Bà Thạch Thị Phay
01
Người phụ nữ có khuôn mặt chất phác, tiếng
Việt nói không giỏi, tiếng Khơ Me có đỡ hơn nhưng cũng không diễn đạt được
tốt. Bà kể lại câu chuyện cuộc đời mình, một cuộc đời quá đỗi bất hạnh,
nhục nhằn, nhưng với một giọng bình thản, như kể chuyện đời của ai khác.
Không có một giọt nước mắt. Nhưng chính vì thế mà người nghe càng thêm đau
xót...
Nếu tính từ ngày bà bị công an bắt giam
lần đầu tiên năm 1985 cho tới nay là 37 năm, còn nếu tính từ khi bà bỏ trốn
sang Campuchia năm 2000 là 32 năm, với bao nhiêu cay đắng, mà nguyên nhân
chỉ bởi vì đâu?
Chỉ vì niềm tin tôn giáo, vì bà theo đạo
Tin Lành, tin Chúa và không muốn bỏ đạo, bỏ Chúa. Cụ thể hơn là Tin Lành
Đấng Christ (đạo Tin Lành ở Việt Nam có khoảng 60, 70 nhóm/hệ phái khác
nhau, nhưng nhà nước cộng sản chỉ cho phép Hội thánh Tin Lành Việt Nam
(Miền Bắc), Hội thánh Tin Lành Việt Nam (Miền Nam) đã nằm trong sự kiểm
soát, khống chế của đảng và nhà nước, là được phép hoạt động, còn các hội
thánh, hệ phái khác đều không được công nhận và bị đàn áp). Có điều gì vô
lý đến vậy mà lại là chuyện có thật….
***
Bà Thạch Thị Phay sinh năm 1951, tại ấp
Tha La, xã Ngọc Biên, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh, trong một gia đình người
Khmer Krom (người Khmer Nam Bộ, người Khmer Việt Nam, người Việt gốc Miên).
Cha mẹ bà Phay có tất cả 14 người con, bà và người chị sinh đôi Thạch Thị
Pát là hai người con nhỏ nhất –13 và 14. Tuy sinh nhiều vậy nhưng lại nuôi
không được bao nhiêu, 6 người chết lúc tuổi còn nhỏ.
Cha mẹ bà Phay làm nghề nông, nghèo nên
con cái không được đi học nhiều. Bản thân bà Phay chỉ học đến lớp Ba, tiếng
Việt đọc và viết đều kém, tiếng Khmer đỡ hơn một chút nhưng cũng kém. Từ
nhỏ cô bé Phay đã phải phụ giúp gia đình, đi coi trâu, làm ruộng.
Vùng quê bà Thạch Thị Phay là vùng “xôi
đậu”, những cuộc tranh chấp, đụng độ liên miên xảy ra giữa hai phe Quốc gia
và Cộng sản. Khi cô Thạch Thị Phay 19, 20 tuổi, thì một số thanh niên, phụ
nữ trong đó có cô bị Việt Cộng bắt vào chiến khu để phục vụ cơm nước, chùi
rửa, lau dọn; thỉnh thoảng cô phải chăm sóc các du kích quân bị thương hoặc
khiêng xác chết. Sau 3 năm, cô chạy thoát, trở về nhà.
Năm 1975 cô Thạch Thị Phay lập gia đình
với anh Thạch H., cũng là người Khmer Krom, cũng là dân làm ruộng. Theo
thời gian họ có 3 đứa con: một trai, hai gái.
Phần lớn người Khmer Krom theo đạo Phật,
gia đình nhà chồng và bản thân chồng bà Thạch Thị Phay cũng vậy. Nhưng bà
lại theo đạo Công giáo, rồi sau theo đạo Tin Lành, đặt hết niềm tin vào
Chúa. Bà thường đi dạy cho đám trẻ con trong vùng những bài thánh ca mà bà
biết. Chính quyền địa phương không bằng lòng như vậy. Sau vài lần đánh
tiếng hăm dọa, cuối cùng vào một ngày tháng 6.1985 họ bắt bà Thạch Thị
Phay, giam ở Nhà tạm giữ Công an huyện Trà Cú, với tội danh “làm mất trật
tự trị an”. Công an còn đổ tội vì bà đi dạy thánh ca, lũ nhỏ ham nghe mà bị
mất xe, mất bò, mất trâu.
Trong quá trình bị giam giữ, thẩm vấn ở
đây, bà Thạch Thị Phay bị công an đánh đập – họ tát mạnh đến nỗi hai bên
tai đều bị ảnh hưởng – bị lãng tai, rồi họ dùng dùi cui đánh vào đầu, vẫn
còn dấu vết lõm trên đỉnh đầu. Bà Thạch Thị Phay bảo vì vậy mà từ đó bà hay
bị nhức đầu, đầu óc cứ “nhớ nhớ quên quên, nói trước quên sau”. Có lần họ
còn đẩy mạnh đến mức bà té sấp mặt vào đống kính bị vỡ trên mặt đất, mảnh
vỡ đâm vào mặt, vào tay. Những di chấn tâm lý, tinh thần của thời gian ở tù
này còn để lại mãi sau này.
Khi bà Phay bị tù, ở nhà chồng đã bán
miếng đất của cha mẹ để lại cho bà nên khi ra tù, bà phải về ở chung với bố
mẹ chồng và chồng con. Bố chồng kêu hai vợ chồng bà Thạch Thị Phay ra ngồi
nói chuyện rồi hỏi bà có bỏ đạo, bỏ Chúa không, khi bà Thạch Thị Phay nói
không, bố chồng bảo bà gây phiền phức cho gia đình, nếu ông Thạch H., chồng
bà Thạch Thị Phay không thôi (bỏ) bà thì bố chồng sẽ uống thuốc tự tử. Ông
Thạch H. chỉ khóc, không nói gì. Bà Thạch Thị Phay đứng lên nói đại ý: “Khi
còn trẻ, con thương ba mẹ chồng rồi mới thương đến chồng, vì ba mẹ chồng đi
nói với ba mẹ con xin cưới; bây giờ ba mẹ chồng hết thương con rồi thì thôi
theo ý ba mẹ đi. Bây giờ người nào lấy tài sản của ba mẹ tui cho thì nuôi
con, còn tui xin đi một mình tui”.
Mẹ của bà Thạch Thị Phay chết từ trước khi
bà lập gia đình, người cha chết năm 1982. Khi rời khỏi gia đình nhà chồng,
bà Thạch Thị Phay về ở với người chị sinh đôi Thạch Thị Pát ở ấp Sóc Giụp,
xã Long Sơn, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh. Gia đình người chị cũng làm
ruộng. Sống với người chị nhưng bà Thạch Thị Phay không đi làm ăn được gì,
một phần vì cái giấy thả chỉ ghi là “tạm tha”, có nghĩa là vẫn có thể bị
bắt lại, một phần vì không có giấy tạm trú tại địa phương của gia đình
người chị, nên công an cứ thường xuyên tới kêu đi trình diện, đi làm giấy
tờ tạm trú mỗi tháng. Đường thì xa, phải đạp xe đi rất vất vả. Rồi mỗi lần
có người quen trong nhóm đạo Tin Lành tới thăm bà Phay là công an chặn lại
hoạnh họe, gia đình người chị và ông anh rể cũng lục đục cãi nhau vì những
phiền hà do bà Phay mang lại. Mà thật ra hồi đó những người theo đạo Tin
Lành “nằm ngoài hệ thống” như bà Phay đâu đã có nhà thờ, có mục sư hay sinh
hoạt tôn giáo gì, chỉ là vài ba người gặp nhau, bà Phay biết chút chút
tiếng Khmer, tiếng Việt thì dạy cho mấy người khác biết cầu nguyện khi ăn
cơm, khi ngủ, biết cái gì chỉ cái đó, cũng không có sách vở gì để tìm hiểu
thêm. Vậy mà bao nhiêu phiền hà xảy ra. Buồn bực, năm 1990 bà Thạch Thị
Phay liền tìm đường trốn sang Campuchia.
Ngày 4. 4.1990 bà Thạch Thị Phay tìm người
dẫn đường đưa sang Campuchia, dự định từ đó sang Thái Lan, nhưng rồi trên
đường đi xuyên rừng họ đụng phải một tốp lính Para (“lực lượng kháng chiến
Para” người Khmer này là một nhóm quân lính ở trong rừng, vừa chống lại
cộng sản Việt Nam vừa chống lại cộng sản Campuchia). Tốp lính Para này bắt
bà Phay đem về “doanh trại” của họ nằm sâu trong rừng.
Chỉ một thời gian ngắn phải “qua tay” bao
tên lính Para, bà Thạch Thị Phay đã bị bệnh phụ nữ. Bọn họ đưa bà tới gặp
một bác sĩ của họ. Người bác sĩ này thấy tội nghiệp bà Thạch Thị Phay nên
tìm cách giúp bà. Theo lời bác sĩ, ngày 30.4 là ngày có một nhóm bác sĩ, y
tá tới “đổi ca”, bà Thạch Thị Phay tới gặp bác sĩ, đi theo xe của bác sĩ
chạy thẳng tới một bệnh viện ở Thái Lan. Nằm gần bệnh viện là một trại tiếp
nhận người tỵ nạn tạm thời, bà Thạch Thị Phay liền tới trại xin tỵ nạn. Họ
ghi tên tuổi, lý lịch của bà sau đó chuyển bà tới trại Phanat Nikhom. Ở đây
có khá đông người Việt, người Khmer Krom, người Hmong…tỵ nạn.
Năm 1990 bà Thạch Thị Phay quen ông Sơn
N., người Khmer Krom, quê ở Sóc Trăng. Ông Sơn N. tâm sự vợ ông chết, ông
có 9 người con đều còn ở lại Việt Nam, riêng bản thân ông vì là lính VNCH,
sau 1975 bị đi “học tập cải tạo” một thời gian rồi khi về nhà cuộc sống
cũng không yên ổn nên ông bỏ sang Campuchia rồi sang Thái Lan. Thời gian đó
ông đang làm công việc thiện nguyện cho Cao Ủy tỵ nạn Liên Hiệp Quốc.
Cuối năm 1991 đầu năm 1992 bà Thạch Thị
Phay được chuyển qua trại Kikiew, lúc này bà đang mang bầu đứa con của ông
Sơn N. Trước ngày bà sanh khoảng 3 tháng thì ông Sơn N. phỏng vấn đậu và
được đi định cư ở Úc. Sau khi ông đến Úc khoảng 2 tháng rưỡi thì bà được
tin ông lấy vợ mới.
Bà Thạch Thị Phay sanh con ở trại. Một bé
gái. Bà đặt tên con là Sơn Hồng Nâu, tên ở nhà là bé Nụ.
Phỏng vấn 2 lần bị rớt, năm 1996 bà Thạch
Thị Phay có tên trong danh sách cưỡng bức hồi hương. Buồn rầu quẫn trí, khi
đến ngày bị đưa đi hồi hương, bà lấy dây cột tay hai mẹ con với nhau rồi
uống thuốc tự tử. Khi người ta phát hiện ra thì bà đã bất tỉnh, họ vội vàng
kêu xe cấp cứu đưa bà Thạch Thị Phay vào bệnh viện.
Ngày 20.2.1997 bà Thạch Thị Phay lại bị
cưỡng bức hồi hương, lần này rút kinh nghiệm sợ bà lại tự tử, người ta
không cho biết, chỉ nói là mời bà Thạch Thị Phay đi họp một chút. Nhưng khi
bà tới thì họ đưa vô trại giam luôn. Nửa đêm người ta đến đưa hai mẹ con
đi. Trên người bà Phay chỉ có một bộ quần áo. Từ sân bay Thái Lan bay về
sân bay Tân Sơn Nhứt, Sài Gòn. Công an Trà Vinh lên đón ghi tên tuổi bà
Phay, sống ở huyện nào, xã nào…rồi cho xe chở về thả ngay tại bến xe. Không
có một đồng trong túi, bà ôm con ngồi khóc.
Giữa lúc đó may mắn có một người quen đi
qua chở hai mẹ con về nhà anh ta, một thời gian sau anh ta lại chở hai mẹ
con về trình diện xã, ấp, huyện nơi bà từng sinh sống. Bà sống tạm nhà gia
đình một anh chị khác vì người chị sinh đôi, Thạch Thị Pát đã đi Canada từ
năm 1993.
Thời gian này thỉnh thoảng có các mục sư,
những người cùng theo đạo Tin Lành đến thăm bà Thạch Thị Phay nên công an
lại để ý.
Hồi hương được 3 tháng thì bà Thạch Thị
Phay nhận được tiền của UN dành cho những người tỵ nạn đã hồi hương. Có
tiền, bà mướn đất, cất cái chòi ở xã Đa Lộc, ấp Hương Phụ B, huyện Châu
Thành, tỉnh Trà Vinh, gần với nhà thờ để lui tới đi sinh hoạt. Bà cũng mua
kẹp, bông, bàn máy may, vải…làm kẹp vải, làm bông đi bán, hai mẹ con sống
qua ngày.
Một hôm có một đoàn mục sư Tin Lành gồm 16
người nước ngoài – người Campuchia, người Pháp…tới Trà Vinh có việc, nghe
nói tới trường hợp của bà Thạch Thị Phay là người Khmer Krom theo đạo Tin
Lành, từng trải qua bao nhiêu khó khăn, nhục nhằn, bị đàn áp vì niềm tin
tôn giáo, nên họ tìm đến thăm, và cầu nguyện tại nhà bà Phay. Sau sự việc
đó công an địa phương lại bắt bà Phay. Công an lấy lý do là bà Phay không
đi trình diện thường xuyên và vẫn tụ tập, theo đạo.
Bà bị tạm giam một ngày, nhưng vì bà kêu
nhức đầu, la hét nên công an đưa tới bệnh viện tâm thần. Bác sĩ khám xong,
chứng nhận bà có dấu hiệu bệnh tâm thần nên công an không bắt nhốt mà chỉ
bắt hàng tuần phải đi trình diện. Mặc dù vậy sau khi bà được thả, công an
lại tiếp tục tới lui xách nhiễu, theo dõi và cô lập. Đến năm 2003 bà Thạch
Thị Phay lại dẫn con đi Campuchia.
Sang Campuchia, bà đi phụ lặt rau, dọn dẹp
ở chợ kiếm tiền. Bận rộn ngoài chợ cả ngày, bà để bé Nụ lúc đó đã 11 tuổi ở
nhà một mình. Và cô bé đã bị một nhóm thanh niên người Khmer bắt cóc, may
mà một thời gian ngắn sau cô bé lại trở về được.
Cuộc sống của hai mẹ con khó khăn quá, bé
Nụ lại bị bệnh mà bà Phay không làm sao có tiền chạy chữa. Một người quen,
cũng ở cùng quê với bà Thạch Thị Phay – bây giờ coi sóc một trại trẻ mồ
côi, có tên là Sofoda – biết chuyện, đến nói với bà Phay là ký giấy gửi con
cho trại, họ sẽ đưa cô bé đi chữa bệnh, cho cô bé ăn học. Bí quá bà Thạch
Thị Phay đành đồng ý. Lúc đó là tháng 6.2003. Bé Nụ sinh năm 1992 nhưng sau
đó trại trẻ mồ côi làm lại giấy, đổi lại năm sinh 1996, họ bảo để cho bé Nụ
không “mặc cảm” khi ngồi học chung với những đứa bé nhỏ tuổi hơn nhiều. Bà
nghe vậy thì biết vậy.
Bé Nụ được đưa đi bác sĩ, được học tiếng
Khmer. Bà Phay ngày ngày ra chợ lặt rau, rồi cứ mười bữa nửa tháng bà lại
đến nhà trẻ thăm con. |
No comments:
Post a Comment