20210818 Cong Dong Tham Luan
Tội ác cộng sản
Phiet Pham thephiet_2002@yahoo.com
Wed, Aug 11 at 11:39 AM
Chuyện Như Huyền Thoại
Viết tặng bạn Phạm Phan Lang, cựu nữ Trung Tá Lục Quân Hoa Kỳ
Cái
tin cô bạn cựu Trung Tá Lục Quân Hoa Kỳ Phạm Phan Lang (Thực sự thì Phan
Lang đã nhận quyết định thăng chức Đại Tá trước khi giải ngũ) từ xứ du lịch
bờ biển Hạ Uy Di dọn về California làm nức lòng bè bạn khắp nơi trên đất liền.
Nhóm Bắc Cali toàn nữ chúng tôi và Phan Lang cũng đều là thành viên của Văn Thơ
Lạc Việt (VTLV), Văn Bút Hải Ngoại Vùng Đông Bắc Hoa Kỳ, Cô Gái Việt, và Minh
Châu Trời Đông, vui mừng điện thoại cho nhau ơi ới mỗi ngày, bàn tính rôm rả
chuyện đi Nam Cali thăm nhà mới của “Đứa con gái cưng Mỹ Quốc” nữ Trung
Tá gốc Việt đầu tiên của Hoa Kỳ, cũng là “Hậu duệ Hai Bà Trưng Triệu Việt
Nam” là những câu chúng tôi thường gọi đùa người bạn gốc quân nhân này. Và
tôi bắt đầu tính chuyện làm thơ, để chị Đỗ Dung viết thư pháp Chúc Mừng Tân
Gia.
Trưởng
đoàn là chị nhà báo Lê Diễm, trưởng ban Xã Hội VTLV, người luôn mau mắn chu
toàn lo cho việc “quan hôn tang tế” của VTLV. Chị chịu trách nhiệm thuê xe kiêm
luôn chức bác tài. Sau khi rủ rê hẹn hò ngày giờ đâu đó, chúng tôi thành lập
được một phái đoàn thiệt đông, thiệt “oách,” cỡ một tiểu đội quần hồng, bảy tám
“nàng” như một tour du lịch chánh hiệu con nai vàng, và chị Lê Diễm book chiếc
Van 12 chỗ rộng rãi ngon lành. Nhưng kéo dài theo thời gian, các bông hoa …rơi
rụng lia chia, kẻ bận chuyện kia người kẹt chuyện nọ, cuối cùng thì đầu to đuôi
teo, số người đi còn lèo tèo chỉ bốn mống, Lê Diễm, Đỗ Dung, Phương Hoa, và
Minh Thúy.
Đây
là lần đầu tiên sau ngày “mở cửa” qua hơn một năm rưỡi nằm nhà trốn dịch, chị
em chúng tôi mới được các đức lang quân cho đi chơi xa, nên ai nấy rộn ràng
chuẩn bị. Trước ngày khởi hành, đọc tin thấy dịch biến thể Covid Delta đang
hoành hành, lây lan khắp năm chục tiểu bang Hoa Kỳ, nhiều nhất là ở Nam Cali,
vùng Los Angeles. Cho nên đêm trước khi đi tôi lo âu không ngủ được vì
nghĩ đến chuyện cái con Delta nó lẩn quẩn dưới Nam Cali, và có lúc tôi đã tưởng
phải hủy chuyến đi. Nhưng rồi nghĩ đến công lao chị Lê Diễm đã thuê xe và các
chị chuẩn bị bữa giờ. Tội nhất người bạn vàng Phan Lang của chúng tôi, điện đàm
liên tục, hỏi han về sở thích ăn uống của mỗi người để chuẩn bị. Và hai cái tủ
lạnh đầy nhóc các thức ăn chay mặn khi chúng tôi đến nơi đã nói lên tình cảm và
sự chu đáo đối với bạn bè của người bạn nhà binh ấy.
Lúc
khởi hành, miền Bắc Cali khí hậu thật mát mẻ. Xuống xa dần về phía Nam, trời
bắt đầu nóng lên hừng hực, đến nỗi máy lạnh trong xe mở lên cũng chẳng “xi nhê”
gì. Nóng bốc khói đã làm tôi vỡ mộng ngắm cảnh dọc đường. Nên nhân lúc mọi
người nói cười vui vẻ, bàn tính đi Little SaiGon sẽ mua sắm những gì, tôi lấy
điện thoại ra mở đầu cho bài viết của chuyến đi đầy hào hứng. Lần trước Phan
Lang từ Hawaii qua Cali thăm con gái làm việc ở Google, nhóm bạn chúng tôi cũng
đã gặp nhau và “tâm sự loài chim biển” cả ngày trong bữa tiệc tại nhà Minh Thuý
mà không biết chán. Tôi thường liên lạc với Phan Lang nên biết được nhiều
điều cảm động về người bạn này. Lịch sử gia đình Phạm Phan Lang gồm một chuỗi
dài đầy huyền thoại, kiêu hãnh, ngọt ngào, lẫn đớn đau... mà nghe tới đoạn nào
trái tim tôi cũng bị mềm đi theo đoạn ấy...
30
tháng Tư 1975 ngày mất nước, Thiếu Tá Hải Quân của QLVNCH Phạm Văn Diên lái
chiếc chiến hạm loại nhỏ PGM 615 rời quê hương mang theo gia đình cùng bố mẹ
già, gia đình người anh, một người em vợ, cùng trên dưới hai trăm quân nhân và
đồng bào. Người ta chen lấn lên tàu, nhiều người nhét vàng vào tay Thiếu Tá
Diên nhưng anh tuyệt đối không nhận của ai một thứ gì. Nhà ba mẹ Phan
Lang vốn khá giả, ba là một nhà thầu lớn từng xây nhà cho tướng Tôn Thất Đính
và Đỗ Mậu ở Nha Trang. Ngày di tản nàng mang theo một ruột tượng có dollars,
vàng, và kim cương nhưng vì say sóng nên tháo ra cất vào hành lý. Chiến hạm đó
vừa chiến đấu ở miền Trung trở về đã bị thương tích đầy mình, trên đường ra
khơi thì bị trục trặc, nước tràn vào. May gặp một chiếc tàu khác cứu, chỉ
vớt người, rồi đánh chìm chiến hạm, mang theo toàn bộ gia tài của bạn tôi xuống
lòng đại dương.
Đến
Mỹ với hai bàn tay trắng, được bảo trợ về định cư nơi thành phố nhỏ vắng vẻ
miền quê, gia đình vợ chồng Phan Lang gồm ba đứa con thơ cùng bố mẹ chồng già.
Nhưng khi người bảo trợ khuyên đi xin trợ cấp thì họ nhất định không chịu, thà
là xin việc làm xa thành phố, anh Diên đạp xe đạp đi cả chục cây số mỗi ngày,
lương chỉ ba cọc ba đồng. Phan Lang thì xin được chân rửa bát ở nhà hàng. Nghe
bạn kể mà tôi muốn rơi nước mắt. Vốn con nhà tiểu thư khuê các, ra đi mất
sạch mọi thứ, chỉ còn lại đôi giày cao gót dính vào chân, quen cách điệu đà lúc
nào cũng giày cao guốc nhọn, nên lúc đi rửa chén cũng không nghĩ mình sẽ bị vấn
đề gì khi mang đôi giày độc nhất đó. Cô nàng làm sao tưởng tượng được,
khi nhấc thùng chén đĩa nặng trịch lên và chỉ một bước trên đôi giày cao gót,
nàng đã bị trượt chân tới trước rồi ngã uỵch xuống sàn nhà, chén bay đĩa văng
tứ tung, bể tan thành trăm mảnh.
Phan
Lang nhớ lại, lúc ấy cái đau vì ngã thì ít, mà cái tủi thân, đau đớn vì hoàn
cảnh nước mất nhà tan, mang thân lưu lạc thì nhiều. Và sự đau đớn chảy theo
từng dòng lệ trào tuôn đã bừng lên một ý chí mãnh liệt cho Phan Lang. Cần phải
đi học. Học để vươn lên. Để kiếm tương lai cho gia đình và con cái, không thể
sống với nghề tay chân rửa bát này được. Thời may, nhờ người bảo trợ giúp, đưa
gia đình Phan Lang đến ở trong một trại gà, nuôi 60,000 con gà thịt. Cơ hội
đến, vợ chồng Phan Lang ghi danh vào University of Maryland, Eastern Shore. Mỗi
ngày chỉ 24 tiếng, mà bạn tôi vừa đi học, vừa làm ba job chính và nhiều job
phụ, tôi nghe mà bắt...chóng mặt, nhớ không hết. Đi học vừa làm work study,
xong chạy về cho gà ăn, cho uống thuốc, tối đi làm ở McDonald's, đi dạy tiếng
Anh cho trẻ Việt mới định cư, nuôi dạy ba đứa con thơ, làm nàng dâu ngoan chăm
sóc hầu hạ cơm dâng nước rót cho bố chồng từng là quan Chánh Tổng ngày xưa, và
người mẹ chồng mang nhiều thứ bệnh...
Vất
vả thế, vậy mà chỉ sau ba năm đến Mỹ, năm 1978, khi còn đang học đại học, Phan
Lang cùng anh Diên và vị Giảng Sư Vật Lý đã hoàn thành một nghiên cứu về khoa
học và đạt loại xuất sắc, nên được trường chọn đưa đi dự đại hội ở Viện Y Tế
Quốc Gia - National Institutes of Health (NIH) tại Atlanta. Anh Diên cũng được
chọn đi dự, nhưng Phan Lang đặc biệt hơn, được đề cử đại diện làm người phát
ngôn, Speaker của trường, để đọc bài giới thiệu trước đại hội. Chưa hết, cũng
trong năm 1978, Phan Lang được chọn là một trong 20 sinh viên xuất sắc toàn
quốc trong chương trình Liên Đoàn Nghiên Cứu Nước Ngoài (The Foreign Study
League) đi nghiên cứu một tháng qua các nước Anh, Pháp, và Ý.
Và
công khó đã được đền bù. Đến năm 1980, sau 5 năm định cư trên đất Mỹ, Phan Lang
tốt nghiệp đại học hạng tối ưu, trên 4:00 GPA, nhận cùng lúc hai tấm bằng Cử
Nhân. Một là Cử Nhân Kinh Tế Gia Đình (Home Economics) và một là Dinh Dưỡng Học
(Nutrition and Dietetics). Sau khi tốt nghiệp, Phan Lang xin gia nhập quân đội Hoa
Kỳ, tham gia vào chương trình thực tập về Dinh Dưỡng của Lục Quân Hoa Kỳ (US
Army Dietetic Internship).
Khi
nghe bạn kể đến đây tôi không dằn được nên chặn lại và hỏi:
“Phan
Lang có thể cho mình biết nguyên do nào bồ nghĩ đến gia nhập quân đội Hoa Kỳ không?”
“Well,
mình sẽ không nói những lời sáo ngữ như là vì yêu nước Mỹ hay muốn đền ơn gì gì
đó. Phan Lang nói. “Mà thật ra mình vào quân đội vì quân đội có chương
trình thực tập dinh dưỡng tốt nhất, và đặc biệt, những quyền lợi (benefits)
trong quân đội Hoa Kỳ rất là lý tưởng, không đâu sánh bằng. Hay hơn nữa, chỉ
cần phục vụ ba năm là có thể xin giải ngũ nếu muốn, và khi ra ngoài sẽ rất dễ
xin việc làm.” Cô nàng cười, tiếp: “Nhưng vào được trường sĩ quan quân đội Lục
Quân Hoa Kỳ không phải dễ đâu à nha! Phải có đủ tiêu chuẩn, thứ nhất là tốt
nghiệp bằng Cử Nhân loại giỏi và đúng ngành, thứ hai phải dưới ba mươi tuổi,
thứ ba phải có quốc tịch Mỹ, cộng thêm với 3 lá thư giới thiệu của những nhân
vật quan trọng và một bài viết về tiểu sử. Và đặc biệt là, phải qua được cuộc
phỏng vấn rất khó khăn.”
Khi
đó Phan Lang bị thiếu hai điều quan trọng nhất: Đã qua tuổi ba mươi và chưa có
quốc tịch Mỹ. Nhưng nhờ tốt nghiệp Cử Nhân hạng tối ưu, có nhiều thành tích tốt
lúc ở trường đại học, và 3 lá thư giới thiệu nhiệt tình từ ba nhân vật quan
trọng trong ngành giáo dục và xã hội, kèm theo bài viết về tiểu sử rất “bắt
mắt,” nên họ thấy tiếc nếu không nhận Phan Lang. Và họ đã làm một cuộc phỏng
vấn, mất cả nửa ngày trời hỏi toàn những câu hóc búa. Cuối cùng vì quá thích thú
khi biết thêm về người thí sinh này, nên họ đã nhận “đặc cách” người phụ nữ
Việt đã có gia đình và ba đứa con nhỏ và chưa nộp đầy đủ những gì họ yêu cầu,
vào với quân đội Mỹ.
“Wow!
Wow!” Tôi nghe mà chỉ biết kêu lên thích thú, vì không còn lời để ngợi khen
bạn.
Sau
một năm học tập và được nhà binh rèn luyện với đầy đủ phong cách một quân nhân,
năm 1981 Phan Lang tốt nghiệp, ra trường là một nữ Thiếu Uý. Thật không thể
tưởng tượng nổi, đã vào quân đội mà nàng vẫn phải chu toàn việc nhà, rồi còn
trở lại trường vào ban đêm học lấy bằng Thạc Sĩ. Chuyện nghe như huyền thoại,
như cổ tích “nghìn lẻ một đêm,” mấy ai tin được một sĩ quan của Hiệp Chủng Quốc
Hoa Kỳ, mà mỗi ngày sau khi xong nhiệm vụ việc nước thì vội vã chạy về nhà lo
nấu ăn, lo con cái, đi học đêm, chăm sóc bố mẹ chồng, nhất là mẹ chồng thân
mang nhiều thứ bệnh cần phải nấu thức ăn kiêng. Nàng dâu quân nhân gốc Nha
Trang mỗi ngày còn phải tắm rửa, gội đầu, chải mái tóc dài quá gối của bà cụ
rồi quấn khăn vành cho bà theo người Bắc. Quả là một nàng dâu đầy hiếu thuận,
rất hiếm thấy...
*
Trước ngày đi Nam Cali, tôi nhắn địa chỉ nhà
Phan Lang cho đứa cháu dưới đó để nó ghé lại lấy vài món đồ, thì con bé kêu
lên, “Chỗ đó là khu nhà giàu, đẹp và sang lắm,” và bây giờ, khi chị Lê Diễm
dừng xe loay hoay bấm số code để cổng mở cho xe chạy vào tôi mới thấy nó nói
đúng. Đây là một khu gia cư “kín cổng cao tường” đúng cả nghĩa đen lẫn nghĩa
bóng. Khu nhà cao cấp này được chăm sóc rất chu đáo. Trước cửa nhà nào hoa cỏ
cũng xinh tươi rực rỡ, đường đi ngang dọc bóng loáng không chút bụi, nhìn thật
đã mắt. Phong cảnh trang nhã thanh lịch xung quanh đã làm dịu bớt đi cơn nắng
nóng hực lửa đang chào đón khách đến từ Vùng Đông Vịnh mát mẻ.
Phái đoàn thăm nhà mới.
Đó
mới chỉ là toàn cảnh bên ngoài. Vào bên trong, ngôi nhà còn đặc sắc hơn với
cách sắp xếp và trang trí nội thất độc đáo của Phan Lang và chàng ông xã. Quả
đúng là người về từ Hawaii. Sự trang trí thật mát mắt với phong cảnh miền
biển, rải rác khắp nơi là những con cá, mực, vỏ sò, hoa lá, rong rêu... nhìn
thật tuyệt. Mọi người ríu rít thi nhau trầm trồ, khen ngợi sự sắp xếp và trang
trí trong nhà. Chàng xã Barry của Phan Lang nghe vậy cười vui vẻ:
“Tất
cả là do cô ấy làm hết!”
Tôi
nheo mắt ghẹo:
“Tại
sao lại là ‘một mình cô ấy’ làm chứ?”
Barry
cười lớn hơn, nói đùa một cách duyên dáng, kiêm thêm chút… hãnh diện:
“Bởi
vì cô ấy là Trung Tá của Quân Lực Hoa Kỳ!”
Tối
hôm đó, vợ chồng một người bạn văn khác, là Chúc Anh và Jeffrey Miller, từ Los
Angeles (LA) lên chơi cùng ăn tối với chúng tôi. Chúc Anh và Jeffrey Miller rất
nhiệt tình với bạn bè, lái xe mất mấy tiếng đồng hồ vào ban đêm rồi sau mãn
tiệc thì chạy về LA lại làm mọi người cảm động. Khỏi phải nói, bữa tối đầy bàn
với sơn hảo hải vị thật hấp dẫn. Phan Lang còn chu đáo kèm theo nhiều món chay
ngon cho những người không ăn thịt cá như tôi.
Lúc
ngồi nhìn Phan Lang, tôi lại nghĩ về câu chuyện tình dễ thương và cảm động của
cặp Diên & Lang thời trẻ. Duyên nợ kiếp nào mà chàng sĩ quan Hải Quân
của thành phố biển Nha Trang gặp cô bé nữ sinh 13 tuổi đã bị tiếng sét ái tình
giáng trúng. Nàng còn quá nhỏ, nên “chàng Bắc Kỳ” mãi âm thầm dõi theo
hình bóng của bé, chờ đến khi cô tốt nghiệp và đậu Tú Tài mới xin rước nàng về
dinh. Một lần, sau khi được bạn cho xem hình ảnh quá khứ của hai người,
tôi có làm tặng cho Phan Lang bài thơ dưới đây:
Câu
chuyện cựu Thiếu Tá Hải Quân VNCH Phạm Văn Diên lao mình xuống biển cứu 4 đứa
trẻ, trong nhóm 13 đứa bị sóng lôi đi trong ngày lễ Độc Lập năm 1985, rồi hy
sinh tánh mạng, và được tiểu bang South Carolina tặng bằng vinh danh anh hùng,
cũng đã mấy chục năm rồi, nhưng đối với Phan Lang, mỗi lần có ai nhắc lại, cảm
giác của nàng giống như sự việc mới xảy ra hôm qua. Tôi để ý quan sát và
thấy tình yêu mà bạn tôi dành cho người chồng quá cố thật đậm sâu, có thể gọi
là một mối tình bất diệt. Tuy nhiên, chuyện tình đau thương ấy cũng đã
tặng lại, bù đắp lại cho Phan Lang một mảnh hồn thơ rất dạt dào, dù đầy u uẩn,
đủ để nàng trở thành một thi sĩ. Và đó cũng là nhân tố khiến những bài thơ của
Phạm Phan Lang được nhiều nhạc sĩ tài danh để mắt đến. Có hơn 125 bài thơ tình
đau khổ nhưng mượt mà của Phan Lang đã được phổ nhạc, và một trong số bài thơ
mà tôi tâm đắc nhất là bài “Mắt Nhắm Nghỉ Ngơi” được nhạc sĩ Mai Hoài Thu phổ
nhạc và ca sĩ Vân Khánh trình bày. (https://www.youtube.com/watch?v=ofZdUSEmETI)
Lời thơ như ai như oán, điệu nhạc như
tiếc như thương, giọng hát kiểu Quan Họ vừa réo rắc vừa thê lương làm cho người
nghe xúc động vô vàn, xúc động đến rơi nước mắt:
“Như
một vết thương
Không
bao giờ lành
Tháng
ngày mong đợi
Nhìn quanh tìm quanh...” (Mắt Nhắm Nghỉ Ngơi –
Thơ Pham Phan Lang)
Tôi
vừa thương quý vừa hâm mộ người bạn này, nên chi mỗi lần có dịp gặp nhau nghe
bạn bè nhắc nhở về người quá cố là tôi quan sát kỹ từng cảm xúc trên nét mặt
nhà thơ. Mỗi lần nhắc đến anh Diên, nét mặt và ánh mắt Phan Lang đều sáng hừng
lên một niềm yêu thương vô bờ bến. Tôi ngồi lặng ngắm đến sững sờ, nghe bạn kể
chuyện mà chú ý đến từng chữ từng câu thoát ra từ đôi môi vẫn còn tươi hương
sắc ấy. Lại lẩn thẩn nghĩ thầm, và ích kỷ tiếc thầm, không hiểu tại sao một
cánh hoa xinh như mộng thế này, sự nghiệp oai hùng thế này, bị gãy gánh lúc mới
nửa chừng xuân thế này, lại không có một “anh hùng Việt Nam” đồng hương nào …
thương hương tiếc ngọc nhào vô để thay thế vị anh hùng đã khuất mà chăm sóc cho
bạn tôi, lại để nàng “rơi vào tay anh chàng mắt xanh da trắng.” Không
biết cặp tình này sống như thế nào nhỉ, bạn tôi có hạnh phúc hay không khi sống
với người chồng bất đồng ngôn ngữ. Không biết anh chàng Barry “râu hùm hàm én
mày ngài” (Kiều) này có tốt với vợ không đây.
Tôi
đang ngồi nhìn bạn chăm chăm, trầm ngâm ngẫm nghĩ bâng quơ như thế, bỗng dưng
Phan Lang bất ngờ thốt lên:
“Khi
mua ngôi nhà này, Barry và mình đã thoả thuận với nhau, là mỗi lần về đây ông
ấy sẽ chỉ ở đây mười ngày rồi về lại nhà bên Hawaii, còn mình cũng nói mỗi lần
về lại nhà Hawaii mình sẽ ở mười ngày thôi rồi về lại Cali đất liền. Nhưng từ
lúc dọn về Cali đến nay đã gần bốn tháng rồi chưa hề nghe ông ấy nói sẽ đi.”
Tôi
bỗng có cái cảm giác xúc động vô cớ. Hổng lẽ “ai đó” đã đọc được ý nghĩ của
tôi, hiểu được những thắc mắc trong tôi, nên đã khiến cho Phan Lang bất ngờ
giải đáp, để chứng tỏ là bạn tôi được yêu chìu và hạnh phúc lắm. Tôi bất chợt
rùng mình. Không chừng người quá cố đã “chọn” anh chàng Barry này để gửi gắm vợ
mình cũng nên. Tự nhiên như có người “mở miệng” tôi vụt hỏi cô nàng về
“phút đầu gặp nhau” của “cuộc tình sau” mà lâu nay chưa hề nghe bạn tôi một lần
nhắc đến. Thế là Phan Lang kể hết cho chúng tôi nghe. Barry rất tôn trọng
“Anh lớn” Phạm Diên. Mỗi lần tới ngày kỵ giỗ anh đều phụ Phan Lang bày biện cỗ
bàn tươm tất và cũng thắp hương nghiêm trang vái lạy đề huề trước bàn thờ như
một người Việt thường làm. Trước ngày kết hôn, Barry đã đưa Phan Lang đến
phần mộ anh Diên và thắp hương trình bái xin phép “đàn anh.” Hèn chi anh Diên
đã “chấp nhận” cho anh ta thế chỗ của mình. Tôi xúc động nghĩ thầm.
Tôi
nghĩ thế cũng có nguyên do. Tôi từng nghe P.Lang kể, anh Diên rất hiển
linh, tuy anh đã mất nhưng nàng luôn có cảm giác anh lúc nào cũng ẩn hiện quanh
mình để hộ trì cho vợ con.
Câu
chuyện gặp nhau của “mối tình sau” bạn kể làm tôi tin mình nghĩ đúng. Hình như
anh Diên đã “chọn” một người hiền để gửi gắm nàng, chăm sóc cho nàng.
Barry thật sự là một người quá hiền lành, một nhà đầy khách bạn vợ đông đảo,
mọi người đều nói tiếng Việt chen lẫn tiếng Anh để cho Barry khỏi cảm giác bị
bỏ rơi, nhưng anh cả ngày chỉ im lặng mỉm cười, pha cà phê, nướng bánh mời mọi
người, dọn dẹp ly tách, bưng ghế, sắp xếp lại các thứ…và bị nàng kêu réo bắt
chụp hình cho mọi người hết chỗ nọ đến cảnh kia, báo hại anh chàng xách máy
hình chạy theo đến...không kịp thở. Dù có hiểu những chuyện chúng tôi đang nói,
Barry cũng chỉ cười cười, hoặc lắc đầu, khi nghe một câu chuyện khôi hài chứ
không hề tham gia vào.
Và
rồi Phan Lang kể cho chúng tôi nghe về “mối tình sau” của nàng. Chỉ là
trong dịp tình cờ không định trước, Phan Lang đi công việc cùng người bạn, bất
chợt cô ấy ghé tạt qua một văn phòng môi giới và điền đơn tìm bạn bốn phương.
Trong khi Phan Lang ngồi nhìn vẩn vơ đợi bạn, thì người giám đốc công ty bước
lại chào, và thấy tay nàng không đeo nhẫn anh ta trổ tài dụ dỗ tham gia chương
trình kết bạn. Người bạn của Phan Lang đã phải trả lệ phí môi giới $3,000,
nhưng khi nghe nàng từ chối và nói không tin vào những việc như thế này sẽ đi
đến đâu, thì ông ta “nổi máu tự ái nghề nghiệp” lên và thách thức:
“Chúng
tôi sẽ phục vụ miễn phí cho cô, để cô thấy là chúng tôi làm việc hiệu quả ra
sao!”
Phan
Lang vẫn không tin vào trò đùa này, nên chỉ cười từ chối, đứng lên định ra về
thì bị cô bạn kia lôi lại giúi hồ sơ vào tay và ép, “Điền đại cho vui, trong
khi tôi mất ba nghìn bạn có mất gì đâu mà sợ chứ!” Bất đắc dĩ, cô nàng
miễn cưỡng điền bâng quơ vào mẫu đơn theo kiểu đùa chơi, phá chơi, không ghi lý
lịch mình là một quân nhân cấp Tá, lại còn ghi chỗ điều kiện chọn người làm bạn
phải có ba điều kiện thật khó khăn như một thách thức với công ty môi giới này.
Thứ nhất, người đó phải có học vị Tiến Sĩ, thứ hai, phải là một triệu phú, thứ
ba, còn độc thân.
Khi
ông giám đốc nhận lại hồ sơ, liếc ngang qua chỗ điều kiện, ông nhìn lại cô
khách hàng bướng bỉnh bằng một ánh mắt cũng đầy thách thức như muốn nói, “Tôi
biết cô muốn làm khó chúng tôi, nhưng mà không sao, hãy đợi đấy!”
Vậy
mà trong cuộc “cá cược” này công ty đã tìm ra một người đúng y chang theo yêu
cầu “chọc phá” của nàng. Tiến Sĩ Barry là giáo sư dạy ở Đại học Hawaii, và sau
là Giám đốc kỹ thuật Lực Lượng Chống Tàu Ngầm, thuộc Hạm Đội khu vực Thái Bình
Dương của Hoa Kỳ. Chúng tôi ngồi há hốc ra nghe câu chuyện và hồi hộp dõi theo
từng sự kiện và diễn tiến Phan Lang kể. Vì tôi yêu cầu kể bằng tiếng Anh cho
Barry cùng nghe để anh khỏi bị buồn chán, anh chàng ngồi nghe từ đầu tới cuối,
thỉnh thoảng lấy hai tay che mặt lại ra vẻ “mắc cỡ” rất dễ thương, khi Phan
Lang kể lại những lần bị nàng từ chối và anh buồn bã ra sao…Câu chuyện điền đơn
kết bạn bốn phương đùa vui này Phan Lang lúc đó kể hết cho mấy đứa con nghe vì
lúc này tụi nhỏ cũng đã lớn và có sự hiểu biết. Thấy mẹ nhiều lần từ chối không
chịu đi gặp Barry, mấy nhóc cũng muốn mẹ có bạn cho bớt đau buồn nên xúi mẹ cứ
đi gặp thử xem sao. Cuối cùng Phan Lang miễn cưỡng nghe lời con tới cuộc
hẹn, nhưng từ chối hết mọi sự sửa soạn quần áo hay điểm trang do con gái phụ
giúp, mà chỉ phục sức đơn giản như một phụ nữ bình dân không có đặc biệt gì,
mục đích làm nản lòng người sẽ gặp. Và khi gặp Barry nàng nói thẳng thừng là
trái tim nàng đã chết, không thể nào yêu ai được nữa. Vậy mà Barry vẫn quyết
tâm theo đuổi, chờ đợi, viết thư, gọi điện thoại...bằng mọi cách cố gắng chinh
phục. Anh chàng xin được yêu nàng “vô điều kiện,” không đòi hỏi nàng phải yêu
lại, cho dù cả đời không yêu anh cũng chẳng sao, chỉ cho phép anh yêu nàng là
đủ. Có lẽ vì “mưa dầm thấm lâu” nên sau ba năm kỳ công theo đuổi, và các con
của Phan Lang cũng thích Barry nên khuyên mẹ nhận lời, Phan Lang đồng ý đưa đến
mộ anh Diên để anh “xin phép” được kết hôn.
Viết
đến đây tôi nhớ lại, một lần Phan Lang đã tâm sự với tôi nhiều “chuyện bên lề”
xảy ra trước tai nạn của anh Diên. Người ta nói, những người sắp lìa bỏ cõi đời
một cách bất ngờ thường hay có dấu hiệu báo trước, mà sau khi họ đi rồi người ở
lại mới thấy. Phan Lang cho biết, anh Diên đã hai lần nói với vợ trước mặt ba
đứa con, mà lần sau cùng chỉ vài ngày trước khi anh mất, là, “Nếu một ngày nào
anh chết đi em hãy tìm người khác kết hôn để họ chăm sóc cho em,” và khi ấy
nàng vô tư cười đùa đáp trả, “Còn em mà đi trước nếu anh cưới ai thì em sẽ về
kéo cẳng!” Nhưng điềm báo rõ ràng nhất, tôi nghe Phan Lang kể mà dựng cả chân
lông. Là 2 ngày trước khi tai nạn xảy ra, đột nhiên anh Diên nói những lời thật
nghiêm trang, những lời anh chưa từng nói trước đây, là cám ơn vợ, cám ơn thật
nhiều những gì nàng làm cho anh, lo lắng chăm sóc cho anh, và gia đình. Thương
tâm hơn nữa, trong đêm trước ngày Lễ Độc Lập Hoa Kỳ, trên đường tới nhà người
bạn họp mặt trước khi ra biển vào sáng sớm hôm sau, anh ngồi ghế trước với vẻ
buồn bã vô cớ, không hề nói năng và đưa hai tay ra sau ghế cầm lấy tay nàng
suốt trên đường đi, cho dù trên xe có đông người anh vẫn không ngại. Rồi trên
đường picnic, lúc gần đến nơi, anh bỗng kêu người bạn lái xe ngừng lại ghé vô
trạm xăng, dù xe còn đầy xăng không cần đổ thêm. Lạnh mình hơn nữa, anh dẫn ba
đứa con vào trong tiệm 7-Eleven và kêu các con muốn món gì thì chọn ba sẽ mua
tặng. Bé út Đài 11 tuổi của anh đã chọn thanh kẹo “Life Saver” là thanh
kẹo “Cứu Mạng.” Lên xe, bé chỉ mở ra ăn vài viên và đứa bạn ngồi bên xin kẹo bé
nhất quyết không cho mà bỏ vào giỏ cất. Đứa con này đã được anh cứu mạng trên
biển chỉ vài giờ sau đó.
Chưa
hết, người mẹ có đứa con bị đuối và trôi đi khi anh Diên ra cứu 4 bé, chúng bám
vào anh, đuối sức anh chìm và bé bị nước cuốn đi, là người lái xe theo sau một
người chạy trước dẫn đường đến điểm hẹn mà cả nhóm định tới tắm biển câu cua.
Chưa tới nơi, tự nhiên người mẹ đó vượt trước chiếc xe dẫn đầu, tấp vào bãi
biển khác, và kêu mọi người picnic ở đó. Định mạng đã khiến xui cho bà ấy đem
đứa con mình và người hùng Phạm Diên đến nơi phần số đã định.
Nơi
mà họ dừng chân không dự tính lại là vùng biển nước xoáy ngầm, có tấm bảng cho
biết sóng ngầm nguy hiểm nhưng tối hôm trước có gió lớn nên tấm bảng đã bị gió
cuốn mất. Trong khi các bà mẹ còn lo đem đồ trên xe xuống thì 13 đứa trẻ
của 5 gia đình đã ào xuống biển đùa giỡn trong mé bờ nước cạn. Đột nhiên dòng
nước xoáy dâng lên và kéo cả 13 đứa lôi tuột ra xa. Trong khi các ông bố khác
bơi ra cứu đám trẻ, anh Diên cũng bơi ra nhóm 4 đứa đang kêu cứu. Anh cứu được
út Đài của anh, còn ba đứa trẻ kia anh không nỡ bỏ nên cố gắng kéo luôn chúng
vào. Nhưng sức người có hạn, dù người đó từng là một hạm trưởng Hải Quân bơi
giỏi, anh bị bốn đứa trẻ níu nên bơi gần tới bờ thì đuối sức chìm dần và bé gái
con chị kia cũng bị tuột tay trôi ra biển. Cũng còn may mắn, một bà Mỹ đi tắm
sớm chạy ngang qua thấy được ra kéo bé Đài vào, khi hai người bố khác ra kéo
hai bé kia. Bé Đài đã kêu khóc không chịu bỏ bố lại mà van xin bà Mỹ hãy cứu
bố, nhưng bà không thể bỏ bé ra để cứu người lớn nên đưa bé vào bờ rồi mới ra
kéo anh Diên vào, thì đã trễ. Anh bị chìm xuống nước hơn 10 phút nên não bộ hết
hoạt động không cứu được. Tuy anh được đưa vào bệnh viện quân đội tận tình cứu
chữa, anh không bao giờ tỉnh lại, và một tháng sau anh Diên lìa bỏ cõi
đời. Cú sốc nhìn thấy người cha thương yêu trong tai nạn cứu mình nằm lịm
trên giường bệnh, bé Đài đau đớn khôn tả. Phan Lang kể, mỗi lần tới bệnh viện
bé đều lấy giấy napkin lau mặt và nhổ tóc sâu cho bố. Bé nói chuyện với bố
thường xuyên, rằng bố còn nợ con tiền nhổ tóc sâu cho bố lúc trước, giờ con cho
bố chứ không đòi đâu, bố hãy thức dậy để con nhổ tóc sâu “free” cho bố, không
tính tiền. Tôi nghe mà rơi nước mắt.
Về
sau bé Đài lớn lên, trong một lần Phan Lang tình cờ mở hộc bàn riêng của bé thì
thấy bé vẫn còn giữ thỏi kẹo “Life Saver” ăn dở dang ngày ấy, tờ giấy gói những
sợi tóc sâu của bố con bé nhổ khi bố nằm bệnh viện, những mảnh khăn giấy bé lau
nước mắt trong đám tang bố, và một nắm đất nơi người ta đào mộ để bố nằm yên
giấc ngàn thu. Thiệt là thương đứt ruột. Đài rất cố gắng học hành, cháu đậu
bằng Cử nhân Kinh Tế ở Standford, sau đó cháu nhận được học bỗng Fulbright
Scholarship, làm một nghiên cứu (Research) rất xuất sắc ở nước ngoài. Về
lại Hoa Kỳ, cháu lấy bằng Thạc Sĩ Quản Trị Kinh Doanh (MBA) từ UC Berkeley. “Bé
Đài” giờ là một trong những “sếp lớn” tại bộ chỉ huy Google Mountain View, là
Senior Product Marketing Manager.
Anh
Diên mất năm 1985, lúc ấy Phan Lang mang cấp bậc Đại Uý và đang chuẩn bị thi
lấy bằng Thạc Sĩ. Dù đau đớn nhưng nàng vẫn cố gắng để hoàn thành mục
tiêu. Ngày Phan Lang được thăng Thiếu Tá, 1989, ̣9 năm sau khi vào quân đội, và
đồng thời cũng được thăng chức mới, làm Trưởng Phân Khoa Dinh Dưỡng, (Director,
Nutrition Care Division). Bé Đài yêu cầu được lên
đọc
diễn văn chúc mừng mẹ. Bài diễn văn của bé đã làm mọi người cảm động đến rơi
lệ.
Năm
1996-1999, Phan Lang được thuyên chuyển sang Đức làm Trưởng Phân Khoa Dinh
Dưỡng tại bệnh viện Landstuhl Regional Medical Command, đồng thời làm Cố Vấn và
Giám Sát cho các phần hành dinh dưỡng của các đơn vị Lục Quân ở Châu Âu.
Trong thời gian ở đây Phan Lang được “lên lon” Trung Tá. Nhiệm sở cuối cùng của
P.Lang là Tripler Army Medical Center ở Hawaii với chức vụ Trưởng Phân Khoa
Dinh Dưỡng, điều hành hơn 100 nhân viên vừa sĩ quan, hạ sĩ quan, và dân
sự. Ngoài ra cũng như ở Đức, Phan Lang còn kiêm thêm nhiệm vụ Cố Vấn và
Giám Sát phần hành dinh dưỡng của các đơn vị Lục Quân trú đóng ở Thái Bình
Dương (Nutrition Consultant, Pacific Region), như Nhật Bản và Nam Hàn.
Tôi
nghe chuyện mà mắt cứ tròn lên, bụng thì kêu thầm “Nữ anh hùng! Nữ anh
hùng!” Năm 2002, người nữ Việt này nhận được quyết định vinh thăng Đại
Tá, phải chuyển về phục vụ trong đất liền. Vì không muốn rời hải đảo Hawaii,
nên Phan Lang đành ngậm ngùi xin giải ngũ…
*
Sáng
ngày thứ Bảy, chúng tôi phụ Phan Lang chuẩn bị các thứ để đãi cơm trưa cho hai
vị khách đặc biệt, đó là nữ ký giả Kiều Mỹ Duyên và nhà truyền thông Như Hảo,
giám đốc đài phát thanh Mẹ Việt Nam. Tôi vui vì “có đồng minh” là chị Kiều Mỹ
Duyên cũng ăn toàn rau trái. Trong bữa tiệc kiểu “nghìn năm một thuở” nơi hải
ngoại gặp lại cố nhân này, các chị Đỗ Dung, Lê Diễm, Kiều Mỹ Duyên, Như Hảo,
vui vẻ chuyện trò cùng nhau, nhắc lại kỷ niệm xưa từ thời học Trưng Vương tươi
trẻ đến thời kỳ mất miền Nam đi buôn gánh bán bưng… Người viết, Minh Thuý, và
Phan Lang, đều thuộc lứa tuổi đàn em, lại là dân miền Trung nên chỉ biết ngồi
nghe và...cười ké. Chị Kiều Mỹ Duyên còn mang theo nhiều sách báo làm quà tặng
cho mọi người. Hình bóng thì chụp no máy luôn. Tiệc tàn tiễn các chị mà
lòng lưu luyến bâng khuâng. Trước khi ra về, hai chị mời phái đoàn chúng tôi
thăm viếng văn phòng của hai chị vào ngày kế.
Khách
đi rồi, tôi lại “lôi” Phan Lang ra hỏi vài câu cho bài viết, kẻo lại quên:
“Bồ
có kỷ niệm buồn vui hay cảm động nào đáng nhớ trong thời kỳ quân ngũ để chia sẻ
không?”
“Một
trong những chuyện vui đời quân ngũ là chuyện tập bắn ở quân trường.” Phan Lang
kể. “Tại trường bắn, huấn luyện viên trao cho mỗi người sĩ quan trẻ ba gắp đạn
mỗi gắp ba viên, để tập nhắm bắn vào tấm bia. Mọi người được dạy, khi
nhắm bắn phải nheo mắt trái lại để mắt phải nhắm vào lỗ châu mai, nhưng chẳng
hiểu sao mình không thể nào nheo mắt trái được, nên đành nheo mắt phải. Mình
nhắm bắn rõ ràng, đúng chính xác vào tấm bia, và sau khi bắn ba phát đạn đầu
tiên, họ kêu nhóm tập bắn tới chỗ tấm bia để kiểm tra thành tích. Mình
bước tới coi thì không thấy một lỗ đạn nào cả, thật là... mắc cỡ (cười). Huấn
luyện viên cho mọi người bắn tiếp gắp đạn thứ nhì và bắn xong lại chạy tới coi
lần thứ hai. Quái lạ, mình kêu lên, vẫn không thấy một lỗ đạn nào trên tấm bia
của mình! Tức quá lần thứ ba được lệnh bắn, mình nhắm thật cẩn thận, và
chú ý thật kỹ. Thật mừng thấy ba viên đạn đều trúng cả vào tấm bia. Huấn luyện
viên kêu mọi người tới coi lại lần cuối. Vẫn không thấy một lỗ đạn
nào! Trong lúc mình bàng hoàng không tin đôi mắt mình thì anh bạn thiếu
úy bên cạnh hỏi, ‘Này, họ đưa cho mình mấy viên đạn vậy hả?’ Mình trả lời mỗi
gắp là ba viên, mỗi người bắn tổng cộng 9 viên. Anh ta trợn mắt:
“Kỳ
thật! Sao tôi cũng bắn đủ hết ba gắp đạn, mà trên tấm bia của tôi lại có đến 18
lỗ đạn!”
Và
những người xung quanh nhìn nhau… hoảng vía. Huấn luyện viên từ đó phải dùng
mặt nạ che mắt trái của mình lại, và mỗi lần đến lượt mình bắn thì mọi người...
né ra xa hết! Từ đó mình bị mang cái biệt danh là “Thiếu Uý một mắt!”
“Ha
ha ha...” Mọi người chúng tôi phá ra cười.
“Còn
kỷ niệm buồn thì sao?” Tôi hỏi tiếp.
“Chuyện
buồn hay stress trong quân đội thì nhiều lắm, là phận nữ lại là người nhập cư,
mình phải đơn thương độc mã chiến đấu để vươn lên, chẳng phải chỉ đối với cấp
trên, hay bạn đồng nghiệp, mà với thuộc cấp nữa.” Phan Lang nhớ lại: “Một nữ
Đại Tá trưởng phân khoa dinh dưỡng tỏ vẻ xem thường vì mình là Đại Úy mới
chuyển đến, phân bổ cho mình không đúng vị trí đáng lẽ mình phải có và tìm mọi
cách để “đì” mình. Đến khi mình viết được 2 quyển sách bỏ túi, hướng dẫn thực
đơn rất hữu ích để các bác sĩ mang theo dùng mỗi lần đi khám cho bệnh nhân, và
mình được tuyên dương trước hội đồng, bà Đại Tá mới nể mặt, từ đó trở nên vô
cùng thân thiện.”
“Mình
hỏi câu nữa nè, bồ là nữ Trung Tá gốc Việt đầu tiên trong quân đội Hoa Kỳ, kể
như là… đàn chị đi. Với kinh nghiệm hơn 22 năm trong quân ngũ, bồ có những lời
khuyên gì, chia sẻ gì cho giới trẻ nữ gốc Việt nếu họ muốn tham gia quân đội
Hoa Kỳ? Họ nên theo ngành nào có lợi và phù hợp hơn? Học lực cỡ nào thì vào
được trường sĩ quan?” Tôi sẵn dịp hỏi tới một hơi luôn.
“Học
bất cứ ngành nào mình thích, vì quân đội có “job” thích hợp cho tất cả các
ngành.” Phan Lang nói. “Tuy nhiên cho phái nữ thì ngành y (Pharmacy, Dentistry,
Nursing, Optometry, Physical Therapy, Occupational Therapy…) có lẽ thực dụng và
công việc nhẹ nhàng hơn. Ít nhất là tốt nghiệp Cử Nhân thì mới vào trường sĩ
quan và từ đó có thể học tiếp để tiến lên. Đối với mình, luôn cố gắng và không được
thối chí. Ngã xuống thì đứng lên và tiến tới, nếu thất bại thì nhìn lại để học
hỏi, không phải để nuối tiếc. Quan trọng là, luôn lạc quan và đặt ra mục tiêu
cho cuộc đời mình. Mình ngày trước đã từng đặt ra mục tiêu ngắn hạn, trung hạn,
và dài hạn, rồi mình nhìn theo đó để buộc mình bước tới và thực hiện cho đúng.”
“Quả
là những lời khuyên chí lý và hữu ích. Cám ơn bồ.” Tôi nói và chấm dứt “hỏi
han” từ đó.
Ngày
kế, trước khi về lại Bắc Cali, buổi sáng chúng tôi ra biển Huntington Beach lội
nước. Đến khu vực này mọi người hơi e dè, vì nhìn xung quanh, phố xá rộn ràng
bán buôn, người đi bộ tấp nập dọc hai bên đường, nhưng không thấy người nào đeo
mask cả. Cô bạn Minh Thúy nói, tới nơi đây tụi mình nhìn giống như...Mán xuống
đồng, vì chỉ có mình đeo khẩu trang thôi. Nhưng tôi nói mặc kệ đi, an toàn là
trên hết, mình cứ đeo khẩu trang cho nó... lành.
Bước
chân xuống làn nước mát lạnh, tôi thích thú lội ra xa, chọn chỗ vắng người tôi
kéo lơi chiếc khẩu trang ra rồi hít một hơi dài đầy buồng phổi. Gió mát lồng
lộng, bầu trời trong veo, từng chòm mây trắng la đà vơ vẩn, biển xanh mượt dịu
hiền chỉ gợn li ti chút ít sóng thừa, lao xao như vuốt ve mặt nước. Không khí
thật thanh bình. Ước gì con Covid-19 đừng hoành hành giết hại thế gian, thì
cuộc sống người dân khắp nơi trên trái đất đẹp biết bao, hạnh phúc biết bao!
Buổi
trưa chúng tôi kéo nhau đi thăm đài phát thanh Mẹ Việt Nam của chị Như Hảo và
nữ ký giả Kiều Mỹ Duyên theo lời mời của hai vị. Tại Đài Mẹ Việt Nam, mọi người
tranh nhau chụp hình cùng người phụ nữ nổi danh từ thời VNCH ra đến hải ngoại
trong lĩnh vực truyền thông, “có tên” nhưng... “không có tuổi” Như Hảo.
Chị thuộc hàng tiền bối của chúng tôi, nhưng trải qua mấy chục năm rồi, tôi cảm
giác mình đã già đi, mà thấy chị vẫn còn xinh xắn duyên dáng như xưa không thay
đổi. Chị giới thiệu cho mọi người những hình ảnh, bằng khen, posters... trên
tường, là những giây phút huy hoàng, những thành tích chị đoạt được trong suốt
cuộc đời làm truyền thông. Thật hãnh diện cho cộng đồng Việt nơi hải ngoại khi
có được người phụ nữ tài hoa này.
Đến
văn phòng địa ốc của nữ ký giả Kiều Mỹ Duyên, tôi như choáng ngợp trước sự quy
mô, đồ sộ, của cơ sở “Ana Real Estate.” Trong thời buổi dịch Covid -19
vẫn còn lan tỏa, mà công ty địa ốc của chị Kiều Mỹ Duyên vẫn rộn ràng hoạt động
như không có gì xảy ra. Nhân viên rất đông, nhiều bàn làm việc đang hoạt động
nhìn tất bật rộn ràng, họ làm việc chăm chú đến độ không ai “thèm” để ý người
khách phương xa như tôi bước vào. Điều này cho thấy việc làm ăn vẫn đang rất
phát triển. Và tôi càng “phục sát đất” chị Kiều Mỹ Duyên, người nữ ký giả kỳ
cựu tuổi cũng đã cao mà sức làm việc vẫn không hề giảm sút. Dù chị bận rộn với
cơ sở địa ốc này, mà chị vẫn viết và gửi bài cho Văn Thơ Lạc Việt chúng tôi
thường xuyên, nên tôi gọi chị là “cây viết lướt nhanh như gió cuốn.” Nhìn
chị miệng nói, chân bước, tay làm... rất bận rộn, nhưng chị vẫn vui vẻ chào đón
chúng tôi. Trước lúc đến đây, tôi có dự định sẽ phỏng vấn người ký giả kỳ cựu
này để viết chút gì đó về chị. Nhưng khi thấy chị tất bật như thế, tôi không
dám, không nỡ thì đúng hơn, làm phiền, nên đành chờ dịp khác vậy. Tôi
chào từ giã, chị tặng cho một số khẩu trang “xịn” tôi đem ra chia cho các bạn
mỗi người mấy cái để mang làm kỷ niệm, và chị còn cho tôi chậu hoa cúc đại đóa
đẹp mê hồn mà trên miền Bắc chúng tôi khó tìm ra loại cúc nào có hoa lớn như
vậy. Cảm động làm sao, khi tôi ra xe, chị Kiều Mỹ Duyên còn chạy theo dúi cho
một lô nước ngọt và nước uống để chúng tôi đem theo trên đường về.
Tóm
lại, chúng tôi đã có một chuyến “xuôi Nam” đầy ắp niềm vui, sau thời gian dài
hơn một năm rưỡi nằm nhà trốn dịch. Nếu viết hết chi tiết thì chắc cũng phải
dài gấp mấy lần. Những kỷ niệm về chuyến đi, những bữa tiệc họp mặt bạn bè thân
hữu Nam Bắc Cali đầy tiếng cười, và đặc biệt nhất, là câu chuyện tấm gương anh
hùng hy sinh thân mình cứu mấy đứa trẻ của cố Thiếu Tá Hải Quân VNCH Phạm Văn
Diên... cùng những bài học về sự cố gắng vượt bực để hội nhập, để sinh tồn, và
vươn lên như huyền thoại của người bạn nữ, cựu Trung Tá Lục Quân Hoa Kỳ Phạm
Phan Lang, chắc chắn chúng tôi sẽ không bao giờ quên...
Cám
ơn bạn hiền Phạm Phan Lang. Bồ đã làm rạng danh con cháu Hai Bà Trưng Triệu.
Phương
Hoa - Miền Bắc California, tháng 7, 2021
Phiet Pham thephiet_2002@yahoo.com
Wed, Aug 11 at 11:40 AM
VIẾNG THĂM VĂN HÓA
TRUNG QUỐC HIỆN ĐẠI
(Bùi Văn Bông - Minh
Diễn)
Nhóm chúng tôi có 12 người đi du lịch Trung Quốc, khởi hành từ Sài Gòn, theo chương trình sẽ đi thăm Bắc Kinh, Tô Châu, Quế Lâm. Hầu hết thành viên trong nhóm đều là cán bộ nghỉ hưu, gom góp mấy đồng tiền còm trong sổ tiết kiệm, và con cái phụ thêm cho chuyến tham quan. Người “có máu mặt” nhất là chị Lâm, vợ một ông tướng công an đương chức. Chị bao cho mẹ đẻ và mẹ chồng trong chuyến đi … “dối già”.
Đến Bắc Kinh, nhóm
chúng tôi nhập vào một nhóm du lịch khác cũng từ Việt Nam sang hơn hai chục
người, được một hướng dẫn viên người Trung Quốc đưa đi tham quan các nơi theo
chương trình.
Phải nói Bắc Kinh là
một thành phố vĩ đại, giàu bản sắc văn hóa Trung Quốc, nhiều công trình kiến
trúc đẹp, nhiều di tích lịch sử rất đáng được chiêm ngưỡng và suy nghiệm. Thành
phố này trật tự, nền nếp hơn Sài Gòn, Hà Nội, không chen chúc xe máy, không có
người ăn xin, chụp giựt níu kéo du khách chặt chém từ vài quả cóc, lon nước đến
bịch lạc rang như ở bờ Hồ Gươm.
Nói như vậy không phải
người Trung Quốc thật thà, mà họ thuộc … hạng siêu lừa. Họ lừa có bài bản, lừa
theo kiểu “kích dục mê tâm” – kích thích cái tham, làm cho lòng người mê mẩn
thiếu sáng suốt rất dễ bị lừa. Phải thừa nhận là họ có “văn hóa lừa” hẳn hoi,
ăn sâu, ăn đậm, và không ăn vặt.
Khi chúng tôi lên xe
đi thăm Cố Cung, tay hướng dẫn viên du lịch nói nói:
- Thưa các bạn Việt
Nam, Cố cung, là nơi các triều đại nhà Minh, nhà Thanh ngự trị suốt mấy trăm
năm, lịch sử Trung Quốc trải qua bao thăng trầm xuất phát từ chốn cung vàng
điện ngọc này… Viện bảo tàng Cố Cung.
Tay hướng dẫn viên nói
như hát. Hắn mới khoảng hai nhăm tuổi, ăn mặc lịch sự, nói tiếng Việt làu làu,
nhớ không ít tục ngữ ca dao Việt Nam, biết cả chửi thề, khoe rất thích ăn món
thị chó rựa mận rìa đê Yên Phụ, Hà Nội và món cà pháo canh cua quán cơm bà Cả Đọi,
Sài Gòn.
Nghe hắn nói Cố Cung
hấp dẫn, ai cũng háo hức, nhưng hắn không cho vào thăm ngay, mà cho xe chạy qua
cổng Bắc thành. Tôi hỏi sao lại đi vòng thế, hắn nói:
- Muốn vào thành phải
được sự chấp thuận của các quan gác cổng, hôm nay tôi dẫn đoàn qua cổng Bắc,
vượng khí đang ở hướng đó.
Nghe hắn như rót mật
vào tai, ai cũng gật gù.
Vừa tới cổng thành, đã
thấy bộ tứ linh Long, Ly, Quy, Phượng rực rỡ nhảy múa đón rước. Rồi cả một ban
tiếp tân, ăn mặc chỉnh tề, ân cần mời đoàn thăm quan lên lầu. Một căn phòng
sang trọng, những dãy ghế đánh vec-ni bóng nhoáng.
Các du khách vừa an
vị, tay hướng dẫn viên trịnh trọng giới thiệu vị giáo sư lịch sử ra nói chuyện
với đoàn. Nhìn vị giáo sư, … thấy nghi nghi, hình như đây là một diễn viên đóng
thế, bởi gương mặt non choẹt. Nhưng anh ta tỏ ra một diễn viên có tài, từ điệu
bộ đến lời nói rất đĩnh đạc, nghiêm trang. Hắn nói một mạch về lịch sử Cố cung,
về các triều vua, rất uyển chuyển không hề vấp váp, rồi chốt lại bằng câu
chuyện con Tỳ Hưu thật hấp dẫn. Hắn nói:
- Thưa quý vị, đời vua
Minh Thái Tổ, giữa lúc quốc khố bị rỗng, một đêm ngài nằm mơ thấy một con vật
mình rồng, đầu to, ngực to, mông to, có sừng nhọn, lông dày, đứng hút nhanh
từng thỏi vàng sáng chói vào bụng. Sau giấc mơ đêm ấy, nhà Minh hưng thịnh, quốc
khố đầy vàng, nhà vua cho làm con đường vào thành theo trục Bắc Nam, hướng tài
lộc, cho xây cổng Bắc thành này và dùng ngọc phỉ thúy tạc tượng con vật trong
mơ, gọi là Kỳ Hưu, nghĩa là kỳ diệu, sau gọi là Tỳ Hưu , đặt tại đây, gọi là
tài môn, cổng tài lộc.
Hôm nay may mắn đoàn
du khách Việt Nam được qua cổng tài lộc vào Tử Cấm thành, may mắn hơn vì quý vị
sẽ được chiêm ngưỡng con Tỳ Hưu bằng ngọc phỉ thúy, tạc từ thời Minh Thái tổ…
Mọi người vỗ tay rào
rào. Vị “giáo sư” mỉm cười nhã nhặn, ra hiệu mọi người ngồi xuống, nghe nói
tiếp về sự mầu nhiệm của Tỳ Hưu:
- Tỳ Hưu là một con
vật cực kỳ linh thiêng, mầu nhiêm, có đầu to, ngực to, mông to, nhưng bụng nhỏ
và không có … hậu môn, chỉ hút vàng bạc châu báu của trời đất vào mà không nhả
ra, chỉ làm giàu cho chủ mình chứ không để thất thoát đi đâu một đồng nào. Vì
thế người đời xưa gọi là con Thiên Lộc. Từ đời nhà Minh đến đời nhà Thanh, vua
ban sắc lệnh chỉ có vua và Hoàng hậu mới được thờ Tỳ Hưu, các hoàng tử, công
chúa không được thờ. Đặc biệt nghiêm cấm các quan trong triều tuyệt đối không
được thờ Tỳ Hưu, vì sợ quan sẽ giàu hơn vua.
Có một người dấu vua
thờ Tỳ Hưu, là Hòa Thân, thời Mãn Thanh, đời Càn Long. Hòa Thân, tạc một con Tỳ
Hưu bằng ngọc phỉ thúy, to hơn con Tỳ Hưu của vua, trưng trong biệt phủ của
mình. Nhờ con Tỳ Hưu ấy Hòa Thân làm quan đến tột đỉnh, chỉ dưới một người trên
muôn người, vơ vét hết của cải thiên hạ.
Theo thống kê thời ấy,
Hòa Thân có biệt phủ 3.000 phòng, 6000 gia nhân, 600 thê thiếp, 32 km2 đất, 42
ngân hàng, 75 tiệm cầm đồ 600 cân sâm Cát Lâm, 60.000 lạng vàng, 100 thỏi vàng
lớn mỗi thỏi 1.000 lạng, 56.000 thoi bạc mỗi thỏi 100 lạng, 90.000.000 lạng bạc
lẻ, vân vân… Ước tính tài sản của Hòa Thân gấp 15 lần ngân quỹ quốc gia.
Có tiếng xuýt xoa của
du khách. Mấy người cười khúc khích, nói với nhau: “Việt Nam mình cũng có vài
Hòa Thân rồi đấy!”. Vị “giáo sư” ra hiệu mọi người im lặng rối nói:
- Không chỉ có Tỳ Hưu
sinh tài, còn nhiều loại Tỳ Hưu khác mầu nhiệm không kém, như Bồ Lao, Trào
Phong, Toàn Nghê, Bi Hi, Bế Ngạn, Phu Hi… Ai muốn con cháu văn hay chữ tốt thì
thờ Phu Hi, muốn yên ổn bình an thì trưng Tiêu Đồ, muốn quyền cao chức trọng
tiếm loát thiên hạ thì trưng Bế Ngạn…
Mấy vị du khách, mắt
sáng lên, lấy sổ tay ghi tên loại Tỳ Hưu hợp với mình. Bà vợ ông tướng công an,
không ghi kịp hỏi tôi:
- Cái con gì giữ quyền
cao chức trọng anh nhỉ?
Tôi nói:
- Tên nó là Bế Ngạn
chị ạ! Hình dáng nó như con hổ, loài chúa sơn lâm đấy.
Vị “giáo sư” đưa mắt
nhìn khắp lượt, rồi bằng một thái độ hết sức trịnh trọng, anh ta mời mọi người
qua phòng bên xem con Tỳ Hưu ngọc phỉ thúy, anh ta nhắc đi nhắc lại, chỉ được
đi lướt qua, liếc mắt nhìn, tuyệt đối không sờ tay vào con vật linh thiêng. Tay
hướng dẫn viên cúi rạp người xuống cám ơn vị “giáo sư”, rồi dẫn mọi người qua
cái cửa hẹp vào phòng lớn.
Bốn người mặc quần
xanh nẹp đỏ, đội mũ quan thời Minh, đứng canh cái bệ gỗ, trên bệ phủ mảnh vải
đỏ. Sau khi thắp hương vái, bốn người cầm bốn góc tấm vải hất lên, phía dưới
hiện ra con Tỳ Hưu lung linh dưới ánh đèn mầu nhấp nháy. Mọi người không được
nhìn kỹ, nên chả biết con Tỳ Hưu bằng ngọc hay bằng đá? Thì tay hướng dẫn viên
hối sang phòng bên.
Căn phòng rộng thênh
thang, bày la liệt đủ các loại Tỳ Hưu to nhỏ lớn bé, trên kệ gỗ, trong tủ kính.
Gần chục cô gái bán hàng sốt sắng chào mời khách. Tay hướng dẫn viên nói, chỉ ở
đây mới có các loại Tỳ Hưu “thứ thiệt”, mỗi con vật linh thiêng này được đưa
vào Cố Cung bày trước anh linh vua Minh Thái Tổ xin ban phúc lộc, rồi mới mang
ra đây bán cho du khách.
Mọi người như bị mộng
du, bước chân đi rón rén, không dám nói cười, và cứ ngoan ngoãn móc ví đếm tiền
mua Tỳ Hưu. Bà vợ tướng công an mua một lúc bốn con Bế Ngạn bằng ngọc, giá mỗi
con 9.000 tệ. Bà ta nói với tôi:
- Trưng ở nhà hai con,
chỗ làm việc của nhà em hai con bác ạ!
Một con Tỳ Hưu nhỏ
nhất ở đây có giá 3.200 tệ, tương đương 500 đô la Mỹ, tức 11.000.000 đồng Việt
Nam. Tôi nói nhỏ với ông bạn đi cùng nhóm:
- Hình như không phải
bằng ngọc ông ạ? Tôi trông giống hệt mấy con Tỳ Hưu bán ở Hà Nội, Sài Gòn, giá
chưa đến một triệu một con?
Ông bạn vênh mặt lên:
- Không có tiền nên
nói thế!
Ông rút một nắm tiền
ném lên mặt tủ kính. Tôi vội lánh sang chỗ khác, nhìn những cô gái tíu tít đếm
tiền, miệng cười tươi như hoa.
Khi đã bán được 26 con
Tỳ Hưu, thấy không ai mua nữa, tay hướng dẫn viên du lịch mời mọi người lên xe
vào Cố cung.
Đến đây mọi người chỉ
được xem qua, vì kỷ luật bảo vệ di tích của Trung Quốc rất nghiêm khắc, hơn nữa
theo chương trình còn đi thăm Vạn Lý Trường Thành.
Cách điểm thăm quan
Vạn Lý Trường Thành không xa, tay hướng dẫn viên nói với du khách:
- Thưa quý vị, Vạn Lý
Trường Thành được Hoàng đế Tần Thủy Hoàng xây dựng từ thế kỷ thứ 5 trước công
nguyên, dài 3.980 dăm, nơi đây, Mao Chủ tịch đã đến khắc bảy chữ vàng “Bất đáo
trường thành phi hảo hán” nghĩa là chưa đến Vạn lý trường thành thì chưa phải
là một anh hùng.
Muốn lên Vạn Lý Trường
thành phải có sức khỏe tốt, vì vậy cơ quan y tế Trung Quốc đã thành lập một
Trung tâm khám sức khỏe “miễn phí” cho du khách. Hôm nay trước khi lên Vạn Lý
Trường Thành tôi xin giúp quý vị kiểm tra lại sức khỏe, cô bác nào có bệnh sẽ
được điều trị ngay tại chỗ.
Cái trung tâm ấy là
một tòa nhà bốn tầng, khang trang. Cũng như ở cổng Cố Cung, các bác sỹ ra tận
cửa đón rước, mời chúng tôi lên phòng khám bệnh thênh thang, từng hàng ghế kê
ngay ngắn. Các nhân viên mang nước mời mọc ân cần. Rồi năm, sáu người mặc
blu-trắng xuất hiện, giới thiệu rất trịnh trọng, đây là giáo sư tiến sỹ Lu Zeng
Ung nổi tiếng nhất Trung Quốc (?), đây là bác sỹ Hua Twen Xuang nổi tiếng nhất
Bắc Kinh (?).
Những vị giáo sư, bác
sỹ vạch miệng, vạch mắt, nghe tim phổi và bắt mạch cho từng người trong hai
nhóm du khách với thái độ rất thân thiện, khi nheo mắt tỏ vẻ lo lắng, khi mím
môi tỏ vẻ nghiêm trọng, rồi nhoẻn miệng cười đầy vẻ cao đạo.
Khốn nạn thân chúng
tôi, ở nhà khỏe re, mà đến đây ai cũng có bệnh. Không cao huyết áp thì phù
thận, suy tim, có người bị chứng xơ gan mới khiếp chứ!? Nhưng lại … “mừng vì
phát hiện ra bệnh sớm” và vị giáo sư, tiến sỹ nói, đã tới đây thì bách bệnh sẽ
được tiêu trừ hết, bởi Trung tâm này đã từng chữa bệnh cho nhiều vị nguyên thủ
quốc gia Trung Quốc và thế giới.
Chúng tôi được kê đơn
thuốc, có chữ ký của vị giáo sư tiến sỹ đàng hoàng, có con dấu của Viện Đông y
thế giới Bắc Kinh đỏ choét. Ai cũng cảm thấy hả hê vì may mắn. Ở nhà đi bác sĩ
tư thì bị chặt chém, đi bệnh viện công thì bị hành, chuyến đi này, vừa được
thăm quan du lịch vừa khám chữa bệnh bốc thuốc, được tiếp đón ân cần như bố
người ta thì còn gì sướng bằng?
Nhưng ít phút sau thì
mọi người hơi ngán, bởi các giáo sư, bác sỹ, chỉ khám miễn phí, còn thuốc phải
mua, mà đây là một Viện y học nổi tiếng, nên thuốc rất “đắt”. Mỗi bịch thuốc
theo toa của “giáo sư, bác sĩ” rẻ nhất là 1.000 tệ tương đương 160 đô la Mỹ.
Như bị ma ám, ai cũng
bỏ tiền ra, ôm một mớ thuốc nam và mấy hộp … “cao đơn hoàn tán”. Các vị giáo sư
tiến sĩ Trung tâm y dược vẫn chưa chịu buông tha các con mồi. Họ kéo mọi người
sang phòng bên ngồi xung quang cái sân khấu hình tròn.
Một anh chàng nhảy lên
sân khấu, hung dữ như một thằng du đãng. Hắn hét toáng lên, rồi chạy xuống lôi
một thanh niên đang ngồi lẫn trong đám du khách lên sân khấu. Chả rõ nguyên cớ
vì sao, thù hằn gì mà hắn thượng cẳng chân hạ cẳng tay, đánh anh thanh niên ghê
thế. Đến nỗi du khách phải la lên phản đối. Thằng du đãng bỏ anh thanh niên nằm
lăn lóc, lủi mất. Bấy giờ một bác sỹ chạy tới vén quần, vén áo anh thanh niên
lên. Ôi cha mẹ ơi, từ ngực trở xuống, từ đít trở lên thâm tím như những quả đa
mồi.
Anh ta không ngồi dậy
được, rên ư ử như sắp chết. Bà bác sỹ lấy một viên thuốc cho anh ta uống, lấy
một lọ thuốc nước đổ lên các vết thương, và … thật “mầu nhiệm”, thuốc chảy đến
đâu vết thương lành đến đấy. Chai thuốc hết, anh thanh niên đứng dậy, khỏe re,
toe toét cười. Tiếng vỗ tay vang lên và sau đó, tiếng xuýt xoa thán phục râm
ran trong nhóm du khách.
Tiếp theo, một phụ nữ lên
sân khấu, đổ cồn vào tay, châm lửa cháy đùng đùng. Khi lửa tắt bàn tay chị
phồng rộp lên, Vị giáo sư liền mang lọ thuốc nước trong suốt ra, rưới vào tay
chị, và chao ơi thuốc thần thuốc thánh cũng không hiệu nghiệm bằng, rưới đến
đâu da tay chị phụ nữ hết phồng, trắng hồng trở lại đến đấy.
Thế là mọi người nhắm
mắt, nhắm mũi, xỉa tiền mua thuốc bỏng, thuốc trị thương. Tôi thách bạn nào đi
trong nhóm du lịch ấy, trong hoàn cảnh ấy, mà không mua một thứ gì. Mình cũng
được khám bệnh như mọi người, bác sỹ nói mình có bệnh, kê đơn đàng hoàng sao
mình không mua thuốc. Nói không có tiền giữa đám khách du lịch với nhau thì mắc
cỡ lắm. Tôi đã bị người đàn ông trong nhóm khinh thường nên vội tránh đi nơi
khác.
Lên Vạn Lý Trường
Thành, nhìn núi non trùng điệp bao la, hiểu thêm, đất nước Trung Hoa vĩ đại bao
nhiêu thì ta càng thấy … tham vọng của Trung Nam Hải càng dữ dội bấy nhiêu, mưu
sâu kế hiểm bấy nhiêu, lừa lọc, lòng dạ rất hẹp hòi, lừa đảo như chớp, không
rộng rãi như miệng lưỡi họ nói.
Những người đóng vai
quân lính, người hầu cận vua chúa ngày xưa đứng bên những chiếc kiệu, sẵn sàng
phục vụ du khách, những nhiếp ảnh viên đon đả mời chụp ảnh kỷ niệm, ân cần lắm,
nhưng nhìn sâu vào mắt họ không có … chút chân thành nào.
Một người ra dáng thi
nhân ngồi sau cái bàn viết thi pháp bán cho du khách. Tôi mua tờ giấy hoa văn
hai mươi tệ, mượn bút viết mấy câu bằng chữ Hán: “Thử địa nhược đại mông. Bá
đạo nhân thực nhân” - Nơi này ôm mộng lớn, toàn quân ăn thịt người!. Tôi tặng
lại người viết, anh ta vái một vái, rồi gập tờ giấy lại đút vào túi.
Nhóm chúng tôi đến Tô
Châu vào một buổi chiều. Thành phố cổ kính nổi tiếng bởi nhà thơ Trương Kế,
thời vua Đường Túc Tông, với bài “Phong Kiều Dạ Bạc”:
Nguyệt lạc ô đề sương mãn hiên Giang phong ngư hỏa đối sầu miên Cộ tô thành ngoại hàn sơn tự Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
Cố thi sĩ Tản Đà đã
dịch cực hay là:
Trăng tàn tiếng quạ kêu sương Lửa chài cậy ánh sầu vương giấc hồ Thuyền ai đậu bến Cô Tô Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn Sơn.
Trước khi được đi thăm
Hàn sơn tự, xây dựng 70 năm trước khi Trương Kế ra đời, để viết Phong kiều dạ
bạc, chúng tôi được “mời” uống trà Loa Xuân, nổi tiếng Tô Châu. Hướng dẫn viên
du lịch là một cô gái trẻ, miệng lưỡi không thua kém anh chàng Bắc Kinh, lại
hấp dẫn hơn bởi sự duyên dáng. Cô nói:
- Mời các anh các chị,
các chú các bác vào uống trà, tại nơi sản xuất loại trà Loa Xuân, nổi tiếng
Trung Quốc.
Trong hoa viên lộng
lẫy, ban giám đốc và nhân viên xếp hai hàng, ăn mặc chỉnh tề đón tiếp khách du
lịch như đón nguyên thủ quốc gia. Một dãy sa lon bọc vải đỏ chót trong căn
phòng mát lạnh. Uống trà khác với uống cà phê, càng khác với cà phê đá, trà đá,
ở chỗ tĩnh, mát. Người Tô Châu hiểu như vậy, nên làm phòng trà mát lạnh.
Khách vừa ngồi ấm chỗ,
nước được bưng lên, những gói trà được mang tới, và những cô gái trẻ trang phục
bằng loại lụa tuyệt đẹp xứ lụa Tô Châu, nhanh nhẹn pha trà bằng các động tác
chuẩn xác đến mức, một cô cầm chiếc ấm có cái vòi dài gần hai mét rót nước vào
miệng cái bình trà nhỏ xíu mà không rớt ra ngoài giọt nào. Hàng chục cặp mắt cứ
trố ra nhìn, tấm tắc khen, sao họ khéo thế.
Từng ly trà được mời
từng vị khách. Giám đốc nhà máy cúi gập đầu chào mọi người, rồi nói xuất xứ
loại trà Loa Xuân, sự kỳ công trong trồng tỉa, chế biến và tác dụng của nó. Kết
thúc câu chuyện, là mời du khách mua trà với giá … khuyến mãi đặc biệt.
Được tiếp đãi như
thượng khách, đã uống trà của người ta mời, chả nhẽ “nhổ đít” bước ra tay
không? Có mà ê mặt! Hơn nữa lại là khách đi theo đoàn, đoàn Việt Nam hẳn hoi,
chơi không đẹp ảnh hưởng quốc thể chứ đâu bỡn. Lại sợ người cùng đi nhìn mình,
khinh mình kẹt sỉn, thế là đồng loạt rút ví.
Cũng phải thừa nhận
uống tách trà họ vừa pha ngon thật, bập vào môi có vị hơi đắng , mùi thơm
thoảng, uống vào có vị ngọt trong cổ họng. Tôi nói với người giám đốc, xin mua
chính những gói trà vừa bóc ra pha cho chúng chúng tôi uống, hắn ta “hảo hảo”
rồi lánh đi, không tiếp chuyện nữa!
Từ Tô Châu về Quế Lâm,
ăn món tương ớt và món mỳ thịt ngựa nổi tiếng, nhưng sau mới biết bị lừa , ăn
phải mỳ thịt … chuột.
Nhưng rồi cũng cho qua
chuyện để đi thăm công viên Thất Tinh, núi Tượng Tị, đồi Trăng Khuyết… Đến mả
Mã Viện, thấy tượng hắn đúc bằng đồng, cưỡi trên lưng con ngựa chiến, mặt hắn
vênh váo, hai con mắt trừng trừng, miệng như đang gào thét, chẳng biết muốn đâm
chém ai, hay đang đau đớn vì bệnh ỉa chảy, tôi vụt nhớ câu thơ của Đại tướng Võ
Nguyên Giáp khi tới đây gần nửa thế kỷ trước: “Trăm năm mới đến nơi này, Ngàn
năm mới thấy mặt mày ở đây!”.
Chúng tôi chia tay
nhau ở sân bay Tân Sơn Nhất. Hầu như các loại thuốc quý đều vứt lại khách sạn
bên Trung Quốc. Bà vợ viên tướng công an nói với tôi:
- Bác Minh Diện ơi,
mấy sợi dây chuyền ngọc trai là đồ dỏm bác ạ, cái con Tỳ Hưu tử tiệt cũng dỏm.
Sao bác biết mà không bảo em?
Tôi đưa mắt nhìn ông
bạn cùng nhóm, ông nhếch miệng cười như mếu:
- Nó lừa mình khéo quá
anh ạ! Mả cha cái bọn Tàu!
Bọn Trung Cộng nổi
tiếng cả thế giới về hàng dỏm, hàng giả, hàng nhái; đã nhiều lần bị quốc tế lên
án vì các thực phẩm độc hại... Bị phỉ nhổ vì các hành vi ăn cắp các công trình
nghiên cứu và phát minh của Hoa kỳ.
Việt nam, thật đáng
thương khi không may ở gần anh Trung Cộng xấu xa, là thùng rác khổng lồ để
Trung Cộng tuôn hàng dỏm, hàng độc hại có nguy cơ gây ung thư, không ngừng giết
hại dân ta từ từ mỗi ngày.
Chưa hết, chúng còn có
âm mưu thâm độc và to lớn hơn khi được chính quyền Việt cộng tham lam và ngu
dốt tiếp tay, đó là âm mưu sửa lại lịch sử, địa lý, văn hóa... của nước ta bằng
cách in và phát hành hàng lọat các sách giáo khoa cho các trẻ thơ, trắng trợn
dạy dỗ trẻ em: VN là một phần đất của Trung Cộng!
Qua bài viết trên đây,
tác giả đã lột tả những hành động lừa lọc rất tinh vi của Ngành du lịch TC nhằm
móc túi của du khách.
Trước sự xâm lăng
biển, đảo, đất đai của VN một cách ngang ngược, đầy hiếu chiến; tàn phá môi
trường thiên nhiên, biến đất đai của chúng ta thành những "tô giới"
của Trung Cộng ngay trên quê hương của chúng ta, ở đó họ tự ý đưa người của họ
vào VN, xây dựng nhà cửa, đường xá, trường học, bệnh viện, phố xá, hoàn toàn sử
dụng tiếng Hoa, có luật pháp riêng... Không một người dân Việt nào, kể cả bộ
đội, chính quyền địa phương được bén mảng tới.
Bùi Văn Bông - Minh
Diễn
No comments:
Post a Comment