20230124 Cong Dong Tham Luan Di Tìm Lai Bien Gioi Co
***
Đi tìm lại biên cương, lảnh thổ của quận Giao Chỉ củ.
Căn cứ vào tài liệu từ Yên Tử Cư Sỉ Trần Đại Sỹ, chúng
tôi đã dùng Google Earth Pro để tìm lại khu vực biên giới cổ của Giao Chỉ dưới thời
đại triều Lý. Dỉ nhiên là không chính xác lắm nhưng nó cho đồng bào Việt Nam,
nhất là các thế hệ trẻ Việt Nam sau nầy có thể hiểu rõ hơn, hoặc ít ra củng có
một khái niệm sơ khởi về biên cương cổ dưới triều đại nhà Lý để thấy rằng chúng
ta đã bị mất quá nhiều lảnh thổ vì lòng tham không đáy của người tầu cùng sự hèn
nhát của đảng cộng sản Việt Nam hiện nay.
Tài liệu sử bên dưới của Yên Tử Cư Sỉ Trần Đại Sỹ.
***
ANH-HÙNG BẮC-CƯƠNG: Trước khi vào truyện
https://trandaisy.wordpress.com/2012/11/19/anh-hung-bac-cuong-truoc-khi-vao-truyen/
ANH-HÙNG BẮC-CƯƠNG (Q.I: Hồi 61-70)
https://trandaisy.wordpress.com/2012/11/20/anh-hung-bac-cuong-q-i-hoi-61-70/
ANH-HÙNG BẮC-CƯƠNG: Trước khi
vào truyện
Posted on November 19, 2012 by Lê Thy
20230124 CDTL BGC 01
Xin đọc bộ Thuận-Thiên
Di Sử trước khi đọc bộ Anh Hùng Bắc Cương
Ghi ơn
Tác giả kính cẩn dâng hiến tinh
thần bộ truyện này cho các vị tiền bối đã, và đang góp tâm huyết tìm lại nguồn
gốc, lãnh thổ tộc Việt bằng nghiên cứu, bằng suy diễn và bằng linh kiến:
§ Cố Giáo-sư Nguyễn-đăng-Thục, Nguyên khoa-trưởng đại-học Văn-khoa
Sài-gòn.
§ Cố Giáo-sư Lương-kim-Định, Triết-gia sáng lập An-Việt, Việt-linh
§ Tiến-sĩ Thái-văn-Kiểm. Hội viên Hàn-lâm viện Pháp-quốc hải ngoại
§ Cố Bác-sĩ Nguyễn-trần-Huân, Giáo-sư Văn-chương, tại đại học
Văn-khoa Paris (Sorbonne)
§ Luật-sư Hoàng-cơ-Thụy, Sử gia
§ Cố Giáo-sư Bùi-văn-Bảo, Sử-gia.
Trước khi vào truyện
1. Quý độc giả đã đọc Anh-hùng
Tiêu-sơn giai đoạn một, mang tên Thầy tăng mở nước. Thấy tăng mở nước không
phải là tên mới, vì đã xuất hiện vào đầu thế kỷ thứ mười hai, để chỉ chư vị
tăng ni hồi đó biến đổi Phật-giáo từ Ấn-độ, Trung-quốc qua, thành một Phật-giáo
dân tộc. Nhân ở hoàn cảnh mất nước lâu dài trong gần nghìn năm, các ngài đã
lồng đạo pháp đức Thế-tôn với chủ đạo tộc Việt thời vua Hùng, vua An-Dương vua
Trưng làm một. Bởi vậy mới có câu: “Đạo pháp bất dị quốc đạo”.
Vì nước mất đã lâu, nay các
ngài dựng lại được, nên người đương thời dùng câu Thầy tăng mở nước để ghi nhớ
công ơn.
Đạo-pháp, dân tộc là một không
có nghĩa toàn thể tộc Việt phải sống trong đạo Phật, mà có nghĩa: Đem đạo pháp
của đức Thế-Tôn ra giúp dân tộc. Đem đức từ bi, hỷ xả làm căn bản trong việc
trị dân.
Giai đoạn hai, chỉ rõ một
Phật-tử trong ngôi vị hoàng đế, đem đạo pháp ra trị nước, làm cho dân chúng ấm
no, sung sướng như thời vua Hùng, vua Trưng. So sánh với Trung-nguyên bấy giờ
hoàn toàn dùng Nho, khác hẳn. Thế nhưng không có ma sao có Phật? Bởi vậy trong
triều Thuận-Thiên hoàng đế (Lý Thái-tổ) quên ăn, quên ngủ lo cho dân, thì ma
qủi hiện ra dưới lớp Hồng-thiết giáo. Lại có những con ma, con quỷ đội lốt tăng
ni như Nguyên-Hạnh, Hoàng-Liên, Thạch-Phụng.
2. Đến giai đoạn ba thời đại
Tiêu-sơn biến sang một nét mới, thuật công cuộc phòng ngự biên cương phía Bắc
của 207 khê động, tức các bộ lạc dân tộc thiểu số. Suốt mấy nghìn năm, cho đến
nay, các khê động như hàng rào, bảo vệ Bắc-cương Đại-Việt.
Vào thời vua Hùng, vua
An-Dương, vua Trưng, lãnh thổ nước ta tới hồ Động-đình. Riêng lĩnh địa quận
Giao-chỉ gồm lưu vực sông Hồng tức Bắc-Việt ngày nay và vùng lưu vực sông
Tả-giang, Hữu-giang tức vùng Nam Trung-quốc như : Lộc-xuân, Nguyên-dương,
Khâu-bắc, Văn-sơn, Phú-định (thuộc Vân-Nam). Một phần phía Tây-Nam sông
Tả-giang như Điền-lâm, Bách-sắc, Điền-dương, Điền-Đông, Sùng-tả, Bồ-Bắc,
Nhạc-xuyên thuộc Quảng-Tây.(1)
Những năm 1981-1982-1983 khi
công tác cho Liên-hiệp các viện bào chế châu Âu (Coopérative Européenne
Pharmaceutique, viết tắt là CEP), Ủy-ban trao đổi Y-học Pháp-Hoa (Comité
Médical Franco-Chinois, viết tắt là CMFC) du hành sưu khảo trong các vùng trên,
tôi đã được phỏng vấn trước sau gần năm mươi giòng họ trong vùng này. Có tới
bốn mươi ba giòng cho biết gia phả chép rằng, tổ tiên họ vào thời Tống còn là
người Việt. Tôi cũng mò mẫm vào bảo tàng viện địa phương, cơ quan bảo tồn di
tích cấp xã để nghiên cứu về kết quả những cuộc khai quật trong các vùng nói
trên.
Một số mộ tìm thấy những viên
gạch trên nắp quan tài ghi tên người quá cố với những niên hiệu của:
§ Vua Lê-đại-Hành như Thiên-Phúc (980-988) Hưng-thống (989-993)
Ứng-thiên (994-1005),
§ Vua Lý Thái-Tổ như Thuận-Thiên (1010-1028), Lý Thái-Tông như
Thiên-Thành (1028-1033) Thông-Thụy (1034-1037).
Di tích gần nhất là ngôi mộ
giòng họ Quách ở vùng Điền-Đông thuộc Quảng-Tây ghi:
Quách công húy Tuần. Thụy Minh-Mẫn
Chung ư thập tam nhật, thập nhị nguyệt, Tý thời
Kim vương Đại-Định, bát niên, Ất-Mão
Nghĩa là: Ông họ Quách
tên là Tuần, tên thụy là Minh-Mẫn, từ trần giờ Tý ngày mười ba, tháng chạp.
Nhằm niên hiệu đức vua Đại-Định năm thứ tám, tức năm Ất-Mão. Tra trong sử,
Đại-Định là niên hiệu của vua Lý Anh-Tông. Năm thứ tám là năm 1147.
Tại Khâu-bắc,
Văn-sơn, Phúc-định thuộc
Vân-Nam còn có đền, miếu thờ công chúa Bảo-Hòa, nhưng không biết công chúa
Bảo-Hòa Lý hay Thân. Người ta đã khai quật nhiều mộ người Việt, ghi lại những
di tích đời Trần với niên hiệu vua Trần Thái-Tông, Nhân-tông.
Giữa hai vùng đồng bằng
Tả-giang, Hữu-giang với Trung-châu Bắc-Việt chia cách nhau bằng khu rừng núi
Bắc-biên ngày nay. Trong đám rừng núi này có 207 nhóm sắc tộc Mèo, Thái, Mán,
Nùng, Tày, Mường. Sử gia Trung-quốc gọi họ là Man-dân, hoặc Khê-động. Sự thực
những khê-động là di tích của các Lạc-ấp thời vua Văn-lang, Âu-lạc, Lĩnh-Nam
còn sót lại.
Khi Mã Viện chiếm trọn
Lĩnh-Nam. Y trồng một cột Đồng-trụ ở biên giới Giao-chỉ, Quế-lâm, Tượng-quận.
Nếu vậy, đồng trụ phải nằm ở khu tứ giác Nam-ninh,
Liễu-châu, Bắc-sắc, Nam-đơn, chứ không thể nằm trong lãnh thổ Bắc-Việt.
22°49'0.23"Bắc 108°22'0.84"Đông
Liễu Châu
24°19'31.89"Bắc 109°24'55.65"Đông
Bac Sac
23°54'7.46"Bắc 106°37'6.12"Đông
Thời vua Ngô đánh quân Nam-Hán,
ngài chỉ đuổi chúng khỏi trung châu Bắc-Việt, tới vùng núi non Bắc-cương ngày
nay, tức đuổi khỏi phần lưu vực sông Hồng, chứ không đuổi khỏi lĩnh địa
Giao-chỉ cũ. Từ đấy biên cương Hoa-Việt ngăn cách nhau bằng khu núi non
Bắc-cương với 207 khê động.
Trong thời gian Bắc-thuộc, các
khê-động và biên cương không đặt ra. Vì người Hoa coi toàn thể lãnh thổ ta
thuộc Thiên-hạ tức đất của họ.
Lúc vua Lê Đại-Hành đánh
Nam-Hán, cũng không chiếm lại lãnh thổ Lĩnh-Nam cũ đã đành, mà không đòi lại
toàn vẹn cố thổ Giao-chỉ. Thành ra các khê-động khi ta mạnh theo ta, khi Tầu
mạnh theo Tầu.
Đến đời Lý, Đại-Việt giầu mạnh,
triều đình mới nghĩ đến việc chiếm lại 207 khê động, vì biết mình ở gần, Tống ở
xa.
Việc đầu tiên, vua Lý Thái-Tổ
(Thuận-Thiên hoàng đế) phong cho Thân Thiệu-Anh thống lĩnh 207 khê-động. Ngài
gả công chúa thứ nhì cho con Thiệu-Anh là Thừa-Qúy, với sắc phong Lĩnh-Nam
bảo-quốc, hoà dân công chúa, gọi tắt là công chúa Bảo-Hòa. Hai người ra sức
tranh dành thống nhất các khê động nhưng không thành.
Con của công-chúa Bảo-Hòa cùng
phò mã Thân Thừa-Quý là Thân Thiệu-Thái lại được vua Lý Thái-Tông gả công chúa
Bình-Dương cho. Chính công chúa Bình-Dương, cùng phò mã Thân Thiệu-Thái đã
thành công trong việc chiếm lại toàn vẹn 207 khê động, thống nhất thành nước
Bắc-biên. Hai vị còn tiến lên phía Bắc vùng núi đi vào vùng lưu vực Tả,
Hữu-giang.
Bộ sách này thuật giai đoạn
chiến tranh đó. Giai đoạn dành cố thổ trong thời đại Tiêu-sơn mang tên
Bình-Dương ngoại sử, Bình-Dương ngoại truyện hoặc Anh-hùng Bắc-cương.
Tiếc thay, vùng đất đồng bằng
phía Bắc của 207 khê động, vào thời Lê giặc Mạc Đăng-Dung hiến cho quân Minh,
và vào thời Pháp thuộc người Pháp cắt phần nữa cho Trung-hoa dân quốc (2) Đau
hơn, gần đây cuộc chiến tranh Hoa-Việt. Việt bị mất 56 xã thuộc vùng Cao-lạng
(3). Sau cuộc chiến, phía Việt quên, không nhắc nhở gì tới đòi lại.
3. Huyền sử kể rằng quốc tổ
Kinh-Dương kết hôn với công chúa con vua Động-đình. Rồi quốc tổ Lạc-Long kết
hôn với công chúa Âu-Cơ. Sau khi kết hôn cả hai vị quốc tổ đều đưa quốc mẫu lên
núi Tam-sơn trên hồ Động-đình hưởng thanh phúc ba năm. Khi các vị lên núi Chín
vạn hoa tầm xuân nở. Sau này, vào thời Lĩnh-Nam, anh hùng cũng đại hội trên núi
Tam-sơn tuyên cáo khởi binh. Tiếp theo, có hai trận đánh kinh thiên động địa
xẩy ra tại đây.
Phía Nam hồ Động-đình là sông
Tương chảy theo hướng Bắc về Nam, qua Hồ-Nam, Quảng-Tây. Bên hữu ngạn sông
Tương có ngọn núi Thiên-đài là nơi vua Đế-Minh lập đàn tế cáo trời đất, phong
cho con trưởng làm vua phương Bắc (nay là Trung-quốc) tức vua Nghi; con thứ làm
vua phương Nam (nay là Việt-Nam) tức vua Kinh-Dương. Di tích đó nay vẫn còn.
Huyền sử ghi rằng: Lạc-Long
quân chia trăm con đi khắp nơi qui dân lập ấp, mỗi năm hội nhau tại cánh đồng
Tương một lần.
Vì những lý do đó, đầu năm
1981, tôi lấy máy bay đi Bắc-kinh, đổi máy bay từ Bắc-kinh đi Trường-sa. Từ
Trường-sa tôi dùng xe đi lên Nhạc-dương trấn, rồi thuê xuồng thăm hồ Động-đình,
núi Tam-sơn, Quân-sơn. Tôi quan sát chi tiết phong cảnh, hoa cỏ vào tiết Xuân
để tường thuật cuộc khởi nghiã cùng hai trận đánh vào thời vua Trưng cho đúng.
Sau đó tôi đi thăm Tương-đài,
ba cánh đồng Tương: Tương-Nam, Tương-trung, Tương-Âu và Thiên-đài.
Trong bộ Anh-hùng Bắc-cương
này, tôi sẽ thuật chi tiết những sự kiện đó.
Xin kính mời quý độc giả đọc
Anh-hùng Bắc-cương, để thấy tổ tiên ta anh hùng như thế nào.
Viết tại Paris ngày giỗ tổ
Hùng-vương năm Tân-Mùi (1991).
Ghi chú
(1) Độc giả có thể tìm hiểu rõ
ràng hơn vấn đề này xin đọc những bài nghiên cứu về lịch-sử, địa lý, triết học
, văn hóa Việt của các vị học giả đã đi tiên phong như: Nguyễn Đăng-Thục, Lương
Kim-Định, Thái Văn-Kiểm.
(2) Hoàng-xuân-Hãn,
Lý-thường-Kiệt, nhà xuất bản Sông-Nhị Hà-nội 1949. Trang 88.
(3) Việc này xẩy ra năm 1978.
https://trandaisy.wordpress.com/2012/11/19/anh-hung-bac-cuong-truoc-khi-vao-truyen/
Đền thờ Công Chúa Bảo Hòa
Khâu Bắc
24° 2'30.70"N
104°11'44.92"E
Văn-sơn
23°23'54.63"N
104°12'54.18"E
Hửu Giang
23°53'26.72"N
106°37'8.12"E
Tả Giang
22°49'48.97"N 108° 5'42.75"E
Sùng Tả
22°22'51.37"N
107°22'23.49"E
Phu Tuy, Quang Tay
22°38'4.10"N
107°54'12.62"E
Khu vực
Đồng Trụ của Mã Viện
Văn-sơn Tả Giang
23°23'54.63"N
104°12'54.18"E
Khâu Bắc
24° 2'30.70"N
104°11'44.92"E
Bách-sắc Hửu Giang
23°54'7.46"N
106°37'6.12"E
Nam Ninh Ung Châu
22°49'0.23"N
108°22'0.84"E
Liễu Châu
24°19'31.89"N 109°24'55.65"E
20230124 CDTL BGC 02
No comments:
Post a Comment