến phiên phải lên phạn xá gánh cơm về cho anh em trong đội ăn sau buổi lao
động; trong khi chờ đến lượt mình nhận cơm, tôi đã vơ vẫn đến bên ngoài hành
lang của một căn phòng nhỏ cạnh phạn xá, tôi thấy một người, đã nhận ra ông mà
cứ ngỡ là đôi mắt mình đã nhìn lầm.
Ông
chính là Đại tá Phạm Văn Sơn, vị chỉ huy trưởng ngày xưa của tôị Ông chỉ còn là
cái bóng âm thầm, một cái xác sắp mục nát, bất động, câm nín sau chân song sắt,
bên trong cửa sổ của căn phòng "cách ly", duy đôi mắt hiền hòa thì
vẫn tinh anh như thuở nàọ Rõ ràng ông hiện hữu như một tĩnh vật có linh hồn
sáng suốt, đang nhìn ngắm mọi sự vật đổi thay, quay cuồng điên đảo với những
nhận định xuyên suốt, những ý nghĩ sâu sắc, cao xa nào đó một cách hữu thức, vì
chính đôi mắt nhìn lắng sâu, và sáng kia là "cửa sổ linh hồn ông",
cho tôi biết điều đó.
Tôi
nhìn ông và ông nhìn tôị Trong một thoáng, quá khứ như chổi dậy; không biết vì
mừng rỡ hay vì ngỡ ngàng xúc động, tôi chợt buộc miệng gọi lên:
-
"Thầy"!
Chỉ
một tiếng rồi lặng thinh. Tôi còn biết nói gì hay làm gì hơn khi mà ai cũng
biết rằng mình bất lực trước hoàn cảnh bất hạnh nào riêng của mỗi ngườị
Mắt
ông hình như sáng hơn, ông đã nhận ra tôị Trong gương mặt đã biến dạng, sần sùi
của ông, với đôi môi khẽ chớp động, tôi đã nhìn thấy một nụ cườị Ông đã hiểu rõ
tâm trạng của tôi, tuy ông lặng lẽ không nói một lời nàọ
Không
một dấu hiệu, ông rời song cửa sổ. Chỉ chưa đầy một phút sau, cánh cửa ra vào
của căn phòng nhỏ -- đang khép hờ -- mở rộng rạ Ông đứng ở ngưỡng cửa, thẳng
thớm như đứng giữa giang san của mình, một giang san thu hẹp đến thật nhỏ nhoi,
lạnh lẽo, cô độc...
Với
thế đứng vững vàng như vậy ông đã cho tôi ý nghĩ là, chính nơi này, nơi thật
nhỏ nhoi này, là nơi ông đã tìm ra nguyên ủy, phương trình giải quyết và kết
luận cho một nan đề khó giải quyết nhất, hay ông đang ấp ủ một điều gì thật to
tát trong tư tưởng của ông. Nhận xét của tôi không thể nhầm lẫn vì ngày xưa
nhiều lần tôi đã nhìn vào mắt và tư thế của ông mà đoán đúng những gì ông định
ra lệnh cho tôi hay muốn nói cùng tôị. Ở lần gặp lại này, tôi cũng linh cảm
được ý nghĩ của ông như thuở đó.
Tôi
định bước vào hành lang, tiến đến gần ông nhưng kịp thấy ông nhìn tôi khẽ lắc
đầụ. Tôi dừng lại và ghi nhận đầy đủ hơn tín hiệu của căn bệnh ghê gớm đã và
đang tàn phá cơ thể của ông.
Ông
đứng thẳng, hai tay chập lại để trước người, những ngón tay đan chéo vào nhau,
chỉ nhìn tôi không nói một lời nàọ Ngày đó, trời đã lạnh. Tuy nhiên, tôi nghĩ
không phải vì trời lạnh mà ông trùm kín đầu bằng một chiếc khăn lông trắng đã
trở màu vàng, bẩn và lấm tấm những vệt máu, mủ. Vòng khăn quấn kín cổ chỉ chừa
có đôi mắt, mũi, miệng và một phần rất nhỏ ở 2 bên má. Ông trùm kín mặt như vậy
có lẽ đã che bớt đi những vết lở lói trên mặt mình, bởi chứng bệnh nan y của
ông.
Thân
thể gầy gò nhưng cộm lên vì mặc nhiều lớp áo quần bên trong; bên ngoài, ông mặc
một chiếc áo mưa màu nhà binh đã thật cũ, sờn rách một đôi nơị. Chân được bó
lại bằng những mảnh vải quần áo cũ xé ra, dính đầy bụi đất và những vết máu,
vết mủ.
Chỉ
có một phần mặt mũi và hai tay của ông lộ ra, các phần thân thể khác không thấy
được. Và chỉ có vậy thôi, tôi cũng nhận ra rằng không phải ông mang chứng lở
lói bình thường mà tôi đã từng thấy, từng biết. Mũi ông đỏ ửng, bóng; hai má
cũng vậy, cộng thêm một số vết lở lói; lông mi ở mắt đã rụng. Hai bàn tay cũng
có những vết lở tấy, nhưng các ngón tay đã co lại, móng tay nhiều ngón đã bị
khuyết lại hay mất hết: ông bị chứng phong hủi (leprosy) ở thời kỳ trầm trọng.
Vì không có thuốc và vì điều kiện vệ sinh không thể có được trong tù nên bệnh
của ông phát triển rất nhanh. Đó là lý do tại sao chỉ mới đi tù trong vòng bốn
năm năm ông đã trở thành người tàn phế, bị cách ly riêng biệt.
Có
lẽ người ta gán cho ông chứng bệnh lở lói là để tránh sự loan truyền căn bệnh
cùi trong trại giam. Vả lại ông bị "cách ly", chỉ được ra ngoài vào
những giờ mọi người đã đi lao động, không còn ai trong trại, nên ít ai biết rõ.
Nhưng chính ông, ông biết rõ bệnh trạng của ông.
Tôi
nhìn ông thật lâu, trong lòng xót xa, không biết phải nói gì, làm gì. Vị sĩ
quan cao cấp chững mực với quân phục chỉnh tề trang nghiêm ngày xưa nay đã mang
hình hài của một người tàn phế giống như một kẻ hành khất lở lói mà ai cũng có
thể gặp ở đâu đó. Đôi mắt tôi nói rõ sự thương cảm của tôi đối với ông. Và một
lần nữa ông cười, nụ cười nhăn nhún với một chiếc răng khểnh trong môi, như ông
muốn nói với tôi rằng: "Tôi chấp nhận định mệnh của tôi, nhưng tư tưởng
của tôi đã vượt khỏi thân xác nhỏ nhoi tàn phế của tôi rồị. Anh đừng thương hại
cho tôị"
Sau
nụ cười là ánh mắt nhìn tôi sâu hơn. Trong ánh mắt đó của ông, tôi đã ghi nhận
được sự thương xót của ông đối với tôị Hình như ông đã nhìn thấy lại người sĩ
quan thuộc cấp trẻ tuổi của ông ở những ngày xưa, còn độc thân, mặt còn non
sữa, nhưng sáng sủa và nhanh nhẹn, đã từng lúc làm ông hài lòng, cùng từng khi
khiến ông phải chỉ bảo...Ngày nay, hắn ta đã trở thành một người cằn cỗi, gầy
ốm, lam lũ với áo quần chùm đụp rách rưới, má hóp, mắt thâm vì những ngày thiếu
ăn, những đêm thiếu ngủ. Hơn thế nữa, hắn ta còn chưa biết phải làm gì trong
cảnh tù đày và trong tương laị
Tôi
chưa biết nói gì thêm, làm gì thêm ở buổi gặp lại ông trong hoàn cảnh khốn khổ
đó, thì anh bạn cùng tôi đi lãnh cơm, tìm được tôi, thấy tôi đang đứng
"nói chuyện" với Đại tá Sơn. Anh đến gọi tôi vì cơm anh đã lãnh xong
để ngoài sân phạn xá.
Tôi
tần ngần một phút nhưng rồi cũng phải theo anh trở lại phạn xá gánh cơm về cho
anh em ăn. Chúng tôi chào từ giã ông, không thấy ông trả lờị. Tôi quay đi, mang
theo nỗi buồn thật lớn. Anh bạn nói với tôi:
-
Đại tá Sơn đó, ông ta bị chứng bệnh nan y, vừa bị suyển, bệnh tim, lao phổị.
Ông không hề nói chuyện với aị
Tôi
trả lời ngắn: "Xếp cũ của tôị"
Suốt
ngày hôm đó tôi thẫn thờ vì những ý nghĩ miên man trong đầu óc tôị. Đêm đó cũng
không thể ngủ được. Tôi suy nghĩ về ông và những ngày tù đày của chính bản thân
tôị.
Quả
thật, trong lần đối thoại bằng mắt ở buổi gặp lại lạ lùng này, ông đã nói với
tôi thật nhiều về thân phận của ông và tôị Tôi biết rõ ông đã vượt khỏi cái
thân xác bệnh hoạn yếu đuối nhỏ nhoi của con người, dẫn phần tâm linh của ông
đến một cõi an bình nào đó, như một tín đồ công giáo tin tưởng sự an bài của Đấng
Tạo Hóa về định mệnh của mình. Hơn thế nữa, trong tư tưởng, ông không chỉ còn
là một người viết sử bình thường, một sĩ quan bình thường, mà đã trở thành một
triết gia lớn biết cả cội nguồn của dân tộc và tổ quốc. Tâm trí ông đã đi ra
ngoài thân thể ông để đến một khung trời bao la nào đó, cao rộng, hay ít nhất
cũng phủ trùm trên bờ cõi VN.
Rõ
ràng ông đã tìm được cho ông một lối thoát, sau khi đã trải qua đau khổ đến tột
độ: thể xác nứt nẻ, nhức nhối vì bị gặm nhấm, rút tỉa bởi con máu độc hại của
chứng bệnh nan y; bị bỏ đói khát lạnh lẽo, cô độc trong một nơi cách biệt đến
trở thành câm nín. Bao nhiêu tháng ngày đau đớn oằn oại mà ông phải chịu đựng
từng phút từng giây đó không đủ để ông trở thành một triết nhân hay sao, vả lại
ông là một người thâm trầm, hiểu sâu học rộng...Dù sao thì ông cũng đã vượt
thoát được đau khổ và tìm ra cho mình một con đường.
Một
ngày nào thoát khỏi gông cùm CS, nếu tấm thân tàn phế của ông còn hơi thở, thì
biết đâu khối óc phong phú và tĩnh đạt của ông sẽ không giúp ông trở nên bất tử
trong lòng mọi người, vì những điều chứa đựng trong đó sẽ có thể cho chúng ta
những hiểu biết về lịch sử VN -- trong thế hệ chúng ta -- một cách xác đáng
nhất, tường tận nhất, đáng suy gẫm nhất vì sao chúng ta đã đau khổ triền miên
trong cuộc chiến tranh tàn khốc dai dẳng vừa quạ Hay xa hơn nữa, biết đâu ông
cũng có thể cho chúng ta một triết lý nhân sinh rút tỉa từ kinh nghiệm bản thân
ông, khả dĩ giúp được nhiều người tìm ra sự an bình trong tâm hồn ở cuộc sống
nhiều đau thương nàỵ.
Tôi
yên tâm phần nào về ông, vì tôi biết, dù ông là kẻ chiến bại trong cuộc sống,
nhưng lại là người chiến thắng chính bản thân mình.
Còn
tôi, ông đã nói cho tôi biết bằng ánh mắt, là ông thương cảm cho tôi, vì ông đã
biết rõ tôi đã và đang còn mù mờ, quờ quạng trong đáy ngục, trong lưu đàỵ. Tôi
chưa nghĩ gì cho hôm nay và cho ngày mai hơn là phải sợ lao động nặng nhọc sáng
nay hay sợ bị đói lạnh chiều nàỵ. Tâm trí, tư duy của tôi là một thứ bong bóng.
Tôi
phải gặp lại ông, tôi phải học tấm gương của ông, phải biết nhận chịu cái đau
buốt tận xương tủy, để nghiền ngẫm về lẽ sống và tìm cho mình một con đường
thích hợp nhất mà bước đị
Từ
ngày đó tôi định bụng hôm nào thuận tiện tôi sẽ đi tìm ông, vì ông ở phòng
"cách ly" không phải lúc nào cũng tự tiện mà dến được, bọn cán bộ cấm
ngặt mọi tù nhân đến đó.
Trong
mấy ngày liền, sau các buổi lao động xong về trại, tôi đi theo các bạn lãnh cơm
lên phạn xá, lảng vảng đến gần căn phòng cách ly mong nhìn thấy ông để đến gặp,
nhưng lần nào cũng trở về không. Rồi một buổi chiều tôi trở lại đó, từ xa tôi
đã thấy ông sau xong cửa sổ, mắt đang nhìn ra xa xôi cao hơn bờ tường rào của
trại trước mặt ông. Tôi muốn nhìn ông cho rõ hơn nên bước thêm mấy bước nữa rồi
dừng lạị. Một chập rất lâu, ánh mắt ông vẫn thế, không thay đổi hướng. Ở hướng
đó, mặt trời chiều đã xuống thấp, nắng đã nhạt, mấy áng mây thật mỏng, ráng
hồng, còn vơ vẩn, rồi bị gió xé nát rạ. Tôi chợt thấy ông rùng mình.
Tôi
tự nghĩ: Chẳng lẽ mình nhầm hay sao khi nhận xét về ông ở buổi đầu tiên. Không
do dự nữa, tôi bước đến gần, đứng ngoài sân, trước hành lang, chào ông và khẻ
hỏi:
-
Chào Thầy, hôm nay Thầy có khoẻ hơn không?
Ông
quay lại nhìn tôi, nhẹ gật đầu nhưng không trả lờị. Đôi mắt ông lại hướng về
góc trời có một bóng mây vừa tan, một thoáng như mờ đi, như nghĩ ngợi, rồi chợt
sáng hẳn ra nhìn thẳng hơn vào mắt tôị.
Thôi,
Thày ơi! Tôi đã hiểu rồị Tôi đã hiểu trong lòng Thầy nghĩ gì và Thầy muốn gì ở
tôị. Lòng tôi trong một phút cảm thấy đau điếng.
Tôi
có nên nói đến những điều này cho các bạn nghe hay không? Liệu các bạn có tin
rằng tôi nói bằng sự thật, bằng tấm lòng của tôi hay không? Thôi thì tôi cứ nóị.
Ông
đã cãm nhận được định mệnh của ông rồị. Hơn ai hết, ông hiểu rõ tình trạng sức
khoẻ của ông. Ông chỉ sợ mình như ráng mây mong manh kia, sẽ phải tan rã mất đi
vội vàng. Thời gian quí báo không còn nữa đối với ông, ngọn đèn hắt hiu trong
tim ông sắp tắt, nhưng ngọn lửa lớn trong óc ông, đang rực sáng, không có chỗ
thoát rạ. Bốn bức tường của nhà giam này thật cay nghiệt; cái hoài bão của ông,
niềm ấp ủ đã hình thành trong tâm não ông cũng sẽ tan biến mà thôị. Ông không
sợ bản thân ông bị tiêu hủy, ông chỉ sợ những điều đó bị tiêu diệt, tôi nghĩ
như vậỵ
Với
ánh mắt nhìn thẳng vào mắt tôi, tôi nhận ra hình như ông muốn ủy thác cho tôi
một việc gì đó sau này -- khi tôi ra khỏi 4 bức tường của trại giam -- chẳng
hạn như sẽ thay ông viết lên những gì mà ông muốn để lại cho những thế hệ tương
laị.
Nếu
quả thật điều này tôi đoán đúng, tôi cam đành chịu sự thất lễ đối với ông. Dù
tôi hiểu ông, nhưng làm sao tôi có thể hiểu tường tận những gì tách bạch định
hình trong tư tưởng của ông.
Ông
đã nghĩ gì, ông đã biết những gì -- hẳn nhiên là phải rộng lớn và khúc chiếc --
ông muốn viết những gì, làm cách nào tôi có thể biết được. Vả lại, những thứ ấy
là những điều mà ông phải phấn đấu thật cam go với bệnh tật, với chính mình bao
nhiêu năm trời, chịu đựng vô vàn đau đớn tủi nhục từ thể xác đến tâm não mới có
được. Nó là của riêng ông. Làm sao tôi có thể cảm nhận được hết, khi mức độ
thương đau của tôi có hạn định; làm sao tôi có thể viết những điều ấy thành lờị
Sở
năng của ông là viết sử. Ngay ở công việc này, nếu tôi có hiểu biết một đôi
điều, thì với khả năng của tôi, tôi cũng không thể thay ông mà viết nổi hết cái
cao xa rộng lớn của ông, cái sâu sắc phong phú của ông, cái chiết trung tinh
túy của ông, cái kinh nghiệm dồi dào của ông về những gì phức tạp nhất, nhiêu
khê nhất, khuất lấp nhất của lịch sử ở thời đại nhiễu nhương nàỵ
Nếu
tôi cần thời gian để có được những ưu điểm trên đây như ông, thì sẽ bao lâụ. Có
lẽ suốt đời đến khi nhắm mắt, tôi cũng không có được.
Hôm
trước tôi gọi ông bằng "Thầy" để tránh tiếng gọi bằng cấp bậc đã trở
thành "không thích hợp" nữạ. Hôm nay, tôi cũng gọi ông bằng chữ đó,
cùng nghĩạ. Xét cho cùng, tôi chưa đáng là học trò của ông trên nhiều phương
diện.
Tôi
đành cam chịu sự bất lực rồị.
Cái
hy vọng giữ được cuộc sống của ông thật mong manh, cái hy vọng giữ sự hiểu biết
trong trí não ông cũng không thể có, rồi cát bụi sẽ trở về với cát bụi mà
thôi...Bỗng nhiên tôi nghe mấy giọt nước mắt lăn trên má tôị
Ông
nhìn tôi lặng lẽ thở dài rồi quay đị.
Tôi
trở về phòng giam của mình với tâm trạng buồn bã, mệt mỏị. Tôi muốn làm vui
lòng cố nhân, muốn làm tròn bổn phận với một cấp chỉ huy tôi quí trọng, nhất là
khi ông đang ở trong hoàn cảnh khốn cùng, nhưng tôi biết tôi kém tài, thiếu khả
năng để khả dĩ hoàn thành sự ký ủy của ông.
Sau
buổi chiều đó, lại một đêm và nhiều đêm khác nữa tôi mất ngủ. Dù ông muốn hay
không, tôi cũng thương cảm cho ông, xót xa cho ông. Niềm trắc ẩn của tôi không
ngoài việc tôi biết ông cảm thấy sức khoẻ của ông đã cạn, ông biết ông sẽ không
thể -- bằng cách nào đó, phổ cập được những gì đó thật hữu ích đã kết tinh
trong não tủy của ông qua những tháng ngày đau khổ. Niềm hy vọng cuối cùng là
ký thác những điều đó cho một ai đó có khả năng, cũng đã bị giập tắt. Sự cô đơn
của ông bây giờ đã hoàn toàn, tất cả đã quay lưng lại với ông. Bên ông có lẽ
chỉ còn Thượng Đế là vị an ủi, là vị cứu tinh cuối cùng mà thôị. Con người đã
không còn trong tầm mắt và niềm hy vọng của ông nữa, mãi mãi...
Sau
đó không lâu, một buổi tối, bọn cán bộ trại tổ chức buổi chiếu bóng ngoài trời
cho tất cả tù nhân xem ở cái sân rộng lớn giữa trạị. Đêm ấy, trời đầy trăng
sáng trong sương đêm loang loáng của mùa đông. Hơn 1,000 tù nhân được xếp hàng
ngồi theo đội của mình trong sân. Tuy nhiên, mọi người khi cần thiết cũng có
thể tách ra đứng lên đi tiểu ở một vài nơi mà CS đã chỉ định trước. Một nơi như
vậy nằm bên trong bờ tường của phạn xá.
Đây
là cơ hội may mắn cho tôị. Khi phim chiếu được chừng một giờ -- phim gì đó, tôi
không còn nhớ -- tôi đứng lên đi về phía ở bờ tường vào phạn xá, đến chỗ đi
tiểụ. Nhìn không có ai, tôi bước thêm mấy bước nữa, dừng lạị. Chỗ tôi đứng chỉ
còn cách căn phòng nơi ông ở không đầy 10 bước. Tôi không có ý định gặp ông,
chỉ muốn nhìn thấy ông mà thôi, và tôi đã nhìn thấỵ. Ông đứng bên trong cửa sổ,
ở đó có ánh đèn le lói hắt ra, đang nhìn lên khung trời đầy ánh trăng bàng bạc
trong sương. Giờ đó cũng gần khuya, ông vẫn thức, đứng nhìn trăng, nhìn trờị.
Tôi
đã hiểu rõ hơn tâm sự của ông. Tôi đứng nhìn ông một lúc khá lâu, rồi sợ bị bọn
cán bộ bắt gặp, tôi quay trở ra về chỗ ngồi của các ban cùng đội và không xem
gì được nữa ở những thước phim tuyên truyền còn lạị.
Tôi
lơ đãng ngắm nhìn những vì sao xa xa, ngắm vần trăng nhàn nhạt trên nền trời
nhiều sương lành lạnh, diệu vợi, buồn man man.
Đêm
trăng là khung trời của Hàn Mặc Tử, vầng trăng và ánh trăng là thơ của Hàn Mặc
Tử, không phải của ông. Ông không là một thi nhân, ông là một nhà viết sử.
Trăng đã thức trong máu để Hàn Mặc Tử làm thơ và ngâm thợ. Trăng đã thức trong
máu của ông, chỉ để ông thấy nỗi cô đơn của ông thấm đậm hơn mà thôị.
Hàn
Mặc Tử, ở những ngày cuối cùng của cuộc đời, còn nói lên được, còn viết lên
được những điều muốn nói, những điều muốn viết, trong sự yêu chiều an ủi của
một người đẹp yêu ông. Ông ta thật có diễm phúc so với nhà viết sử Phạm Văn
Sơn. Vị sử gia của tôi trong những giờ phút cuối cùng này còn có ai đâụ. Ông bị
cách ly thân thể, bị chối bỏ tình cảm, tuyệt nguồn tâm sự đến trơ trọi cả linh
hồn.
Ngày
xưa, vua Hezekiah của Do Thái -- trong Thánh Kinh -- hơn mười mấy năm bị phong
hủi cũng không cô đơn bằng ông, vì ông vua này vẫn sống trong hoàng cung lộng
lẫy với hằng trăm cung tần mỹ nữ hầu hạ.
Có
lẽ chỉ một người chịu sự cô đơn như ông là một vị bác sĩ nào đó -- một nhân vật
có thật -- trong tác phẩm "Kẻ Độc Hành" (Man Who Walks Alone) của một
nhà văn Mỹ, tôi đã quên tên, đã hy sinh suốt quãng đời đẹp đẽ nhất của mình,
tình nguyện đến một phương trời xa, phục vụ một trại hủi để chữa trị bệnh nhân
bằng sự hiểu biết và lòng tận tâm của mình, cho đến một ngày chính ông ta bị
truyền nhiễm chứng bệnh nan y nàỵ. Khi trở lại quê hương, ông lại bị hất hủi,
bị bỏ quên, cô đơn như một kẻ độc hành trong cõi đời thường như hoang vắng. Dù
sao vị bác sĩ đó cũng đã làm tròn thiên chức của mình, đã hưởng được sự tự do
để suy gẫm về cái triết lý của cuộc sống.
Còn
ông, nhà viết sử của chúng ta, ông đã cô đơn bốn bề ở kiếp con người; loài
người dưới đất quên lửng ông, trăng sao trên trời xa lạ với ông. Ông là kẻ cô
đơn nhất trong loài người...ở những giờ phút sau cùng.
Đêm
trăng này hay bao nhiêu đêm trăng nữa sẽ cho ông nhìn thấy gì, hay ông chỉ nhìn
thấy sự hoang mạc đến tận cùng của cuộc đời ông trong những ngày còn lạị. Hay
hơn thế nữa, ông sẽ nhìn thấy nỗi tuyệt vọng vừa nhen nhúm trong tâm sự ông, về
sự không thể làm tròn thiên chức của mình, sẽ lớn dần lên, sẽ còn đày đọa ông
không biết bao lâu nữạ. Đêm không ngủ dưới trăng kia có ích lợi gì cho ông
không...
Thì
ra tâm sự con người thật phức tạp trước những sự kiện tưởng chừng như vô tình
nhất, giản dị nhất.
Lần
đầu tiên sau khi gặp lại ông, tôi tưởng ông đã yên tâm vì đã tìm cho mình được
một con đường, một chân lý, đến độ khi nhìn ông tôi cũng cảm thấy yên tâm. Hôm
nay, bởi những sự kiện mới mẻ tưởng như vô tình, tôi mới biết ông vẫn còn ưu tư
khoắc khoải, nên lòng dạ tôi xốn xang vô cùng.
Tôi
đã ngu muội và thật thà ở buổi chiều hôm trước, vì vô ý thức, tôi đã đẩy tình
trạng cô đơn của ông đến cao độ nhất, bởi sự phản ứng tự nhiên, chân tình bằng
mấy giọt nước mắt dại khờ, non nớt, rơi không đúng chỗ, đúng lúc.
Một
giọt nước đã làm tràn miệng bát.
Đáng
lẽ tôi phải tế nhị giữ nó lại, tìm cách an ủi ông. Biết đâu niềm hy vọng vẫn
còn là ngọn lửa, tuy nhỏ nhoi, cũng sưởi ấm lòng ông để ông cảm thấy mình vẫn
còn người tri kỷ, không cô đơn, còn có ý nghĩa với mọi ngườị. Biết đâu như vậy
sẽ làm cho ông yên tâm hơn. Dù cái chết có đến với ông, bằng cách nào đi nữa,
ông cũng cảm thấy ấm cúng trong tâm hồn.
Niềm
trắc ẩn xốn xang này đã trở thành sự hối hận triền miên trong tôi suốt 15 năm
qua, chưa có dịp bộc lộ cùng aị. Tôi thật khổ tâm.
Lúc
đó, tôi thầm cầu nguyện Thượng Đế xui khiến cho những người CS thấy rõ chứng
bệnh vô cùng hiểm nghèo, nguy ngập của ông mà tha cho ông ta, cho ông được trở
về với gia đình. Đó là con đường duy nhất cứu được ông, cứu được cái hoài bão
mà ông từng ôm ấp bao nhiêu năm quạ
Tôi
đã thất vọng, ý trời không phải là ý ngườị CS chỉ hủy diệt những nhân tài đối
lập, không bao giờ nhẹ tay với một aị
Rồi
việc gì phải đến, đã đến.
Một
ngày, chưa hết mùa đông, đầu năm 1980 (tôi không nhớ chính xác ngày tháng),
buổi sáng sớm lất phất một cơn mưa phùn nhỏ, trời lạnh và đục, người ta đã đánh
kẻng tập hợp tù nhân các đội ra ngoài sân để tuần tự cho xuất trại đi lao động
như thường lê. Bấy giờ tôi ở trong đội cưa xẻ gỗ súc. Đội chúng tôi ra hiện
trường làm việc -- là hai dãy nhà lợp tranh, chỉ cách cổng trại vài mươi bước
-- trong vòng mấy phút. Mỗi cặp cưa gồm 2 người, tự động vào giàn cưa của mình
và xẻ những thân gỗ lớn thành những tấm ván dày hoặc mỏng dùng để đóng bàn ghế,
vách nhà, sàn nằm trong trại, hay đóng hòm chôn tù nhân, chết bởi nhiều cách,
đa số là chết vì bệnh và kiệt sức.
Chừng
chín giờ rưởi hay mười giờ hôm đó, tôi đến nhận phần sắn phụ trội (đội cưa xẻ
thuộc loại lao động nặng, có thêm một phần ăn phụ trội ở giờ giải lao, nhưng
bất thường) vừa định quay về giàn cưa mình thì anh bạn hôm trước đi lãnh cơm
với tôi, hôm nay vừa đi lãnh sắn ở nhà bếp, nói nhỏ vào tay tôi:
-
Tin buồn!
Tin
buồn có nghĩa là trong anh em của chúng tôi có thêm một người vĩnh viễn nằm
xuống, cũng có nghĩa là đội của chúng tôi phải xẻ thêm những tấm ván để đóng
chiếc hòm tạm bợ bọc xác bạn bè, một điều không ai muốn, nhưng ai cũng tình
nguyện làm để biểu lộ lòng thương xót với người đã ra đị. Biết đâu rồi ngày nào
cũng đến lượt mình. Tâm lý trái ngược đa đoan là thế đó.
Tôi
nghe anh nói xong, định hỏi xem là ai, nhưng anh đã bảo tôi:
-
Đi đi...!
Trở
về chỗ, vừa ngồi xuống đã thấy anh theo đến, ngồi sát bên, nói vừa đủ cho tôi
nghe:
-
Đại tá Sơn, "xếp" của anh, chết rồi!
Tôi
sững sờ, tưởng chừng như ai tạt một gáo nước lạnh vào mặt, hỏi lại anh:
-
Anh nói...chết rồi, tại sao, hồi nào?
Anh
buồn bã thuật lại câu chuyện anh vừa nghe ở nhà bếp:
-
Sáng nay, sau khi các đội đã xuất trại hết, "tụi nó" ra lệnh cho ông
đem giỏ ra sân mang than đá vào bếp trại như những ngày trước. Không biết ông
bưng vác đến giỏ thứ mấy thì kiệt sức, hộc máu tươi, ngất xỉu bất tỉnh. Khi
chúng hay được cho mang ông lên bệnh xá thì mấy phút sau ông mất; cả người nhầy
nhụa máu me, hình như bao nhiêu máu mủ trong các phần thân thể lở lói tuôn tràn
ra hết...
Anh
nói tiếp:
-
Giờ này có lẽ họ đã đem ông xuống nhà xác rồi!
Anh
lặng lẽ bỏ đi, không nói thêm gì nữạ
Tôi
như một kẻ mất hồn. Tôi đã hiểụ
Từ
lâu nay, thỉnh thoảng chúng tôi thấy một chiếc xe tải chở vào trại loại than đá
vụn vo thành viên tròn to như những trái "poids" lớn, dùng làm chất
đốt ở bếp. Mỗi lần như vậy, họ đổ than đá ở phần sân ngoài bức tường, trước cửa
vào nhà bếp. Bọn cán bộ ra lệnh cho ông hằng ngày dần dà chuyển hết những đống
than đá đó vào bếp, trừ trường hợp trời mưa, phải chuyển gấp chúng cho người
phu.. Như vậy, một người bệnh trầm kha như ông vẫn bị chúng vắt sức lao động
đến giọt máu cuối cùng. Hôm nay ông đã ngả xuống như trăm ngàn nạn nhân khác
dưới chủ trương giết người siêu dã man này trong các trại giam CS.
Sau
buổi giải lao, tất cả anh em trong đội cưa xẻ đều biết về cái chết thảm thương
của ông.
Ông
đã mất rồi về cõi thiên đường đã mang theo sự chịu đựng và hiểu biết của ông,
vốn dĩ không hề tưởng là đã có trong con người mang nhục thể. Cái gì của Thượng
Đế trả về cho Thượng Đế.
Người
ta ra lệnh xẻ gỗ đóng quan tài cho ông.
Nguồn:
Tôi nhận việc ấy với những giọt nước mắt chảy dài trên má. Chỉ còn một chút đáp
đền này thôi, hỡi cố nhân ơi...
Nguyễn Văn Dưỡng
Cái Chết Của Sử Gia
Phạm Văn Sơn
https://nguyentin.tripod.com/dt_phamvanson.htm
http://doanket.orgfree.com/quansu/phamvson.html
Việt Sử Tân Biên Phạm Văn Sơn.
[PDF] VIỆT SỬ TÂN BIÊN
- PHẠM VĂN SƠN (1963)
PDF LINKs
TẬP 1 - https://goo.gl/3Ctc9N
TẬP 2 - https://goo.gl/k9FDjD
TẬP 3 - https://goo.gl/yyHfGh
TẬP 4 - https://goo.gl/RzeVBQ
TẬP 5 - https://goo.gl/wwaeP8
TẬP 6 - https://goo.gl/iB9ztY
TẬP 7 - https://goo.gl/Vqd7z8
https://tuantdtcn.weebly.com/lichsuvn/pdf-viet-su-tan-bien-pham-van-son-1963