Ngày 7 tháng Tư, L.19 báo cho Thiếu Tá Lê Phú Đào biết rằng, có
nhiều toán Việt-Cộng ngụy trang bằng vải dù di chuyển trong khu vực đồng cỏ
tranh hướng Đông Bắc Ngok-Remang. Tin này được chuyển ngay cho Đại Úy Nguyễn
Văn Thu, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 23 Biệt Động Quân để đề phòng.
Tiểu Đoàn 23 Biệt Động Quân dàn quân theo thế chân kiềng, chiếm
lĩnh ba ngọn đồi cao trên triền đông bắc của rặng Ngok-Remang.
Ngọn đồi thấp hướng Bắc do Đại Đội 4/23 của Trung Úy Trần Mừng
(Khóa 18 Thủ-Đức) trấn giữ.
Ngọn đồi hướng Nam do Đại Đội 3/23 của Trung Úy Lê Văn Hùng (Khóa
20 Thủ-Đức) phụ trách.
Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 23 nằm chung với Đại Đội 1/23 của Đại Úy
Nguyễn Công Bao và Đại Đội 2/23 của Trung Úy Nguyễn Văn Hùng.
Cả hai anh Bao và Hùng đều là bạn cùng Khóa 20 Võ-Bị của tôi. Từ
trong trường, bạn bè đã gán cho Nguyễn Văn Hùng cái biệt danh “Hùng Cá Sấu” chỉ
vì anh ta có cái cằm nhọn nhô ra như cái hàm cá sấu.
Trong Tiểu Đoàn 23 Biệt Động Quân có hai trung úy mang tên Hùng,
là Nguyễn Văn Hùng và Lê Văn Hùng, nên anh em quen miệng gọi Nguyễn Văn Hùng là
“Hùng Cá Sấu” còn Lê Văn Hùng là “Lê Hùng” để tránh lẫn lộn.
Qua tần số riêng, tôi đã nói chuyện với Đại Úy Nguyễn Văn Thu,
Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 23 Biệt Động Quân khá lâu. Anh Thu là dân Long-An,
xuất thân Khóa 19 Võ-Bị, ra trường trước tôi một năm. Anh Thu rất mê thi hào Lý
Thái Bạch đời Đường, vì thế, chúng tôi gọi anh với cái tên “Thái Bạch” chẳng
phải vì anh làm thơ hay, mà vì anh là tay uống rượu rất cừ.
Anh Thu than phiền rằng sở trường của Biệt Động Quân là chiến đấu
lưu động, nay bị chỉ định nằm yên một chỗ như thế này thì quả là điều rất bất
lợi. Anh lo sợ có thể bị địch tập trung tấn công đột ngột bất cứ lúc nào. Hôm
đó tôi đã cho các anh Thu, Bao và Hùng Cá Sấu biết tần số Viễn-Thám của tôi, để
khi bất trắc, họ có thể gọi tôi trên làn sóng trực 24/24 này mà không qua hệ
thống liên đoàn.
Sáng 8 tháng Tư một toán tuần tiễu Biệt Động Quân báo cáo rằng,
địch đang rầm rộ chuyển quân bao quanh ngọn đồi hướng Tây Nam do Trung Úy Lê
Hùng trấn giữ. Lê Hùng là tay kinh nghiệm dạn dày, đã lăn lộn trên chiến trường
Tây-Nguyên gần năm năm.
Sau khi đích thân quan sát tình hình, vị đại đội trưởng này đã hạ
lệnh cho đơn vị để nguyên lều võng đánh lừa địch, rồi gài Claymore, lựu đạn,
trên vị trí, sau đó âm thầm rút xuống triền núi hướng Đông, cách chỗ đóng quân
cũ khoảng ba, bốn trăm mét, đào hầm hố nằm chờ.
Quả nhiên chỉ một giờ sau mìn bẫy nổ ầm ầm, xen lẫn tiếng quân
reo, “Xung phong!”
Pháo binh đã có sẵn yếu tố, nên hàng chục tràng đạn hỗn tạp đã
tưới xuống, bao trùm ngọn đồi kia.
Tuy vậy hai giờ sau địch đã kịp thời chuyển tiếp một lực lượng
đông đảo khác đánh vu hồi trên điểm đóng quân mới của 3/23. Báo cáo đầu tiên là
chuẩn úy trung đội trưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm bị bắn vỡ bọng đái. Tiếp đó, hai
trung đội trưởng còn lại, Thiếu Úy Phan Ngọc Đồng và Thiếu Úy Nguyễn Trọng
Kháng cũng bị thương nhẹ.
Giao tranh kéo dài hai giờ đồng hồ. Địch bỏ chạy, để lại gần hai
chục xác. Quân bạn thiệt hại mất một phần ba đại đội, vừa chết vừa bị thương.
Sợ địch sẽ tăng viện tấn công lần nữa, Đại Úy Thu đã cho lệnh Lê
Hùng cố gắng tải thương và rút toàn bộ đại đội về với tiểu đoàn. Nhưng mới đi
được nửa đường đơn vị này lại bị địch chặn đánh ác liệt, Trung Úy Lê Hùng bị
thương nhẹ vì B.40.
Cuối cùng ông tiểu đoàn trưởng đành nhờ Ghunships can thiệp để
giúp 3/23 rút về khu rừng thưa hướng Đông nằm cố thủ.
Trong suốt thời gian đó đại đội của Trung Úy Mừng cũng bị
Việt-Cộng tấn công từ hướng Bắc. Khe suối cạn ngăn cách giữa Bộ Chỉ Huy Tiểu
Đoàn 23 và Đại Đội 4/23 đã bị một lực lượng cỡ đại đội của Việt-Cộng chốt giữ,
cắt đứt đường lui. Khoảng hai giờ chiều, Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn 23 không còn liên
lạc được với Trung Úy Trần Mừng nữa.
Nghi ngờ rằng địch đang
chuyển quân, Đại Úy Thu xin pháo binh và phi cơ liên tục đánh chặn trên tất cả
các đường tiến sát quanh ngọn đồi anh đang trú đóng. Từ đó cho tới xế chiều,
tình hình tạm lắng dịu, chỉ còn pháo binh của ta và không quân Mỹ hoạt động mà
thôi.
Đúng năm giờ chiều ngày 8 tháng Tư, ngọn đồi trung tâm, nơi đặt Bộ
Chỉ Huy Tiểu Đoàn 23 bị Việt-Cộng pháo kích như mưa. Tất cả Pháo Binh Cộng-Hòa
từ Ben-Het, Dak-Tô và Tango cũng được lệnh quay mũi súng về hướng núi
Ngok-Remang để ngăn chặn địch. Cả một vùng rừng núi trùng điệp chỉ còn là một
cột khói và bụi khổng lồ cao ngút trời.
|
Add caption |
Trong thung lũng Dak-Lao súng nổ ran như pháo Giao-Thừa. Đứng cách
xa hơn ba cây số, tôi còn nhìn rõ những lằn đạn lửa chằng chịt, đan nhau, chéo
qua, chéo lại sáng cả một vùng. Bộ chiến bắt đầu lúc trời sụp tối. Anh Thu cho
biết địch tấn công biển người từ hai hướng Tây và Nam, nhiều đợt liên tiếp
nhau. Quân hai bên đã đánh sáp lá cà.
Không quân Hoa-Kỳ được yêu cầu đánh cận phòng. Thiếu Tá Lê Phú Đào
và viên Cố Vấn Trưởng thay nhau đối đáp với nhân viên điều không tiền tuyến
trên O.V.10. Có lúc A 37 liệng sát trên Tango mỗi khi đánh bom xong. Tiếng động
cơ gầm rú ầm ầm, làm ù tai người dưới đất.
Vào lúc súng nổ rộ ác liệt nhứt thì liên lạc truyền tin với Bộ Chỉ
Huy Tiểu Đoàn 23 Biệt Động Quân bị cắt đứt. Cùng lúc, trung tá cố vấn trưởng
cũng mất liên lạc với đại úy cố vấn của Tiểu Đoàn 23 Biệt Động Quân. Vì không
còn liên lạc được với quân bạn, nên không yểm đành tạm ngưng. Thiếu Tá Tòng cho
lệnh Trung Sĩ Minh (Ban 3) dò tìm các đài hiệu trên tần số nội bộ của Tiểu Đoàn
23 Biệt Động Quân, nuôi hi vọng.
Mãi gần mười giờ đêm, chúng tôi mới nghe tiếng Trung Úy Mừng gọi
liên đoàn xin tiếp cứu. Đại Đội 4/23 của anh bị đánh giạt xuống một cái khe núi
hướng Đông Bắc vị trí cũ, rồi bị lạc trong rừng lau sậy hướng Nam suối Dak-Lao.
Thiếu Tá Đào cho lệnh Trung Sĩ Hồng (Ban 3) mang một máy PRC 25 ra ụ cối 81 ly
bắn trái sáng để hướng dẫn đoàn quân của Trung Úy Mừng đi theo hướng nước chảy
mà tìm về bờ sông Pơ-Kô.
Bất chợt, trên máy Viễn-Thám, tôi nghe Trung Úy Nguyễn Văn Hùng
gọi,
– Lê Lai đây Hồng Hà! Lê Lai đây Hồng Hà! Có nghe được không? Trả
lời!
Mừng quá, tôi vội gắn cái loa khuếch âm vào máy, để tất cả mọi
người có mặt trong trung tâm hành quân đều nghe.
Tới nước này, tôi chẳng còn câu nệ chuyện dùng ám danh hay ngụy
thoại gì nữa, cứ bạch văn mà xài,
– Hồng Hà! Đây Lê Lai! Phải Hùng Cá Sấu đó không?
– Tao đây, Long ơi!
– Mày hiện nay ra sao? Cho tao biết đi.
– Mẹ kiếp! Tao bị gãy hai chân rồi! Lính của tao thì áo đỏ, áo
vàng, lền khên. Tụi tao đã chơi hết mình, nhưng tụi nó đông quá! Chắc tao không
trụ được lâu đâu mày ơi!
– Anh Thái Bạch thế nào?
– Tao giữ mặt Tây, anh Thu nằm bên mặt Đông với thằng Bao. Thằng
Bao nói anh Thu chết rồi!
– Để tao lệnh cho thằng Mạnh Mẽ (Mừng) quay lại cứu mày nhé!
– Nó chịu trận từ mờ sáng tới giờ, chắc không còn hơi sức đâu mà
cứu tao.
– Thế còn thằng Bao. Nó có giúp gì cho mày được không?
– Thằng Bao cũng sắp hết đạn. Nó đang chuẩn bị rút. Nó cho người
sang khiêng tao đi. Nhưng lính của tao bị thương nhiều lắm mày ơi! Bỏ đàn em mà
chạy thì tao không làm được. Thà chết thì thôi!
Hùng nói một hơi không nghỉ, tiếng nói của nó lẫn với tiếng súng
chát chúa nghe như sát bên.
– Vậy thì tao có thể làm gì để giúp mày bây giờ?
Hùng Cá Sấu không trả lời. Hình như nó phải ngừng đàm thoại để
tiếp tục bắn nhau?
Một hồi sau,
– Tao giục thằng Bao chạy rồi. Tao đoạn hậu cho nó chạy. Mày đón
nó!
Tôi sang máy liên đoàn gọi Nguyễn Công Bao, nhưng không nghe ai
trả lời.
Tình hình chắc chắn đang nguy kịch lắm nên tôi không nghe Hùng nói
gì thêm. Lòng tôi bồn chồn, nóng như lửa đốt. Chúng tôi người này nhìn người
kia, mà không ai biết sẽ phải làm gì lúc này. Chợt loa khuếch âm oang oang
tiếng thét giựt giọng, lẫn với tiếng súng ròn rã, còn có cả tiếng “Oành! Oành!”
của lựu đạn và thủ pháo,
– Lê Lai đây Hồng Hà! Tao bị tràn ngập rồi! Mày bắn lên đầu tao
đi! Mau lên!
Tôi hướng về Trung Tá Sâm,
– Thằng Hùng xin bắn lên đầu, xin Trung Tá quyết định?
Trung Tá Sâm nhìn sang Thiếu Tá Tòng,
– Chỉ Đại Úy Thu mới có thẩm quyền. Giờ đây số phận cố vấn cũng
không biết thế nào? Mình có xin oanh kích trên đầu quân bạn, chắc gì Mỹ nó chịu.
Thiếu Tá Đào trao đổi vài câu với ông trung tá Mỹ, rồi lắc đầu,
– Họ không chịu!
Trên đầu máy bên kia, Hùng Cá Sấu hổn hển, nghẹn ngào,
– Lê Lai đây Hồng Hà! Long ơi! Long ơi! Tao phải bắn… viên đạn
cuối cùng rồi! Vĩnh biệt mày!
Rồi máy của Hùng tắt phụt. Tôi chết lặng người, tai ù đặc như bị
ai bưng kín.
Những người khác trong trung tâm hành quân có thể hiểu rằng bạn
tôi đã tự sát, nhưng chắc có lẽ họ không biết ý nghĩa sâu xa của danh từ “Viên
đạn cuối cùng” này đâu. Danh từ ấy mang ý nghĩa của một sự đứt gánh giữa đường
đầy chua xót, đồng thời cũng biểu hiện cái nghĩa khí can vân của một Cựu
Sinh-Viên Sĩ-Quan Trường Võ-Bị Quốc-Gia Việt-Nam.
Năm xưa, trên ngọn đồi 1515, Đà-Lạt, vào những giờ học “Lãnh Đạo
Chỉ Huy”, chúng tôi đã nghe thày dạy lặp đi, lặp lại bao lần:
“Sau này ra chiến trường. Khẩu súng Colt các anh đeo bên mình sẽ
là khẩu súng chỉ huy giúp các anh leo lên tới cấp tướng. Nhưng nhớ giữ lại viên
đạn cuối cùng, dành cho chính các anh, giúp các anh không rơi vào tay địch.”
Lời khuyến cáo này đã trở thành câu kinh nhật tụng mỗi khi ra trận
của chúng tôi, những sĩ quan xuất thân từ Trường Võ-Bị.
Đêm 8 tháng Tư năm 1970, dưới chân ngọn Ngok-Remang (Kontum) cao
ngút tới mây, “Cùi” Nguyễn Văn Hùng, Tham Mưu Ban 5 Liên Đoàn của Khóa 20 Võ-Bị
đã đứt gánh giữa đường, phải xử dụng đến viên đạn cuối cùng.
Từ lúc ấy cho tới sáng, tôi như một pho tượng, ngồi chôn chân
trong một góc của trung tâm hành quân.
Sáng 9 tháng Tư, Thiếu Tá Tòng ra lệnh cho Đại Úy Nguyễn Ngọc Di
Trưởng Ban 3 dẫn theo hai anh lính hộ tống và một hiệu thính viên, lội qua sông
để gặp Trung Úy Mừng. Đại Úy Di có nhiệm vụ tập họp các cánh quân của Tiểu Đoàn
23, dàn hàng án ngữ mặt Tây của Tango, bờ bên kia sông.
Trưa ngày 9 tháng Tư Đại Đội 1/23 của Đại Úy Nguyễn Công Bao cùng
một số quân nhân thuộc Đại Đội 2/23 cũng về tới bờ sông nhập chung với cánh
quân của Trung Úy Trần Mừng.
Đêm 9 tháng Tư từ hướng Bắc, Việt-Cộng mở hai đợt tấn kích vào
điểm đóng quân của Đại Úy Nguyễn Ngọc Di. Nhưng A.C 119 và pháo binh trực xạ từ
Tango đã đẩy lui hai đợt tấn kích này.
Sáng 10 tháng Tư Đại Tá Nguyễn Bá Thìn, Tư Lệnh Mặt Trận ra lệnh
cho Biệt Động Quân tái chiếm những ngọn đồi mới bị mất.
Trung Tá Sâm ngoắc tôi vào lều riêng. Ông thì thầm,
– Ông (Đại Tá) Thìn cho phép mình tạm thời gửi vài toán trinh sát
lên thăm dò trước để báo cáo với ông Tướng (Lữ Lan) rồi tính sau. Ông có thể
giúp tôi việc này được không?
Tôi gục đầu,
– Vâng! Tôi sẽ thi hành ngay.
Trên danh sách Đại Đội
Trinh Sát có bốn sĩ quan, nhưng chỉ ba người thực sự có mặt là các ông Thiếu Úy
Đinh Quang Biện, Thiếu Úy Nguyễn Văn Nhờ, Thiếu Úy Nguyễn Quang Minh. Một ông
nữa có tên, nhưng không biết lưu lạc phương nào là Thiếu Úy Lê Trọng Huế. Ông
này vừa trình sự vụ lệnh cho tôi buổi sáng, buổi chiều đã có lệnh đi tăng phái
đâu đó mất tiêu.
Đại Đội Trinh Sát của Liên Đoàn 2 có một trung đội xung kích và
bốn toán Viễn-Thám, do Thiếu Úy Đinh Quang Biện (Khóa 25 Thủ-Đức) chỉ huy.
Thiếu Úy Biện là một kiện tướng xuất thân từ Tiểu Đoàn 11 Biệt Động Quân. Những
lúc thiếu sĩ quan trưởng toán, hoặc khi có nhiệm vụ gì đặc biệt, ông đại đội
trưởng này thường đích thân dẫn Viễn-Thám vào vùng.
Trung đội xung kích có chừng trên, dưới hai mươi quân nhân, do một
thượng sĩ người Nùng chỉ huy. Mỗi toán Viễn-Thám có sáu người. Hai trưởng toán
cấp sĩ quan là Thiếu Úy Nhờ và Thiếu Úy Minh. Thiếu Úy Nhờ là trưởng toán xuất
sắc nhứt.
Hiện thời ông Nhờ đi phục kích, ông Minh đang nằm Quân Y Viện
Pleiku vì sốt rét. Hai hạ sĩ quan trưởng toán là Trung Sĩ Lê Sanh Ma và Trung
Sĩ Nguyễn Lợi đều đã bị thương vì mìn. Vì thế, tôi quyết định sẽ cùng Thiếu Úy
Biện gánh vác công tác này.
Từ ngày đảm nhận chức vụ Trưởng Ban 2 Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân
thay thế Đại Úy Ty, tôi đã trải qua nhiều lần “đi toán”. Chừa ra những phần đất
thuộc trách nhiệm của các trại Dân-Sự Chiến-Đấu, tôi đã đặt gót giày trên suốt
dải Trường-Sơn từ ranh giới Quảng-Tín tới ranh giới Phước-Long. Lần vất vả nhứt
là vụ tái chiếm căn cứ Kate (Quảng-Đức) cuối năm 1969 trong chiến dịch giải vây
Bu-Prang. Lần đó may mà Gunships cứu viện kịp thời, chứ không thì tôi và anh cố
vấn Mỹ đã bị Việt-Cộng “tó” rồi.
Lần này nhiệm vụ của tôi không khó khăn lắm, chuyến đi cũng ngắn
ngày, tôi lại được toàn quyền ứng phó với những biến cố sẽ xảy ra, do đó tôi
không cảm thấy lo lắng gì cả.
Trưa 10 tháng Tư tôi và Thiếu Tá Lê Phú Đào bay ra Phi Trường
Phượng-Hoàng, thuyết trình cho phi hành đoàn Hoa-Kỳ tình hình bạn, địch, vị trí
nghi ngờ có phòng không của Việt-Cộng, và các địa điểm thả quân dự trù.
Rồi theo đúng kế hoạch, Thiếu Tá Lê Phú Đào bay C&C hướng dẫn
Ghunships oanh kích bốn bãi giả để đánh lừa địch.
Trong khi đó, tôi âm thầm thả toán Bravo của Thiếu Úy Biện trên
một ngọn đồi cách mục tiêu chừng một cây số về hướng Tây. Sau đó vài phút, toán
Alpha của tôi đáp xuống bìa làng Dak-Lao, cách mục tiêu hơn một cây số về hướng
Bắc. Ba giờ chiều chân tôi đạp đất. Rồi trong vòng mười giây, chúng tôi biến
mất trong rừng cỏ hôi.
Di chuyển cách bãi đáp chừng trăm mét, tôi cho Alpha dừng lại,
quây thành một vòng tròn, án binh chờ mặt trời lặn. Tôi thử máy với Bravo và
Bạch Mai (Trung Tá Sâm) rồi mở bản đồ ra nghiên cứu lộ trình hướng tới mục tiêu
tối nay.
Trong khi trực thăng võ trang còn đang oanh kích bốn bãi giả trên
vùng đồng tranh hướng Đông Bắc, chúng tôi chợt nghe tiếng chân người chạy
“Huỳnh! Huỵch!” trên con đường mòn vắt chéo dưới chân ngọn đồi Alpha đang trú
ẩn.
“Khẩn trương lên! Khẩn trương lên!” tên Việt-Cộng chỉ huy, vừa
chạy, vừa lớn tiếng hối thúc đồng bọn.
Đã có ít nhứt là ba, bốn toán Việt-Cộng hối hả chạy về hướng trực
thăng đang vần vũ. Có lẽ đây là một đơn vị cơ động của địch có nhiệm vụ tập
kích các bãi đáp trực thăng? Hôm đầu tháng, chúng đã bắn rơi ba, bốn trực thăng
Hoa-Kỳ khi họ thi hành một cuộc đổ bộ của bộ binh vùng Nam Dak-Séang.
Chừng mười phút sau, tôi nghe tiếng bốn, năm khẩu cối của
Việt-Cộng từ hướng Tây bắn ào ào sang khu vực có những bãi đổ quân giả.
Tôi không có nhiệm vụ thám sát vùng địch đặt cối, cũng như chặn
đánh các đơn vị địch di chuyển trong vùng này. Do đó tôi chỉ báo chuyện này cho
Thiếu Tá Lê Phú Đào để ông tùy nghi. Khoảng một giờ sau, các toán Việt-Cộng lại
nối đuôi nhau ngược đường về khu rừng già hướng Tây.
Chiều xuống, toán của tôi bắt đầu di chuyển tới điểm hẹn. Điểm hẹn
nằm trên con đường mòn cũ bên con suối nhỏ dưới chân ngọn đồi của Bộ Chỉ Huy
Tiểu Đoàn 23 Biệt Động Quân.
Rừng tối đen như mực, rời tay khỏi lưng áo người đi trước là bị
lạc ngay. Chúng tôi cứ nhắm hướng 3200 ly giác trên địa bàn mà tiến.
Chui ra khỏi rừng cỏ gai, chúng tôi rơi vào một triền dốc nồng nặc
mùi thối của xác chết.
Chợt như chân giầy của tôi giẫm lên một cái sọ dừa, tôi trượt về
phía trước, mũi giầy dính theo một miếng bầy nhầy nhớp nháp như miếng bánh
tráng ướt. Tôi té nhào, đánh rơi cái bản đồ.
Tôi đành dừng lại, ngồi xuống, quơ tay mò mẫm, nhưng không thấy
cái bản đồ đâu.
Tôi móc cái đèn pin mini ra, bàn tay trái bụm cái loa đèn cho bớt
sáng, rọi một vòng sát đất. Tôi tìm được cái bản đồ ngay dưới giầy của tôi!
Trong lúc quýnh quáng, tôi đã đạp lên cái bản đồ, mũi giầy còn
vướng một mảng da đầu người chết, với mớ tóc bầy nhầy máu thịt.
Chúng tôi tiếp tục đi theo triền cỏ tranh, lâu lâu lại đá phải một
thây ma, hoặc một cái ba lô. Tới một lối mòn cùng hướng tiến, tôi kéo áo cho
người đi đầu theo đường mà đi. Ngờ đâu, mặt đường nơi này ngổn ngang xác người.
Vấp phải một thây ma, tôi bị ngã nhào, đập mặt lên cái thây nằm phía trước. Cứ
thế, người đi trước bị té, kéo theo người đi sau. Tay chân, quần áo, súng ống
dính nhớp nháp chất thịt thối, thở không nổi.
Có lẽ chúng tôi đang đi trên vùng diễn ra các cuộc giao tranh từ
cuối tháng Ba giữa các đơn vị Việt-Cộng và lực lượng Dân-Sự Chiến-Đấu. Sau vài
cơn mưa đầu mùa, là những ngày nắng kế tiếp nhau, tử thi bỏ lại của cả hai bên
đã sình trương thối rữa.
Tới chỗ đất thấp, cỏ ướt nhem nhép, tôi đứng tim khi nghe những âm
thanh ào ào như mưa rào trên mái tôn, sầm sập như xe hủ lô cán đường, khiến mặt
đất rung rinh.
Không kịp nhận hiệu lệnh, tự động sáu người ngồi thụp xuống ghìm
súng đề phòng.
Những tiếng động kỳ dị ấy tràn về phía bìa rừng. Rồi tôi nghe
tiếng cành khô nằm trên mặt đất gãy răng rắc.
Xen lẫn những âm thanh hỗn độn đó, là những tiếng kêu,
“Éc! Éc! Ẹc! Ẹc! Ủn! Ủn!”
Té ra đó là một đàn heo rừng! Heo rừng đi kiếm ăn trên xác người
chết, đánh mùi thấy hơi người sống, bèn đâm đầu chạy thục mạng!
Chờ đàn heo rừng chạy xa, tôi kéo vạt áo Hạ Sĩ Chạy, người mở
đường, cho anh ta chuyển hướng đi xuống dốc. Xuống hết dốc là có nước, chúng
tôi tiếp tục lội xuôi giòng. Tôi cầm chắc đây là giòng Dak-Lao, nên cứ đi ào
xuống cuối nguồn rồi tính sau. Đến một khúc quanh, nước lên tới bụng, tôi cho
anh em ngừng lại. Nghe ngóng một hồi, thấy không có gì đáng lo ngại, tôi cho
lệnh anh em luân phiên nhau vừa canh gác vừa tắm rửa. Việc đầu tiên, tôi phải
làm là rửa thật sạch hai bàn tay. Sau đó tôi nhúng toàn bộ thân mình trong giòng
nước mát.
Công việc vệ sinh ổn rồi, tôi mới lo coi lại xem mình đang đứng ở
đâu. Đêm tối như bưng, chẳng thấy ngọn núi nào để lấy chuẩn mà gióng hướng. Tôi
đành gọi liên đoàn xin một quả nổ ngay trên đỉnh núi Ngok-Remang. Chỉ cần vẽ
một đường nối dài từ nơi đạn nổ theo hướng quan sát của địa bàn, thì nơi đường
vẽ cắt ngang con suối Dak-Lao chính là điểm đứng của tôi. Kiểm lại, tôi thấy
mình đã lạc về hướng Đông Bắc mục tiêu cả cây số.
Sau khi điều chỉnh lại hướng đi, chúng tôi bắt đầu leo. Tôi leo
hết ba ngọn đồi nhỏ thì tới một bình nguyên cỏ tranh. Bình nguyên này dày dặc
hố bom. Vừa leo khỏi bờ hố bom này, lại tụt xuống lòng hố bom khác. Nửa đêm,
sáu người của toán Alpha lên tới đỉnh đồi. Ngọn đồi này, nằm ngay hướng Tây Bắc
vị trí đóng quân của Đại Đội 4/23, cách nhau một đường thông thủy hẹp. Tôi mở
máy gọi Bravo.
Nhiệm vụ của toán Bravo là yểm trợ cho Alpha, và thay thế Alpha
nếu chúng tôi bị phát giác, không thể hoàn thành nhiệm vụ. Từ lúc được thả
xuống, toán Bravo chỉ di chuyển cách bãi đáp chừng ba trăm thước, rồi ngừng lại
chờ lệnh. Tính theo đường chim bay, hiện giờ Bravo cách mục tiêu chừng tám trăm
mét về hướng Tây. Tôi ra lệnh cho Bravo đổ dốc, vượt qua con đường mòn dưới
chân núi, rồi nằm chờ.
Chỉ nửa giờ sau, trong máy đã có tiếng Thiếu Úy Biện,
– Alpha đây là Bravo! Tôi đã leo qua con rắn đen. Chờ lệnh.
– Bravo chờ đó! Tôi xuống ngay.
Nối đuôi nhau, sáu người thận trọng tụt xuống dốc. Cỏ tranh trơn
tuồn tuột. Chỉ mười phút sau, tôi đã đứng trên con đường đất đỏ. Trên bản đồ,
đó chỉ là một lối mòn từ làng Dak-Lao đi vòng dưới chân của ba quả núi, rồi đổ
xuống thung lũng Dak-Kon. Nhưng thực tế đây là con đường xe be đang được thợ
rừng xử dụng lậu.
Hạ Sĩ Chạy dùng cán dao găm gõ trên lưng M.16 một tràng, lơi lơi,
nhè nhẹ như tiếng chim gõ mõ:
“Cóc! Cóc! Cóc!”
Bên hốc núi hướng Đông có tiếng chim gõ mõ trả lời. Vài phút sau
hai toán nhập vào nhau bên khe nước róch rách.
Mục tiêu của chúng tôi là ngọn đồi sừng sững, đen sì bên hướng
Đông. Chọn thế đất lài lài, bớt dốc, tôi cho hai toán leo lên.
Sáu giờ sáng ngày 11 tháng Tư chúng tôi bò tới vòng cao độ chót,
hướng chính Nam của ngọn đồi đã xảy ra trận ác chiến ba ngày trước.
Dấu tích của trận đánh còn mới tinh. Địch đã đào hố chiến đấu chỉ
cách tuyến phòng thủ ngoài của quân ta chừng vài chục mét. Thoạt nhìn, người ta
có thể tưởng lầm đây là tuyến phòng thủ kép của đơn vị trú phòng. Trên mặt đất
đầy máu me cùng băng, bông, có cả những cái nón cối bị bắn bể nát nằm bên năm,
sáu khẩu A.K cùng B.40 bị gãy. Địch đã làm chủ tình hình, chúng có dư thời gian
để tản thương, vì thế không thấy xác địch để lại.
Tiến lên vài chục thước, chúng tôi thấy hầm hố phòng thủ phía
ngoài của Biệt Động Quân. Tôi ra thủ lệnh cho Bravo nằm lại yểm trợ, Alpha tiến
lên.
Sáu người của Alpha tạo thành đội hình vòng tròn, di chuyển như
đèn kéo quân. Chúng tôi như những con mèo đang rình mồi. Chầm chậm từng bước
một, tiến dần lên đỉnh đồi. Trên tuyến phòng thủ bên ngoài, hầu như không có
xác người lính nào. Tuyến phòng ngự thứ nhì thì thật là tang thương. Trên mặt
đất, máu đen đọng từng vũng. Xác Biệt Động Quân nằm bên nhau từng nhóm hai,
hoặc ba người một. Loài mối đã đắp mô quanh vài cái xác. Chỉ có tiếng ong và
ruồi nhặng vo ve.
Giữa phòng tuyến, tôi tìm được xác đại úy cố vấn Mỹ của Tiểu Đoàn
23. Anh cố vấn này người da đen, đã phục vụ ở liên đoàn nửa năm rồi. Xác anh
nằm ngửa, nửa trên mặt đất, nửa kia còn trong hố cá nhân. Đầu anh bị Việt-Cộng
chặt rời khỏi cổ, nằm bên cạnh cái bản đồ. Người bạn Đồng-Minh này từ vạn dặm
xa xôi đã tình nguyện sang đây giúp đỡ chúng tôi bảo vệ nền độc lập, tự do của
đất nước tôi. Sự hi sinh của anh, là một món nợ suốt đời tôi không trả được.
Cách lều cố vấn Mỹ năm sáu mét là khu lều của Đại Úy Thu cùng
những thuộc hạ thân cận của anh. Anh Thu cũng bị địch chặt đầu, cặp lon đại úy
bị chúng gỡ mất. Vì không thấy máu đọng thành vũng nơi cổ anh, tôi nghĩ rằng
anh chết lâu rồi mới bị chặt đầu. Xung quanh xác anh Thu có năm, sáu Biệt Động
Quân chết trong hố cá nhân. Cạnh lều anh có khoảng hơn chục khẩu súng A.K và
B.40 gác trên một thân gỗ, đây là chiến lợi phẩm mà Biệt Động Quân tịch thu
được những ngày trước.
Anh Nguyễn Văn Thu là niên trưởng, đồng thời cũng là một người bạn
thân của tôi từ nhiều năm nay. Ngoài mặt trận, anh là một cấp chỉ huy can
trường, đảm lược, nhưng trong cuộc sống bình thường, anh lại là một người anh,
một người bạn, đầy lòng nhân ái, khoan dung. Chẳng thế mà thời kỳ còn giữ chức
đại đội trưởng ở Tiểu Đoàn 22 Biệt Động Quân, binh sĩ trong đơn vị đã gọi anh
là “Thu Thầy Tu”.
Quê anh Thu ở Long-An. Long-An là xứ lúa vàng ngợp đồng, tôm cá
đầy sông. Anh tâm sự với tôi rằng, khi chọn binh nghiệp, ước vọng nhỏ nhoi của
anh chỉ là mong sao cho quê hương sớm thanh bình. Mỗi lúc trà dư tửu hậu, anh
có thói quen, vừa gõ đũa trên thành ly rượu, vừa cao giọng ngân nga một đoạn
của bài ca nhiều lần được lặp đi, lặp lại trên làn sóng của Đài Phát Thanh
Quân-Đội:
“Miền tự do… vươn lên thoát ách vong nô…
Nơi đây lúa rợp nặng bờ,
Dịu dàng áo em vờn gió…
Ối! A! Câu hò của miền tự do…
Ngày mai hết Mao, Hồ… ta về tắm sông xưa.” (Nhạc-Miền Tự Do)
Đại Úy Nguyễn Văn Thu đã chết vì pháo kích vào lúc chiến trường
đang trong cơn dầu sôi lửa bỏng. Sau cái chết của anh, Tiểu Đoàn 23 Biệt Động
Quân đã tan tác như đàn gà con mất mẹ.
Tôi đứng nghiêm, dơ tay chào các chiến hữu của mình, rồi ra dấu
cho toán tiến sang hướng Đông.
Đại đội của Nguyễn Công Bao thiệt hại khoảng trên dưới mười người.
Trong số người chết có một thiếu úy, tôi không biết tên.
Từ bìa rừng hướng Đông nhìn xuống, tôi thấy trong nắng mai, cả một
cánh đồng xanh bát ngát. Xa hơn là giòng Pơ-Kô, bên kia sông là căn cứ Tango.
Đứng trên đỉnh đồi này, tôi có thể trông thấy những lọn khói bốc lên từ bếp lửa
trên vị trí đóng quân của Đại Úy Nguyễn Ngọc Di.
Vài phút sau, chúng tôi chuyển dịch về hướng Tây, nơi Trung Úy
Nguyễn Văn Hùng tử thủ. Chỉ có số ít người chết trong hố cá nhân, đa phần tử
thi đều nằm trên mặt đất. Điều này cho thấy, anh em dưới quyền Hùng Cá Sấu phần
nhiều đã bị giết sau khi bị thương. Không rút chạy được, họ đã chiến đấu cho
tới khi địch tràn ngập. Tử thi nào cũng bị ruồi nhặng và ong đen bu kín mắt mũi
và những chỗ có vết đạn. Súng ống của quân bạn còn nguyên bên cạnh những tử
thi, hình như địch không cần thu nhặt chiến lợi phẩm?
Anh bạn Hùng Cá Sấu của tôi nằm dưới một gốc cây. Bạn tôi không
đội nón. Dáng anh nằm thư thái như đang ngủ. Đầu anh gối lên cái ba lô. Cặp mai
đen vẫn gắn trước ngực, cái bản đồ nằm dưới đất, bên cạnh là bao Lucky dở dang.
Hai ống quần của anh bị xẻ tới thắt lưng, băng bó chằng chịt, từ đầu gối tới
háng. Tay trái anh đè trên cái ống liên hợp của máy PRC 25. Tay phải của anh
chưa rời báng khẩu súng Colt, mũi khẩu Colt chĩa ngay tim anh.
Viên đạn cuối cùng đã giúp một người lính nhà nghề hoàn thành
nhiệm vụ đối với quê hương. Cái chết nơi chiến trường là chiến công hiển hách
nhứt đối với những người mang nghiệp lính.
“Hùng ơi! Vĩnh biệt!”
Mới hôm nào hai đứa ngồi bên nhau trong Quán Hằng, Pleiku, nó vừa
đàn vừa hát cho tôi nghe “Tình Nhớ”. Hôm sau tôi nhập viện, nó lên đường nhảy
xuống Dak-Séang. Hai tuần lễ sau, tôi vào vùng tìm xác bạn. Giờ này có lẽ linh
hồn bạn tôi đã bay cao tới Thiên Đường xa tít mù xa. Trên ngọn đồi đầy xác
người, tôi chỉ còn nghe tiếng gió rì rào, cùng tiếng ruồi muỗi vo ve.
Tôi dơ tay chào những anh hùng vị quốc vong thân lần cuối cùng,
rồi bùi ngùi ra dấu cho toán rút lui.
Nhiệm vụ của tôi coi như hoàn tất. Giờ đây là lúc tôi tìm đường
về. Alpha mở đường, Bravo đoạn hậu, theo cái vách đá dốc nhứt, hướng Đông Nam ,
chúng tôi tụt xuống.
Tới con đường xe be, tôi ngạc nhiên vì thấy bông, băng vứt bừa bãi
trên nền đất. Bên kia đường là bãi chứa gỗ súc. Sát đường có một cái chòi
tranh. Có lẽ mấy ngày trước, căn chòi này đã được Việt- Cộng dùng làm trạm cứu
thương? Có vài chục nấm mộ mới nằm san sát bên nhau trong khu đất rộng phía sau
chòi.
Những cán binh Cộng-Sản chết trong trận đánh vừa rồi đã được đồng
đội của họ mang về chôn ở đây. Những chiến binh “Sinh Bắc, Tử Nam” này đã vượt
hàng ngàn cây số từ ngoài Bắc vào đây với danh xưng “Giải-Phóng”. Chẳng lẽ họ
vào đây quấy phá cuộc sống ấm no, hạnh phúc của chúng tôi, gây bao nhiêu chết
chóc, tang thương, đổ nát điêu tàn cho đất nước tôi, mà là “giải phóng” cho
chúng tôi chăng?
Mặt trời lên cao, nắng rọi trên những nấm mồ đất mới, khiến hơi
nước bốc lên như những làn khói mỏng.
Thấy nấn ná chốn này lâu không lợi, tôi khoát tay cho hai toán nép
sát bìa đường, di chuyển về hướng Nam rồi chui vào rừng già. Rồi cứ hướng Đông
Nam theo kỹ thuật cuốn chiếu chúng tôi thận trọng di chuyển ra bờ sông. Toán
Viễn-Thám của Thiếu Úy Nhờ đã chờ chúng tôi trên Quốc Lộ 14 nơi bờ bên kia.
Bốn giờ chiều ngày 11 tháng Tư tôi về tới căn cứ hỏa lực. Bước vào
trung tâm hành quân, tôi tường trình ngay cho Trung Tá Sâm, Thiếu Tá Tòng và
Trung Tá Cố Vấn Trưởng biết chi tiết diễn tiến cuộc thám sát.
Sau đó tin tức cũng được báo cáo ngay cho Phòng 2 Quân Đoàn. Tới
khuya, một Box B.52 đã được thả trên vùng thung lũng Tây Bắc của làng Dak-Lao.
Vì biết chắc chắn rằng địch không còn hiện diện trên vùng xảy ra
trận đánh ngày 8 tháng Tư nữa, nên sáng 12 tháng Tư, Trung Tá Sâm đã ra lệnh
cho Đại Úy Di đưa Đại Đội 3/23 lên thu dọn chiến trường và đem xác quân bạn ra
bãi đáp.
Trung Úy Lê Hùng là người dẫn quân quay trở lại trận địa gói xác
quân bạn. Lê Hùng cũng là người hộ tống thi hài Đại Úy Nguyễn Văn Thu về
Long-An, và Trung Úy Nguyễn Văn Hùng về Sài-Gòn.
Riêng thi hài của đại úy cố vấn Mỹ thì được cho vào bao nylon đưa
thẳng về Bệnh Viện 71 Dã-Chiến Hoa-Kỳ ở Pleiku.
Vài ngày sau, Tiểu Đoàn 11 Biệt Động Quân được trực thăng vận vào
Tango, và Bộ Chỉ Huy Liên Đoàn 2 Biệt Động Quân nhận lệnh di chuyển lên căn cứ
Lima (L).
Cùng ngày, liên đoàn nhận được Đại Đội Thám Kích Biệt Khu 24 của
Trung Úy Hồ Văn Hữu tới tăng phái. Tôi bàn giao nhiệm vụ bảo vệ Lima cho anh
Hữu.
Lên Lima được một ngày thì vết mổ bên sườn của tôi sưng phù vì bị
nhiễm trùng. Phần nửa người bên trái đau nhức không chịu nổi. Tôi bị sốt mê man
suốt hai ngày, hai đêm. Bác sĩ Mùi đề nghị Trung Tá Sâm cho phép tôi về bệnh
viện để chữa trị.
Trưa 18 tháng Tư tôi rời vùng hành quân.
Ngày tôi về, chiến trường yên tĩnh lạ.
Con sông Pơ-Kô nước trong xanh, nhìn thấu đáy. Dãy Trường-Sơn cũng
xanh, sừng sững bên trời, với những đỉnh núi nhấp nhô, cao ngút tới mây.
Tháng Ba, tháng Tư là thời kỳ hoa nở rộ. Từ ven suối tới vách núi,
chỗ nào cũng có hoa. Trên Cao-Nguyên, mùa Xuân đến trễ hơn dưới đồng bằng, còn
mùa Hạ thì ngắn lắm.
Chiếc trực thăng bay trên một thung lũng đầy hoa.
Nhưng lòng tôi lại mang một nỗi buồn khôn tả.
Vương Mộng Long –
K20
Seattle tháng Tư năm 2013