Đôi lời cùng độc giả.
Tài liệu nầy đã được đăng trên một số website như
Dactrung.net hay VietNamExodus.org từ những năm trước nhưng vì bị giặc Hồ Hà Nội áp dụng luật rừng cho nên tài liệu nầy hầu như không còn trên internet
nửa. Để cho các thế hệ trẻ quốc nội có thể hiểu được lịch sử một cách tường tận
đâu là sự thật về bộ mặt thật của giặc Hồ Hà Nội nên bài nầy được cho đăng
lại. Vả lại gần đây đã có những tài liệu bổ túc chứng minh cho thấy chính bàn
tay của giặc Hồ Hà Nội giết chính dân mình để thi hành chủ nghiã bành trướng
quốc tế của rợ Hán cho nên tài liệu nầy càng cần phải được cho lên internet lại
cùng với những tài liệu bổ túc vì thế bài được chia làm hai phần: phần đầu chính
là bài nầy, phần thứ hai chính là những tài liệu bổ túc và phần nầy được đính kèm
dưới dạng đường nối trên internet, quí độc giả chỉ cần theo những đường nối để
đọc tài liệu bổ túc.
20121120 BVN.
Án Sử Ấp Ba Chúc.
Ngày 18 Tháng 04 Năm 1978.
20070614BVN
Trong lịch sử cuộc chiến Việt – Trung cận đại người dân Việt
Nam chỉ có thể nhớ ngày 17 tháng 02 năm 1979 TC đã xua quân tràn sang biên giới
phía bắc Việt Nam tấn công và tràn ngập 6 tỉnh: Lai Châu, Lào Cai, Hà Tuyên,
Cao Bằng, Lạng Sơn, và Quảng Ninh.
Tuy nhiên ít có ai nhớ rõ nguyên nhân tại sao và nguồn gốc
từ đâu đã phát xuất ra cuộc chiến nầy.
Cuộc chiến không chấm dứt vào ngày 05 tháng 03 năm 1979 như Đặng
tiểu Bình đã tuyên bố với thế giới mà vẫn kéo dài từ năm 1979 cho đến năm 1991,
tròm trèm 12 năm dài đăng đẳng. Sau khi Đặng tiểu Bình tuyên bố chấm dứt chiến
tranh, quân đội TC đã gài lại bãi mìn dọc suốt theo biên giới với dụng ý không
cho quân đội Việt-Nam đuổi theo.
Thật ra dụng ý ngăn chận sự đuổi theo cuả quân đội CSVN chỉ
là phụ, mục đích chính cuả Đặng tiểu Bình là dùng những bãi mìn để bắt CS Việt
gian phải chấp nhận những khu vực bãi mìn ấy là đất cuả TC đã chiếm và bộ chính
trị CS Việt gian đã gục đầu chấp nhận.
Lấy gì chứng minh? Một điều rõ ràng nhất là cho tới hôm nay
CS Việt gian chưa bao giờ tận tâm tháo gở những bãi mìn, mọi việc đều khoáng trắng
cho quân đội TC.
Bản cấm của TC cho biết đây là vùng mìn bẩy, cũng có nghiã đây
là lãnh thổ của TC do TC chiếm lấy.
Từ 1979 cho tới mãi 1999, thời gian 20 năm dài TC mới tuyên
bố gở xong bãi mìn và quân TC đã làm gì trên lãnh thổ Việt-Nam trong suốt thời
gian 20 năm đó? Bọn chúng đã xây công sự phòng thủ hay những gì khác, ai biết!
Có một điều chắc chắn là bọn chúng không mắc võng để ngủ giửa rừng như quân đội
CSVN!
Tiền dollars người Việt hải ngoại gửi về, từ 2 tỉ tăng lên gần
5 tỉ, đều vô túi bọn chóp bu CS Việt gian mà không có một xu cho chương trình gở
mìn bẩy để bảo vệ dân lành, bảo vệ lãnh thổ!
Có chăng chỉ là những đồng tiền xin xỏ cuả ngoại bang để rồi
hằng chục thế hệ trẽ Việt-Nam sau nầy phải còng lưng trã nợ.
Đã có những vùng đất từ khu vực Móng Cái cho tới Lào-Cai,
Lai-Châu đã thuộc về tay TC, người viết sẽ trình bày trong những bài viết tuần
tự tiếp theo.
Bài viết “Án Sử Ba Chúc” nầy được viết lại nhằm mục đích nêu
ra những dữ kiện mà những tài liệu trước của Giáo Sư Lâm Lễ Trinh, ông Nguyễn
Vĩnh Long Hồ, ông Hoàng Quý và ông James Pringle đã không đề cập tới trong những
bài viết sau đây:
- “Tài Liệu Giải Mật Về Cuộc Chiến Hoa Việt 1797.” GS Lâm Lễ
Trinh.
- “Mở Lại Hồ Sơ CSVN Thảm Sát Đồng Bào Làng BA CHÚC, Tỉnh
Anh Giang Đêm 18-04-1978.” ông Nguyễn Vĩnh Long Hồ.
- “Câu Chuyện Ngôi Làng Ba Chúc Ở Biên Giới Miên Việt.” ông
Hoàng Quý:
đã được chuyển dịch từ tài liệu của :
MEANWHILE : When the Khmer Rouge
came to kill in Vietnam
By James Pringle International Herald Tribune
Qua bài viết nầy chúng tôi cố gắng giải đáp một nghi vấn sử là:
Ai đã giết chết 3.157 mạng người dân vô tội?
Miên cộng (Khmer Rouge) Polpot đã ra tay tàn sát dân lành ?
Hay là tình báo cục Đông Dương của Trung Cộng điều hành cuộc
tàn sát đã nói qua bàn tay của bộ chính trị CSVN, những quan thái thú TC hiện
đang ngự trị trên đầu dân chúng Việt Nam thừa lệnh thiên triều TC để thi
hành việc dâng đất, dâng biển Việt Nam cho TC? Qua các cơ quan có tên
là TC2, T4 ???
Mọi người ai cũng hiểu là CSVN đã chịu rất nhiều áp lực từ
phía TC vì thế nên phải lép vế đi theo chỉ đạo của TC, tuy nhiên cho đến nay
không ai trong đất nước Việt Nam có một thái độ khẳng định dứt khoát là bộ
chính trị CS Việt gian chính là một hệ thống thái thú hiện đại của TC đặt tại
Việt Nam, từ bộ chính trị xuống tới làng xã.
Đây là “mấu chốt vấn đề” cho cả một dân tộc thế mà không một
ai trong đất nước Việt Nam dám nhìn nhận cái sự thật nầy.
Trong bài viết của giáo sư Lâm Lễ Trinh về trận chiến Hoa
Việt cho thấy nguyên nhân của cuộc chiến là do sự tranh dành ảnh hưởng của hai
phe thân Nga cộng và Tàu cộng . Rất đúng. Điều nhận xét của giáo sư Lâm Lễ
Trinh và nhận xét của cả công luận báo chí trên thế giới rất đúng.
Tuy nhiên có một vấn đề mà cho đến nay chưa một ai hay những
tác giả của những bài báo nêu lên hay đào sâu vào, đó là vấn đề: “Tình báo
chiến lược Đông Dương của TC”
Liệu phe CSVN thân Nga có thật sự theo Nga cộng hay không?
hay chỉ là trá hình theo Nga để thu nhận tin tức tình báo cùng những tài liệu
kỷ thuật của Nga rồi chuyển về cho TC để TC có thể hiện đại hóa quân sự và tiến
hành mộng bành trướng của TC?
Trong quyển sách “Một Ngàn Giọt Lệ Rơi” của bà Đặng Mỹ Dung
đã cho chúng ta thấy rõ điều nầy là tình báo CSVN chỉ hoạt động có lợi cho TC
mà thôi.
Dưới đây là những dữ kiện của cuộc thãm sát 3.157 thường dân
Việt Nam
và Khờ-Me (Khmer).
* Tài liệu của ông Nguyễn Vĩnh Long Hồ.
- Nhà Mồ Ba Chúc được xây dựng giữa chùa Phi Lai và chùa Tam
Bửu được nhà nước CSVN công nhận là “Di Tích Căm Thù” vào năm 1980 để đánh dấu
tội ác man rợ của bọn diệt chủng Polpot từ ngày 18/04/1978 cho đến ngày
29/04/1978. (Theo tài liệu của CSVN thì Khmer đỏ đã tràn sang biên giới tàn sát
dân lành VN từ 18/04/1978 cho đến 29/04/1978.)
-Ngày 18 tháng 04 năm 1978 CSVN đã tàn sát 3.157 mạng người
trong các ngôi chùa, trường học tại làng Ba Chúc các biên giới Việt-Miên khoảng
7 km.
The Bone Pagoda. Ba Chúc, Tinh Biên
Nhà mồ đã được xây theo hình bát giác (8 cạnh cuả bát quái
đồ).
Tại sao không xây hình tròn, hình vuông, hình chử nhật mà
phải là hình bát giác?
Đây có phải là một phương thức trấn ếm cuả TC để triệt tiêu
linh khí cuả miền Nam mà đại diện là ngành phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương do đức
Phật Thầy Tây An sáng lập và giáo phái thừa truyền là Phật Giáo Hoà Hảo với chủ
đạo Tứ Ân.
Đây có lẽ cũng là nguyên nhân chính mà CSVN đã cố tâm tàn
sát tất cả những tín đồ cuả Phật Giáo Hoà Hảo trong khu vực miền Tây và đức
thầy Huỳnh Phú Sổ là người đại diện cho tôn giáo nầy.
Một phần khu Thất Sơn trên website dưới đây.
-Theo tiết lộ cuả Hoàng Tùng, uỷ viên bộ chính trị CSVN, bộ
chính trị CSVN đã có ý đồ chiếm Cambodge từ năm 1970-1972. (Đây có lẽ là thời điểm
mà 2 phe thân CSVN và thân TC đã được thành hình)
-Phe thân Nga gồm: Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp, Trần Quốc Hoàn,
Văn Tiến Dủng, Nguyễn Văn Linh, Đổ Mười….
-Phe thân TC gồm: Lê Đức Thọ, Lê Đức Anh, Nguyễn Duy Trinh,
Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng…
-Tháng 09 năm 1975 Sihanouk và Khiêu Samphan, chủ tịch nước
Khmer Rouge đến Hà Nội dự lễ quốc khánh cuả CSVN.
-Tháng 03 năm 1977 leng Sary, ngoại trưởng Khmer Rouge sang
Bắc Kinh. Trong buổi tiếp tân có phó thủ tướng TC Lý Tiên Niệm, tổng tham mưu
phó QĐTC Vương Thăng Long.
-Tháng 04 năm 1977, trong buổi tiếp tân tại Toà Đại sứ
Cambodge, ngoại trưởng TC Hoàng Hoa công khai tuyên bố: “nước Cambodge đang bị
kẻ thù phá hoại và TC sẽ sát cánh với những dân tộc nhỏ yếu chống lại những
hành động can thiệp và gây hấn cuả các lân bang”. (Lời
tuyên bố nầy đã khơi màu cho cuộc chiến Việt-Trung 1979-1991)
Cambodge tấn công vào những làng, xã và những thị trấn dọc
biên giới thuộc tỉnh An Giang, Châu Đốc hai tuần sau, ngay vào ngày CSVN đang
ăn mừng “Mùa Xuân đại thắng 1975” (30-04-1977?).
Ảnh khu vực tỉnh biên giới Kiên Giang, Châu Đốc. Làng Ba Chúc
trong khoanh đỏ.
-Ngày 27 tháng 09 năm 1977 Pol Pot tuyên bố vai trò chủ tịch
đảng lãnh đạo tổ chức Angka là đảng cộng sản Cambodge. Một ngày sau Pol Pot lên
đường đi Bắc Kinh và Bình Nhưỡng với tư cách là chủ tịch đảng.
Ba ngày trước (24-09-1977?) chuyến đi, Pol Pot đã ra lệnh cho quân đội
Quân Khu Đông tấn công vào Tây Ninh.
Ảnh khu vực tỉnh Tây Ninh dưới đây.
CSVN không cho quân đội phản công.
-Cách chức tướng tư lệnh “quá khích” Trần Văn Trà!.
(Thay Lê Đức Anh vào để thi hành kế
hoạch cuả tình báo TC là giử quân CSVN, 10-15 sư đoàn tại Cambodge, để TC rãnh
tay tiến chiếm miền Bắc Việt Nam)
-Cử tướng Lê Đức Anh thay
thế !?!?.
(Nhân vật Lê Đức Anh là mấu chốt,
xuất xứ cuả cuộc chiến Việt-Trung 1979-1991, cũng để tạo nên những nghi kỵ giửa
Việt Nam và Cambodge qua vụ giết oan những cán bộ cuả Cambodge, phe thân VN do
TC2 điều khiển.)
-Phan Hiền bí mật sang Bắc Kinh nhờ TC dàn xếp. Không thành
công.
TC nhất quyết ủng hộ Cambodge và chở vũ khí, chiến cụ ồ ạt
tới cảng KomphongSom.
-Cuối năm 1977, quân đội CSVN tấn công thăm dò vào sâu trong
lãnh thổ Cambodge, bị quốc tế lên án nên buộc phải rút quân về ngày 06 tháng 01
năm 1978.
-Đầu tháng giêng năm 1978, sư đoàn 2 và sư đoàn 210 của quân
khu tây nam Cambodge đã tấn công và chiếm đóng các xã Phú Cường, Khánh An,
Khánh Bình, các huyện Hồng Ngự, Hà Tiên thuộc lãnh thổ quân khu 9 Việt Nam.
Ảnh khu vực Tân Châu, Hồng Ngự.
Ảnh khu vực Hà Tiên và biên giới Cambodge.
-Tướng Trần Nghiêm, tư lệnh
phó cuả Lê Đức Anh, được đề bạt làm tư lệnh
quân khu 9 điều động các sư đoàn 4, 8, 330 cùng với 2 trung đoàn cơ động cuả
hai tỉnh Hậu Giang và Đồng Tháp.
Sư đoàn 341, tư lệnh Vũ Cao,
được điều từ quân khu 7 đến tăng phái cho quân khu 9.
Với sự yểm trợ của không quân, pháo binh, thiết giáp và với quân
số áp đảo 4 sư đoàn: 4, 8, 330, 341 cùng 2 trung đoàn cơ động để phản công mà
mải tới 2 tháng sau CSVN mới có thể đánh bật sư đoàn 2 và sư đoàn 210 của
Cambodge ra khỏi lãnh thổ Việt Nam!
-Sư đoàn 330 CSVN (chính sư đoàn
nầy là thủ phạm tàn sát 3.157 người dân ấp Ba Chúc) trấn đóng huyện Tri
Tôn để tạo thành tuyến phòng thủ tại đây.
-Cuộc thanh trừng nội bộ thuộc Quân Khu Đông Cambodge đã xãy
ra từ tháng 03 năm 1978 cho tới ngày 24 tháng 05 năm 1978 khiến cho sư đoàn 4
cuả Cambodge bị xoá sổ, những sư đoàn3, 5, 280 suy yếu dần.
Ngày 18 tháng 04 năm 1978 xãy ra cuộc tàn sát đẩm máu của
3.157 nhân mạng thường dân vô tội, trong đó bao gồm cả dân chúng Việt lẫn Miên
trong các ngôi chùa và trường học thuộc làng Ba Chúc. Cuộc tàn sát đã xảy ra
trong khi Quân Khu Đông Cambodge có biến động thanh trừng lẫn nhau, có lẽ giửa
hai phe thân TC và thân CSVN!!
Đây quả thật là một sự trùng hợp kỳ cục!!
Hay đây là một cuộc đấu trí, đấu sức giữa tình báo TC và tình
báo CSVN mà Lê Đức Anh làm đạo diễn (dưới bàn tay TC2, T4) qua những vụ án Xiêm Rệp
(1983), vụ án Sáu Sứ (1991).
Tài liệu TC2
Bằng cách giam khoảng 10-15 sư đoàn quân CSVN tại Cambodge, để
cho quân TC có dịp tràn sang biên giới
phiá Bắc Việt Nam ngày 17 tháng 02 năm 1979 và khởi chiến (cuộc chiến diệt chủng)
với 2 quân đoàn Quảng Tây, Vân Nam và sau đó là 7 quân đoàn còn lại cuả TC,
thay phiên nhau tấn chiếm suốt dọc chiều dài vùng biên giới phía bắc Việt Nam từ
1979-1991, để rồi bộ chính trị CSVN nhượng lần đất và biển cho TC?
(Trong cuộc chiến nầy quân TC có
dùng vũ khí hoá học hay không? Câu trả lời là có. Tại mặt trận Đồng- Đăng tỉnh
Lạng-Sơn quân TC đã dùng vũ khí hoá học. Sẽ viết về tài liệu nầy sau.)
-Theo tài liệu cùng với những nhân chứng địa phương, chính
sư đoàn 330 hay còn gọi là sư đoàn 30 đã thực hiện cuộc tàn sát nầy và CSVN đã
chọn địa điểm làng Ba Chúc vì nơi đây là nơi phát tích cuả giáo phái “Bửu-Sơn
Kỳ-Hương” do đức Phật Thầy Tây An sáng lập ra và Phật Giáo Hoà-Hảo là giáo phái
đã được thừa truyền y bát với số tín đồ trên 7 triệu người đã trãi rộng ra khắp
miền Tây Việt Nam.
Với chủ đạo “Tứ Ân Hiếu Nghĩa” bao gồm:
Ân Tổ Quốc.
Ân Thầy.
Ân Cha Mẹ.
Ân Đồng Bào.
kỳ diệu thay lại phù hợp với chủ đạo Việt tộc trong tôn giáo
“Thờ Cúng Ông Bà, Tổ Tiên”. Nghiã là dưới bộ áo cà sa của “Bửu-Sơn Kỳ-Hương”
lại ẩn tàn một “Gươm Thiêng Bảo Quốc”.
Từ năm 1939-1975 giáo phái phật giáo “Bửu-Sơn Kỳ-Hương” là lực
giáo phái phật giáo nồng cốt đã làm tròn nhiệm vụ “Bảo-Quốc, An-Dân” cuả người
con dân Việt-Nam chống Pháp, chống CS Việt gian và đã bảo toàn khu vực miền Tây
Nam Việt-Nam cho đến ngày 30-04-1975, trước đó miền Tây Nam Việt đã được tôn
vinh là vùng đất Phật, CS Việt gian không thể nào phát triễn trong khu vực cuả
Phật Giáo Hoà-Hảo, truyền thân cuả “Bửu Sơn Kỳ Hương”
Đây là lý do tại sao cả TC lẫn CS Việt gian tìm cách tiêu diệt
giáo phái Phật Giáo Hoà Hảo nầy cho bằng được, kể từ 1939 cho đến ngày hôm nay.
Pháp luân công trên lãnh thổ Quảng Tây TC là một bằng chứng điển
hình mà TC phải tìm mọi cách để tiêu diệt.
-Ngày 15 tháng 06 năm 1978, các sư đoàn 7, 9, 341 cùng các
đơn vị yễm trợ đã tràn sang Cambodge và chỉ rút quân về vào cuối năm 1989 (tháng 09/1989, tài liệu “Hồi Ký Trần QuangCơ”.)
-Ngày 17 tháng 02 năm 1979 chiến tranh Việt – Trung khởi đầu
và chỉ chấm dứt sau năm 1991, dẫn đến việc mất những vùng đất biên giới phiá bắc Việt Nam và những vùng biển từ Bắc
Bộ kéo dài xuống Trường Sa.
* Tài liệu trích từ James Pringle International Herald Tribune.
Trong
phần tài liệu cuả James Pringgle nấy có những dữ kiện sau đây đã tạo thành nghi
vấn:
-Có 2
người con gái rất đẹp “Chinese beauties, từ ngữ cuả James Pringle” đi cùng với
toán quân Khmer Rouge nhưng lại không nói được tiếng Việt lẫn tiếng Khmer
Rouge. Điều chắc chắn là 2 người con gái nầy không xuất xứ từ Miên vì Pol Pot đã
tàn sát hấu hết những người dân trong vùng.
-Tất cả
nạn nhân đều bị bắn chết trong chùa và trường học, riêng bà H.T.N. lại bị bọn
Khmer Rouge mang cả gia đình đi về phiá biên giới Việt-Miên rồi mới giết.
-Người
con gái của bà HTN bị đập vào đầu 3 lần bằng báng súng (James Pringle dùng từ
ngữ “struck”) cho thấy sự tàn nhẫn cuả toán người nầy.
Điều nầy
khác với phương thức giết người theo kiểu “Cáp-Duồng” của người Miên, nghiã là
tàn sát dân Việt Nam
tại chổ, gặp đâu giết đó!
Tuy nhiên
bà H.T.N mai mắn vẫn còn sống và được quân CSVN cứu sau 12 ngày đêm bị thương! (từ tài liệu cuả ông Nguyễn Vỉnh Long Hồ)
Nếu thật
sự có quân Khmer Rouge tàn sát dân Việt từ ngày 18 tháng 04 cho đến ngày 29 tháng
04 năm 1978, thì tại sao các đơn vị của sư đoàn 330 đang đảm nhiệm việc thành lập
tuyến phòng thủ và trấn đóng tại huyện Tri Tôn (làng Ba Chúc thuộc huyện Tri Tôn),
lại không phát hiện ra biến cố trong đêm 18 tháng 04 năm 1978, vì có tất cả là
3.157 thường dân bị bắn chết trong các chùa và trường học.
Nghiã là
có ít nhất 2.000 phát đạn, lựu đạn đã được bắn vào dân!
Tiếng súng
AK47 nỗ rất chát chúa “bắkk..bắkk..bắkk..” (vũ khí Khmer Rouge được viện trợ từ
TC) những cựu quân nhân trong QLVNCH không thể nào quên được những âm thanh đó
thì làm sao những cán binh CSVN lại không biết được khi những tiếng súng AK47 nỗ
một cách ghê rợn trong đêm trường vắng lặng!
Có tiếng
súng nỗ trên 2.000 phát trong đêm mà phải đợi tới 12 ngày sau bà HTN mới được cứu
sống thì quả thật mạng bà HTN quá lớn!
Đúng là
sự huyền nhiệm của vùng “Địa Linh Nhân Kiệt Thất Sơn” đã khiến cho bà HTN sống
còn để trỡ thành nhân chứng sống.
Phần dưới
đây trích từ tài liệu cuả ông Trần Quang Cơ, một nhân vật trong bộ ngoại giao
CS Việt gian.
* Tài liệu trích từ “Hồi Ký Trần Quang Cơ”. 1975-1991
Mở đầu hồi
ký nầy ông Trần Quang Cơ cho thấy CSVN đã có cơ hội ban giao với Hoa Kỳ để xây
dựng lại đất nước sau cuộc chiến làm tan hoang đất nước, thế như không biết vì
cái não trạng bệnh hoạn Xã Hội Chủ Nghiã, hay não trạng lệ thuộc tàu, hay não
trạng thích làm quan thái thú mà CSVN đã bỏ đi cơ hội tốt để rồi cuối cùng đưa
cả nước vào tệ nạn nghèo đói, lạc hậu, đĩ điếm, ma cô (những từ ngữ nầy CSVN
đã tròng lên cổ chính thể Việt Nam Cộng Hoà và sau nầy cho những người Việt tị
nạn hải ngoại)
để rồi đến nỗi phải dâng những vùng lãnh thổ và lãnh hải cho TC.
Dưới đây
là những cơ hội mà Việt Nam
đã đánh mất..
Phiá Hoa
Kỳ:
“………..
Đại sứ Mỹ tại LHQ, Andrew Young, đã nói rõ điều đó: “Chúng
tôi coi Việt Nam
như một Nam
Tư ở châu Á. Không phải là bộ phận của Trung Quốc hay của Liên Xô, mà là một
nước độc lập. Một nước Việt Nam
mạnh và độc lập là phù hợp với lợi ích quốc gia của Mỹ” (tháng 01.1977).
……………..
Ngày 6.1.77, thông qua Liên Xô, Mỹ lại đưa ra một kế hoạch 3
bước về bình thường hoá quan hệ với Việt Nam:
1. Việt
Nam
cho biết tin về những “người Mỹ mất tích trong chiến tranh” (MIA).
2. Mỹ
chấp nhận Việt Nam
vào LHQ và sẵn sàng lập quan hệ ngoại giao đầy đủ, cũng như bắt đầu buôn bán
với Việt Nam.
3. Mỹ
có thể đóng góp khôi phục tại Việt Nam bằng cách phát triển buôn bán,
cung cấp thiết bị và các hình thức hợp tác kinh tế khai thác.
……………………..
Ngày 3/3/1977 chính quyền Carter quyết định nới lỏng một phần
cấm vận đối với ta, cho phép tàu thủy và máy bay nước khác chở hàng sang Việt
Nam được ghé các cảng và sân bay của Mỹ để lấy nhiên liệu (nhưng vẫn cấm người
Mỹ buôn bán với Việt Nam, cấm tàu Mỹ đến Việt Nam đến cảng và sân bay Mỹ). Ngày
9.3.77, Mỹ cho phép công dân Mỹ được đi thăm Việt Nam, Cu Ba, Bắc Triều Tiên,
Campuchia kể từ ngày 18.3.77.
………………….
Trong đàm phán vòng 1 (ngày 3-4.5.77), lập trường của Mỹ là
hai bên thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ ngay và vô điều kiện, còn những vấn
đề khác giữa hai bên để lại giải quyết sau; Mỹ sẽ không cản Việt Nam vào LHQ.
Còn về điều 21 (của Hiệp định Paris
về VN), Mỹ có khó khăn về pháp luật nên không thực hiện được, hứa sẽ thực hiện
khi đã có quan hệ, bỏ cấm vận buôn bán và xét viện trợ nhân đạo.
Phiá bộ chính trị CS Việt gian (tài liệu cuả ông Trần Quang Cơ):
…………………..
Theo chỉ thị đã nhận trước khi đi,
ta kiên quyết đòi phải giải quyết “cả gói”9
3 vấn đề: ta và Mỹ bình thường hoá quan hệ (bao gồm cả việc bỏ cấm vận
và lập quan hệ ngoại giao đầy đủ), ta giúp Mỹ giải quyết vấn đề MIA và Mỹ
viện trợ 3,2 tỷ đô-la cho Việt Nam như đã hứa hẹn trước đây.(chưa bắt tay với
Mỹ mà đã ngữa tay xin tiền!) Trở ngại lớn nhất cho việc bình thường hoá
quan hệ là việc ta đòi Mỹ viện trợ 3,2 tỷ đô-la cho ta vì Quốc hội Mỹ khi đó
dứt khoát không chấp nhận viện trợ làm điều kiện cho việc bình thường hoá quan
hệ với Việt Nam.
Chú thích: Đây có phải là chỉ thị cuả CSVN hay là chỉ thị của tình báo
TC để phá sự liên kết cuả Hoa Kỳ và Việt Nam? Vừa đánh đuổi người ta đi, vấn
đề MIA chưa giải quyết lại ngữa tay “xin” lấy 3.2 tỷ đô theo lối “ăn cướp”.
Trong thế giới ngoại giao chưa có một quốc gia nào như CSVN. Nói ra chỉ thêm
mang nhục cho dân tộc Việt Nam.
……………………
Ngày 2-3.6, đàm phán vòng 2, Mỹ nêu lại các đề nghị hồi tháng
5. Ngày 19.7.77, tại Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc (LHQ), Mỹ quyết định rút bỏ
việc phủ quyết Việt Nam
vào LHQ. Sau vòng 2, anh Phan Hiền đã phải bay về Hà Nội báo cáo và xin chỉ
thị, thực chất là đề nghị trên nên có thái độ thực tế và đối sách mềm dẻo hơn, nhưng nghe nói cả 4 vị lãnh đạo chủ chốt của ta lúc đó đều
nhất trí lập trường trên. Trước đòi hỏi kiên quyết của ta, tại vòng 3
(19-20.12.78), Mỹ đề nghị nếu chưa thoả thuận được về việc thiết lập quan hệ
ngoại giao đầy đủ thì có thể lập Phòng Quyền lợi10
ở thủ đô hai nước, nhưng như vậy thì chưa bỏ cấm vận được. Sau khi có Phòng
quyền lợi thì sẽ tuỳ tình hình mà xét bỏ cấm vận, song ta vẫn giữ lập trường
cũng nhắc đòi giải quyết “cả gói” 3 vấn đề.
Trong khi đó, theo sự xúi dục của Bắc Kinh, chính quyền Polpot
bắt đầu chiến tranh biên giới chống ta từ ngày 30.4.77 và đơn phương cắt
đứt quan hệ ngoại giao với ta ngày 31.12.77.
Chú thích: Với những dữ kiện trên cho thấy CSVN đã bị vào xiết cuả tình
báo TC từ trong bộ chính trị CSVN. Một mặt TC tìm cách phá không cho VN nối lại
ngoại giao với Hoa Kỳ, qua những đòi hỏi cuả bộ chính trị CSVN. Một mặt TC xúi
dục Polpot tấn công biên giới phiá Tây Nam VN để tiêu hao tiềm lực cuả dân tộc
VN và Lê Đức Anh được chỉ định “bí mật” thi hành. Chỉ rút quân về ngày 26 tháng
09 1990, khi cuộc chiến Việt-Trung sắp
chấm dứt.
Điều nầy cũng nói lên một vấn đề là
TC rất sợ sự đoàn kết cuả dân tộc VN.
………………
Ngày 23.8.78, trong lúc Mỹ đàm phán về bình thường hoá quan
hệ với ta ở Paris,
ngoại trưởng Mỹ C.Vance đã đi thăm Bắc Kinh. Cho đến khi Đặng Tiểu Bình tuyên
bố “Trung Quốc là NATO phương Đông” và “Việt Nam là Cuba phương Đông” (19.5.78)
và Bizezinski đi thăm Trung Quốc (20.5.78) thì chính quyền Carter đã
chọn con đường bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc và gác sang bên việc bình
thường hoá quan hệ với Việt Nam.
…………………
Đặng Tiểu Bình đi thăm Mỹ (29.1 - 4.2.79) đánh dấu việc bình
thường hoá quan hệ Mỹ - Trung Quốc, cũng là lúc Mỹ chính thức xếp lại việc bình
thường hoá quan hệ Việt Nam.
Chú thích: Đây là lúc kế hoạch chiến tranh “giới hạn” Việt-Trung đã
thật sự thành hình. Tài liệu “10 Năm Chiến Tranh Việt-Trung”, Đại Học Tứ Xuyên,
TC xuất bản.
Ngày 16.2.79, Carter có nêu 6 nguyên tắc xử sự khi Trung
Quốc xâm lăng Việt Nam:
-Mỹ không can thiệp trực tiếp, khuyến khích các bên tự kiềm
chế;
-Việt Nam rút quân khỏi Campuchia;
-Trung Quốc rút quân khỏi Việt Nam;
-Cuộc xung đột không đe doạ lợi ích trước mắt của Mỹ;
-Không đặt lại vấn đề bình thường hoá với Trung Quốc;
-Quyền lợi đồng minh của Mỹ không bị đe dọa.
Chú thích: Như thế CSViệt gian đã biết rõ TC sẽ tấn công VN thế nhưng
CS Việt gian vẫn giam chết những đơn vị
thiện chiến tại chiến trường Cambodge, để cho tiêu hao binh lực, và chỉ phản
công khi quân TC đã tràn sang biên giới, để cho TC tiến hành cuộc chiến
“genocide” nghiã là “diệt chủng” dân Việt Nam. Mặt trận Lạng Sơn-Cao Bằng, mặt
trận Hà Giang, Vị Xuyên với 3.700 tử sỉ đã bị bộ chính trị CSVN bán đứng, Mặt
trận Lào Cai-Lai Châu là những bằng chứng cụ thể cho thấy bộ chính trị CSVN đã
bán đứng đất nước, bán đứng dân tộc Việt Nam.
“Lý Quang Diệu đã nhận xét: “Năm 1975 thành phố Hồ Chí Minh
có thể sánh ngang với Bangkok.
Nhưng nay (năm 1992) nó tụt lại đằng sau tới hơn 20 năm”.”
Chú thích: Mong rằng những người CSVN đọc
nhận xét nầy của Lý Quang Diệu.
“Nên nhớ lúc
bấy giờ Miền Nam Việt Nam
đã trãi qua trên 20 năm nội chiến đấy nhé! thế mà Sài Gòn vẫn ngạo nghễ sánh
vai - có hơn chứ không kém - với những “Tiểu long Châu Á”.”
Nguời CS Việt
gian trả lời như thế nào về nhận xét rất chính xác cuả một lãnh tụ nỗi tiếng vùng
Đông Nam Á Châu, Lý Quang Diệu?
…………………………
Tài liệu dưới đây có
xuất xứ từ ông Trần Quang Cơ.
13. CUỘC GẶP CẤP CAO VIỆT – TRUNG
TẠI THÀNH ĐÔ
Ngày 29.8.90, đại sứ Trương Đức Duy xin gặp gấp TBT Nguyễn Văn Linh và Thủ tướng Đỗ Mười chuyển thông điệp của TBT Giang Trạch Dân và Thủ tướng Lý Bằng
mời TBT Nguyễn Văn Linh, Thủ tướng Đỗ Mười và Cố vấn
Phạm Văn Đồng sang Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày
3.9.90 để hội đàm bí mật về vấn đề Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ
hai nước. Trương nói mập mờ là Đặng Tiểu Bình có thể gặp anh Tô. Trung Quốc
còn lấy cớ ở Bắc Kinh đang bận chuẩn bị tổ chức ASIAD (Á Vận hội) nên không gặp
cấp cao Việt Nam ở thủ đô Bắc Kinh được vì khó giữ được bí mật, mà gặp ở Thành
Đô.
Đây quả là một sự chuyển biến đột ngột của phía Trung Quốc.
Trước đây Trung Quốc nói không chỉ sau khi giải quyết xong vấn đề Campuchia mới
gặp cấp cao ta và mới bàn vấn đề bình thường hoá quan hệ. Năm ngày trước
– ngày 24.8.90 - Trung Quốc còn bác bỏ việc gặp cấp cao, nay lại mời ta gặp cấp
cao trong một thời hạn rất gấp và đồng ý cấp cao sẽ nói chuyện về cả hai vấn đề
Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ.
Thái độ “thiện chí” gấp gáp như vậy
của Bắc Kinh không phải tự nhiên mà có. Nó có những nguyên nhân sâu xa và nhân
tố bức bách.
Chú thích: Trong giai đoạn nầy, năm 1990, chiến trận Việt-Trung sắp sửa
kết thúc. TC đã chiếm khá nhiều đất cuả Việt Nam và đã buộc CSVN phải chấp nhận
lập lại cột mốt biên giới mới. Cũng xin nói rõ là cho đến năm nầy 1990 TC vẫn
chưa tháo gở bài mìn dọc theo biên giới Việt-Trung. TC đã không thực hiện đúng
như lời tuyên bố với thế giới là gở mìn hoàn toàn, mà chỉ “seal” khu vực rồi để
đó, nghiã là chỉ để bản “Khu Vực Mìn Bẩy Cấm Vào”. Để sau nầy bắt CSVN phải chấp
nhận khu vực mìn bẩy nầy là lãnh thổ của TC. Cuộc hợp cấp cao tại Thành Đô chỉ
với mụch đích đó mà thôi.
………………………
14. THÀNH ĐÔ LÀ THÀNH
CÔNG HAY LÀ THẤT BẠI CỦA TA ?
Ngay sau khi ở Thành đô về, ngày 5.9.90 anh Linh và anh Mười,
có thêm anh Thạch và Lê
Đức Anh, đã bay sang PhnomPenh thông báo lại với BCT Campuchia nội dung
cuộc gặp gỡ cấp cao Việt-Trung. Để thêm sức thuyết phục PhnomPenh nhận Thoả
thuận Thành đô, anh Linh nói với lãnh đạo Campuchia: “Phải thấy giữa Trung
Quốc và đế quốc cũng có mâu thuẫn trong vấn đề Campuchia. Ta phải có sách lược
lợi dụng mâu thuẫn này. Đừng đấu tranh với Trung Quốc đến mức xô đẩy họ bắt tay
chặt chẽ với đế quốc.”
Chú thích: Lập luận này được Lê Đức Anh mở rộng thêm: “Mỹ và phương
Tây muốn cơ hội này để xoá cộng sản. Nó đang xoá ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xoá
cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta
phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc.”!
Chú thích: Xin đọc giả lưu ý lập luận cuả Lê
Đức Anh bên trên, điều nầy cho thấy rất rõ những việc làm cuả Lê Đức Anh sau nầy
đều có lợi cho TC.
Nhìn lại, trong cuộc gặp Thành Đô, ta đã mắc lỡm với Trung
Quốc ít nhất trên 3 điểm:
* Trung Quốc nói cuộc gặp Thành Đô sẽ đàm phán cả vấn đề
Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ, nhưng thực tế chỉ bàn vấn
đề Campuchia, còn vấn đề bình thường hoá quan hệ hai nước Trung Quốc vẫn
nhắc lại lập trường cũ là có giải quyết vấn đề Campuchia mới nói đến chuyện
bình thường hoá quan hệ hai nước;
* Trung Quốc nói mập mờ là Đặng Tiểu Bình có thể gặp cố vấn Phạm Văn Đồng, nhưng đó chỉ là cái “mối” để kéo anh
Đồng tham gia gặp gỡ cấp cao.
* Trung Quốc nói giữ bí mật việc gặp cấp cao hai nước, nhưng
ngay sau cuộc gặp hầu như tất cả các nước đã được phía Trung Quốc trực tiếp hay
gián tiếp thông baó nội dung chi tiết bản thoả thuận Thành Đô theo hướng bất
lợi cho ta.
Chú thích: Mục đích chính cuả TC là chỉ muốn
CSVN chấp nhận những phần đất đã bị TC chiếm đóng trong cuộc chiến Việt-Trung mà
thôi, vấn đề Cambodge chỉ là phụ.
Hai nhân vật Lê Đức Thọ, Lê Đức Anh và nhân vật tình báo TC, trợ lý bộ trưởng, Từ Đôn Tín !?
Cuối tháng 4.87, Lê Đức Thọ
lại cùng Lê Đức Anh bay sang Campuchia họp với
những người lãnh đạo PhnomPenh bàn việc thúc đẩy giải pháp chính trị Campuchia
và quan hệ với Trung Quốc, trong đoàn có tôi và anh Trần Xuân Mận của CP 87.
Anh Lê Đức Thọ khi đó đã đưa ra gợi ý “giải
pháp Đỏ”. Bản thân tôi lần đầu mới được biết tường tận về cái gọi là “giải pháp
Đỏ”. Nói gọn lại, “giải pháp đỏ” là một sản phẩm của mộng tưởng giải quyết cuộc
xung đột Campuchia bằng cách hoà giải PhnomPenh với bọn diệt chủng Polpot và
lập nên một nước Campuchia XHCN vừa làm vừa lòng Trung Quốc vừa hợp ý của lãnh
đạo ta.
Chú Thích: Xin lưu ý Lê Đức Thọ và Lê Đức
Anh (tình báo TC) cùng bay qua Cambodge và Lê Đức Thọ đã đưa ra “giải pháp đỏ”,
kế sách nầy là phương thức gây rối loạn trong nội bộ cả 2 nước Cambodge và Việt
Nam sau nầy để TC dễ bề thao túng cả 2 nuớc. Giống như phương thức “Hoà Hợp Hoà
Giải” dân tộc Việt Nam
cho đến bây giờ vẫn còn có hiệu quả cuả sự xáo trộn, và gây chia rẽ trong cộng đồng
Việt Nam.
Ngày 8.3.90, cố vấn Lê Đức Thọ
cho gọi tôi và anh Đinh Nho Liêm đến nhà riêng ở số 4 Nguyễn Cảnh Chân nói mấy
ý kiến về vấn đề Campuchia: Cần có chuyển hướng chiến lược trong đấu tranh
về vấn đề Campuchia. Phải giải quyết với Trung Quốc, nếu không thì không giải
quyết được vấn đề Campuchia. Không thể gạt Khmer Đỏ. Cần mềm dẻo về vấn đề diệt
chủng, có thể nói “không để trở lại chính sách sai lầm trong quá khứ”. Không
chấp nhận LHQ tổ chức tổng tuyển cử. Cần nêu phương án lập chính phủ liên hiệp
lâm thời hai bên bốn phái để tổ chức tổng tuyển cử ở Campuchia. Phải
giải quyết một bước cơ bản vấn đề Campuchia trước Đại hội VII để khai
thông những vấn đề khác.
Hai hôm sau anh lại nói với Nguyễn Cơ
Thạch những ý đó. Sự việc này khiến tôi suy nghĩ: tại sao lại thay đổi
phương hướng đối sách trước khi đại hội Đảng họp ? Tại sao lại chỉ nói với anh
Thạch sau khi đã nói với chúng tôi ?
Chú thích: Nếu đọc kỷ đoạn văn trên ta sẽ
thấy là Lê Đức Thọ nói những điều mà TC đã cố ý buột CSVN phải theo. Nghiã là
không chống đối TC, không gạt bỏ Khmer Rouge, không chấp nhận LHQ tổ chức tổng
tuyển cử, và không dùng từ ngữ “genocide-diệt chủng”. Tại sao Lê Đức Thọ lại có
thái độ đó? Có phải Lê Đức Thọ là người cuả TC?
Sáng 30.5.90, TBT Nguyễn Văn Linh
thông báo với Bộ Chính trị về cuộc họp với 2 TBT đảng Lào và đảng Campuchia
ngày 20-21.5, nói ra dự định sẽ gặp đại sứ Trung Quốc và Từ Đôn Tín khi Từ đến
Hà Nội. Cố vấn Phạm Văn Đồng và một số trong
BCT tỏ ý phải thận trọng trong xử sự với Trung Quốc. Anh Tô nói: Mấy nghìn
năm Trung Quốc vẫn là Trung Quốc, không nên cả tin. Ta cần thăm dò thúc đẩy
nhưng phải cảnh giác, đừng để hớ. Đỗ Mười
cũng khuyên anh Linh không nên gặp đại sứ Trung Quốc và Từ Đôn Tín trước cuộc đàm phán. Nhưng Lê
Đức Anh lại tỏ ra đồng tình với dự định của anh Linh, cho rằng phải thăm
dò và phân tích chiến lược của Trung Quốc, xử lý mối quan hệ của 3 nước lớn và
5 nước thường trực HĐBA, tranh thủ thế giới thứ ba, ủng hộ các nước XHCN. Ngày
5.6.90, vài ngày trước khi Từ Đôn Tín đến Hà
Nội, TBT Nguyễn Văn Linh đã mời đại sứ Trương Đức Duy (vừa từ Bắc Kinh trở lại Hà Nội) đến
Nhà khách Trung ương Đảng nói chuyện thân mật để tỏ lòng trọng thị đối với Bắc
Kinh.36
Trong cuộc gặp, như để chấp nhận lời phê bình của Đặng (nói qua Kayson), Nguyễn Văn Linh nói “Trong quan hệ hai nước, 10
năm qua có nhiều cái sai. Có cái đã sửa như việc sửa đổi Lời nói đầu của Hiến
pháp, có cái sai đang sửa”. Anh sốt sắng ngỏ ý muốn sang gặp lãnh đạo Trung
Quốc để “bàn vấn đề bảo vệ Chủ nghĩa xã hội” vì “đế quốc đang âm mưu
thủ tiêu chủ nghĩa xã hội... chúng âm mưu diễn biến hoà bình, mỗi đảng phải tự
lực chống lại. Liên Xô là thành trì XHCN , nhưng lại đang có nhiều vấn đề.
Chúng tôi muốn cùng các người cộng sản chân chính bàn vấn đề bảo vệ chủ nghĩa
xã hội... Tôi sẵn sàng sang Trung Quốc gặp lãnh đạo cấp cao Trung Quốc để khôi
phục lại quan hệ hữu hảo. Các đồng chí cứ kêu một tiếng là tôi đi ngay... Trung
Quốc cần giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin”.
Về vấn đề Campuchia, anh Linh đã gợi ý dùng “giải pháp Đỏ” để giải quyết: “Không
có lý gì những người cộng sản lại không thể bàn với những người cộng sản được”,
“họ gặp Sihanouk còn được huống chi là gặp lại nhau”.
Chú thích: Nếu những người Việt Quốc Gia chân
chính muốn xây dựng lại đất nước và có ý
tưởng cải sửa những người CSVN có lẽ nên đọc đoạn văn về lời tuyên bố trên cuả
Nguyễn Văn Linh để suy gẩm.
……………………
Sáng 6.6.90, Bộ trưởng Quốc phòng Lê
Đức Anh lại gặp riêng và mời cơm đại sứ Trương Đức Duy. Cuộc gặp riêng chỉ giữa
hai người, Trương Đức Duy vốn là thông dịch, rất thạo tiếng Việt nên không cần
có người làm phiên dịch. Nội dung cuộc gặp này mãi đến ngày 19.6 trong
cuộc họp BCT để đánh giá cuộc đàm phán 11-13.6 giữa tôi và Từ Đôn Tín, Lê Đức Anh mới nói là đã gặp Trương Đức Duy để nói cụ thể thêm ba ý mà anh Linh đã
nói với đại sứ Trung Quốc hôm trước (gặp cấp cao hai nước; hai nước đoàn kết
bảo vệ chủ nghĩa xã hội; hai nhóm cộng sản Khmer nên nói chuyện với nhau).
Nhưng trước đó, từ ngày 6.6, phía Trung Quốc (tham tán
Lý Gia Trung và Bí thư thứ nhất Hồ Càn Văn)
đã cho ta biết nội dung câu chuyện giữa Lê Đức Anh và
Trương Đức Duy. Còn đại sứ Trung Quốc cho anh Ngô Tất Tố, Vụ trưởng vụ
Trung Quốc biết là trong cuộc gặp ông ta ngày 6.6, anh Lê
Đức Anh đã nói khá cụ thể về “giải pháp Đỏ”: “Sihanouk sẽ chỉ đóng
vai trò tượng trưng, danh dự, còn lực lượng chủ chốt của hai bên Campuchia là
lực lượng Heng Somrin và lực lượng Polpot, Trung Quốc và Việt Nam mỗi bên sẽ
bàn với bạn Campuchia của mình, và thu xếp để hai bên gặp nhau giải quyết vấn
đề. Địa điểm gặp nhau có thể ở Việt Nam, có thể ở Trung Quốc, nhưng ở Trung
Quốc là tốt hơn cả. Đây là gặp nhau bên trong, còn bên ngoài hoạt động ngoại
giao vẫn như thường... Ngày xưa Polpot là bạn chiến đấu của tôi...”
Chú thích:
Lúc nầy con bài Lê Đức Anh đã lộ mặt, được đưa
ra. Đọc kỷ đoạn trên cho ta thấy Lê Đức Anh đã khấu đầu thiên triều bằng cách
tiếp kiến riêng đại sứ TC Trương Đức Duy và nếu đọc đoạn cuối sẽ thấy Polpot là
bạn chiến đấu của Lê Đức Anh!?
Trưa ngày 9.6.90, Đại sứ Trương Đức Duy nói với Vụ Trung Quốc Bộ Ngoại giao ta
rằng, trong cuộc gặp TBT Nguyễn Văn Linh, phía Trung Quốc rút ra được 3 ý kiến:
1. Đồng
chí Nguyễn Văn Linh nói về quan hệ hai nước rất
đậm đà. Nói 10 năm qua có nhiều cái sai. Có cái sai như lời nói đầu của Hiến
pháp, có cái sai đang sửa. Muốn gặp cấp cao Trung Quốc để trao đổi những vấn đề
lớn trong quan hệ hai nước.
2. Về
tình hình quốc tế: tình hình Liên xô, Đông Âu có nhiều thay đổi. Liên Xô trước
đây là thành trì của CNXH, nay thành trì này cũng lung lay rồi. Trung Quốc cần
giương cao ngọn cờ CNXH, kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin. Việt Nam kiên trì
chủ nghĩa Mác-Lênin. Những mgười cộng sản chân chính phải đoàn kết để bảo vệ
CNXH. Chủ nghĩa đế quốc luôn tấn công vào CNXH. Chúng tuyên bố đến cuối thế kỷ
này sẽ làm cho CNXH biến mất.
3. Về
Campuchia: tại sao những người cộng sản không hợp tác với nhau ? Polpot và Hunxen phải hợp tác
với nhau
Chiều 10.6.90, Bí thư thứ nhất sứ quán Trung Quốc Hồ Càn Văn
nói với anh Vũ Thuần, Vụ phó vụ Trung Quốc Bộ Ngoại giao: “Từ Đôn Tín tuy là trợ lý ngoại trưởng nhưng là người có thực quyền
trong việc giải quyết các vấn đề Châu Á. Trên khía cạnh nào đó có thể nói còn
có thực quyền hơn cả cấp thứ trưởng. Việc Từ sang Việt Nam lần này là
có sự quyết định của cấp cao nhất của Trung Quốc, chứ không phải Bộ Ngoại giao.”
Theo Hồ Càn Văn, ngày 23.5.90 Cục trưởng Cục Đối ngoại Bộ Quốc
phòng Việt Nam Vũ Xuân Vinh đã mời Tuỳ viên quân sự Trung Quốc Triệu Nhuệ đến
để thông báo là TBT Nguyễn Văn Linh và Bộ trưởng Quốc
phòng Lê Đức Anh sẽ tiếp Từ Đôn Tín khi Từ đến Hà Nội. Chính những động
thái bất thường và vượt ra ngoài khuôn khổ ngoại giao này của ta đã làm cho
Trung Quốc hiểu rằng nội bộ Việt Nam đã có sự phân hoá và vai trò
của Bộ Ngoại Giao không còn như trước.
Ngày 8.6.90, khi được biết là lần này tôi sẽ là người đứng ra
thay anh Đinh Nho Liêm đàm phán với Từ Đôn Tín. Bộ
trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh còn điện thoại dặn tôi tránh chủ động nói đến
“giải pháp Đỏ”: Việc hai bên Đỏ tiếp xúc với nhau là chuyện lâu dài, cần cho
ổn định lâu dài. Trung Quốc sẽ tác động với phía Campuchia thân Trung Quốc, ta
sẽ tác động với phía Campuchia thân ta để hai bên kiềm chế việc thù địch nhau.
Việc này phải có thời gian, không thể nhanh được, không thể đòi họ trả lời
ngay. Đừng thúc họ, cứ để họ chủ động, khi nào trả lời được thì họ trả lời...
Phải rất bí mật. Lộ ra rất nguy hiểm. Chỉ nói khi gặp riêng chứ không nói khi
đàm phán. Việc anh Nguyễn Văn Linh đặt vấn đề với đại sứ Trương Đức Duy nói sẵn
sàng đi Trung Quốc gặp cấp cao nhất, cũng không nên hỏi lại nếu họ chưa nói
tới.”
Chú thích: Đoạn trên cho thấy Từ Đôn Tín (người có thực quyền giải quyết vấn đề Á Châu) và Lê Đức Anh (kẻ nhận và thi hành lệnh từ TC) là cặp bài đôi
cuả TC dùng để thi hành thuật gián điệp và phản gián điệp. Lúc bấy giờ Lê Đức
Anh là Bộ Trưởng Quốc Phòng CSVN, thế nhưng Lê Đức Anh lại chen chân vào việc
cuả Bộ Ngoại Giao CSVN!
……………
Nhưng sự việc trở nên phức tạp khi trưa ngày 11.6.90 sau đàm
phán phiên đầu với Từ Đôn Tín tôi về Bộ Ngoại Giao hội báo lại với anh Thạch.
Anh Thạch lúc này đang họp Hội nghị ngoại giao đánh giá tình hình Đông Âu -
Liên Xô. Nghe tôi phản ánh tình hình đàm phán xong, anh liền gạn hỏi tôi có nói
với Từ về “giải pháp Đỏ” không. Tôi nói: “Đồng chí
Lê Đức Anh đã dặn phải thận trọng tránh nói đến vấn đề đó khi đàm phán.” Anh Thạch vặn lại: “Vậy đồng chí nghe theo ý kiến bộ
trưởng Quốc phòng hay ý kiến bộ trưởng Ngoại giao ?”. Tôi đáp: “Là cán
Bộ Ngoại Giao, tôi sẵn sàng chấp hành ý kiến anh, với sự hiểu biết rằng anh nói
với tư cách là uỷ viên Bộ Chính trị”.
………………….
46[Từ
tháng 9.90, Trung Quốc luôn coi ta mắc nợ họ về thoả thuận Thành Đô, đòi ta
thực hiện thoả thuận đó,]
Chú thích: Đây là món nợ gì mà
CSVN đã thoả thuận với TC, để cho TC đòi CSVN phải thực hiện thỏa thuận đó? Có
phải là vấn đề lãnh thổ, lãnh hải hay không ?
Trung Quốc thấy rằng việc thực hiện thoả thuận Thành Đô gặp
trở ngại chính từ Bộ Ngoại giao nên chủ trương chia rẽ nội bộ ta càng trắng
trợn hơn.
………………….
Tình hình bất đồng ý kiến trong BCT càng đến gần Đại hội càng
bộc lộ gay gắt. Ngày 13.4.91, trong cuộc họp BCT bàn về tình hình thế giới và
đường lối đối ngoại để chuẩn bị báo cáo chính trị tại Đại hội, sau khi anh
Thạch bản báo cáo về “Tình hình thế giới và chiến lược đối ngoại của Đảng và
Nhà nước ta”, Lê Đức Anh giới thiệu đại tá Lân, cán bộ
Cục II Bộ Quốc phòng, trình bày về tình hình thế giới và mưu đồ đế
quốc”. Nghe xong, TBT Nguyễn Văn Linh phát biểu: “Chủ quan tôi nghĩ giữa bản
trình bày sáng nay (của Bộ Ngoại Giao) và bản trình bày tình hình quân sự chiều
nay của Bộ Quốc phòng có nhiều chỗ khác nhau. Muốn thảo luận chủ trương
thì phải thảo luận tình hình trước, nhưng cách đánh gia tình hình còn khác
nhau”
Lê Đức Anh: “BCT nên nghe
tình hình nhiều mặt, ngay trong nước chúng ta cũng đánh giá khác nhau. Căn cứ
vào đánh gía chung, mỗi ngành có đề án riêng, không làm chung được”.
Chú thích: đọc đoạn văn trên cho thấy là Lê
Đức Anh đã, đang và sẽ cài người của TC vào ngay trong nội bộ cuả bộ chính trị
CSVN.
Từ 17 đến 27.6.91 Đảng Cộng sản
Việt Nam họp Đại hội lần thứ VII đưa lại nhiều thay đổi quan trọng về nhân sự: Đỗ Mười thay Nguyễn Văn Linh làm TBT; Lê
Đức Anh nay nghiễm nhiên giữ vị trí thứ 2 trong Đảng, Uỷ viên thường trực BCT
kiêm bí thư trung ương phụ trách cả 3 khối quốc phòng – an ninh – ngoại giao và
lên chức Chủ tịch nước. Võ Văn Kiệt được
giới thiệu với Nhà nước cử làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; Đào Duy Tùng thường
trực Ban bí thư. Bộ ba Đỗ
Mười, Lê Đức Anh, Đào Duy Tùng nắm bộ phận thường trực của Bộ Chính trị và của
Ban Bí thư. Đại tướng Võ Nguyên Giáp bị
gạt ra khỏi chức uỷ viên Trung ương. Còn Nguyễn Cơ Thạch bị bật ra khỏi Bộ
Chính trị và chuẩn bị thôi chức Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao... (thực ra những thay
đổi về nhân sự trong BCT đã được quyết định từ tháng 5 và Trung Quốc đã biết).
Dư luận quốc tế xôn xao cho rằng Nguyễn Cơ Thạch là “vật tế thần” trong việc
Việt Nam bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc. Tôi nghĩ rằng đó mới
chỉ là một cách nói đơn giản vì vấn đề không chỉ là bình thường hoá quan hệ mà
là phụ thuộc hoá quan hệ.
Chú thích: Đây là lúc quê hương đang bước vào
giai đoạn nguy kịch vì Lê Đức Anh đã, đang và sẽ lũng đoạn đất nước theo chiều
hướng dẩn cuả TC. Kết cuộc là những phần đất và biển đã lọt vào tay TC một cách
êm thấm
Sau Đại hội VII, mọi vấn đề quan trọng về đối ngoại của Nhà
nước đều do Hồng Hà, bí thư TƯ, phụ trách đối ngoại, dưới sự chỉ đạo trực tiếp
của Lê Đức Anh và tất nhiên được sự tán thưởng của TBT Đỗ Mười, quyết định. Những phần công việc xưa nay vốn do Bộ Ngoại giao đảm
nhiệm nay đều do Hồng Hà và Ban Đối ngoại chủ trì. Một thí dụ điển hình về vì ý
đồ cá nhân họ sẵn sàng bỏ qua danh dự và quốc thể: Ngày 5.8.91, tại cuộc họp
Hội đồng Bộ trưởng, Hồng Hà
tuyên bố: ‘Từ nay trong
quan hệ với Trung Quốc các ngành cứ tập trung ở chỗ anh Trương Đức Duy (Đại sứ Trung Quốc), không cần qua sứ
quán Việt Nam ở Bắc Kinh’.
Lê Đức Anh cho biết khi ở Trung Quốc, Phó ban Đối ngoại Trung Quốc Chu
Lương có đề nghị: vì lý do kỹ thuật, quan hệ giữa hai Đảng xin làm qua Trương
Đức Duy. Hôm sau, Hồng Hà với tư cách Trưởng ban Đối ngoại
tiếp Đại sứ Campuchia Ouch Borith, đã thông báo: “Theo sự phân công của BCT Việt Nam, từ nay
đồng chí Lê Đức Anh và đồng chí Hồng Hà sẽ phụ trách việc thảo luận giải pháp
Campuchia và các vấn đề liên quan. Nếu lãnh đạo Campuchia muốn bàn các vấn đề
trên thì đề nghị quan hệ và thảo luận trực tiếp với 2 đồng chí đó.
Ngày 9.7.91, vừa được bầu làm TBT, Đỗ Mười gặp đại sứ Trung Quốc Trương
Đức Duy tỏ ý muốn cử đặc phái viên đi Bắc
Kinh để thông báo về Đại hội VII và trao đổi về quan hệ giữa hai nước. Trước đó
ít ngày–ngày 11.6.91 – Bộ Ngoại Giao ta cũng đã gặp đại sứ Trung Quốc đề nghị
mở lại đàm phán cấp thứ trưởng ngoại giao hai nước. Ngày 17.7, Trung Quốc trả
lời đồng ý gặp cấp thứ trưởng ở Bắc Kinh từ 5.8 đến 10.8. Hai ngày sau, Trung
Quốc trả lời đồng ý việc ta cử đặc phái viên gặp lãnh đạo Trung Quốc, nhưng lại
sắp xếp cuộc gặp đặc phái viên Đảng trước cuộc gặp thứ trưởng ngoại giao… Việc
làm trên cho thấy một mặt Trung Quốc muốn gặp ta ở cả hai cấp, mặt khác muốn
dùng những thoả thuận với cấp đặc phái viên để ép ta trong cuộc gặp cấp thứ
trưởng ngoại giao. Để đề cao công việc này, phía Trung Quốc đã đề nghị thay chữ
“đặc phái viên” thành “đoàn Đại diện đặc biệt của Ban chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Việt Nam” tuy Đoàn
chỉ có 2 thành viên là Lê Đức Anh và Hồng Hà.
Hồng Hà lúc đó là bí thư TƯ, phụ trách đối ngoại. Phụ tá đoàn là Trịnh Ngọc
Thái, phó ban Đối ngoại của Đảng. Tôi nhớ khi đó Bộ Ngoại giao có đề nghị có
một thứ trưởng ngoại giao là uỷ viên TƯ đi với đoàn để nắm tình hình vận dụng
vào cuộc đàm phán cấp thứ trưởng ngoại giao ngay sau đó, nhưng đề nghị không
được chấp nhận. Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Đặng Nghiêm Hoành cũng không
được tham dự các hoạt động của đoàn, trong khi đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam,
Trương Đức Duy lại có mặt trong mọi hoạt động chính thức của đoàn tại Trung
Quốc.
Chú thích: Thời
điểm nầy Lê Đức Anh phe đảng và tình báo TC đã hoàn toàn thống trị đảng CSVN.
Ngày 28.7.91, đoàn đã đến Bắc
Kinh và trong mấy ngày sau đó đã gặp Kiều Thạch, Lý Bằng, Giang Trạch Dân thông
báo khá chi tiết về Đại hội VII. Thông báo cả những ý kiến khác nhau quá trình
thảo luận, tranh luận và việc biểu quyết những vấn đề quan trọng trong Đại hội,
và cơ cấu nhân sự của Ban Chấp hành TƯ mới..., Giang Trạch Dân và Lý Bằng tỏ ra quan tâm đến việc Việt Nam
sẽ có ngoại trưởng mới (thay Nguyễn Cơ Thạch) trong kỳ họp Quốc hội tháng 8.91, Giang tỏ ý hài lòng: “Từ đáy lòng mình, tôi hết
sức hoan nghênh kết quả Đại hội VII của các đồng chí Việt Nam”.
Đặc biệt mặc dù chuyến đi có
mục đích gặp lãnh đạo Trung Quốc thông báo về Đại hội VII và bàn quan hệ hai
nước, nhưng Lê Đức Anh và Hồng
Hà đã chủ động xin gặp Từ
Đôn Tín tới 2 lần, chiều 29.7 và tối 31.7
để tạ lỗi (?). Mở đầu cuộc
gặp chiều 29.7, Lê Đức Anh đã nói: “Năm ngoái khi đồng chí Từ Đôn Tín sang
Việt Nam
đã xảy ra một số trục trặc không hay lắm do phía chúng tôi gây ra (!) Đồng chí
Nguyễn Văn Linh và chúng tôi khi biết việc này, chúng tôi không vui lắm. Hôm
nay gặp đồng chí, tôi nói tình cảm của đồng chí Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và của
tôi... Tình hình trục trặc trong quan hệ là một việc đau lòng, nhất là giữa
những người cộng sản. Khúc nhạc cũ đã qua rồi, mong các đồng chí yên tâm”. Còn Từ thì cũng mượn dịp này để than phiền về đại sứ
Đặng Ngiêm Hoành: “Một năm nay đồng chí ấy không gặp tôi, trừ khi gặp ở các
cuộc chiêu đãi. Đây là lần đầu tiên tôi gặp đồng chí Hoành kể từ tháng 6 năm
ngoái” (sự thực là phía Trung Quốc đã có thành kiến với anh Hoành từ trong
cuộc đàm phán tháng 6.90 ở Hà Nội). Từ không quên nhắc đến điều kiện không thể
thiếu có thể bình thường hoá quan hệ với Việt Nam: “Tôi rất hoan nghênh đồng chí Lê Đức Anh và đồng chí Hồng
Hà là từ nay không nói diệt chủng nữa. Khi về Hà Nội nếu gặp Campuchia đề nghị
các đồng chí cũng nói ý này... Nếu các đồng chí lãnh đạo Việt Nam sang Trung
Quốc mà cái đuôi Campuchia vẫn còn thì chúng tôi khó nói với nhân dân. Mong vấn
đề Campuchia được giải quyết thì khi bình thường hoá quan hệ chúng tôi có thể
ăn nói với nhân dân Trung Quốc và nhân dân thế giới”.
Để dọn đường cho cuộc gặp cấp
thứ trưởng ở Bắc Kinh tháng 8.91, tối 31.7 Hồng Hà đảm bảo với Từ Đôn Tín: “Đồng chí Lê Đức Anh
và tôi sẽ làm việc trực tiếp với thứ trưởng Nguyễn Dy Niên (người được chỉ
định đi đàm phán với Trung Quốc chỉ vì chưa có “tiền sử” với Trung Quốc) trước
khi đồng chí ấy đi Trung Quốc. Chúng tôi phải báo cáo với BCT để có ý kiến chỉ
đạo không những về nội dung mà cả về tinh thần và thái độ làm việc. Tinh thần
của chúng tôi là phấn đấu làm cho cuộc gặp thành công”. Sau khi đã cam kết
từ nay không nói đến vấn đề diệt chủng nữa, Hồng Hà hỏi Từ: “Tôi muốn hỏi
đồng chí ngoài vấn đề diệt chủng, còn hai vấn đề gai góc là vấn đề quân đội các
bên Campuchia và vai trò LHQ thì phương hướng giải quyết nên thế nào, để chúng
tôi có thể góp phần làm cho cuộc gặp thứ trưởng Việt – Trung ở Bắc Kinh sắp tới
đạt kết quả tốt”. Xin ý kiến đối phương và hướng giải quyết
vấn đề để đàm phán trước khi đàm phán, thật là chuyện có một không hai trong
lịch sử đối ngoại !
Sau khi ở Trung Quốc về, ngày
4.8.91, Lê Đức Anh và Hồng Hà gặp tôi và Nguyễn Dy Niên tại Văn phòng TƯ Đảng để
chuẩn bị cho Niên đi đàm phán với Trung Quốc. Sau khi anh Niên đọc bản đề án
của Bộ Ngoại Giao, tôi nói: “Anh Hoành (đại sứ ta ở Trung Quốc) vừa
điện về phía Trung Quốc thông báo có 3 buổi làm việc nhưng họ nói có thể làm
một buổi là xong. Chắc chắn Từ Đôn Tín sẽ đưa văn bản buộc chúng ta phải thoả
thuận. Nếu ta nhận, họ sẽ xì ra cho các nước P5, ASEAN và bạn Campuchia. Ta sẽ
ở vào thế phản bội đồng minh, phản bội bạn bè. Nếu ta đòi sửa văn bản của Trung
Quốc thì sẽ không ra được văn bản, đàm phán sẽ thất bại. Chúng tôi đã xem lại
biên bản thấy Trung Quốc gắn rất chặt vấn đề Campuchia với việc bình thường hoá
quan hệ, vẫn coi Campuchia là điều kiện. Trung Quốc rất khôn, khi gặp cấp cao
chỉ tập trung vào vấn đề quan hệ hai nước, còn cái xương để lại. Gặm cái xương
này, chúng ta phải giải quyết vấn đề có tính nguyên tắc. Ta quyết tâm bình
thường hoá quan hệ với Trung Quốc nhưng không được phá quan hệ với Campuchia và
không được để thế giới thay anh Việt Nam là người tráo trở”. Biết
tôi quá gai góc, không chịu chấp nhận ý đồ thoả hiệp vô nguyên tắc với Trung
Quốc, Lê Đức Anh và Hồng Hà chỉ nói chung chung về chuyến đi Bắc Kinh vừa qua. Hồng Hà
nói: “Tinh thần tôi nắm
được là ý Trương Đức Duy và Từ Đôn Tín đều lo cuộc gặp thứ trưởng thất bại. Từ
có hỏi: Không biết đồng chí thứ trưởng nào gặp tôi có nắm được tinh thần này
không ?” Tôi liền bảo: “Như vậy càng rõ là họ có yêu cầu cao
nên họ sợ ta không thể chấp nhận được”. Hồng Hà nói: “Tôi hiểu họ
muốn bình thường hoá quan hệ là chính nên họ lo”. Tôi đáp: “Về mặt này
thì phải nói là Việt Nam
lo hơn vì Việt Nam
mót bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc hơn.” Vào cuối buổi họp, Hồng Hà
nói: “Chuyến đi của anh Niên là thuận lợi, sau chuyến đi của anh Lê Đức Anh. Anh Niên cũng là nhân vật mới, không có “tiền sử”.
Khi nhắc đến tháng 6.90 họ rất cay cú”. Lê Đức Anh thêm vào: “Sau
tháng 6.90 lại có phát biểu với báo chí của hai bên nên càng tích tụ thêm, gắng
thêm”. (ý nói đến lần sau đàm phán tháng 6.90, giữa tôi và Từ Đôn Tín có sự phê phán nhau trên báo chí). Và đến chiều, khi họp Thường trực
BCT bàn về việc đàm phán với Trung Quốc họ chỉ triệu tập anh Niên, không triệu
tập tôi.
Chú thích: Nguyễn Dy Niên cũng là người ký hiệp định đánh
cá vùng vịnh Bắc Bộ, nhượng cho TC 46% vùng vịnh Bắc Bộ.
Được biết trong cuộc họp này TBT Đỗ Mười đã khẳng định là không nên vì vấn đề Campuchia mà cản trở việc bình
thường hoá quan hệ của ta với Trung Quốc. Về vấn đề Campuchia, họ chỉ thị cho
anh Niên thoả thuận với phía TQ:
1. Không nói về vấn đề diệt
chủng. Lê Đức Anh nói
phải dứt khoát thôi vấn đề diệt chủng. Và TBT Đỗ Mười nhấn thêm: “Nếu nói vấn đề diệt chủng từ là đồng minh với Mỹ
chống Trung Quốc” (!)………………
Tạm Kết Thúc
Từ trước có những luận cứ, từ trong nước và cả thế giới, nói về
bộ chính trị CSVN đã bị phân hoá và chia ra 2 phe: phe thân TC và phe thân Nga.
Chính vì sự phân hoá nầy mà đất nước Việt Nam đã phải đương đầu với cuộc chiến
diệt chủng do TC tiến hành năm 1979-1991.
Thế nhưng qua những tài liệu vừa qua cho thấy rõ ràng cuộc chiến
Việt-Trung xảy ra không phải vì sự xung đột Nga-Trung, mà do chính đảng CS Việt
gian tạo ra dưới bày tay điều khiển cuả tình báo TC. Sự phân chia Nga-Trung chỉ
là một ngón đòn gián điệp và phản gián điệp cuả TC tạo dựng nên mà chóp bu CS Việt
gian là tay sai, thừa hành.
Nhân vật chính trong cuộc có lẻ bắt nguồn từ Lê Đức Thọ, Lê Đức
Anh và “Án Sử Ba Chúc” là ngòi nổ do tình báo TC điều hành bên sau do hai nữ cán
bộ TC châm ngòi nỗ tại làng Ba Chúc.
“Án Sử Cuộc Chiến Việt – Trung” không thể kết thúc tại đây vì
nó quan trọng cho cả dân tộc Bách Việt, mong rằng các bậc thức giả Việt Nam
trong và ngoài nước cùng nhau đi tìm những đáp án cho dân tộc.
Khởi viết 20/07/2006,
hoàn tất 09/12/2006.
Bách Việt Nhân.
Tài liệu phần hai.
Sex slaves sold to outside world by Vietnam Communist Party
* Tài liệu trích từ James Pringle International Herald Tribune.