20201101 H34 Tren Doi 31
***
Rất hân hạnh được đọc lại những trang sử oai
hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà từ những nhân chứng sống trong
trận địa Lam Sơn 719 còn sót lại. Một tài liệu quý giá cho quân sử,
tuy nhiên bài viết không có một bản đồ hành quân trận địa nào vì
thế chúng tôi xin mạo muội đính kèm theo bản đồ topo của lảnh thổ
Lào có cả hai căn cứ hỏa lực FSB 30 (hill 665) và FSB 31(458) của hai
ngọn đồi kể trên. Nơi đây củng là trận địa cuối cùng của cố Thiếu
Tá Nguyễn Văn Đương trong nhạc phẩm "Anh Không Chết Đâu Anh"
của cố nhạc sĩ Trần Thiện Thanh.
***
http://legacy.lib.utexas.edu/maps/topo/laos/ban_kadap-6242-2.pdf
http://www.ykhoahuehaingoai.com/99do/H34Doi31p1_VChanh.html
http://www.ykhoahuehaingoai.com/99do/H34Doi31p2_VChanh.html
Hai căn cứ hỏa lực FSB 30, FSB 31 từ Google Earth.
20201101 H34TD31 01
FSB 30 on hill 665, FSB 31 on hill 458 trong bản đồ Laos Ban Kadap 6242-2
http://legacy.lib.utexas.edu/maps/topo/laos/ban_kadap-6242-2.pdf
H34 TRÊN ĐỒI 31 (Phần 1)
Mến tặng và nhớ đến những chiến sĩ QĐ VNCH, nhất là thuộc binh chủng Nhảy Dù, đã tham dự Hành Quân Lam Sơn 719 tại Hạ Lào vào tháng 2, 1971
Sau một thời gian nằm chờ ở Khe Sanh, vào đầu
một ngày N tháng 2, 1971, trong đợt trực thăng vận đầu tiên,
Tr. úy Phạm Đồng dẫn đầu trung đội 2 của Đại Đội 33 thuộc TĐ3ND, nhảy xuống một
ngọn đồi trọc vô danh mang ám số 31 trên bản đồ, mở đầu cho cuộc Hành Quân Lam
Sơn 719. Nhiệm vụ: lập đầu cầu, mở rộng vòng đai an toàn cho các đơn vị kế tiếp
đến sau: Bộ Chỉ Huy TĐ3ND của Tr. tá Lê Văn Phát, gồm luôn cả Tr. tá Phan Hy
Mai, LĐoàn Phó LĐ3ND cùng ĐĐ 30 chỉ huy công vụ, Pháo Đội B3 của Đ. úy. Nguyễn
Văn Đương, và cuối cùng là BCH của Lữ Đoàn 3ND với Đại Tá Nguyễn Văn Thọ, Lữ
Đoàn Trưởng với ban tham mưu. Mấy ngày đầu tiên, tình hình êm ru, nhưng qua mấy
ngày sau, địch bắt đầu pháo kích lai rai, không chính xác, dò dẫm.
Trước khi được không vận ra Khe Sanh, TĐ3ND của Tr. úy Đồng vừa xong cuộc hành quân ở Tây Ninh. Thời gian nghỉ ngơi ở hậu cứ chưa được bao lâu thì đơn vị anh lại có mặt nơi này. Từ ngày Đồng tình nguyện vào ND cuối tháng 9, 1968, trong nhóm 8
***Hình chụp cuối năm 1970 của Tr. úy Phạm Đồng, trung đội trưởng #2 /ĐĐ 33 / TĐ3ND
20201101 H34TD31 03Chuẩn úy cùng khoá Thủ Đức bổ sung vào TĐ3ND,
nay chỉ còn một mình anh. Đồng cầm trung đội 2 của đại đội 33 từ lúc đầu quân
vào TĐ3ND cho đến giờ phút này, đã xuôi ngược từ Nam ra Bắc, rồi lại Đông sang
Tây, đã qua bao nhiêu miền đất nước, đã trăn trở trước sự hoang tàn của quê
hương và thấm thía bụi đường của nỗi niềm người chinh nhân. Đôi khi Đồng muốn
mơ về một ngày yên bình trở lại nhưng vẫn không thể hiểu nên khởi điểm giấc mơ
từ nơi đâu - Ở ngay trên chiến trường vừa kịp tan khói súng? Ở trên làng mạc đổ
nát còn mang tàn tích của chiến tranh? Hay ở ngay Huế của Đồng, nơi mà anh rời
sau Mậu Thân 68 với những ám ảnh kinh hoàng chưa tan, những vành khăn tang chưa
nguôi, những đau thương mất mát chết lịm trong tim? Giờ đây, với 25 năm tuổi
đời và gần 3 năm kinh nghiệm chiến trường, Đồng cùng 26 mống của trung đội 2
của anh đang có mặt tại Đồi 31 này, nào là Thượng sĩ trung đội phó Đàng, các hạ
sĩ quan Biên, Sâm, Muôn, Yến... và các binh sĩ Thông, Chính, Kiều, Chí, Sĩ,
Nam, Phi, Quá, Dũng, Vân, Hải, Mão, Ngạt, Xuất, Thuận, Vượng, Kỳ, Phú, Yên…
Trong cương vị chỉ huy một đơn vị tác chiến nhỏ nhoi, anh thầm đoán cuộc hành
quân này sẽ rất gay go và tự hỏi rồi đây, những ai trong đám người này sẽ để
thân xác lại nơi đây và những ai sẽ còn cơ hội trở về lại bên kia biên giới?!
*
*
Trong khoảng thời gian ấy, ở một nơi xa hơn,
có một Th. Úy Không Quân Bùi Tá Khánh đóng quân tại sân bay Đà Nẵng. Là một hoa
tiêu trực thăng, anh phục vụ phi đoàn 219 Long Mã, Không Đoàn 51 của Sư Đoàn 1
Không Quân. Phi đoàn 219, hậu thân của Biệt Đoàn 83 trước đây khi còn trực
thuộc vào Phòng 7 Nha Kỹ Thuật của Bộ Tổng Tham Mưu, có trách nhiệm thả người,
đưa đón và yểm trợ những toán biệt kích Lôi Hổ, những đơn vị tiền thám đi sâu
vào lòng địch, tận trong các mật khu biên giới hay ngay cả phía Bắc vĩ tuyến,
để lấy tin tức, gây rối và phá hoại các căn cứ hậu cần của địch. Vì vậy, mọi
phi cơ của phi đoàn 219, và nhất là loại trực thăng H34, đều sơn một màu xanh
đen, không mang phù hiệu hay bất cứ một dấu vết nào để giữ sự an toàn và bí
mật.
Th. Úy KQ Khánh vốn gốc Hà Nội, di cư vào Nam
sau 1954 cùng với gia đình. Anh gia nhập Không Quân sau khi hoàn tất trung học
và được gởi đi huấn luyện phi hành trực thăng tại Hoa Kỳ. Một tuần sau khi tốt
nghiệp và trở về lại Viện Nam, Khánh trình diện Bộ Tư Lệnh Không Quân và được
đưa về phục vụ Phi Đoàn 219 từ cuối năm 1969. Như bao nhiêu bạn KQ khác thường
xuyên đảm nhận những phi vụ nguy hiểm, anh sớm có khái niệm về chiến tranh rất
rõ ràng, và luôn cố gắng sống đúng với tinh thần làm trai thời loạn. Với ánh
mắt cương nghị, vẻ mặt khí khái của một đấng nam nhi sớm si mê sự rộng lớn của
không gian và màu xanh thẳm của bầu trời, cao ráo trong bộ đồ phi hành màu đen,
anh bình thản đi vào cuộc chiến bảo vệ quê hương với tấm lòng tràn đầy nhiệt
huyết của một thanh niên khi tổ quốc lâm nguy. Vào tháng 2, 1971, phi đoàn 219
của anh ứng chiến cho cuộc Hành Quân Lam Sơn 719, anh vừa tròn 22 tuổi, và là
phi công phụ trong chiếc trực thăng H34.
* *
Những ngày đầu và cả tuần sau khi đặt chân lên Đồi 31, trung đội 2 của Đồng lo đào hầm, củng cố vị trí chiến đấu cho đơn vị của mình, và cùng với Đại Đội 33 đảm nhận bảo vệ an ninh, phòng thủ vòng đai lớn cho Đồi 31, bảo vệ bãi đáp trực thăng trên yên ngựa cho những chuyến chuyên chở liên tục của các trực thăng Chinook lặc lè đạn pháo, rồi những khẩu pháo 105 cùng các pháo thủ, xe ủi đất hoàn tất các hầm kiên cố chỉ huy cho Bộ Chỉ Huy LĐ3ND, cho Bộ Chỉ Huy TĐ3ND và cho 6 vị trí đặt súng 105 ly của pháo đội B3.
Ngày N + 9, sau khi bàn giao nhiệm
vụ bảo vệ và phòng thủ Đồi 31 lại cho ĐĐ 32 của Đ. Úy Thiếp cùng với Đại Đội
Công Vụ 30 của Đ. Úy Toán, trung đội 2 của Đồng cùng ĐĐ 33 dưới quyền chỉ huy
của Đ. Úy Lê Thành Bôn, được điều động bung ra 2-3 cây số bên ngoài về hướng
Bắc của Đồi 31. Trong khi ấy, ĐĐ 31 của Đ. Úy Ngô Tùng Châu bung về hướng Đông
và ĐĐ 34 của Đ. Úy Trương Văn Vân về phía Nam. Nhiệm vụ: lục soát, tảo thanh,
sẵn sàng giao tranh và đánh phá lực lượng địch. Trước khi rời Đồi 31, Đồng e dè
cân nhắc nhiệm vụ của từng binh sĩ, từng toán khinh binh, xung kích, yểm trợ
hay hỏa lực, để có sự hữu hiệu tối đa của từng cây súng M16 cá nhân hay M60
cộng đồng, phóng lựu M79 hay hỏa tiễn cầm tay M72 khi cần xung phong, lúc cần
bổ xung cho nhau, xé nhỏ các đội hình, coi lại trang bị... Và chính anh sẽ dẫn
đầu một trong 2 toán khinh binh đi mở đường.
“Đang chông chênh bên triền núi cách trục
chính chừng năm mươi mét, khoảng cách đủ tầm quan sát trên địa thế hẹp và rậm rạp
cỏ tranh, sim rừng:
…Ầmmmm… toctoctoc…toctoctoc…toctoctoc
20201101 H34TD31 04http://legacy.lib.utexas.edu/maps/topo/laos/ban_kadap-6242-2.pdf
Ngay trên nếp gấp khúc của địa hình, chúng tôi
chạm địch ở hướng chính, loạt đạn đầu tiên của họ là một sự phối hợp nhịp nhàng
của B40 và AK47, sau đó là âm thanh ồm ồm của trọng liên, trên máy tôi nghe On
báo cáo đã có thương vong. Biên và Chính vẫy tôi từ sau một ụ mối, khom người
chạy lên theo hướng tay của Chính tôi thấy cụm hỏa lực của họ, khẩu 12ly8 đặt
ngay ngã ba của hai dãy đồi gặp nhau khống chế trọn vẹn hướng tiến quân của
chúng tôi trên yên ngựa hẹp. Trung đội ba hứng toàn bộ áp lực đó và rất khó
xoay sở. Tôi báo lên đại đội vị trí của chúng tôi, tình hình địch, nhận định và
đề nghị của mình về trận thế. Họ chưa phát hiện chúng tôi ở bên cánh trái,
không có lằn đạn nào quạt xuống sườn đồi, toàn bộ hỏa lực của một chốt mạnh,
bắn xối xả dọc theo lườn xâu táo và sườn phải, nơi Trung đội một và ba cũng
đang bắn trả dữ dội, tôi ra thủ hiệu cho toàn trung đội nằm im bất động, tránh
sự phát hiện của địch. Quá gần để xin sự yểm trợ của phi pháo, và cũng không
thể rút lui để giãn khoảng cách, khi mà các chiến sĩ khinh binh của trung đội
ba đang nằm trọn trong tầm khống chế của hỏa lực đối phương. Đại đội trưởng
quyết định chuyển hướng tấn công chính qua trung đội tôi, hai trung đội còn lại
tung hết hỏa lực, thu hút sự chú ý của địch.
Trao đổi chớp nhoáng với Biên, Chính, Muôn và
Thượng sĩ Đàng, chúng tôi đồng loạt khai hỏa tám trái hỏa tiễn M72 và cắp súng
lao lên. Muôn dũng mãnh như một con hổ dữ, cây M60 trên tay anh đẩy dồn địch
vào thế bất ngờ hoảng hốt sau một chùm tiếng nổ uy hiếp của M72, địch quay
ngoắt nòng 12ly8 sang trái kết hợp với cây RPD cố gắng kháng cự, chúng tôi lại
gặp hên, có lẽ họ không tiên liệu được trên sườn dốc dựng đứng lại có một cánh
quân đang hành tiến một cách kín đáo, họ đã để trống hỏa lực, và có lẽ các xạ
thủ này quen bắn máy bay hơn là đối kháng với bộ binh, nên đến khi Muôn xông
lên gần tới, nòng 12 ly8 quay vội vàng, lại phải chúc mũi bắn xuống, không đạt
được hiệu quả tác xạ. Họ cũng can đảm không kém khi phải đứng lên trước làn đạn
điêu luyện của Muôn và tốc độ xung phong dũng mãnh của các chiến sĩ khinh binh
với sự dẫn dắt của Biên, Chính, Thông, Chí. Cây trung liên nồi RPD cũng lâm vào
tình thế tương tự. Họ không còn cơ hội để sửa chữa sai lầm tai hại đó. M60 trên
tay Muôn đốn gục tổ xạ thủ, trọng liên của địch, cùng lúc Chính thẩy chính xác
một trái lựu đạn M67 vào ngay ổ RPD, cơ phận địch sống sót nhốn nháo rút lui
gặp ngay sự truy kích của Trung đội ba đang “thừa thắng xông lên”, chốt đã bị
bứng gọn, Trung đội ba lại được giương về phía trước áng ngữ mặt tiền trận địa
và chúng tôi tổ chức phòng thủ tạm thời, để phòng địch phản kích, để tải thương
và chuyển chiến lợi phẩm về căn cứ.
Không có chiến thắng nào lại không đổi bằng máu xương người
lính, và vòng nguyệt quế nào lại không man mác chia ly, Biên bế Chí trên tay
ràn rụa nước mắt, máu anh thấm đẫm áo hai người, Chí ngã xuống khi đang cùng
với Thông cố chiêu hàng người lính địch bị thương, anh ta ôm ghì khẩu AK trong
hầm chiến đấu, Chí chỉa súng thủ thế và ra lệnh:
- Bỏ súng xuống, tôi sẽ đưa anh lên băng bó!
Đáp lại vòng tay đầy tình người của Chí là một
băng đạn AK hất ngược anh trở lại. Chí chết khi hai mắt vẫn còn mở lớn. Nếu
muốn giết anh ta trong cơn thất thế, Chí đã làm việc đó dễ dàng, hà cớ gì lại
phải phơi người trước mũi súng, Chí ơi, Chí làm sao hiểu được tại sao những
chiến binh bên kia lại quá nhiều căm thù?”
Tôi buồn bã nhìn đống chiến lợi phẩm, Biên thẩy xuống trước mặt tôi cây 12ly8 bên cạnh khẩu súng cối 82 và RPD,B40… ánh mắt anh thoáng nhiều trách móc, Chí là em kết nghĩa của Biên, đã nhiều lần Biên nói với tôi để Chí đoạn hậu, hay thử M60 cũng được, hai anh em tôi một đứa khinh binh được rồi, tôi lại rất ngại phải xáo trộn đội hình khi phải đưa người này lên đưa người kia xuống, đã đành không phải ở Tiểu đội hỏa lực là an toàn hơn ở Tiểu đội Khinh Binh, tỷ lệ thương vong ở hai vị trí này khi lâm trận là một chín một mười, có khi địch tập trung hỏa lực khống chế cây M60 nếu họ phát hiện, thì cũng gian nguy không kém, và hai Tiểu đội hỏa lực cũng phải xung phong theo đội hình Trung đội khi tấn công, chứ không phải chỉ thuần túy yểm trợ. Tấm lòng người anh của Biên muốn thu xếp cho người em một chỗ ít nguy hiểm hơn mình đã không được toại nguyện, Chí đã vĩnh viễn ra đi, sự hy sinh của anh khẳng định tính cách của người lính bên này chiến tuyến. Chúng tôi chiến đấu không hận thù và cuộc chiến đấu của chúng tôi mang đầy nhân tính. (1)
20201101 H34TD31 05http://legacy.lib.utexas.edu/maps/topo/laos/ban_kadap-6242-2.pdf
Theo lệnh của Phòng 3 Quân Đoàn 1, Phi Đoàn 219 được đặt dưới sự trưng dụng của Sư Đoàn ND trong suốt cuộc hành quân Lam Sơn 719. Ngoài những phi vụ thường lệ hàng ngày, nay Phi Đoàn 219 đảm nhiệm thêm việc yểm trợ trực tiếp cho Nhảy Dù, từ các phi vụ đặc biệt nhảy toán cho đến các phi vụ tiếp tế lương thực súng đạn hoặc tản thương cho các đơn vị tác chiến ND hành quân bên ngoài các căn cứ hỏa lực 29, 30 và 31. Do đó, mỗi ngày Phi Đoàn 219 tăng phái một phi đội gồm 2 hoặc 3 chiếc H34 nằm trực chiến ban ngày tại Khe Sanh, nơi đặt bản doanh tiền phương của Sư Đoàn ND, và cứ đến chiều thì bay về nghỉ đêm tại Phú Bài. Có lẽ “hot” nhất vẫn là các phi vụ tản thương các binh sĩ ND bị thương khi hành quân lục soát xung quanh các căn cứ hỏa lực và đụng độ với cộng quân. Vì chuyện bay tiếp tế hoặc tải thương này vẫn xẩy ra hầu như hàng ngày, nên Khánh coi như pha, bình thản đi vào những vòm trời đầy nguy hiểm. Phi đội của anh cứ luân phiên trực chiến ở Khe Sanh/ Phú Bài 4 ngày rồi trở về Đà Nẵng.(2)
20201101 H34TD31 06***Hình chụp giữa năm 1970 của Th. úy phi hành
Bùi Tá Khánh / H34 / Phi Đoàn 219
* *
Ngay sau lần chạm địch đầu tiên vào buổi sáng,
ĐĐ 33 tiếp tục tiến bước, vượt qua tuyến đầu của địch, đến mục tiêu kế tiếp,
trong thế các trung đội sẵn sàng yểm trợ cho nhau. Cùng lúc, hàng loạt đạn pháo
từ pháo đội B3 trên Đồi 31 liên tục nhả đạn bắn vào ngọn đồi trước mặt.
“Đợt pháo kích theo lời yêu cầu vừa chấm dứt, hai chiếc HU1A của KQVNCH
nối đuôi bay quành trở lại, phối hợp nhau gởi xuống mục tiêu những quả rocket
dài ngoằn xé gió. Chúng tôi biết mình phải làm gì sau đợt không kích đó.Tôi đọc
thấy thoáng âu lo trên khuôn mặt từng chiến sĩ. Kể cả tôi, cũng không thể trốn
tránh thực tại hết sức căng thẳng của trận chiến. Vừa vượt qua cái chết buổi
sáng đã phân vân với số mệnh buổi trưa. Ai đã đi qua chiến tranh, đã đánh chừng
mươi trận mà vẫn còn sống để chờ đợi trận đánh thứ mười một chưa biết mất còn,
mới chia xẻ được cái cảm giác hồi hộp, nặng nề của người lính trước trận đánh.
Huống chi quanh đây, không kể hai tân binh mới ra trận lần đầu chưa biết hòn
tên mũi đạn, từ quan tới lính, người nào cũng dự vài ba chục trận, vài ba chục
lần quẳng cái bản chất thằng người tham sanh úy tử xuống đất, ôm súng lao lên
theo tiếng thét xung phong của đồng đội. Có muốn hèn cũng không thể hèn được,
có muốn dừng lại cũng không thể dừng lại được. Cái cảm giác xung trận nó vô
cùng kỳ lạ, nó cuốn hút người ta lao vào bất kể tới đâu… Cứ phỉnh phờ cái lo
lắng, cứ giả vờ hồn nhiên cười cợt, mà sao trong những đôi mắt kia chợt tối nỗi
bâng khuâng.
Có phải Biên đang nghĩ đến đàn con quây quần
trong ánh đèn vàng vọt, căn nhà nhỏ trong trong trại gia binh có ai đang thao
thức nguyện cầu, có phải Muôn đang nhớ về người tình chơn chất, lời hẹn thề
chưa ngút một tuần trăng. Có phải Chính đang rối bời mẹ già tóc bạc, phận làm
con biền biệt chốn biên cương. Ô kìa ông Đàng! Mười hai năm quân ngũ đã hằn lên
vết tích, tuổi thanh xuân qua trên khổ lụy quê nhà có làm anh ít nói, hay đang
lặng im trên chính về nỗi ước mơ còn xa vời vợi, mảnh vườn quê chim hót nắng
mai. Và Sĩ, Thông, và Kiều, và… hai mươi sáu cái nón sắt rằn ri màu lá, che kín
hai mươi sáu cõi riêng tư. Đã điên đâu mà vui mừng hăng hái, có phải là đồ tể
đâu mà say máu bắn giết, chẳng qua, họ đã dấy động can qua thì chúng tôi phải
chiến đấu để tự vệ, để dành cái quyền sống làm người theo cách đã chọn lựa…
Ngay khi các toán trinh sát xuất phát chừng một
trăm mét, trận địa đang im lắng bỗng rộ lên hàng loạt tiếng súng cối và tiếng
đạn đi xé gió, khoảng năm hoặc sáu khẩu 82 ly của địch xa về hướng Tây, tác xạ
tập trung vào vị trí đại đội, dù không chính xác cho lắm, nhưng pháo kích kiểu
vãi đậu như thế này, quả thật cũng làm chúng tôi lúng túng. Phía trước mặt, hỏa
lực bắn thẳng của họ cũng bắt đầu lên tiếng, hòng chặn đứng mũi tiền kích đang
cố gắng bám vị trí.
Trong khi chúng tôi chật vật vì súng cối địch,
thì vị trí của họ cũng tả tơi dưới hàng loạt đạn pháo của B3 từ Đồi 31 và từ
Pháo đội C3 của Căn cứ hỏa lực ở Đồi 30 trong tầm hiệu quả, đang bắn yểm
trợ.
- Lỡ rồi! Chơi luôn Một Hai Ba!
- Một nhận!
- Hai nhận!
- Ba nhận!
- Tụi nó ở dưới khe suối cạn và đỉnh đồi bên kia!
- Chờ thằng Phở bắc nấu xong tô nào chơi tô đó, Phú Bổn
lên với Phú Ông, Một và Hai theo luôn trái phải!
- Hai nhận!
Biên đã bắt tay được với Chính, Thông, Sĩ. Tôi
vắn tắt lịnh tấn công sau đợt pháo chuyển làn tác xạ, cần phải nhanh chóng giải
quyết trận địa nếu không muốn làm bia cho địch pháo kích.
Đúng lúc những loạt đại bác dồn lên sườn đồi
bên kia, chúng tôi đánh ép xuống thung lũng với nòng súng cắm lưỡi lê sẵn sàng
cận chiến.Từ triền dốc thoai thoải, Biên và Chính phối hợp nhau dẫn đồng đội
tiến lên từng điểm ẩn nấp dưới làn đạn địch, Thông băng thật nhanh lên phía
trước, bắn ghìm sát mặt đất vừa dứt một băng đạn lá đã tấp vào được một gốc cây
ven bìa suối, ống quần rách toạc vì vướng gai buổi sáng chưa kịp thay, lòng
thòng miếng vải phất lên phất xuống không đủ che cái mông ốm nhách, xám xịt,
anh chàng quay lại toét miệng định cười, đã vội nằm hụp xuống, tay giữ nón sắt,
co gọn người tránh làn đạn vuốt cỏ cây ngã rạp bên cạnh, anh rút chốt trái lựu
đạn ném về phía trước, bắn rẽ quạt cho Chính, Sĩ và Tiểu đội Khinh binh tiến
lên hàng ngang, bám được bìa rừng là nắm chắc tám mươi phần trăm chiến thắng,
là hạn chế tối đa thương vong. Và địch cũng hiểu như vậy nên họ tổ chức phản
kích dữ dội, liệu thế đơn vị chốt tại bờ suối không chống đỡ nỗi, khoảng chừng
một Trung Đội địch từ trên đỉnh đồi tràn xuống cứu viện, quyết không cho chúng
tôi vượt qua.
Đến đây tôi chợt hiểu, chúng tôi đã được chỉ
huy và theo dõi chu đáo từ Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn, Lữ Đoàn, khi cánh quân địch
nhớn nhác tràn xuống chưa tới lưng chừng đồi đã phải khựng lại rồi tan tác dưới
từng loạt pháo nổ chụp thần sầu của B3. Từng mảnh người tung lên rồi đổ gục. Ha
ha chưa biết ai chơi “Công đồn đả viện” thiện nghệ hơn ai đấy nghe ông bạn.
Liêu Thăng, Mộc Thạnh đã bị chém đầu thì Vương Thông còn hơi sức đâu mà đấm đá.
Hàng ngũ địch hoảng loạn, hỏa lực của họ tức khắc rối bời không che phủ nhau
được như trước. Đúng lúc đó, Đại đội phát lệnh xung phong toàn đơn vị.
- Xung phong!
Tiếng thét rền vang vách núi, đoàn quân băng
băng trên triền dốc lao xuống, vượt qua lửa đạn, vượt lên chông gai xông tới,
tiếng quân reo át tiếng đạn thù. Xung phong! Xung phong, đạn xủi mặt đất, đạn
xuyên tàng lá, đạn nổ bùng lửa đỏ, đan veo véo bên tai, người trước ngã người
sau xông tới, khản cổ theo tiếng reo đồng đội, tim đập muốn vỡ tung lồng ngực.
Hây Sĩ, sao nằm đó? Ê Kiều! Mày cũng nằm đó sao? Tụi nó chết rồi! Hây! Phi? Bị
thương rồi hả? Đưa máy đây! Xung phong. Xung phong. Tôi quàng vội chiếc
máy truyền tin, dặn Phi nằm đó, Trung đội 4 sẽ lên kéo về. Hai nghe Hai nghe!
Lên luôn nhận năm, được 3 hầm có cả cối! Nằm xuống Trung Úy! Chính húc luôn cái
nón sắt vào mặt xô tôi ngã rạp đúng lúc làn đạn cắt lá rụng tả tơi trước mặt,
không hề gì, cái hầm này nằm dưới đám rễ cây, nãy giờ chơi đủ…
Vậy thôi, chiến tranh không còn chỗ cho sự
khoan nhượng khi mà giọt máu của Chí còn nóng hổi trên trận địa, không còn thời
gian để lưỡng lự khi cái chết và sự sống gần nhau trong gang tấc. Thêm Sĩ và
Kiều, trong một ngày mất luôn 3 mạng người không thể thay thế, không thể so
sánh khi đã cùng nhau miệt mài trên những nẻo đường đất nước. Các sĩ quan ở
Tổng cục chiến tranh chính trị và Phòng 5 Bộ Tổng Tham Mưu có thể xoa tay hài
lòng trước sự chênh lệch về tỉ số thương vong của hai phía, đếm xác địch và ta
để thống kê chiến thắng. Vâng, mười hai xác địch tại trận địa, vắt vẻo trên
miệng hầm trong một tuyệt vọng thoát thân, chôn vùi trong hố chiến đấu bị bắn
sập trong cố gắng kháng cự, tan xác dưới hố đạn pháo binh… So với hai Chiến sĩ
ta tử trận. Tỷ lệ chênh lệch lớn lao đó cũng không thể xoa dịu nỗi đớn đau của
người lính bên xác đồng đội. Bên những khuôn mặt mới đây còn nói nói cười cười,
còn chia nhau mẩu thuốc quân tiếp vụ cong queo trong túi áo… hay thậm chí mới
đây còn… đm thằng này thằng nọ.
Tôi giở poncho nhìn mặt Kiều và Sĩ lần cuối,
máu người chết trận sủng thâm màu áo lính, hai người lãnh nguyên mấy mảnh cối
82 nổ trên tán cây, chụp xuống khẩu đại liên đang mải mê nhả đạn...
Chúng tôi phải bố trí lại hỏa lực khi cây đại
liên của Kiều đã bị hỏng chưa kịp thay thế. Trung đội 1 không có thương vong,
Trung đội 3 lại dính thêm một chết, hai bị thương, vị chi từ sáng tới giờ, hắn
ba, tôi ba, đổi lại trên hai mươi xác địch với từng đó súng ống, chưa kể súng
cộng đồng. (1)
* *
Cho lệnh trung đội nằm dưỡng tại chỗ 15 phút,
Đồng lo tản thương 2 người lính bị thương của mình cùng 3 thi thể Chí, Kiều và
Sĩ cho trung đội 4 chuyển về phía sau. Cổ họng khô gắt khiến hơi thuốc hít vào
trở nên đắng nghét, Đồng thả điếu thuốc xuống đất và dí dôi giày trận lên tàn
thuốc, rồi cầm bi đông nước hớp vài hớp nhỏ cầm chừng. Giờ đây, trung đội 2 còn
23 người, kể cả Đồng, bố trí rải rác sau các thân cây xung quanh
anh.
“Hai giờ chiều, mặt trời đã ngả về Tây, cơn
nắng chói khô khốc chợt rộ lên luồng gió nóng, ngay sau khi căn hầm cuối cùng
tại bờ suối bị Thông và Muôn tiêu diệt, Trung đội cấp tốc tiến lên phía trước,
di chuyển thật nhanh trên một địa hình trống trải dưới hỏa lực vỗ mặt của địch,
tuyến tấn công phải mở rộng hai cánh. Chúng tôi cũng chẳng phải Tề thiên Đại
Thánh hay mình đồng da sắt gì để khơi khơi xông thẳng vào lửa đạn, từng khoảng
cách rút ngắn giữa địch và ta cũng đồng nghĩa với từng phút giây bọt bèo sống
sót. Là từng giây phóng mình thật nhanh từ điểm ẩn nấp này lao qua điểm ẩn nấp
khác, gò mối, gốc cây, bụi cỏ, tảng đá, hay thậm chí chỉ là một nhánh lá mong
manh. Đạn địch xủi dưới gót chân, đạn vỡ tung vỏ cây trước mặt… Là bắn, là bắn,
bắn hết khả năng của vũ khí, để tiếng đạn mình át tiếng súng thù, để chỉ còn
bên tai tiếng nổ giòn của M16, tiếng gà nòi ấm cũng của M60… Cọc cùm… cọc cùm
M79 gõ nhịp. Lưng chừng đồi cỏ cây ngã rạp, vỏn vẹn chừng một trăm mét nữa là
xong, là phận ai nấy biết, nhưng không tài nào, tiến lên được nữa. Chúng tôi bị
chận đứng ngay trên vị trí một Trung đội của họ bị tiêu diệt trước đó, xác
người rải rác chung quanh những vết nổ của đạn pháo.
Bây giờ đến lượt pháo địch nổ giữa chúng tôi,
cộng với hỏa lực dày đặc từ đỉnh đồi bắn xuống không ngóc đầu lên được chứ đừng
nói nhổm người dậy. Tôi rủa thầm, ở đâu ra mà nhiều 12ly8 bắn rán mặt, đụng sơ
sơ từ sáng tới giờ, cả 3 tuyến đều có phòng không. Gió lại trỗi mạnh, cũng may,
nhờ thế mà những trái 82 ly bị đẩy dạt khỏi mục tiêu, dù không xa, nhưng cũng
hạn chế được ít nhiều thiệt hại, cũng có thể họ chưa tính hết sức gió trong yếu
tố tác xạ. Giờ này mà có vài phi tuần gõ xuống đỉnh đồi chừng chục trái năm trăm pounds,
bới tung hầm hố nó lên thì đỡ vất vả biết bao?
-Một, Hai, Ba đây Phú Bổn! Một nghe đích thân!
Hai nghe đích thân! Ba nghe đích thân!
-Cho cóc nhái sẵn sàng! Các Đích thân gặp Phú
Bổn ngay.
Tôi ngạc nhiên, đang đánh chác thế này co về
thủ sao được trên một vị trí quá nguy hiểm mà ổng lại ra lệnh sẵn sàng mìn và
chiếu sáng? Phân vân thì phân vân, cũng phải tìm gặp ổng rồi mới tính. Giao máy
cho Thượng sĩ Đàng chỉ huy trung đội, tôi lần mò trở lại chừng hai mươi mét. Cả
bộ chỉ huy đại đội mặt mày đen thui vì khói, than, chẳng hơn gì chúng tôi.
-Vắn tắt cho các anh rõ! Lệnh Sư đoàn phải
nuốt xong cục xương này mới được nghỉ. Tập trung mìn chiếu sáng lên phía trước,
theo lệnh trên máy, đồng loạt ném và xung phong ngay, các anh thấy gió chuyển
hướng mạnh về phía tụi nó chứ?
-Đốt tụi nó?
-Phải làm nhanh, gió đổi hướng lại chạy không
kịp đó! Rõ chưa?
-Về làm nhanh!
Trước khi quay về Trung đội, tôi liếc nhìn
cuộn poncho gói xác, đưa mắt hỏi Thượng sĩ nhất Xá: Ai đó? Trung sĩ Tâm, Pháo
binh Đề lô.
Lẩm nhẩm một lời cầu nguyện vô bổ, chết chi
trẻ quá Tâm ơi! Tôi băng mình trở lại tuyến chiến đấu, chuyển đạt nhanh chóng
mệnh lệnh tác chiến.
-Một, Hai, Ba, đây Phú Bổn! Xong chưa? Một
xong! Hai xong! Ba xong!
-Đánh!
Tôi phất tay cho Trung đội đồng loạt ném hết
cơ số mìn chiếu sáng về phía trước. Tách tách tách… xòe xòe… tách tách xòe xòe
lốp bốp lốp bốp, ngọn lửa lùng bùng lên dữ dội rồi lan nhanh về phía trước, râu
tóc mặt mày khét lẹt. Thế thượng phong ngàn năm một thuở, lửa lửa, lửa cuộn lên
theo tiếng quân reo, lửa tràn lên theo cỏ tranh giòn dã, khói cuồn cuộn mịt mù,
khói làm màn che cho quân ta tiến tới, bốc trong bảo lửa xông lên. Lưỡi lửa
liếm một vòng cung hình bán nguyệt, thắt gọn vị trí địch trong trận hỏa công dữ
dội, những căn hầm được ngụy trang kỹ lưỡng bằng cỏ tranh tiệp màu bỗng chốc
trở thành mồi ngon cho ngọn lửa, hầm đạn nổ tung tóe, cả ngọn đồi nhanh chóng
ngập tràn biển lửa, địch quýnh quáng tung hầm tháo chạy, có tên lưng còn bốc
khói. Trận Xích Bích là đây! Các chiến sĩ khinh binh tràn lên đỉnh đồi chiếm
lĩnh trận địa, thanh toán nhanh chóng những ổ kháng cự yếu ớt, địch làm sao
chống lại nỗi khi trước mặt là lửa táp, là khói thuốc theo luồng gió ngược, lùa
vào mồm vào mũi, tối tăm mặt mày chưa kịp dụi mắt ngáp gió lấy hơi đã gục ngã
trước lưới đạn càn quét quyết liệt của quân ta đang tràn lên theo lửa cuốn. Đại
đội khai thác tức khắc hiệu quả chiến thắng, thúc cả ba Trung đội đánh bung
sườn đồi, đuổi địch chạy có cờ xuống thung lũng.
Trận đánh thật đẹp và hùng tráng, trong bối
cảnh ráng chiều chưa tắt, ánh nắng xuyên qua khói lửa rải xuống chiến trường
những dải vàng lóng lánh, thấp thoáng bóng quân ta dọc ngang đỉnh đồi, như thấp
thoáng hồn sông núi cựa mình muốn vượt qua định mệnh. Tiếc quá, không có một
phóng viên chiến trường nào ghi lại được trên băng nhựa phút giây ngất trời
ngạo nghễ đó, để mai này, trên những ký sự truyền hình được chiếu ra rả từ hai
phía suốt mấy chục năm năm, cuộc chiến trên quê hương đau đớn chúng ta không
phải chỉ là cuộc chiến của người Mỹ và phía bên kia.
Lửa cháy để lộ nguyên một đỉnh đồi với hầm hào
chi chít của cấp đại đội cộng. Thế mà trước đó, khi hai chiếc HU 1 A bay lòng
vòng trên đầu, họ vẫn ém kỹ hỏa lực mạnh mẽ này không khai hỏa, mãi cho đến khi
chống đỡ dưới áp lực công kích của chúng tôi, mới lên tiếng. Dưới hỏa lực pháo
kích ngày càng dữ dội, Đại đội nhanh chóng chuyển tất cả thương binh tử sĩ về
phía sau cùng với súng ống của địch, không đủ thời gian thu nhặt, nên ngoài
những vũ khí cộng đồng bắt buộc phải chuyển về như cối 12ly8 và 82 ly không
giật mà địch còn để lại nguyên vẹn, các vũ khí cá nhân AK, B40, phải tháo gỡ
từng bộ phận, nòng súng liệng một nơi, cơ bẩm quẳng một ngã.
Trong số địch tử thương, có hai người là cấp chỉ huy, trong căn hầm bị Trung sĩ
Yến, Tiểu đội trưởng Tiểu đội hỏa lực số hai bắn sập bằng M72, có cả máy truyền
tin Trung cộng, hai xác chết đeo hai cây K59 còn mới.
Và thật đau đớn, ngay khi nhận được lệnh di
chuyển khỏi vị trí, chúng tôi vĩnh viễn mất người chỉ huy thân thiết, tài giỏi.
Thượng sĩ nhất Xá băng ngược đội hình, chạy lên tìm tôi:
-Trung úy! Đại úy chết
rồi! - Sao? Sao?
Tai tôi lùng bùng, không tin điều mình đang
nghe.
Tôi theo ông Xá chạy quành về Bộ chỉ huy Đại
đội, trên vết nổ còn bốc khói của một trái 82, Đại úy Lê Thành Bôn, Đại đội trưởng
Đại đội 33 Tiểu đoàn 3 ND đã anh dũng hi sinh, hai tay ông còn nắm chặt ống
liên hợp trên hai chiếc máy truyền tin vỡ nát, bên cạnh hai người lính truyền
tin hy sinh cùng lúc. Tôi biết, trong những mệnh lệnh mà ông truyền đạt trên
máy, yếu tố hạn chế thiệt hại cho thuộc cấp là ưu tư hàng đầu của người sĩ quan
nhân hậu, đằm thắm và tài ba nhất tiểu đoàn. Nếu không có ông, mấy ai đã nghĩ
ra trận hỏa công thần sầu đem chiến thắng về cho đơn vị với thiệt hại tối
thiểu”. (1)
* *
Trong buổi chiều cùng ngày, ĐĐ 33, bấy giờ do
Tr. úy Đồng tạm thời nắm chức vụ đại đội trưởng, được lệnh cấp tốc rút về lại
Đồi 31. Lý do: dành khoảng trống mục tiêu cho 1 pass B52 thả trước nửa đêm vào
khu vừa giao tranh. Cuộc rút quân hoàn thành tốt đẹp qua những nghi binh phù
phép biến ảo bởi sương mù đang dần xuống, dù địch bám sát trận địa và liên tục
pháo vào những vị trí vừa bị mất, nghĩ rằng quân ND vẫn còn cố thủ tại đó.
Trong cùng thời gian, pháo đội B3 ND vẫn tiếp tục phản pháo chính xác và bắn
cận phòng cho ĐĐ 33.
Sau khi toán tiền thám do Th. Sĩ Đàng về lại
Đồi 31 bằng một con đường khác và ngắn hơn đường đã xử dụng trong ngày, đã lục
soát kỹ và không có dấu vết của địch ẩn núp chờ đợi phục kích, bấy giờ Tr. úy
Đồng mới cho phép từng trung đội một từ từ rời vị trí chiến đấu và rút về căn
cứ hỏa lực 31. Khi toàn đại đội 33 đã rút trọn vẹn về vị trí an toàn, địch vẫn
liên tục pháo kích vào vị trí “không người” mãi tới sáng hôm sau.
Trong đêm, độ chấn động của những trái bom năm
trăm pounds được rải xuống từ B 52 chỉ đủ làm rung nhẹ cánh võng… Nghĩa là cách
xa Đồi 31 ít nhất cũng trên mười cây số. Chứ không chỉ 2 hoặc 3 cây số là nơi
ĐĐ 33 vừa giao tranh và địch đang có ý đồ tái chiếm. Để rồi mấy ngày sau nữa,
khi nhận thấy có những nguy cơ xuất phát từ đó uy hiếp Đồi 31, Bộ tư lệnh hành
quân đã cho đổ bộ hai đại đội của TĐ6ND xuống những ngọn đồi mà trước đây ĐĐ 33
đã chiếm được và đã triệt thoái, với tình thế khác hẳn. Ở đó, địch đã trở lại
với quân số nhiều hơn và đã dọn sẵn một trận địa pháo kích tập trung, chính
xác. Chúng tôi ở trên đồi 31, quan sát cuộc đổ bộ của đơn vị bạn bằng mắt
thường, lòng xót xa theo những cụm khói bốc lên của đạn pháo địch… Mở đầu cho
những thách thức cam go trong những ngày tới.
* *
Bản thân Đồi 31 là một “căn cứ hỏa lực dã
chiến”, có giá trị chiến thuật trong một giai đoạn ngắn. Thường thường trong
mỗi một cuộc hành quân, đôi khi LĐND lập hai hoặc ba căn cứ như thế, bỏ căn cứ
này lại lập căn cứ khác tùy theo nhu cầu chiến thuật. Do đó về phần công sự, là
những vật liệu tại chỗ, không có lấy một cuộn kẽm gai, không có bãi mìn ngoài
những trái claymore, như những vị trí đóng quân đêm bình thường, lực lượng
phòng thủ không bao giờ vượt qua một Đại đội (không kể Đại đội chỉ huy công vụ
của Tiểu đoàn có một phần quân số trong căn cứ, nhưng không có trách nhiệm
phòng thủ).
Đại đội 33, TĐ3ND, lui về đảm trách phòng thủ
căn cứ sau khi đã bị tiêu hao phần nào trong trận đánh ở ngoại vi Đồi 31. Với
dưới bảy mươi tay súng nay phòng thủ một tuyến rộng lớn bao gồm vị trí của Pháo
đội B3 TĐ3PBND của Pháo đội trưởng Đ.úy Nguyễn Văn Đương, với 6 ụ pháo 105ly,
đồng thời phải bảo vệ Bộ chỉ huy TĐ3ND và Bộ chỉ huy Lữ đoàn 3ND đang trú đóng
trong căn cứ. Đó là tất cả lực lượng cố thủ đồi 31. Các đại đội 31, 32 và 34
đang hành quân lục soát bên ngoài, cách xa chừng hai đến ba cây số. ĐĐ 3 Trinh
Sát Nhảy Dù bố trí ở một vị trí khác bên ngoài vòng đai.
Riêng Trung đội của Đồng, ngoài tuyến phòng
thủ, được giao ở mặt Bắc nhìn xuống một triền đồi thoai thoải, còn có nhiệm vụ
bảo vệ bãi trực thăng nằm chếch bên ngoài cứ điểm.
Là một đơn vị tinh nhuệ ND, ĐĐ 33 tự tin ở khả
năng chiến đấu của đơn vị, và đủ sức cố thủ cứ điểm trong thời gian cần thiết,
chứ không phải lâu dài, trước các cuộc tấn công cổ điển tiền pháo kết hợp với
đặc công đột kích, nếu được yểm trợ đầy đủ, hữu hiệu và kịp thời, từ không quân
VNCH, không quân Đồng Minh, hỏa lực từ Đồi 30, Căn Cứ Hỏa Lực A Lưới và quan
trọng nhất là ngay chính từ Đồi 31: Pháo đội B3 .
Trận chiến đấu trên đồi 31, phải nói cho đúng,
trước hết là trận chiến của các chiến sĩ PB Nhảy Dù. Phòng tuyến của trung đội
2 của Đồng rất gần những vị trí pháo, và cũng rất gần với Bộ chỉ huy Pháo đội,
chỉ cách nhau một con đường nhỏ bao quanh vị trí, con đường gập gềnh cát bụi
nối với bãi tiếp tế bằng những chuyến xe GMC tới lui chở đạn và thực phẩm.
Chiếc xe đó giờ đã nằm im bên sườn đồi, mình lỗ chỗ vết đạn…
Hình ảnh những chiến sĩ Pháo binh tả xung hữu
đột giữa trận đối pháo mang khí phách của một chàng dũng sĩ giữa trùng vây quân
địch, nòng súng vừa thoắt bên Đông đã hiệu chỉnh về Tây, vươn cao mạn Bắc rồi
nhanh chóng ghìm xuống phương Nam, quành quả tới lui tất bật giữa mưa pháo quân
thù, lực bất tòng tâm, trần thân trong nắng lửa vẫn kiên cường trong trận xa
luân chiến không cân sức, dù trên mình đã mang nhiều thương tích. Không một
ngôn từ nào diễn đạt được hết nét kiêu hùng bất khuất đó của các pháo thủ Pháo
đội B3. Nón sắt trên đầu, áo giáp che thân, những khuôn mặt căm đanh uất hận
vươn theo nòng pháo, mà tiếng đạn rời nòng nào có khác tiếng gầm phẫn nộ của
một chúa sơn lâm giữa bầy sói lang.
Mức độ pháo kích của địch càng ngày càng dồn
dập. Không kể những khẩu đội 82 ly tập trung dày đặc xung quanh căn cứ thay
phiên nhau suốt ngày thì thụt, mà pháo binh tầm xa của địch như 122ly, 130ly cơ
động, thay đổi vị trí nhanh chóng và hầu hết đều nằm ngoài tầm tác xạ tối đa
của 105ly cũng như 155ly của phe ta. Pháo địch bắn như trống múa lân, sáng
trưa, chiều tối, không kể giờ giấc, bắn không e dè sự phát hiện vị trí như
trước. Pháo đội B3 đã phải quần thảo với địch gần như hai mươi bốn giờ trên hai
mươi bốn giờ không nghỉ, suốt trong thời gian địch bắt đầu tạo áp lực lên căn
cứ, cho đến khi kết thúc trận chiến.
Những vị trí pháo binh cố định của ta lần lượt
bị pháo binh địch tập kích trúng, với khả năng hạn chế tại mặt trận, mặc ai bị
thương, mặc ai nằm xuống, các pháo thủ vẫn đứng dậy, dựa lưng vào nhau, cố gắng
sửa chữa, thay thế các cơ phận bị hư hỏng để duy trì sức chiến đấu của đơn vị.
Nhờ thế, những vị trí 82ly quanh quẩn lần lượt bị vô hiệu hóa, có khi vắng
tiếng cả hai ngày không bắn được một trái. Thay vào đó, mức độ bắn phá của 122
và 130 lại tăng lên.
Việc tải thương, tiếp tế cũng là một vấn đề
nan giải, khi tuyến phòng thủ đã quá mỏng, và càng mỏng hơn nữa khi quân số
tiêu hao dần vì pháo địch. Không lần nào không có thương vong vì súng cối địch,
và ít nhất cũng đã có hai chiếc trực thăng vĩnh viễn nằm lại bãi đáp vì trúng
đạn phòng không khi gần đến vị trí, và một phi hành đoàn đang còn kẹt lại. Đó
là những phi vụ trực thăng gan dạ, khi mà lưới lửa phòng không đã phục sẵn trên
các đường tiếp cận nhằm mục đích khóa chặt nẻo vào từ mọi hướng, thì chuyến bay
các trực thăng của phe ta quả thật là vô cùng mạo hiểm, “một đi không trở lại”
tựa như tráng sĩ Kinh Kha, đã bao nhiêu lần những chiếc trực thăng đột ngột cất
lên từ một lũng núi mù mù sương sớm, hoặc lướt nhanh trên ngọn cây qua một đỉnh
rừng, hay bay nghi binh thật xa để rồi luồn theo khe núi, đáp thật nhanh xuống
bãi, mang đến cho Đồi 31 tất cả nhu cầu không thể thiếu của mặt trận, thậm chí
luôn cả báo chí và thư riêng. Như một chút hương yên bình quý báu từ hậu phương
trên đất Mẹ.
Đây là thư đầu tiên của Phượng mà Đồng nhận kể
từ HQ Lam Sơn 713. Đồng gặp nàng trên ghế trường Luật Sài Gòn khi tên Phượng đã
vô tình nhắc nhở Đồng về màu đỏ thắm quyến rũ của phượng vĩ xứ Huế. Là màu đỏ
anh luôn tha thiết nhớ thương. Đó cũng là màu chiếc beret hiên ngang trên đầu
anh.
“Tôi soi ngọn đèn pin lò dò từng chữ và chợt
buồn nhận ra, em vẫn không hiểu gì về tôi trong khi mỏi mòn một nhịp cầu Ô
Thước. Lá thư Phượng thật dài nhưng chẳng có gì để đọc. Kể cho tôi làm gì những
ồn ào phố thị, kể cho tôi làm gì những khúc luân vũ đã làm mắt em say. Sài Gòn
của em vẫn thế và giảng đường của em vẫn thế. Em không nói bên chiếc ghế tôi
ngồi đã có ai quấn quýt? Nhưng tôi biết đó không còn là thế giới của tôi, và chiến
tranh dường như chưa bao giờ lai vãng dưới những tàng cây bốn mùa im mát. Không
biết những tin tức từ mặt trận có làm sân trường đại học bớt tươi màu áo, mà
sao những vô tình của em và bạn bè đối với cuộc chiến càng làm tôi xa cách vô
cùng. Tôi không định trả lời thư cho Phượng, biết có còn trở về để thêm chi
nhiều vương vấn, những giọt nước mắt chính danh đã lan tràn trên đất nước, còn
khơi thêm làm gì chút sầu muộn người dưng.
* *
N + 15, phi hành đoàn H34 của Tr. úy Chung Tử Bửu và Th. úy Bùi Tá Khánh
cùng với Mê Vô Em vào phiên trực cho phi đội của anh. 2 chiếc H34 nhận lệnh cất
cánh từ phi trường ĐN bay thẳng đến Khe Sanh. Chiếc H34 thứ hai do anh Yên làm
phi công chính.
“Ðúng giờ hẹn, chúng tôi ra phi cơ làm tiền phi, check nhớt,
xăng, load những cơ phận sửa chữa dự trữ, đồ nghề và anh em kỹ thuật 219 rồi
cất cánh, trực chỉ Ðông Hà, Quảng Trị. Khoảng quá trưa thì chúng tôi ra đến Khe
Sanh. Vừa đến nơi, không màng ăn trưa vì nóng lòng muốn cứu đồng đội nên chúng
tôi quyết định phải vào ngay Đồi 31 chứ không thể đợi lâu hơn được. Trong khi
anh Bửu vào trình diện với Bộ Chỉ Huy Tiền Phương SÐ Dù để đặt kế hoạch cho
chuyến bay thì tôi và Mêvô Em đi check lại máy bay. Xăng vẫn còn đầy bình
trước, dư sức bay không cần phải refuel.
Một lát sau từ phòng briefing ra, anh
Bửu vắn tắt cho anh em biết về phi vụ quyết tử này. Chuyến vào chúng ta sẽ chở
theo Th.úy Vinh và một tiểu đội Tác chiến Điện tử Dù của anh ta cùng với 18
chiếc máy "sensor" vào tăng phái cho căn cứ 31 dùng để phát giác đặc công
địch, chuyến ra sẽ rước phi hành đoàn của Tr. úy Nguyễn Thanh Giang về. 15 phút
trước khi lên vùng, pháo binh Dù sẽ bắn dọn đường mở một hành lang dọc theo
quốc lộ 9, dập vào những địa điểm được ghi nhận có phòng không địch vì tình
hình lúc này rất gay cấn, địch tập trung lên đến cấp tiểu đoàn phòng không gồm
đủ loại từ 37 mm, 12ly8 và lần đầu tiên còn nghe đâu có cả SA7 nữa.
Về không trợ thì có 2 chiếc Gunship của phi
đoàn 213 do Tr. uý Thục bay lead trước mở đường.
Trước đó trong lúc briefing, anh Bửu đã được
nói chuyện trực tiếp với anh Giang từ trong đồi 31 và được biết, ngày hôm qua
khi bay vào vùng anh Giang đã dùng chiến thuật "lá vàng rơi", từ trên
cao cúp máy auto xoáy trôn ốc xuống, nhưng vì phòng không địch quá dày đặc nên
khi gần đến đất, phi cơ anh bị trúng đạn rớt xuống gãy đuôi nằm bên cạnh vòng
rào phòng thủ ngoài cùng của Lữ Ðoàn 3 Dù. Phi hành đoàn vô sự, chỉ có copilot
là Th. úy Võ văn On bị xây xát nhẹ ở cổ, tất cả chạy thoát được vào trong căn
cứ Dù. Nhưng trước khi bỏ phi cơ, Mêvô Trần Hùng Sơn không quên vác theo cả cây
M60 trên cửa máy bay nữa.
Rút kinh nghiệm, hôm nay anh Bửu bay Rase
Motte sát ngọn cây theo hướng Ðông-Tây đi vào. Trên đường bay dọc theo quốc lộ
số 9, tôi còn nhìn thấy những cột khói bốc lên nghi ngút, chứng tỏ pháo binh Dù
bắn rất chính xác và hiệu qủa. Gần đến LZ anh Bửu đổi hướng lấy cấp Ðông
Nam-Tây Bắc để đáp xuống. Vừa ló ra khỏi rặng cây, tôi đã thấy chiếc Gunship
của trung uý Thục bay vòng lại, cùng với tiếng anh la lên trong máy "Bửu
coi chừng phòng không ở hướng Tây". Từ trên phi cơ nhìn xuống, giữa màu
xanh trùng điệp của rừng cây nhiệt đới, ngọn đồi 31 đỏ quạch nổi bật với những
đốm bụi đất tung lên từng cơn vì đạn pháo kích quấy phá của cộng quân Bắc Việt.
Không nao núng, anh Bửu vẫn điềm tĩnh tiếp tục
đáp xuống. Khi phi cơ còn cách mặt đất độ 15 thước thì trúng một tràng đạn
phòng không, phi cơ phát hỏa, bùng lên một đám khói bao trùm cả phi cơ, MêVô Em
la khẩn cấp trong máy - Đáp xuống, đáp xuống anh Bửu ơi, máy bay cháy.
Cùng lúc anh Bửu cũng cao tiếng báo động cho chiếc wing đang bay
cũng gần đó -Yên ơi, tao bị trúng đạn rồi, đừng xuống nữa - trong khi vẫn bình
tĩnh đáp xuống. May mắn là đạn trúng vào bình xăng phụ đã hết xăng, chỉ còn ít
hơi đốt, nên phi cơ không bắt cháy như phi cơ Đại uý An ở Bù Ðốp hôm nào. Vừa
chạm đất, theo phản xạ tôi cùng anh Bửu nhanh tay tắt gió, xăng, điện rồi nhảy
ra khỏi phi cơ. Mọi người chạy ngược lên đồi về phía hàng rào phòng thủ thứ
nhất của Đại Đội công vụ Dù cách khoảng 100 thước.
Tôi còn tiếc chiếc xách tay quần áo nên phóng vào trong phi cơ để lấy. Một cảnh
thương tâm hiện ra trước mắt, một binh sĩ Dù bị trúng đạn ngay giữa trán, nằm
ngửa chết ngay trên ghế. Trên sàn tàu, đống máy "sensor" vẫn còn
nguyên vẹn. Tôi chỉ kịp với lấy cái xách tay rồi phóng chạy lên đồi theo những
tiếng kêu gọi của binh sĩ Dù - trên đây nè thiếu uý, tụi tôi bắn yểm trợ cho -
Tôi lom khom chạy trong khi tiếng đạn nổ lóc chóc trên đầu. Lên đến nơi tôi thở
như bò rống. Không quân mà hành quân dưới đất thì phải biết là mệt đến đâu. Tôi
nhớ mãi hôm đó là ngày 22 tháng 2 năm 1971.
Vừa ngồi nghỉ mệt, tôi vừa nhìn xuống bãi tải thương nơi chiếc phi cơ đang đậu
hiền lành, thì cũng vừa lúc địch điều chỉnh tác xạ, một quả đạn đạn súng cối
rơi trúng ngay tàu nổ tung, bốc cháy khói đen mù mịt cả một góc trời. Tôi nhìn
con tàu sụm xuống, lòng quặn lên. Con tàu thân thương đó đã gần gụi với mình
lâu nay, giờ thành một đống sắt vụn.
Một lát sau, theo chỉ dẫn của anh em binh sĩ Dù, chúng tôi men theo giao thông
hào lần về đến bộ chỉ huy Lữ Ðoàn 3 Dù. Gặp lại phi hành đoàn anh Giang, On,
Sơn anh em chúng tôi mừng rỡ thăm hỏi rối rít. Chúng tôi được giới thiệu với
các sĩ quan trong ban tham mưu Lữ Ðoàn 3. Ðầu tiên là Đại tá Thọ lữ đoàn trưởng
Lữ Ðoàn 3, Th.tá Ðức trưởng ban 3, Đ.úy Trụ phụ tá ban 3, Đ.úy Nghĩa sĩ quan
liên lạc KQ, Tr. úy Chính sĩ quan Không trợ Dù, Th.úy Long phụ tá ban 2. Về
phía pháo binh thì có Tr.tá Châu Tiểu Đoàn Trưởng TĐ3PB Dù và Đ.úy Đào Văn
Thương trưởng Ban 3 TĐ3PB Dù. Ðại tá Thọ mừng anh em "mới đến" mỗi
người một điếu Havatampa và một shot Hennessy để lấy lại tinh thần. Tôi ngạc
nhiên vô cùng, đi đánh giặc, nằm ở tuyến đầu ác liệt vậy mà mấy "ông"
Nhảy Dù vẫn thản nhiên hút sì-gà Cuba và uống cognac như máy! Quả các xếp ăn chơi cũng dữ
mà đánh giặc cũng chì thật. (4)
N + 15: Địch vẫn pháo kích không ngừng, ngoại trừ khi có phản lực hoặc trực thăng chiến đấu trên vùng. Hầu như mọi nơi trên Đồi 31 đều trúng pháo, có nơi trúng ba bốn lần, đất cày sâu, loang lổ, đá bụi văng tứ phía. Thật không rõ vì sao có người thì chết ngay khi lãnh trọn một quả vào ngay hầm mình, người thì bị thương chưa kịp cứu thì bị trúng thêm, kẻ khác thì cuộn mình lại như con cuốn chiếu, ôm đầu che tai, đôi khi che luôn cả mặt khi pháo rớt lia chia xung quanh hầm, thầm nghĩ không biết khi nào đến phiên mình.“Ngày tháng cứ qua theo tầm bay lửa đạn, cả
trăm trái pháo mỗi ngày băm nát ngọn đồi vô danh bỗng chốc trở thành cõi chết,
cái chết cứ lần hồi gậm nhấm từ Đông qua Tây, từ Nam lên Bắc, từ những hầm hố
kiên cố ở trung tâm cứ điểm đến dãy chiến hào chỗ sâu chỗ cạn bao bọc ngoại vi, tất cả bỗng trở nên bình đẳng trước
sức công phá dữ dội của đạn pháo, mặt trận bỗng nhiên nghiêng hẳn về một phía,
chúng tôi ngồi đây, ngày và đêm thúc thủ trước tiếng súng địch. Hàng ngũ cứ
thưa dần, thà rằng cứ lao thẳng vào mũi súng, thà rằng đối mặt với quân thù,
thà rằng chết trong tiếng hò reo xung trận, có đâu cứ len lỏi mãi dưới hầm hào
mà cũng chỉ đợi chờ cái chết…
Chiều nay, Đồng đã nhìn thấy địch quân điều
quân lui tới, qua lại thấp thoáng dưới bóng cây bên những triền núi xa xa, và
biết đâu chừng đã mon men gần căn cứ, tuy các Đại đội bạn ở bên ngoài vẫn chưa
có phát hiện nào về sự xuất hiện của địch. Mọi việc vẫn phải làm thật nhanh và
thận trọng, xuất phát, lục soát, rải quân… Công việc quá bình thường của một
Trung đội tác chiến mà sao giờ này lại quá nặng nề. Mà không nặng nề làm sao
được khi quân số tiêu hao ngày một trông thấy. Rời Sài Gòn Đồng dẫn theo hai
mươi sáu thanh niên, mặt mày tươi như trên đường đi học, rồi lại còn được bổ
sung thêm qua trực thăng tiếp liệu hai chàng lục tỉnh mới cáu cạnh, và Nghĩa,
một Chuẩn úy mới ra trường, vị chi là hai mươi chín mống.
Nghĩa, người Sài Gòn, nhà ở đâu miệt Khánh
Hội, Hàm Tử, cũng có mẹ già và em gái, cũng mang cái hồn nhiên của tuổi trẻ vào
mặt trận như ngày Đồng mới ra trường. Hồi đó, Đồng còn được may mắn học nghề
với Trung úy Dũng tại ven đô, hành quân an nhàn quanh hãng bột ngọt An Phú
Đông, Tân Thới Hiệp, Nhị Bình, sáng lai rai cà phê và pháo, chiều về còn cóc
với ổi đưa cay. Có đâu như Nghĩa, giày trận còn bóng nếp quân trường, đã được
ném ngay vào cõi chiến trường dữ dội.Tôi đã không còn dịp bàn giao Trung đội
cho Nghĩa như ngày nào Trung úy Dũng đã giao trách nhiệm cho tôi. Nghĩa đã hy
sinh không lâu sau đó.
Chưa tới nửa tháng, Trung đội chỉ còn
lại mười tám ngoe, kể cả tôi. Đã thêm hai cái chết đau đớn của Binh nhất Mão và
tân binh Xuất cứ dai dẳng ám ảnh tôi. Gom góp, nhặt nhạnh lại không đầy cái nón
sắt, đó là xác Mão sau khi căn hầm của anh hứng gọn một trái công phá. Còn Xuất
thì cứ trào ra những bụm cơm sấy trộn lẫn máu trong cơn hấp hối, máu và cơm,
cơm và máu lẫn với những bọt khí ào theo vết thương vỡ banh lồng ngực, mảnh đạn
như một lưỡi rìu phạt ngang người, khi anh ngồi bên miệng hầm nhìn bâng quơ
những đỉnh núi, tay bốc từng bụm gạo sấy thẩy vào miệng. Tôi cũng ngồi cách
Xuất năm vị trí trong cùng một phiên gác chiều, và chỉ kịp la lên “Xuống hầm!
Pháo kích!” nhưng không còn kịp nữa, có lẽ tiếng gạo sấy khô khan vỡ rào rào
trong miệng đã làm Xuất không nghe được tiếng pháo địch rời nòng, viên đạn quá
tầm rơi ngoài sườn đồi lại tai quái gởi ngược về một mảnh lớn nhất. Khi chúng
tôi đến thì Xuất đã như thế, môi anh còn mấp máy điều gì, tôi đã cố cúi sát
người để chỉ nghe thều thào hình như tiếng “Mẹ ơi”… và Xuất đi hẳn.
Số bị thương mỗi ngày gia tăng. Dàn Hạ sĩ quan
chỉ còn lại thượng sĩ Đàng và trung sĩ Yến, tôi kể như giảm cấp số làm Tiểu đội
trưởng, chỉ huy một Tiểu đội Khinh binh và một tiểu đội hỏa lực. Mà nào phải
chỉ Trung đội chúng tôi? Hai trung đội kia cũng lâm vào tình trạng tương tự,
giật gấu vai cũng không đủ quân để trải kín tuyến phòng thủ vốn dĩ được thiết
lập cho một Đại đội mạnh, đầy đủ quân số. Một tuyến dài như thế, lại phải duy
trì ba vọng gác đêm, hai vọng gác ngày, chia đều chi mỗi người cũng ôm hơn năm
tiếng mỗi ngày trực gác.Kể cả tôi cũng chia xẻ ba giờ đốc canh ca thứ nhứt,
trong tình trạng căng thẳng kéo dài, mặt mày ai nấy hốc hác thấy rõ.
Đồng không dám nói thay những người lính của
mình, nhưng anh hiểu họ, hiểu nỗi lo âu căng thẳng mà tất cả cùng chia xẻ, như
anh chàng Ngọt đó, giữa lúc đạn pháo ầm ì trải lên trận tuyến, bỗng nhiên hắn
ta nhảy vọt lên nóc hầm tuột phăng quần chỉa cu ra phía trước, miệng la lớn một
hơi dài như tiếng hú của một con thú bị thương… “Con c…”Yến phải liều mạng nhảy
lên cặp cổ lôi xuống. Chúng tôi gần như ai cũng đang “chạm giây” như thế, mà có
lẽ sự nổ bùng của chiến trận là liều thuốc cuối cùng để giải thoát, sự giải
thoát tận cùng trên hai nghĩa trắng đen trần trụi.
Mọi người đều biết
được lực lượng của địch không còn xa căn cứ, và có lẽ họ đang ở lại tuyến xuất
phát để chờ đợi giờ “G”, khi mà mọi tần số trên máy truyền tin đều tràn ngập
ngôn ngữ xa lạ của quân thù.
Trước mặt Đồi 31 có
một hẻm núi, từ trên đồi nhìn xuống chỉ nhận biết con người nhờ sự di động, nếu
anh ta đứng yên thì không thể nhìn thấy, hẻm núi có một khoảng trống giữa hai
lùm cây rậm rạp, thế là địch chơi trò cân não. Không kể ban đêm là lúc chúng
tôi không thể quan sát, còn ban ngày có mặt trời lên là có người băng qua
khoảng trống đó, mặc kệ không biết bao nhiêu bom đạn được điều chỉnh chính xác
xuống mục tiêu, dứt tiếng súng là có người băng qua, dòng người cứ tưởng như
bất tận, rồi đêm đêm, từng vệt đèn và tiếng động ầm ì của chiến xa dội lên căn
cứ, dội lên mỗi người lính nỗi lo âu thật sự về khả năng chống chiến xa của đơn
vị, khi mà những trái M72 chưa một lần chứng minh hiệu quả trước vỏ thép xe
tăng, và khi mà cả căn cứ đã trần trụi, ngon lành như một đùi thịt nướng sau
các trận pháo kích liên tục của đối phương. Chúng tôi không có lấy một chướng
ngại vật, không có lấy một hàng rào kẽm gai, hay một trái mìn chống chiến xa để
an lòng phần nào lực lượng phòng thủ.
Và chúng tôi cũng chẳng phải chờ đợi lâu hơn
nữa. Mấy ngày sau, cuộc tấn công thật sự đã bùng lên trước khi ngày chưa đứng
bóng.” (3)
* *
N + 15. Phi Đoàn 219 đã được báo cáo đầy đủ về chiếc H34 thứ hai của
Tr. úy Bửu cùng chung số phận với chiếc H34 đầu tiên của Tr. úy Giang rớt trên
Đồi 31 với 2 phi hành đoàn nằm ụ tại nơi này.
“Buổi chiều cùng ngày, vùng rừng núi trời tối thật nhanh, chúng tôi dùng tạm
bữa cơm dã chiến với ban tham mưu Lữ Ðoàn rồi chia nhau ngủ ké với anh em Dù.
Tôi được ngủ chung một hầm với anh Nguyễn Quốc Trụ, một sĩ quan trẻ xuất thân
khóa 20 trường Võ Bị Ðà Lạt. Anh cũng là anh ruột của Tr. uý Nguyễn hải Hoàn,
một hoa tiêu chánh trong phi đoàn tôi. Tin tức chiến sự mỗi ngày một căng thẳng
hơn vì đối với cộng sản Bắc Việt, sự hiện diện của căn cứ 31 trên hệ thống
đường mòn HCM như một lưỡi dao đâm thẳng vào yết hầu của chúng. Vì thế cộng
quân đưa thêm quân vào tạo áp lực nặng nề lên căn cứ 31 với ý định đánh bật căn
cứ này ra khỏi sinh lộ của chúng.
Hai hôm sau, vẫn không có chuyến bay
tiếp tế nào vào được vì địch quân luôn di động dàn phòng không của chúng khiến
KQVN và HK không phát huy được ưu thế của mình. Mỗi sáng, chỉ có 2 phi tuần F4
đến ném bom vài khu vực khả nghi chung quanh đồi 31 và thỉnh thoảng mới có một
đợt B52 rải thảm ì ầm xa xa vọng đến rồi mọi sự lại chìm vào rừng núi trùng
điệp. Ngược lại, quân Bắc Việt tập trung bao vây, tăng cường pháo kích suốt
ngày nhằm quấy rối và làm tiêu hao lực lượng Dù”(4)
* *
Mission Viejo, Tháng 10, 2017
Vĩnh Chánh
*** Còn tiếp phần 2
vào tuần tới. BBT
H34 TRÊN ĐỒI 31 (Phần 2)
N + 18.
Hôm nay là ngày 25 tháng 2, 1971.
Cuộc tấn công của địch bắt đầu từ rạng sáng.
Địch pháo kích như điên vào căn cứ, cùng lúc tung hàng đợt quân từ hướng Bắc
đánh vào Đồi 31. Tiếng súng nổ rân, khói lửa mịt mù. Tiếng la hét trong máy
thật hỗn loạn. 3 toán tiền đồn của ĐĐ 34 bị tràn ngập bởi bộ binh địch, cùng
lúc phía ĐĐ 32 cũng đang bị xe tăng địch tấn công hàng ngang ngay trước vị
trí.
“Các Đại Đội ngoại vi
thúc thủ trước quân số quá đông đảo của đối phương trong khi còn phải chật vật
đối phó với chiến xa đang tràn lên như chỗ không người, nên Đại Đội 32 được
lệnh rút nhanh về căn cứ 31 để bảo toàn lực lượng, riêng Đại Đội 34 rút về chân
đồi phía Đông.
Thế nhưng, trước khi ĐĐ 32 về đến căn cứ thì
chiến xa địch đã lổm ngổm bò lên vị trí của Muôn, và phần việc của trung đội 2/
ĐĐội 33 của Đồng đã tới. Tôi nhìn thấy tổ tiên đồn bắn trúng đích một chiếc,
cụm lửa vàng khè lóe lên, phủ trùm khói đen trên mục tiêu. Khói tan, chúng tôi
tưởng như nằm mơ, chiếc xe tăng vẫn chậm rãi tiến tới, nòng đại bác trên chiến
xa vẫn khạc lửa dữ dội vào tuyến phòng thủ căn cứ. Muôn cố gắng bắn thêm hai
trái nữa vẫn vô hiệu, anh xách súng dẫn đồng đội lăn xuống triền đồi khi thêm
sáu chiếc tăng nữa cùng với bộ binh địch hò hét áp đảo tràn lên vị trí, chúng
tôi hướng tất cả hỏa lực bắn che cho Muôn và một vài toán của Đại đội 32 rút về
căn cứ, cùng lúc đó hai chiến đấu cơ A 4 Skyhawk và một phi tuần trực thăng võ
trang Cobra của Mỹ xuất hiện, oanh tạc mạnh mẽ vào đội hình tấn công của địch.
Tất cả hỏa lực của đơn vị của tôi, cùng với
một khẩu đội B3 trực xạ cận phòng và các tuyến tiên liệu được các pháo đội khác
ở căn cứ A Lưới, Đồi 30 bắn yểm trợ đã tạo nên một hàng rào lửa vững chắc, chặn
hết lực lượng xung kích của Bộ Binh địch ngay tại vị trí cũ của Muôn, xác địch
ngã trên triền đồi, lăn xuống vực thẳm, ngổn ngang như những khúc gỗ từ một khu
rừng vừa đốn vội, chưa bao giờ chúng tôi phải bắn nhiều như thế, hai khẩu M60
đã thay nòng liên tục, quạt từng giây đạn quét phủ lên mặt trận, phải nói Yến
bắn đại liên thật tài, chân hai càng được xếp gọn, nòng súng tựa hờ lên công sự
tạo một tầm chuyển dịch rộng lớn và dễ dàng cho xạ trường, để từ đó phủ gọn
tuyến tiếp cận của địch dưới tầm khống chế của con gà nòi dũng mãnh.
Mất sự hướng dẫn của Bộ Binh, chiến xa địch
khựng lại, như muốn chỉnh lại đội hình cho một đợt xung phong khác với hơn mười
chiếc đã ở trong tầm quan sát của chúng tôi. Ngay lúc đó hai chiếc Skyhaw nối
đuôi sà xuống sau trái khói chỉ điểm, từng trái napal hừng hực xé gió quăng
xuống mục tiêu chính xác, dũng cảm, mặc cho hỏa lực phòng không đạn chi chít
phủ kín đường bay. Trận địa địch bùng lên trong cánh rừng xăng đặc, hai chiếc
xe tăng tiền kích ngập trong khói lửa bốc cháy dữ dội, lính xe tăng nhảy ra
khỏi xe, người cháy phừng như ngọn đuốc, lăn lộn, quơ quào rồi ngã gục theo
tiếng nổ bung của chiến xa trúng đạn. Lên tinh thần, Khinh binh Thông cùng với
ba chiến sĩ khác băng vọt ra khỏi chiến hào, chạy nhanh xuống lưng chừng đồi,
cõng về được hai thương binh của ĐĐ 32 và một của trung đội mình từ tổ tiền đồn
rút về, nửa đường thì bị trúng đạn. Hạ sĩ Nhất Muôn đã tử trận tại vị trí đó. (3)
* *
N + 18, Từ sáng, tất cả hai nhóm phi hành đoàn 6 người của cả hai
chiếc H34 được lệnh ra nằm sẵn tại các giao thông hào gần bãi đáp chờ nguyên cả
một phi đội gồm 3 chiếc H34 của phi đoàn 219 mang tiếp liệu vào đồng thời tải
thương binh Dù và bốc luôn cả 6 người cùng một lúc.
“Sáng ngày 25 tháng 2 năm 1971, Tôi và anh Bửu
cùng vài thương binh Dù nấp chung với nhau trong một hầm trú ẩn. Ðến trưa khi
chúng tôi bắt đầu nghe tiếng máy nổ xa xa thì cũng là lúc địch khởi đầu trận
"tiền pháo" dồn dập lên đồi 31. Qua lỗ châu mai từ trong hầm cứu
thương nhìn qua bên kia đồi đối diện, cách nhau một cái yên ngựa, tôi thây rõ
hai chiếc xe tăng T-54 của cộng quân tiến lên xếp hàng ngang, cùng với quân
tùng thiết dày đặc chung quanh nhắm đỉnh đồi chúng tôi mà nhả đạn. Những tia
lửa từ nòng súng phụt ra, tôi và anh Bửu thụp đầu xuống cùng nhìn nhau như nhắc
nhớ câu mà anh em trong phi đoàn thường nói với nhau mỗi khi lên đường hành
quân "Trời kêu ai nấy dạ!".
Ngoài kia, trong từng giao thông hào binh sĩ Dù chống trả mãnh liệt, nhất là
những pháo thủ pháo đội B trên Căn Cứ 31, với những khẩu pháo đã bị hỏng bộ máy
nhắm vì pháo kích của địch, họ phải hạ nòng đại bác để bắn trực xạ thẳng vào xe
tăng địch bên kia đồi và trong những loạt đạn đầu tiên đã hạ ngay được 2 chiếc
T54. Nhưng để trả giá cho hành động dũng cảm này, nhiều binh sĩ Dù đã nằm
xuống, có người nằm chết vắt trên những khẩu pháo của họ.” (4)
* *
Trở về lại với trung đội 2, ĐĐ 33, các binh sĩ
ND vẫn còn chiến đấu tại tuyến phòng thủ. Tình hình tồi tệ, tuyến phòng thủ
thưa dần. Trước mặt là một lực lượng địch nhiều hơn gấp mấy chục lần, có luôn
cả chiến xa dẫn đường.
“Trung đội đã chiến đấu, trước hết và
duy nhất chỉ là vì sự sống còn của bản thân, phải lấy hết sức mình đương cự lại
những bước chân của tử thần đang lần lượt gọi tên từng mạng sống, không còn con
đường nào khác, không ai là anh hùng, không ai là dũng sĩ, không ai muốn “anh
dũng hy sinh” mà vẫn phải chết như rơm như rạ.
Trận chiến vô cùng ác liệt, tất cả các sự kiện
đã, đang và tiếp tục được mô tả, gần như diễn ra cùng một lúc, dồn dập, chồng
chéo lên nhau, đan chặt vào nhau rồi như bị một sức mạnh vô hình xé bung ra
trăm ngàn mảnh, mà Đồng, dù đã tận mắt chứng kiến, đang là một chiến binh trực
tiếp chiến đấu trong những giờ phút gian nguy đó, vẫn không tài nào lột tả hết
được tất cả mọi diễn biến hung bạo, tàn khốc của chiến trận…
Lợi dụng lúc thưa tiếng súng, tôi nhổm dậy
luồn theo giao thông chạy dọc tuyến Trung đội, kiểm điểm lại lực lượng. Toán
tiền đồn sáu người chỉ về được ba, hai người chết tại vị trí, Muôn đã để nỗi
ước mơ bình thường của mình vỡ vụn từ sau lưng ra trước ngực trên đường về. Rồi
ngay tại tuyến, một vị trí khác lại bị trúng đạn từ chiến xa địch khiến một
chết; cái chết của người lính tử trận giống nhau từ thiên cổ, không phân biệt
bên này hay bên kia chiến tuyến, cũng đen điu đau đớn, cũng co quắp quằn quại,
tay bấu chặt lấy mặt đất như không đành lìa nỗi bọt bèo của cuộc sống…
Trong khi phía chúng tôi, áp lực địch tạm thời
giảm nhẹ tuy họ vẫn còn ở đó, thì phía bên kia, tuyến phòng thủ của Trung đội 3
lại vô cùng nguy khốn. Toán tiền đồn năm người của trung đội, do một binh nhất
khinh binh chỉ huy, tại một chỏm đồi thấp hướng Tây Nam căn cứ vừa bị tràn
ngập, sau khi đã chiến đấu đến người lính cuối cùng, ngoan cường, đẩy lui bốn
đợt xung phong của địch, tôi đã nghe trong máy tiếng gào khàn khàn tuyệt vọng
lồng trong tiếng súng vang trời của những người quyết tử của truyền thống một
đổi năm, mười nếu chẳng may thất thế. Không cường điệu chút nào khi tuyên dương
họ như những anh hùng đã chết trong vinh quang, danh dự khi địch tràn lên vị
trí bằng không biết bao nhiêu xương máu đánh đổi.
Ngay tại vị trí này, địch nhanh chóng bố trí
một cụm hỏa lực mạnh mẽ gồm 2 cây 82 ly không giật và một 12ly8 vừa phòng
không, vừa bắn trực diện, khống chế trọn vẹn vị trí của Trung đội 3. On la chói
lói trên máy để xin lệnh Đại Đội… nó bắn quá chịu hông nỗi, sập bốn hầm chết
hết rồi. Đại đội lại gọi tôi, hỏi có tăng cường cho 3 được không? Tố báo cáo
tình hình trên tuyến của mình và đoán chắc hướng tấn công chính là ngay tại nơi
đây, khi phía trước mặt không phải là năm hay sáu chiến xa, con số đã trên mười
chiếc đếm được và vô số bộ binh địch đang lúc nhúc dưới những cành lá ngụy
trang.
Pháo địch vẫn rót tràn đều lên vị trí, san bằng,
sạt phẳng mọi thứ. Có điều bây giờ chúng tôi không còn lo lắng, vì không còn
phân biệt được đâu là pháo phe ta, đâu là “cà nông” phe địch trừ khi nó nổ , mà
đã nổ rồi thì phận ai nấy biết, đỉnh đồi trở nên bằng phẳng, và hình như đã
thấp hơn phần nào so với khi chúng tôi vừa mới đến, nhờ thế chỉ cần quay lưng
nhìn về phía thằng 3, chúng tôi cũng nhận rõ vị trí lợi hại của cụm hỏa lực đó,
một vài trái bắn hụt lao vèo qua phía chúng tôi rồi mất hút nổ xa xa, họ bắn
liên tục nên họ quên một điều là cùng chiến đấu với chúng tôi còn có pháo đội
B3. Tôi khom người chạy lên vị trí khẩu trọng pháo, chỉ cho trung Sĩ Nhất khẩu
đội trưởng vị trí 82 không giật của địch. Và nòng pháo từ từ hiệu chỉnh, tôi
nín thở theo cái gục đầu chầm chậm của khẩu pháo 105 ly hướng về mục tiêu…và
“Bắn”. Người hạ sĩ pháo thủ giật cò, viên đạn rời nòng trực chỉ khâu đội địch
Ầm… chúng tôi nhảy lên reo hò sung sướng khi nhìn thấy rõ ràng khẩu 82 ly không
giật của địch tung bắn lên trời sau tiếng nổ chính xác. Chỉ một viên đạn thôi, các
chiến sĩ pháo binh đã triệt tiêu hiểm họa đó.
Tuyến của chúng tôi nằm cách xa Bộ chỉ
huy Đại Đội, nên gần như độc lập tác chiến, tôi chỉ kịp thông báo cho Đại Đội
là địch bắt đầu tấn công trở lại, rồi nằm hụp xuống nghe lằn đạn veo véo trên
đầu, đội hình địch từ triền núi bên kia xuất hiện đông đảo trên đỉnh đồi rồi
chia nhau tràn xuống, lấp ló trồi sụt dưới mưa bom bảo pháo, pháo địch bắn ta,
nếu quá tầm cũng nổ trên đầu địch, bom đồng minh yểm trợ, lạng lách thế nào
không biết, cũng rơi ngọt xớt xuống đầu ta, bêu đầu sứt trán, la hét om sòm
tiếng Đức, tiếng Mỹ, thây kệ mẹ nó, đằng nào cũng phiêu diêu miền cực lạc.
Bắn phá một hồi, hai chiếc Skyhaw rời vùng và
nhanh chóng mất hút cuối chân trời, còn lại hai Cobra đảo lui đảo tới ạch đùng
ạch đùng mấy dây hỏa tiễn trúng ngay vào đám xe tank cũng chẳng thấy hề hấn gì,
trực thăng bắn cứ bắn, chiến xa địch vẫn tiến trong đội hình tấn công dưới sự
che chở của hỏa lực phòng không. Lần này họ thay đổi chiến thuật sau khi đã
nướng khá nhiều bộ binh trong đợt xung phong trước, thiết giáp xung kích mở
đường, bộ binh lom khom lấp ló theo sau, không còn hò hét ngậu xị.
Hai chiếc phản lực khác vào vùng lần này là
Phantom F4C, trong khi hỏa lực phòng không cũng đã áp sát chân đồi, OV10 lảng
vảng trên cao bắn trái khói chỉ điểm cho Phantom lao xuống mục tiêu. Điều không
may cho chúng tôi là trong đợt tấn công đầu tiên của phi tuần này, trái bom lửa
vừa phủ lên chiến xa, thì đồng thời chiếc F4 cũng bị bắn tung đuôi trong khi
ngóc đầu lên sau đợt oanh kích. Múi dù sặc sỡ mở bung trước khi con tàu bốc
cháy, lảo đảo đâm vào vách núi nổ vụn. Thế là tất cả máy bay có mặt trong khu
vực, kể cả hai chiếc Skyhaw mới vào vùng chưa bắn một phát đạn, bảo vệ cho phi
công lâm nạn chờ trực thăng cấp cứu. Chúng tôi không rõ họ có cứu được đồng đội
hay không, nhưng từ giây phút đó, chiến trường gần như bỏ ngỏ cho chiến xa lồng
lên áp đảo.
Xe tăng địch lập tức ào ạt xung phong, hai…
ba… năm bảy mười một chiếc tất cả cùng lao xuống, bỏ lại bộ binh phía sau, một
chiếc bò ngang chông chênh bên sườn đồi, lãnh nguyên trái pháo 105 ly trực xạ
hất nhào xuống vực thẳm, chúng vừa bắn vừa tiến và đã chiếm được bãi trực
thăng. Mọi người đã thấy khả năng diệt tăng của M72 không nhiều và không thể
bắn ở khoảng cách quá xa nên phải chờ đợi. Tất cả hỏa lực của chúng tôi chỉ có
thể tạm thời trì hoãn tốc độ tiến quân của bộ binh địch trong trời gian ngắn,
khi chiến xa chưa tiếp cận vị trí và tách chúng ra.
Hạ sĩ Nhất Chính và Tiểu đội Khinh binh lãnh
nhiệm vụ đón đánh đợt đầu tiên khi xe tăng vượt qua bãi đáp, tiến vào yên ngựa
hẹp trước khi bám vào căn cứ, đây là địa thế duy nhất có thể khống chế đội hình
địch, bắt buộc chúng phải lần lượt từng chiếc một theo hàng dọc tiến lên. Chính
dẫn theo Bình, Tám và Ngôn, mỗi người một cây M72, luồn theo giao thông hào, chận
ngang con đường xuống bãi tiếp tế. Chuẩn Úy Nghĩa muốn theo Chính, tôi nhìn anh
ái ngại, thôi Nghĩa à! Cần gì phải vội, anh ở đây chờ thay tôi là tốt nhất, ai
cũng sẽ có phần… Tôi nghĩ thầm nhưng không nói với Nghĩa đã thấm cái đau xót
trước những thân xác đồng đội ngay từ mặt trận đầu tiên của đời quân ngũ, mặt
anh hừng hực, mắt long lên như con thú bị thương. Tâm lý chung của những kẻ
đang không còn đường trở lại, và thế là phải vượt lên phía trước, vượt qua cái
hèn bản chất của chính mình, không còn một khái niệm gì giữa cuộc sống và cái
chết, mà có khi chết còn thanh thản hơn sống.
Chúng tôi hồi hộp nhìn theo hai chiếc xe tăng
dẫn đầu đang bò theo con dốc hẹp, đám bộ binh đã bị hai cây đại liên gài chéo
cánh sẻ, cùng với tốc độ bắn nhanh của M16 đè đầu, nằm dán xuống đất lãnh pháo,
bò lui bò tới không theo kịp chiến xa, kể như thiết giáp đã bị mù nên nó cũng
thận trọng xử dụng tối đa cây đại bác dọn đường.
Chính chờ chiếc đi trước bắt đầu ghếch mũi
súng lên đầu dốc, phơi toàn bộ cái ức xám xịt trước mũi súng, khoảng cách chừng
hai mươi mét, anh bình tĩnh bóp cò, trái đạn đen thui vẽ một đường thẳng chớp
nhoáng lao vào mục tiêu, nổ bùng vào cái mặt ù lỳ dị hợm, tưởng như mọi thứ
phải tan tành hay bốc cháy trước sức công phá trực diện của trái hỏa tiễn, thế
nhưng chiếc chiến xa chỉ khẽ khựng lại, như có vẻ giật mình chút đỉnh, rồi lại
tiếp tục tiến lên, không cháy, không nổ, không hề suy suyển. Thấy nguy, Tám bồi
thêm một trái trúng ngay hông pháo tháp khi nó vừa vượt ngang tầm, vẫn khỗng hề
hấn gì, thế là cả toán đành dạt ra, ném tới tấp lựu đạn vào gầm xe, trong khi
chiếc xe đi sau cũng vừa bám theo được và tác xạ đại liên tới tấp vào vị trí
của Chính, tên xạ thủ 12ly8 chưa bắn được bao nhiêu đã lãnh nguyên một tràng
M16 gục xuống, xác hắn vắt vẻo trên thành xe.
Trung đội 2 bất lực để cho chiếc số 1 tiến
thẳng vào căn cứ, chiếc số 2 vừa nối theo thì Chuẩn Úy Nghĩa nhảy phắt lên,
thẩy gọn một trái M26 vào trong lòng pháo tháp, anh chưa kịp nhảy xuống thì
trúng đạn, gục chồng lên xác địch thủ cùng lúc với tiếng nổ “bụp” tức tối, khói
từ trong chiếc chiến xa bốc lên, sao nó vẫn chạy, vẫn tiến lên phía trước? Nó
chạy quờ quạng thêm một đoạn ngắn rồi nổ tan ra thành hai mảnh, pháo tháp bật
ngược ra sau cùng với xác của Nghĩa.
Được chiếc số một mở đường, cả đám xe tăng
cùng ào ạt tiến lên kéo bộ binh đông như kiến cỏ, lúp xa lúp xúp, một chiếc trờ
tới ủi chiếc bị cháy xuống sườn núi, lấy đường tiến lên, trong lúc chiếc số 1
đã vào hẳn vị trí trung tâm, bắn phá Bộ Chỉ Huy Pháo Đội và mon men tìm tới Lữ
Đoàn. Đồng và lính của anh cố gắng dùng hết hỏa lực trì hoãn bước tiến của xe
tăng địch, nhưng vô ích. Không có một trái M72 nào có khả năng công phá vỏ thép
chiến xa dù các chiến binh đã thừa gan góc tiếp cận từ mọi hướng, trước, sau,
hông, bụng, pháo tháp, bánh xích. Chúng đóng kín pháo tháp, chỉ xử dụng đại bác
và đại liên song hành càn lên hầm hố, công sự, giao thông hào. Mũi xung kích
của địch càn lên chiếc hào, xé Trung Đội 2 của Đồng ra làm hai mảnh, với tình
thế đó, bắt buộc phải ra khỏi vị trí cố thủ, đánh cận chiến với… xe
tăng. (5)
*
*
Toán phi hành của Th. úy Khánh vẫn còn núp
trong giao thông hào khi chiến xa địch bất chấp tổn thương vẫn tiếp tục bò dần
đến vị trí của anh, theo sau lưng lúc nhúc cả trăm lính tùng thiết. Tiếng nổ
của đạn nhỏ đạn lớn, tiếng đạn rời nòng 105ly bên cạnh, tiếng ầm ĩ của chiến xa
địch, tiếng la hét của người bị thương lẫn những binh sĩ đang chiến đấu cộng
thêm với mùi bụi đất, của khói, mùi thuốc súng, mùi của… thần chết khiến Khánh
co rúm người trong hầm.
“Không ngờ, chỉ một lúc sau 2 xe tăng khác ở
phía sau tiến tới ủi những chiếc xe cháy xuống triền đồi rồi lại hướng súng đại
bác về đồi chúng tôi mà bắn! Sau vài loạt đạn, một phi tuần 2 chiếc F4 xuất
hiện nhào xuống oanh tạc vào đội hình địch, và lại phá hủy thêm 2 xe tăng nữa.
Trong tiếng bom đạn tơi bời, tôi vẫn nghe văng vẳng tiếng máy nổ của những
chiếc H34 đang vần vũ trên cao như lo lắng cho số phận những đồng đội của mình.
Cho đến khoảng sau 5 giờ chiều thì địch tràn lên chiếm được đồi. Chúng lùng sục
từng hầm trú ẩn kêu gọi binh sĩ Dù ra đầu hàng. Biết không thể làm gì hơn, tôi
và anh Bửu tháo bỏ súng đạn cá nhân, chui ra khỏi hầm.” (4)
* *
Trở về lại với trung đội 2 vẫn đang cận chiến
với chiến xa và lính tùng thiết của địch. Tình hình quá hỗn loạn, cận chiến nơi
này, phản kích nơi kia. Bắn Bắn. Quăng Quăng. Theo linh tính. Theo trực giác.
Nằm xuống rồi lại ngồi dậy. Lăn qua hố này, rồi đến hố khác. Đứng dậy bắn một
tràng đạn, thụp xuống khi kịp thấy lóe sáng của B40 hướng về mình rồi tiếng nổ
chát tai sau lưng…
Sau đây là những giây phút cuối cùng của trận
đánh trên Đồi 31:
“Đã có bốn chiếc tăng địch lọt vào căn cứ,
trong lúc bộ binh vẫn còn vất vả phía ngoài, chúng tôi vẫn để hai cây đại liên,
và hai cây khác của Trung Đội 1 vừa mới chuyển qua, bắn ghìm bộ binh, phần còn
lại lao vào tăng địch, chiến trường không chỉ là của Trung Đội, mà cả Đại Đội
đã lồng lên, bu kín các chiến xa, mặc cho nòng súng xe quay tròn gạt xuống.
Nhưng làm gì được? Đã bắn hết số M72 để gãi ngứa chúng, đã ném không biết bao
nhiêu lựu đạn để làm nhột chúng, đã chỉa nòng M16 thật gần chỉ bắn vỡ được kính
mắt mèo… không lẽ lấy răng mà cắn? Sức cùng lực tận, hai cây đại liên vừa hết
đạn là bộ binh nương theo khói lửa tràn lên, không biết cơ man nào mà đếm,
chúng tôi vừa đánh vừa lùi, lùi trên xác đồng đội, lùi trên những đôi mắt đớn
đau tuyệt vọng của những anh em
bị thương không còn người cứu chữa đang nằm chờ chết.
Cả ngọn đồi đã trở thành biển lửa và máu khi tất cả
hỏa lực của hai bên đều tập trung tác xạ vào một tọa độ duy nhất, dù mục đích
vẫn khác nhau rất xa…” bắn lên đầu tôi đi! Vĩnh biệt! Bắn lên đầu tôi đi! Vĩnh
biệt!” Trên tần số Đại Đội đã vọng lên lời từ biệt gởi khắp bốn phương. Câu hét
trong máy truyền tin của Đ. Úy Đương trở thành bất diệt. Hai chiếc phản lực
chúi xuống đỉnh đồi, chùm bom đen đủi lao xuống mục tiêu là một bầy xe tăng bốn
năm chiếc, và cả chúng tôi mình trần thân trụi. Tôi sững sờ đứng như trời trồng
nhìn chùm bom lao xuống đầu mình, thật nhanh, thật nhanh, thật gần và gần hơn
nữa, rồi chỉ kịp ôm nón sắt nằm chúi vào vách đá trong một loạt tiếng nổ vang
rền, long trời, đất đá, sắt thép, mảnh bom, mảnh thịt người, rơi lào rào, lịch
bịch. Đồng minh oanh tạc thật chính xác! Bom đạn không chỉ thả trên đầu quân địch
mà luôn cả ngay trên đầu của chính quân ta trong một nghĩa cử anh hùng của
những người quyết chống trả đến phút cuối cùng. Đỉnh đồi nát bấy những mảnh vỡ
của công sự, những chiến sĩ cuối cùng của pháo đội B3 cùng với Đại Úy Nguyễn
Văn Đương, người Pháo Đội trưởng vẫn kiên cường cho đến phút cuối cùng trong
những cố gắng gan góc, tác xạ trực diện vào xe tăng địch đang loay hoay, lúng
túng trước địa hình lồi lõm, hầm hố mà khoảng cách chỉ là năm, mười mét. Kể từ
lúc đó, chiến địa mất hẳn liên lạc với Pháo Đội B3.
Ba phần tư ngọn đồi đã nằm trong tay địch,
chúng tôi chỉ còn giữ được một phần Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn, Lữ Đoàn, nhưng không
còn ai trong những vị trí đó. Tất cả đã ra ngoài cùng sát vai chiến đấu, và hệ
thống chỉ huy liên lạc vẫn duy trì đầy đủ cho đến cấp trung đội, dù trên thực
tế, một trung đội còn không quá 10 người còn khả năng chiến đấu. Sau khi tái
phối trí lực lượng, chúng tôi được lệnh trực tiếp của tiểu đoàn, tổ chức một
cuộc phản kích toàn bộ trên trận tuyến, cố gắng chiếm lại các vị trí đã mất với
hy vọng không quân sẽ yểm trợ hữu hiệu để giữ vững căn cứ.
Khi đã qua phần mở màn đầy kịch tính của lo
âu, sợ hãi nơi con người thèm sống, khi mà khói súng đã quyện vằn vện với mồ
hôi trên mặt, khi những vết máu đồng đội đã đông cứng trên hai tay người lính
chiến, thì khái niệm sống, chết bỗng trở thành vô nghĩa, nhất là trong hoàn
cảnh không còn có thể chọn lựa như ở đây, tất cả chỉ còn là định mệnh. Vì thế,
tất cả đã hăm hở lao lên trong một cố gắng tuyệt vọng, lại bắn, lại thụt M72,
lại ném lựu đạn, lại leo tràn lên xe tăng địch, mà bây giờ đã có bộ binh phối
chiến, mặt đối mặt với lưỡi lê báng súng, lăn xả vào nhau bắn giết, đâm chém,
lại loay hoay không biết phải làm gì với khối sắt di động đó, lại bị thương,
lại ngã gục giữa bom bầy pháo lũ, pháo nổ chụp, pháo công phá, pháo nổ chậm,
trên đầu chụp xuống, dưới đất nổ hất tung lên, phạt ngang lưng, chém ngang cổ.
Bom, pháo cả hai bên cùng bắn vào một chỗ, lính cả hai phía cùng chia nhau lãnh
đủ, đạn bắn thủng xuyên màng tang trổ ra sau ót, óc vỡ tung ra với máu, vài cái
nón sắt lăn lông lốc trên những đôi dép râu tuột quai, nhầy nhụa trong một dòng
nước đỏ ối đang khởi thủy vết chảy ngoằn ngèo của một dòng sông máu. Xác chết
từ hai phía thân ái ôm chầm lấy nhau rồi đổ ụp xuống nằm cạnh nhau hiền hòa như
chưa hề quen biết làm ngọn núi chợt cao lên với muôn ngàn lời ai oán.
Đợt phản kích cuối cùng này không đủ sức mạnh
để đạt hiệu quả mong muốn, và từ dưới chân đồi tràn lên một đợt sóng biển người
và chiến xa khác. Địch tung toàn bộ lực lượng vào đợt tấn công quyết định,
trong khi phía chúng tôi đã sức cùng lực tận, đành chấp nhận rút lui theo lệnh
trục tiếp từ Th. tá Lê Hồng, trưởng Ban Ba TĐ3ND, để hạn chế thêm thương vong.
Đơn vị rút xuống khe núi, trung đội của tôi
chỉ còn lại sáu người, có Thượng sĩ Đàng và Trung sĩ Yến. Hạ sĩ Nhất
Chính đã tử trận khi một chiếc chiến xa địch nghiến qua người
sau khi anh đã bị thương trong đợt phản kích. Tiểu đội khinh binh chỉ còn lại
Thông, Ngôn và Tám. Tôi lại được xuống cấp làm tổ trưởng khinh binh,
dẫn hai ông tổ phó mở đường rút cho đơn vị, mang theo được rất ít thương binh
nhẹ, trong đó có Bé, trung đội trưởng trung đội một.
Cái đau bại trận thấm lên từng khuôn mặt mệt
mỏi, chán chường, không đủ can đảm nhìn thẳng vào mắt nhau, dù chỉ để đôi điều
chia sẻ. Tôi bỗng hổ thẹn vô cùng trước giọt nước mắt âm thầm lau vội
của Thượng sĩ Đàng, ông đã yêu những người lính trong trung đội bằng tình yêu
thương ruột thịt, nên cũng đau gấp vạn lần từ thiếu vắng, tang hoang, buồn tủi
trước cái nhìn trân trân vô hồn của Thông và Tám. Họ đang nghĩ đến số đồng đội
bị thương đang chờ chết trong tay địch, điều mà từ trước tới nay, chưa ai một
lần nghĩ tới.
Rừng chiều bỗng đổ mưa, tiếng sấm
gào cùng với tiếng pháo tàn trận, dội vào vách núi, vỡ vụn ra những âm thanh
buồn bã của hồi chuông tử biệt, mưa tuôn rì rào trên lá, rì rào lời kinh chiêu
hồn vang vọng. Trung đội lầm lũi tiến về phía trước, theo sự hướng dẫn của ĐĐ
31 còn nguyên vẹn, đang tiến về căn cứ, và chờ chúng tôi ở hai cây số đông đông
bắc. Trong khi ở một hướng khác, ĐĐ 34 cũng đang đón phần còn lại của ĐĐ32,
trước khi tập hợp tại một vị trí định sẵn. Chờ lệnh mới.
Nhận lệnh trực tiếp từ tiểu đoàn, tổ
chức chốt chặn, để tất cả thương binh nặng, nhẹ mang theo được, sẽ cùng ĐĐ
31 và bộ chỉ huy tiểu đoàn rút trước qua triền núi bên kia, sau đó, sẽ tìm gặp
ĐĐ 34 đang cùng với một bộ phận khác của tiểu đoàn di chuyển cách đó chừng bốn
cây số đông đông bắc, móc nối, dẫn đường cho hai cánh quân gặp nhau.
Nhiệm vụ nghe có vẻ nhẹ nhàng, nhưng quả thực, khi đồng đội cuối cùng khuất sau
hẻm núi, Đồng cảm thấy vô cùng cô đơn với năm người còn lại. Và trên đồi 31 vẫn
ầm ì tiếng pháo truy kích của xe tăng địch bắn vu vơ vào vách núi.
Chắc
chắn khi leo lên được đỉnh Đồi 31, địch đã gánh chịu một sự tổn thất không thể
bù đắp nỗi về quân số, nên họ đã không còn khả năng tổ chức truy kích, vì
thế, “trung đội sáu người” bớt được gánh nặng nghênh cản để lần mò theo tiếng
súng hướng dẫn, tìm về đại đội bạn. Cho đến quá nửa đêm thì gặp nhau, và chỉ
kịp siết chặt nắm tay chào hỏi, gấp rút quay theo đường cũ, theo chân
ĐĐ 34, về gặp lại tiểu đoàn trước khi trời sáng. Thời gian không còn thuộc
về chúng tôi.
Đoàn quân lần dò trong bóng tối của trùng điệp núi rừng, bám vai nhau tuôn dần xuống dốc núi dựng đứng, cố gắng tiến thật nhanh về điểm hẹn, nơi đó, một đơn vị bạn đang trên đường tiếp ứng. Đến gần sáng, đơn vị chúng tôi gặp được quân bạn đang hướng tới đồi 31 cùng với chiến xa. Qua mấy ngày sau, đơn vị tôi được trực thăng bốc về Khe Sanh. (5)
20201101 H34TD31 07http://legacy.lib.utexas.edu/maps/topo/laos/ban_kadap-6242-2.pdf
Sau đây là những gì xẩy ra cho nhóm phi hành
đoàn sau khi họ tháo bỏ súng ống, bước ra khỏi hầm:
“Về phía KQ, tôi, anh Bửu, On và Sơn bị trói bằng dây điện thoại và
bị dẫn giải ra Bắc Việt chung với tất cả tù binh khác. Không thấy anh Giang và
Em đâu. Chúng tôi bắt đầu thăm hỏi các SQ và binh sĩ Dù tù binh trên đường đi.
Cuối cùng tôi gặp được anh Long là người ở chung trong hầm với anh Giang khi
cộng quân kêu các anh ra đầu hàng. Ðến lần thứ 3 các anh vẫn không chịu ra nên
chúng thảy lựu đạn chày và bắn xối xả vào hầm. Anh Long chỉ bị thương nhẹ nên
chúng bắt theo, còn anh Giang vì bị thương nặng gãy cả 2 chân không đi được nên
bị chúng bỏ lại và chết ở trong hầm. Về phần Mêvô Em thì bị lạc đạn trúng bụng
đổ ruột ra ngoài, khi bị bắt dẫn đi Em cứ 2 tay ôm bụng giữ lấy ruột mà không
hề được băng bó vết thương nên đi được một khoảng không chịu được đau đớn, Em
gục chết ở bên đường.
Thế là Phi Đoàn 219 ghi thêm vào quân sử của mình thêm một thiệt hại: 2 phi
hành đoàn trên chiến trường Hạ Lào. Trong đó anh Giang và Em đã vĩnh viễn ở lại
trên đồi. Ngọn đồi quyết tử 31. Những người còn lại của 2 phi hành đoàn đó là
Bửu, On, Khánh và Sơn thì sa vào tay địch, bị đưa đến những bến bờ vô định,
biết còn có ngày về hay không? (4)
* *
Cùng với nhóm phi hành 4 người của Khánh,hầu như toàn bộ chỉ huy
LĐ3ND tại Đồi 31 đã bị bắt làm tù binh, bao gồm Đ.tá Nguyễn Văn Thọ LĐ Trưởng
LĐ3ND, Th.tá Nguyễn V. Đức trưởng Ban 3 LĐ3ND, Tr.tá Bùi V. Châu TĐT TĐ3PBDù,
Đ.úy Đào V. Thương trưởng ban 3 TĐ3PBDù, Đ.úy Nguyễn Quốc Trụ phụ tá Ban 3
LĐ3ND, Đ.úy Lê Đình Châu ĐĐ trưởng công vụ LĐ3ND, Th. úy Nguyễn Văn Long Ban 3
LĐ3ND, Tr. Úy Đinh Đức Chính sĩ quan không trợ… cùng nhiều quân nhân các cấp.
Tất cả đều bị trói tay và xô, đẩy, kéo đi rất tàn nhẫn và rất nhanh trong đêm
vì địch sợ bị truy kích hoặc B52 trải thảm. Những người đi chậm, ngay cả những
thương binh, đều bị la mắng, đày đọa, đánh bằng báng súng, thậm chí cho chết.
Riêng Th.úy Vinh, người chỉ huy toán Điện Tử ND đến Đồi 31 trên cùng chiếc H34
bị lâm nạn của Bùi Tá Khánh, cũng bị bắt tù binh, nhưng đã can đảm trốn thoát
được bằng cách buông người truột xuống sườn đồi ngang qua một khúc quẹo trong
đêm.
Vừa đi vừa bị bắt chạy theo tiếng la hét, chửi
rủa của bọn lính áp giải, với 2 tay trói ké sau lưng, mà trời lại sinh tội đổ
mưa, Khánh rất khó khăn theo kịp đoàn người. Kẻ nào bị té ngã nếu không có sự
giúp đỡ của bạn tù khác thì thật vất vả để tự đứng dậy. Sau một đêm bị thúc
giục đi nhanh không nghỉ, tất cả toán tù binh được cho dừng chân vào sáng sớm
hôm sau. Càng xa mặt trận bao nhiêu, niềm hy vọng được cứu thoát bởi toán Lôi
Hổ hay trinh sát Dù càng nhỏ dần trong lòng Khánh và mọi người. Có đôi lúc anh
cầu mong B52 thả bom ngay trên toán tù đang lầm lũi đi trong đêm vì anh nghĩ
may ra anh có thể thoát được giữa những hỗn loạn của bom nổ, lỡ có chết thì
cũng chấp nhận dễ dàng hơn là phải sống tù đầy trong tay bọn CS khát máu này.
Toán tù binh Đồi 31 của Khánh di chuyển với
nhau như vậy trong gần 2 tuần liên tiếp, đa số là đi bộ, có vài ba chặng đường
thì bị dồn cứng chở trên xe molotova. Nhìn ai cũng xơ xác, thiểu não, thiếu ăn
thiếu ngủ, quần áo trận rách tươm. Khi đến thành phố Vinh, mọi người được lệnh
dừng lại, và ở đó trong 4 ngày, qua đêm ở những hợp tác xã. Dân làng xung quanh
có chạy đến xem, nhưng không một ai có bất cứ một hành động ghét bỏ thù hận nào
và bị toán lính gác đuổi đi. Từ Vinh, toán tù binh Đồi 31 có thêm những bạn tù
mới từ các đơn vị chiến đấu khác như TQLC, BĐQ và Bộ Binh; tất cả lại bị lùa
lên những toa xe lửa bịt bùng và chở thẳng ra Hà Nội, vào ngay trại tù đầu tiên
ở Ngã Tư Sở.
Nhà tù này là một biệt thự của Pháp ngày xưa. Nơi đây có trên một chục phòng, đã từng giam giữ tạm một số tù binh phi công Mỹ, với những tên tuổi còn ghi trên tường. Chúng chia cứ 6 người ở chung một phòng, không phân biệt quân binh chủng hay cấp bậc. Nơi này có trên một chục phòng như vậy.
* *
Trong khi toán tù binh trong đó có Th.úy Khánh
đang trên đường bị dẫn độ ra Bắc, thì vào ngày 28 tháng 2, 1971, từ một vị trí
chếch về hướng Đông và không quá xa Đồi 31, lần lượt toàn bộ TĐ3ND được trực
thăng vận về lại Khe Sanh. Tổn thất nặng của tiểu đoàn chỉ gom phần lớn ở ĐĐ 33
của Đồng và 32 của Đ.úy Thiếp, ngoài ra các ĐĐ 30, 31 và 34 hầu như còn nguyên
vẹn. Trong suốt thời gian nằm dưỡng quân tại chỗ, TĐ3ND tái bổ sung và trang bị
lại đơn vị. Dù được bổ sung, Trung đội 2 của Đồng tạm thời chỉ có 16 người, kể
cả người chỉ huy, bằng một nửa của cấp số bình thường.
Qua tin tức của các “phóng viên chiến trường”
trong nước cũng như ngoại quốc, mà đa số ngồi nhâm nhi cà phê ở Givral, La
pagoda, hay nếu gan dạ lắm cũng chỉ quanh quẩn ở Bộ Tư Lệnh tiền phương Quân
đoàn I, Đông Hà, Khe Sanh, thêu dệt lên những bản tin thật giật gân, bi thảm
hóa một trận thua vốn là lẽ thường của chiến tranh để cho rằng, quân ta thất
thủ đồi 31 tức là toàn bộ Lữ đoàn 3 Nhảy Dù đã bị tiêu diệt. Thông tin kiểu đó,
đã vô tình ám ảnh những đơn vị chưa được tung vào mặt trận, mà hiệu quả tâm lý
chi phối phần lớn khả năng chiến đấu.
Họ không hề biết rằng, ngay sau cuộc hành quân Lam Sơn 719 chính thức chấm dứt vào đầu tháng 4, 1971, từ Huế, khi màn diễn binh tại Phú Vân Lâu kết thúc, thay vì được không vận về Sài Gòn để dưỡng quân như thường lệ, thì sân bay mà LĐ2ND đáp xuống lại là phi trường Cù Hanh, Pleiku đất đỏ. Tin hành quân bí mật cho đến nỗi quá nhiều binh sĩ ND tức giận và đạp nát bao nhiêu nón lá bài thơ mua sẵn cho người nhà tại hậu cứ Sài Gòn. Lữ Đoàn 2 ND dưới quyền chỉ huy của Đ.tá Trần Quốc Lịch, gồm có các TĐ5ND, TĐ6ND, TĐ11ND, TĐ2PBND cùng các đơn vị yểm trợ như Quân Y, Công Binh, Trinh Sát…, đã lao ngay vào một mặt trận căng thẳng khác: Giải tỏa căn cứ hỏa lực 6 ở Dakto, Tân Cảnh do một đơn vị thuộc Sư đoàn 22 Bộ Binh trú đóng, đang bị Sư đoàn 320 Cộng quân vây hãm từ nhiều tuần qua. LĐ2ND đã đánh tan 2 trung đoàn 66 và 28 cùng với 1 tiểu đoàn phòng không của Bắc Việt khiến địch phải rút khỏi chiến trường.
* *
Sau chừng 3-4 tháng nằm tù ở Ngã Tư Sở, toán
tù binh của Khánh được đưa đến một nhà tù khác có tên Bất Bạc, nằm sâu trong
rừng núi của Sơn Tây. Tại đây, có sẵn nhiều tù binh khác của VNCH, thuộc mọi
binh chủng bị bắt từ nhiều mặt trận khác nhau ở Miền Nam. Từ đây trở đi, Khánh
cùng các bạn tù binh khác bắt đầu một cuộc sống thực tế đầy trắc trở, cùng cực,
với lao động khổ sai, tuyên truyền, thù hằn của bọn cai tù được dạy sẵn sàng
bắt lỗi, nhục mạ, la lối chưởi bới, đánh đập, giam đói, chà đạp danh dự và phẩm
giá của người tù binh. Chúng càng ra tay tuyên truyền, đối xử tàn tệ bao nhiêu
thì Khánh và các bạn tù lại càng cương quyết, bền bỉ và quyết chí phải sống để
còn là nhân chứng cho chính sách đối xử tàn nhẫn của CS đi ngược lại quy ước tù
binh Genève bấy nhiêu. Sở dĩ những tù binh trong trại vẫn hiên ngang kiên cường
vì ai cũng biết sau lưng mình còn có cả một nước VNCH của mình, bao nhiêu anh
em trong binh chủng đang chờ đón mình về, rằng mình không bị bỏ quên. Vì vậy họ
không bao giờ có cảm tưởng họ bị bỏ rơi, nghiệm thấy bị bắt tù binh chỉ qua là
một biến cố kém may mắn bất cứ một quân nhân tại mặt trận cũng có thể gặp phải,
tuy nhiên vẫn còn hơn bị thương tật vĩnh viễn hoặc bị chết.
Anh đau xót nhìn những niên trưởng thường xuyên bị chúng hạch sách, đày đọa, hay quấy nhiễu vô cớ; những anh em tù khác bị thương tật, nặng có nhẹ có, bị đối xử tàn nhẫn. Người người đều có lúc bị suy sụp tinh thần, nhưng nhìn chung ai ai cũng giữ vững niềm tin, lòng can cường và sự đoàn kết, luôn binh vực nhau ngay cả những khi bị chúng làm áp lực. Chính vì vậy, các bạn tù rất thương yêu nhau, đùm bọc nhau, chia xẻ với nhau từng miếng ăn, công việc nặng nhọc, tâm sự vui buồn, lời cầu nguyện… Anh em thỉnh thoảng nhắc đến chuyện phim “Cầu Sông Kwai”, mà hầu như mọi người cùng thời với Khánh đều có xem, căn dặn nhau phải sống tư cách như các tù binh người Anh trong phim. Cũng vì vậy anh em tù thường xuyên hay huýt sáo bản nhạc trong phim nổi tiếng ấy. Với Khánh, anh luôn cảm thấy mình may mắn hơn nhiều bạn tù khác vì anh không những độc thân, mà ngay cả người yêu anh chưa có để thầm thương nhớ hay khóc thầm để phải suy sụp tinh thần.
* *
Vào gần cuối năm 1972, có lẽ do những cuộc
không tập ngày càng ác liệt của Không Quân Mỹ trên Miền Bắc, nhóm tù binh của
Th.úy Khánh bị di chuyển đến trại tù Tràng Định nằm ở Lạng Sơn.
“Đêm mùa đông giữa rừng núi Lạng Sơn trời lạnh
căm căm thật là khó ngủ. Để chống trả cái lạnh, chúng tôi phải hai đứa một cặp
đem hết mền ra, một phần để lót lưng vì nằm trên giường tre, gió cứ tha hồ luồn
theo kẽ hở vào ve vuốt sống lưng, phần còn lại thì dùng để đắp. Vì trời lạnh
không có chú muỗi nào dám vo ve nên chúng tôi hạ luôn mùng xuống làm mền. Có
bao nhiêu quần áo, chúng tôi mặc hết vào người rồi chui vào đống mùng mền, dựa
lưng nhau mà tìm giấc ngủ. Phải một lúc sau mới có chút hơi ấm và vì mệt mỏi
sau một ngày làm việc quần quật chúng tôi cũng chìm dần vào giấc ngủ.
Đang thiu thiu chúng tôi bỗng choàng thức dậy
bởi tiếng loa léo nhéo ở giữa sân trại:
“Đả đảo đế quốc Mỹ đã dùng B-52 ném bom rải
thảm vào bệnh viện Bạch Mai và khu vực dân cư ở thủ đô Hà Nội. Bọn chúng đã lật
lọng không chịu ký hiệp định mà hòng dùng sức mạnh quân sự để khuất phục nhân
dân ta, bắt đảng và nhà nước ta phải ký một hiệp định với nhiều bất lợi cho ta.
Nhân dân ta quyết đập tan âm mưu của đế quốc Mỹ và tố cáo tội ác dã man của
chúng trước dư luận thế giới”.
Dù bị mất giấc ngủ, chúng tôi hết sức nôn nao
và xì xầm bàn tán với nhau vì đây là sự việc lạ lùng chưa từng xảy ra trong
suốt 2 năm tù lao động khổ sai khắp các miền rừng sâu bắc Việt. Trong chế độ tù đày mà cộng sản gọi là cải tạo, việc
lao động nặng nhọc phải đi đôi với nhồi sọ chính trị mà việc đọc báo, nghe loa
phát thanh là một chính sách lớn vì họ lập luận rằng cứ cho nghe mãi rồi cũng
phải tin. Dĩ nhiên chỉ có những tin tức hạn chế do một đài của nhà nước, và sau
khi đã được bóp méo, vo tròn theo ý họ rồi mới cho cả toàn dân miền Bắc nghe.
Điều này cho thấy nhà nước cộng sản không hề tôn trọng người dân mà họ vẫn tôn
làm chủ, vì trong khi họ theo đuổi hơn 4 năm trời một cuộc tranh đấu chính trị
trên bàn hội nghị mà kết quả có tầm ảnh hưởng rất quan trọng cho vận mệnh của
đất nước thì người dân chẳng hề biết một tí gì hết. Cho đến khi Hà Nội ăn bom B52,
chẳng dấu ai được họ mới la ầm lên đổ thừa cho Đế quốc Mỹ. Thế mà hôm nay không
hiểu tại sao bỗng dưng họ lại phát thanh cho toàn dân nghe một bản tin thuộc
loại cơ mật như vậy.
Tối hôm sau và những hôm kế tiếp, sau khi ăn
cơm, chúng tôi nhanh chóng thu xếp rồi lên giường nằm vừa bàn chuyện vừa ngóng
tai chờ nghe loa. Cái loa thường ngày chúng tôi ghét cay ghét đắng vì âm thanh
chát chúa của nó, bỗng dưng hôm nay chúng tôi lại mong được nghe những gì nó
mang đến. Quả nhiên, qua chiếc loa, người xướng ngôn với giọng đanh thép, ngoài
bài xã luận một chiều thường lệ, còn cho biết “bộ đội phòng không anh dũng đã
bắn rơi nhiều máy bay B52, bắt sống nhiều giặc lái Mỹ”.
Chúng tôi lại được dịp luận bàn: nhiều là
không đếm được, không đếm được tức là không có gì để đếm”.
Từ khi bị bắt trên chiến trường Hạ Lào, chúng
tôi coi như không biết ngày về trừ khi có một hiệp định được ký kết giữa các
bên tham chiến trong đó có quy định việc trao trả tù binh bị giam giữ. Lâu nay
chúng tôi âm thầm chịu đựng mọi nghiệt ngã trong trại giam cộng sản cũng chỉ vì
hy vọng vào hiệp định Paris với việc ký kết thành công và thi hành đúng đắn mới
là con đường giải thoát chúng tôi ra khỏi nhà tù cộng sản. Phải chăng hôm nay
ước vọng của chúng tôi đang thành sự thật?
Qua những bản tin nghe được, dần dà chúng tôi
có thể tổng hợp lại và suy đoán như sau. Hội nghị Paris 4 bên được hình thành
sau trận thảm bại Tết Mậu Thân của cộng sản với mục đích giải quyết trong hòa
bình cuộc chiến Việt Nam. Nhưng sau 4 năm cò kè, mặc cả giữa Hà Nội và Washington,
có lúc tưởng đi đến chỗ bế tắc, đến mùa hè năm 1972 những trận đánh ngày càng
khốc liệt ngoài chiến trường cho thấy hội nghị đang đi đến giai đoạn chót. Cộng
sản cố đánh Quảng Trị ở vùng 1, Tân cảnh ở vùng 2, Lộc Ninh ở vùng 3 để chiếm
đất. Về phía Mỹ thì kể từ ngày 14 tháng 6 năm 1972 các cuộc ném bom đã leo
thang ra ngoài vùng giới hạn vĩ tuyến 20 đến tận gần biên giới với Trung Cộng.
Trận cường tập 12 ngày đêm ở thủ đô Hà Nội là cú đấm knock out cuối cùng của
Mỹ.
Quả nhiên, một tuần sau, quên hết những lời
chỉ trích gay gắt trước đó, chiếc loa cho biết Hà Nội tưng bừng trải thảm đỏ
tiếp đón trọng thể Ngoại Trưởng Kissinger đến thăm Việt Nam. Khoảng đầu tháng
2, 1973, sau 3 ngày viếng thăm, Hà Nội lại “lưu luyến” tiễn chân Kissinger và
không quên tặng không cho ông tiến sĩ 3 tù binh phi công Mỹ đang bệnh nặng cần
chữa trị.
Ít lâu sau trước Tết Quý Sửu, ngày 27 tháng 1
năm 1973 hiệp định Paris được ký kết giữa 4 bên và sau đó được 12 cường quốc
bảo đảm thi hành đúng đắn nhằm đem lại hòa bình cho Việt nam.
Hơn một tuần sau, như thường lệ vào sáng
sớm ngày thứ hai chúng tôi chuẩn bị lãnh cuốc xẻng, dao rựa đi cuốc đất, đốn
cây thì bỗng được lệnh miễn lao động, mặc quần áo dài lên hội trường tập họp.
Linh tính báo cho chúng tôi biết có điều quan trọng xảy đến.
Quả như vậy, sau lời mở đầu của trại trưởng
trung tá Quân “rắn”, tên thượng tá chính trị viên Thường “vẹt” (vì đặc tính nói
lập đi lập lại không biết ngượng miệng) của trại tù đọc và giải thích từng điều một trong
bản hiệp định. Đại khái điều 1 các bên tôn trọng lãnh thổ của nhau, điều 2 tôn
trọng chủ quyền, điều 3 ngưng bắn kể từ ngày ký hiệp định, điều 4 các bên cam
kết trao trả hết các nhiên viên quân sự và dân sự bị bắt trong chiến tranh chậm
nhất là 2 tháng sau ngày hiệp định có hiệu lực.
Chúng tôi liếc nhìn nhau vui sướng. Đúng là
niềm hy vọng của chúng tôi đã thành hiện thực. Và theo quy định của bản hiệp
định, chỉ còn tối đa 2 tháng nữa là chúng tôi được trao trả về cho chính phủ
Việt Nam Cộng Hoà.
Đến đây Thường “vẹt” nhấn mạnh:
- Tuy nhiên, việc thả các anh về chủ yếu vẫn
là do các anh có lao động tốt, học tập tốt hay không thì chính phủ ta mới căn
cứ vào đấy mà khoan hồng cho các anh thôi.
Thường “vẹt” tiếp tục thao thao những điều
khoản khác, nhưng chúng tôi không còn thiết tha nghe nữa. Là người có học, ai
cũng biết rằng khi đã ký kết một hiệp định thì phải thi hành đúng đắn những gì
hiệp định đã quy định chứ không thể vin vào những chính sách bình thường của
quốc gia mình được. Giải thích như vậy chứng tỏ Hà Nội coi như không có hiệp
định nào trên đời này cả. Chúng tôi cảm thấy ngao ngán, nhưng vẫn còn một phần
nào hy vọng vì bản hiệp định đã được các cường quốc bảo đảm trong đó có cả đàn
anh Trung cộng của Hà Nội.
Cuối cùng, Quân “rắn” kết thúc buổi họp và nói
tiếp:
- Thôi, các anh cố gắng học tập lao động tốt
để sớm trở về với gia đình. Và để đánh dấu cho một mùa xuân hòa bình trên đất
nước, trại được trên cho phép tổ chức một cái Tết thật to, có bánh kẹo, có thịt
lợn, thịt trâu và có cả văn nghệ nữa”. (6)
Niềm vui rộ lên, cả trại nhốn nháo vui mừng với bao nhiêu hy vọng sẽ được trao trả về Miền Nam sau hiệp định Paris. Các bạn tù được cho phép tự tổ chức văn nghệ mừng Xuân năm 1973.
“Một nhóm anh em có máu văn nghệ,
thích ca hát được thành lập gồm có anh Trụ, anh Bửu, anh Hạnh, Siêm, Dự và tôi.
Chúng tôi bàn bạc với nhau để chọn bài hát. Đã gọi là hòa giải thì phải có cả
nhạc bản của cả hai miền Nam, Bắc chứ. Bàn đi tính lại cuối cùng
chúng tôi lựa các bài như sau : Ly rượu mừng, Nối vòng tay lớn, Đôi bạn (nhạc
của Phạm Duy phổ thơ Hoàng trung Thông là nhà thơ tiền chiến hiện còn sống ở Hà
Nội), Chuyện hàng cây (của một nhạc sĩ lô-can trong trại, chuẩn úy Trần thanh
Hùng phổ thơ của một thi sĩ không có tiếng ở ngoài bắc), bản Romance de l'Amour
sẽ do anh Trụ độc tấu tây ban cầm và một đoạn sớ Táo Quân sẽ do anh Khoan diễn
tấu. Vì tất cả đều bị kiểm duyệt trước nên chúng tôi phải dò từng chữ, nhất là
những bản nhạc xuất bản ở Miền Nam, nếu cần thì đổi lời chút ít để tránh đụng
chạm.
Sáng mùng một Tết, chúng tôi ngồi túm trong lán
trại, ăn kẹo uống trà, hút thuốc lào. Năm nay Tết lớn nên anh em mỗi người được
phát thêm một điếu thuốc thơm Tam Đảo ngoài 3 điếu thuốc đen Trường Sơn thường
lệ. Lác đác một vài quản giáo ghé vào các lán thăm xã giao chúc Tết. Ngoài sân
trại cũng có vài nhóm anh em tù đứng tán chuyện, thấp thoáng bóng áo xanh bộ
đội chen với màu áo trắng sọc đỏ của tù nhân.
Sau bữa cơm chiều, lúc 7 giờ tối, mọi người
tập trung vào hội trường xem văn nghệ. Chúng tôi trình diễn không micrô, nhạc
cụ thì mượn được của cảnh vệ một đàn guitar thêm vào với cây guitar tự tạo bởi
Dự và anh Trụ. Vậy là xôm tụ rồi.
Để mở đầu, anh Bửu trưởng ban văn nghệ có vài
lời cám ơn trại đã cho phép trình diễn văn nghệ và cuối cùng xin trại nhớ thi
hành hiệp định một cách đúng đắn để anh em chúng tôi sớm được trao trả về Miền
Nam.
Sau đó toàn ban văn nghệ chúc Tết mọi người
bằng bản nhạc quen thuộc Ly rượu mừng. Màn thứ hai do Siêm, một chuẩn úy sư
đoàn 1 với giọng ca khá giống Chế Linh trong bài Trường sơn đông, Trường sơn
tây. Bản nhạc chấm dứt, anh em vỗ tay tán thưởng nhất là bộ đội, quản giáo.
Sang đến bài Nối vòng tay lớn do Dự, thiếu uý viễn thám TQLC tay đàn miệng hát,
đã lôi cuốn mọi người cùng vỗ tay theo nhịp vang động cả hội trường. Tiếp đến
là bài Đôi bạn hát bởi anh Hạnh, sĩ quan đề lô của sư đoàn 1, buồn buồn như quê
nghèo sỏi đá miền trung. Bản nhạc vừa dứt, Hạnh ngoắc tay về phía Khánh, từ hậu
trường Khánh tiến tới đứng sát bên Hạnh; cả hai chúng tôi song ca bản Tình khúc
cho em của Lê uyên Phương, một bản nhạc không có trong chương trình. Hơi bất
ngờ một chút, rồi anh em mọi người đồng vỗ tay, huýt sáo. Hứng chí chúng tôi đi
2 bè thật hay. Chợt Khánh nhìn thấy từ hàng ghế đầu, mặt đanh lại Quân “rắn”
đứng lên đi thẳng ra ngoài. Vài quản giáo và cảnh vệ cũng đi theo.
Bản nhạc dứt, trong tiếng vỗ tay tán thưởng,
anh Trụ đang sửa soạn thế ngồi để chơi bản Romance thì Thường “vẹt” tiến tới
quay xuống mọi người nói :
- Thôi đủ rồi, giải tán.
Mọi người vừa đi vừa cười nói, bàn tán. Ban
văn nghệ chúng tôi vừa thu dọn nhạc khí xong thì quản giáo Hoàng “choắt”, người
nhỏ xíu cao chừng 1 mét rưỡi, vào bảo chúng tôi đi theo anh ta sang nhà họp của
cảnh vệ. Tại đây đã có Quân “rắn”, Thường “vẹt” cùng vài cảnh vệ đứng chung
quanh sát tường. Chỉ vào băng ghế đối diện, Quân “rắn” hầm hầm bảo:
- Các anh ngồi xuống đây.
Rồi Quân “rắn” rít qua 2 hàm răng:
- Ai cho các anh hát nhạc vàng? Các anh vượt
quy định, không đăng ký trước.
Anh Bửu phân trần:
- Đấy chỉ là tình cảm đằm thắm thương vợ, nhớ
tình nhân mà anh em chân thành bộc phát ra.
- Các anh lợi dụng chúng tôi hòa hoãn, định
dùng nhạc vàng để lung lạc tình cảm chân chính của chúng tôi hay sao? Đừng
tưởng có cái hiệp định mà chúng tôi sợ không dám đụng đến các anh hả! Nói cho
các anh biết thả hay không là ở tôi này. Nhốt các anh suốt đời cũng còn được.
Bọn lính Tây Điện Biên Phủ ta còn giữ đến bây giờ, huống hồ các anh.
Rồi Quân rắn đổi giọng:
- Cảnh vệ đâu? Tống chúng nó vào nhà Kỷ luật
ngay. Quần áo, chăn màn thì cho đứa nào đem xuống cho chúng nó sau. Đi nhanh!
Thế là chúng tôi bị dẫn đi xuống khu nhà Kỷ
luật. Khu nhà Kỷ luật nằm ở cuối trại gần trạm canh. Khu này được dựng bằng gỗ
chắc chắn. Cứ 2 phòng một cạnh nhau, mỗi phòng độ 3 thước vuông với một cái
giường tre vừa đủ nằm. Không có cửa sổ và chung quanh rào dây kẽm gai kiên cố.
Chúng tôi mỗi người bước vào căn xà lim của mình. Vắng vẻ, lạnh lẽo và dư thừa thì giờ để nghiền ngẫm về chính sách hòa giải của người cộng sản”(6)
* *
Sau nhiều tuần được “vỗ béo”, khẩu phần dinh
dưỡng tăng, lao động tối thiểu, anh em tù binh đều phấn khởi, lâng lâng với cảm
giác mình không bị bỏ rơi bởi quốc gia mình. Vài tháng sau Hòa Đàm Paris được
ký kết, nhóm tù binh bị bắt tại Lào như Khánh không được trao trả. Không phải
vì lao động không giỏi hoặc học tập không tốt. Đến lúc đó mới thấy bọn CS thâm
hiểm. Chúng gian xảo tráo trở cho rằng nhóm tù binh bị Pathet Lào bắt tại Lào,
và vì chưa có hiệp định nào ký kết giữa VNCH và Pathet Lào, nên không thể trao
trả tù binh VNCH bị Pathet Lào bắt trên nước Lào. Đương nhiên chúng đã nghĩ
trước những kẻ hở này khi ký kết Hòa Đàm nên mặc nhiên trở mặt, lật lọng vào
phút chót. Thế là bao nhiêu hạnh phúc và kỳ vọng của nhóm tù binh Hạ Lào được
trở về Miền Nam biến thành mây khói, bao mơ ước bị sụp đổ tan tành. Sau đó là
những ngày tăm tối, buồn bã tuyệt vọng, suy sụp đến chết người dưới sự giam cầm
tàn ác ngày một tăng.
Rồi lại chuyển trại đến Cao Bằng trong năm
1974. Rồi tin Miền Nam bị tan rã dần, Mỹ quyết định bỏ rơi người bạn đồng minh
của mình khiến quân đội VNCH đành phải thúc thủ buông súng, VNCH hoàn toàn mất
vào tay CS Bắc Việt vào 30 tháng 4, 1975. Một cú atemi ác nghiệt chém vào tử
huyệt mọi tù binh còn lại trong trại. Biết từ đây không còn một sức mạnh, một
thế lực nào khả dĩ cứu vớt họ. Cơn ác mộng đen tối bao phủ toàn trại khi họ
biết từ đây họ sẽ vĩnh viễn mất tự do.
Khánh lại được chuyển đến một trại tù
mới tên Nghĩa Lộ tại Yên Bái, và nằm ở đó thêm một thời gian dài nữa. Trại tù
này, cũng như bao trại tù mà Khánh đã ở qua, hoàn toàn không có bóng dáng của
các tù binh trong những tháng cuối cuộc chiến tại Miền Nam VN hoặc những tù cải
tạo sau này. Trong những lần lao động bên ngoài trại, thỉnh thoảng Khánh gặp
dân trong vùng. Đa số tử tế với tù nhân, đôi khi còn cho củ khoai, củ sắn.
Ngày 7 tháng 6, 1976, từ trại tù Nghĩa Lộ,
Th.úy Không Quân Bùi Tá Khánh của chiếc trực thăng H34 bị bắn và đáp khẩn xuống
Đồi 31 tại Hạ Lào tháng 2, 1971, được thả cho về nhà cha mẹ ở đường Lý Thái Tổ,
quận 10, Sài Gòn, sau trên 5 năm làm tù binh ở Miền Bắc.
Tr. úy Nhảy Dù Phạm Đồng của Đồi 31 Hạ
Lào, sau lần bị thương tật ở đầu gối phải trong trận đánh tháng 3, 1972 tại Căn
Cứ Hỏa Lực 5 ở Tân Cảnh, Pleiku, từ giã nhiệm vụ tác chiến và trở về làm việc
hành chánh tại Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn Nhảy Dù ở Trại Hoàng Hoa Thám cho đến ngày 30
tháng 4, 1975. Trình diện cải tạo, Phạm Đồng đi tù cải tạo gần 8 năm.
Anh Bùi Tá Khánh, một thân một mình, vượt biên
thành công vào năm 1981, đến nước Mỹ năm 1982. Định cư đầu tiên ở San Jose, anh
di chuyển sau đó qua Denver vào năm 2005.
Anh Phạm Đồng định cư ở Denver sau khi đến Mỹ vào năm 1993 với vợ và hai con qua chương trình H.O.
* *
Trong một buổi tiệc do anh chị Phạm Đồng tổ
chức tại tư gia nhân dịp đón mừng vợ chồng chúng tôi đến chơi Denver tháng 4,
2017, anh Hoàng Gia Viễn, một cựu Tr.úy phi công F5, đến tham dự với vợ cùng 2
cặp vợ chồng đàn em trong Không Quân VNCH, cũng là cư dân Denver. Đây là lần
đầu tiên anh chị Đồng gặp gỡ 2 cặp vợ chồng trẻ tuổi này, mà anh Viễn cho biết
một người là sĩ quan chuyên về bảo trì phi cơ ở phi trường quân sự Pleiku, và
người kia là sĩ quan phi hành trực thăng. Chuyện trò qua lại trong bữa ăn, và
sau màn giới thiệu sơ khởi, anh phi công trực thăng buộc miệng tâm tình anh là
phi công của Phi Đoàn 219, chuyên lái trực thăng H34, không một ngày tù cải tạo
nhưng lại là tù binh ở ngoài Bắc. Vào chi tiết hơn nữa, anh tóm tắt câu chuyện
đời phi công của anh, mà ngay chính anh Hoàng Gia Viễn, người đàn anh KQ, cũng
chưa hề nghe qua. Ngang giữa câu chuyện trực thăng H34 của anh lâm nạn và phải
đáp xuống Đồi 31 trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, gia chủ Phạm Đồng bật đứng
dậy “tôi cũng ở Đồi 31 thời gian đó…”.
Thế là hai anh, Bùi Tá Khánh và Phạm Đồng,
đồng loạt cùng đứng lên, xô ghế tiến sát gần nhau và ôm choàng lấy nhau, nhích
ra rồi lại ôm nhau lại, nắm chặt tay nhau, mắt nhìn nhau, miệng cười lớn, mừng
rỡ như tìm thấy lại một người thân quý nhất trong đời bị thất lạc từ nhiều năm
qua. Giữa tiếng chúc mừng, vỗ tay hoan hỉ của bàn tiệc.
Sau đó, từng người một, thay phiên nhau cụng
ly chúc mừng sự trùng phùng quá đặc biệt và kỳ thú này. Sự ngẫu nhiên hi hữu
như do trời định. Thật vậy, một người là sĩ quan Nhảy Dù cấp trung đội chiến
đấu sống còn tại Đồi 31, người kia là sĩ quan phi hành trực thăng H 34 đáp khẩn
trên Đồi 31 rồi bị kẹt tại đó. Cả hai đều là nhân chứng trong những ngày cuối
của Đồi 31, để sau đó một người trở thành tù binh bị dẫn độ ra tận Miền Bắc,
người kia chiến đấu đến giây phút cuối và sống sót rút khỏi Đồi với chỉ 6 người
còn lại của trung đội mình. Về sau, một người tiếp tục chiến đấu cho Miền Nam
đến tận ngày mất nước, người kia không được trao trả theo cam kết Hiệp Định
Paris. Cả hai đều chưa từng gặp nhau, chưa hề biết hoặc nghe tên nhau khi còn
tại Đồi 31 hay ngay cả sau này khi là tù binh hay tù cải tạo trong suốt cả 46
năm. Hôm nay cả hai bất ngờ gặp nhau. Trong một buổi tiệc không tên. Ngay tại
Denver dù cả hai từng sinh sống tại thành phố này hơn cả mươi năm qua. Quả là
diệu kỳ. Còn gì vui sướng cho bằng! Còn gì nhiệm mầu hơn nữa!
Như mọi người có mặt trong đêm, cá nhân tôi
thật xúc động, nhất là sau khi nghe cả hai anh Khánh và Đồng lần lượt kể câu
chuyện của mình từ Đồi 31 cho đến về sau. Như một chia xẻ chân thành, tôi vuột
miệng “Tôi xin phép được ghi lại câu chuyện độc đáo có một không hai này và lấy
đề tựa ngay từ bây giờ: H 34 trên Đồi 31”. Toàn thể đều tán thành và nâng cao
ly rượu.
Et voila.
Mission Viejo, Tháng 10, 2017
Vĩnh Chánh
20201101 H34TD31 08Từ trái qua phải: chị Khánh, chị & anh Tạ Quang Thạch ( KQ/ Pleiku), anh Bùi Tá Khánh, anh & chị Vĩnh Chánh, chị & anh Phạm Đồng, anh Dược Sĩ Nguyễn Hữu Tiến (Quân Y Nhảy Dù), anh & chị Hoàng Gia Viễn (phi công F5), anh Đoàn Vũ (TĐ14ND, mà vợ là người bấm máy chụp hình).
- (1): Mặt
Trận Ngoại Vi.Tác giả: Phan Hội Yên
- (2): Vào
Đồi 31 Hạ Lào. Tác giả: Kingbee Bùi Tá Khánh
- (3): Đồi
31. Tác giả: Phan Hội Yên
- (4):
Chuyến Bay Tử Thần. Tác giả: Kingbee Bùi Tá Khánh
- (5): Ngọn
Đồi Vĩnh Biệt. Tác giả: Phan Hội Yên
- (6): Tết Hòa Giải. Tác giả: Bùi Tá Khánh
20201101 H34TD31 09
Anh Phạm Đồng và anh Bùi Tá Khánh bên nhau, 46
năm sau khi cùng có mặt trên Đồi 31
(hình chụp tháng 8, 2017 tại Denver)
Ray's Map Room. Vietnam Areas of
Operation. Topographic Digital Map Images
http://www.rjsmith.com/topo_map.html#borderbattles1
Tri-Border Area Map
http://www.rjsmith.com/tri-border-area-hcmt.html
World Topographic Maps
http://legacy.lib.utexas.edu/maps/topo/
Vietnam North South Topo map
http://legacy.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/
Vietnam
http://legacy.lib.utexas.edu/maps/vietnam.html
China 1:250,000
http://legacy.lib.utexas.edu/maps/ams/china/
China Proper, Southwest 1:250,000
http://legacy.lib.utexas.edu/maps/ams/china_proper_sw/
Laos Topographic Maps 1:50,000
http://legacy.lib.utexas.edu/maps/topo/laos/
Cambodia Topographic Maps 1:50,000
http://legacy.lib.utexas.edu/maps/topo/cambodia/
Bản đồ VN từng khu vực
http://legacy.lib.utexas.edu/maps/topo/vietnam/vietnam_index.html
Địa danh, căn cứ, tọa độ.
https://thebattleofkontum.com/extras/RVN.pdf
Bản đồ Ban
Kadap, Lào nơi hai căn cứ FSB30 (hill 656) và FSB31(hill 458).
http://legacy.lib.utexas.edu/maps/topo/laos/ban_kadap-6242-2.pdf
No comments:
Post a Comment